Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài tập môn Thẩm định thẩm tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.66 KB, 14 trang )

KỸ NĂNG THẨM ĐỊNH,
THẨM TRA VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT
MỤC LỤC
Câu 1. (5 điểm) Phân tích nội dung hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp
lệnh. Đánh giá thực trạng và kiến nghị hoàn thiện.........................................................1
I.

Một số vấn đề lý luận về hoạt động thẩm tra dự thảo luật, pháp lệnh......1

1.

Khái niệm hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp lệnh............................1

2.

Vai trò của hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp lệnh...........................1

II. Thực trạng quy định pháp luật việt nam về hoạt động thẩm tra dự thảo
luật, pháp lệnh................................................................................................................... 1
1.
Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động thẩm tra dự
thảo luật, pháp lệnh........................................................................................................... 1
1.1

Tổ chức thẩm tra Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh...........................1

1.2 Phân cơng thẩm tra dự án Luật, pháp lệnh sau khi Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua....................................................................2



1.3

Chuẩn bị cuộc họp thẩm tra...........................................................................2

1.4

Các phương thức tổ chức cuộc họp thẩm tra dự án Luật, pháp lệnh...........2

1.5

Tiến hành thảo luận tại phiên họp thẩm tra..................................................2

1.6

Trình báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh...............................................3

2.

Thực tiễn thi hành hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp lệnh..............3

III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành hoạt
động thẩm tra dự thảo luật, pháp lệnh............................................................................5
Câu 2. (5 điểm) Với tư cách là cơ quan tiến hành thẩm định, anh (chị) hãy phát
biểu về sự cần thiết ban hành Nghị định quy định về quản lý các trang mạng xã hội. 6
I.

Cơ sở thực tiễn...............................................................................................6

1.


Hiện trạng.......................................................................................................6

2.

Hậu quả..........................................................................................................7

3.

Nguyên nhân..................................................................................................7

II.

Cơ sở pháp lý..................................................................................................8

III. Cơ sở chính trị..............................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................11

DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BHVBQPPL
BLHS
CTXDLPL
ĐBQH
HĐDT
MXH
UBTVQH
VBQPPL

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Bộ luật Hình sự
Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh

Đại Biểu Quốc hội
Hội đồng dân tộc
Mạng xã hội
Ủy ban thường vụ Quốc Hội
Văn bản quy phạm pháp luật



Câu 1. (5 điểm) Phân tích nội dung hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp
lệnh. Đánh giá thực trạng và kiến nghị hoàn thiện.
I. Một số vấn đề lý luận về hoạt động thẩm tra dự thảo luật, pháp lệnh
1. Khái niệm hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp lệnh
Theo Từ điển Luật học năm 1999: “Thẩm tra là việc xem xét lại kỹ lưỡng dự án
luật, pháp lệnh do Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Pháp luật hoặc một Ủy ban hữu quan của
Quốc hội hay một Ủy ban lâm thời được Quốc hội chỉ định tiến hành trước khi trình Ủy
ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan thẩm tra xem xét cả về hình thức và nội dung nhưng
tập trung vào xem xét sự phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến,
hợp pháp, đối tượng, nội dung, phạm vi và tính khả thi của dự án”. 1
2. Vai trò của hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp lệnh
Thứ nhất, hoạt động thẩm tra góp phần hồn thiện pháp luật trong việc đảm bảo
tính hợp Hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật.
Thứ hai, hoạt động thẩm tra nhằm duy trì trật tự quản lý nhà nước, góp phần bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cả nhân, tổ chức.
Thứ ba, hoạt động thẩm tra góp phần tạo dựng mơi trường pháp lý minh bạch, ổn
định, lãnh mạnh.
Thứ tư, hoạt động thẩm tra đảm bảo tuân thủ đúng quy trình xây dựng dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật.
II. Thực trạng quy định pháp luật việt nam về hoạt động thẩm tra dự thảo luật,
pháp lệnh

1. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động thẩm tra dự thảo
luật, pháp lệnh
1.1 Tổ chức thẩm tra Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
Theo quy định của Điều 47 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015, Ủy ban Pháp luật
tập hợp và chủ trì thẩm tra đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan,
tổ chức, ĐBQH và kiến nghị về luật, pháp lệnh của ĐBQH. Có thể khẳng định rằng,
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là một định hướng quan trọng trong công tác lập
pháp của Nhà nước ta, đồng thời cũng đặt ra mục tiêu để Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội phấn đấu thực hiện. Việc xây dựng và ban hành CTXDLPL đã bước đầu được
gắn với chương trình phát triển kinh tế - xã hội 05 năm và hàng năm, gắn với việc từng
1
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Hội thảo khoa học Góp ý dự thảo Giáo trình Kỹ năng thẩm định, thẩm tra
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

1


bước đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, trên cơ sở những yêu cầu bức xúc của cuộc
sống.
1.2 Phân công thẩm tra dự án Luật, pháp lệnh sau khi Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua
Việc sớm phân công cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra đối với các dự án luật,
pháp lệnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan hữu quan có kế hoạch phối hợp chặt
chẽ trong việc triển khai thực hiện CTXDLPL của Quốc hội. Kinh nghiệm cho thấy, việc
phân công hợp lý, đúng chức năng, chuyên môn của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra
là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng, thẩm tra và bảo đảm
chất lượng các dự án. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2014, thẩm quyền thẩm tra của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội được quy định cụ
thể hơn. Đây là cơ sở pháp lý để Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) phân công
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh cho HĐDT, từng Ủy ban của Quốc hội.

1.3 Chuẩn bị cuộc họp thẩm tra
Khoản 4 Điều 63 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 quy định, cơ quan thẩm tra
có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, ĐBQH trình dự án, dự thảo báo cáo, giải trình, cung
cấp thơng tin, tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo; tự
mình hoặc cùng cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo tổ chức hội thảo, khảo sát về những
vấn đề thuộc nội dung của dự án, dự thảo.
1.4 Các phương thức tổ chức cuộc họp thẩm tra dự án Luật, pháp lệnh
Theo quy định của khoản 1 Điều 66 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015, việc thẩm
tra bao gồm các giai đoạn thẩm tra sơ bộ và thẩm tra chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc tổ chức cuộc họp thẩm tra được tiến hành bằng các phương thức linh hoạt hơn, vượt
ra ngoài các phương thức được quy định tại Điều 66 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
Sở dĩ có tình trạng trên là do hầu hết các thành viên của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội
làm việc theo chế độ không chuyên trách, cư trú, công tác tại nhiều địa phương, việc tổ
chức họp toàn thể HĐDT hoặc Ủy ban thường xuyên để thẩm tra các dự án luật, pháp
lệnh gặp rất nhiều khó khăn. Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức họp toàn thể HĐDT, các
Ủy ban hoặc phối hợp toàn thể giữa cơ quan chủ trì và cơ quan tham gia thì chất lượng
thẩm tra được bảo đảm một cách toàn diện hơn, đồng thời thể hiện rõ được chính kiến,
quan điểm của tồn thể Ủy ban đối với từng vấn đề của dự án thông qua nguyên tắc làm
việc tập thể và quyết định theo đa số.
1.5 Tiến hành thảo luận tại phiên họp thẩm tra
2


Khoản 3 Điều 63 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 quy định, cơ quan chủ trì
thẩm tra có thể mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học
và đại diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham dự cuộc họp do
mình tổ chức để phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự
thảo. Trong trường hợp có những vấn đề lớn liên quan tới chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước và các ý kiến tại cuộc họp thẩm tra giữa cơ quan soạn thảo dự án luật
với cơ quan chủ trì thẩm tra cịn nhiều khác biệt, chưa thống nhất thì các cơ quan này có

trách nhiệm báo cáo lên cấp có thẩm quyền để cho ý kiến chỉ đạo trước khi trình báo cáo
thẩm tra trước Quốc hội hoặc UBTVQH.
1.6 Trình báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
Thông thường, nội dung của báo cáo thẩm tra nêu ý kiến về: các quan điểm, sự cần
thiết phải ban hành, phạm vi quy định, đối tượng điều chỉnh, nội dung lớn của dự án, một
số vấn đề cụ thể, tên gọi, bố cục dự án, kỹ thuật soạn thảo văn bản, kiến nghị một số biện
pháp bảo đảm triển khai thực hiện văn bản trong cuộc sống… Một trong những yêu cầu
của nội dung báo cáo thẩm tra là phải nêu lên được chính kiến, quan điểm của HĐDT,
Ủy ban về những vấn đề được nhất trí, khơng nhất trí hoặc cịn có ý kiến khác nhau để
làm cơ sở cho ĐBQH thảo luận và Quốc hội, UBTVQH xem xét, quyết định.
Ngoài ra, báo cáo thẩm tra của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội cũng cần thể hiện
được ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước về những vấn đề lớn của dự
án luật, pháp lệnh; trong một số trường hợp còn phải thể hiện quan điểm của HĐDT, các
Ủy ban của Quốc hội đối với các ý kiến chỉ đạo đó. Những ý kiến này vừa là cơ sở cho
việc thảo luận, thông qua, vừa là phương thức để thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo
trong công tác xây dựng pháp luật, nhất là công tác lập pháp của Quốc hội. Trong trường
hợp dự án được lấy ý kiến các ngành, các cơ quan hữu quan, ý kiến nhân dân, báo cáo
cũng cần thể hiện được ý kiến và quan điểm của các cơ quan thẩm tra về nội dung các ý
kiến đó. Đây cũng là một trong những cơ sở thực tiễn quan trọng để Quốc hội, UBTVQH
xem xét, quyết định thông qua dự án luật, pháp lệnh.
2. Thực tiễn thi hành hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp lệnh
Thẩm tra dự thảo Luật, pháp lệnh là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng. Thực
tiễn ở Việt Nam từ khi có Luật BHVBQPPL năm 1996 cho đến nay, hoạt động thẩm tra
dự thảo Luật, pháp lệnh đã có chuyển biến về chất, góp phần nâng cao hiệu quả công tác
xây dựng pháp luật, đồng thời đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, hoạt động thẩm tra dự thảo Luật, pháp lệnh cũng bộc lộ một số hạn chế như:
3


Thứ nhất, việc xây dựng, thẩm tra, cho ý kiến và xem xét thơng qua dự kiến

Chương trình cịn thiếu những cơ sở khoa học và căn cứ thực tiễn; cịn mang tính chất sự
vụ tác chiến, chưa có một chiến lược toàn diện. Khi Quốc hội xem xét để quyết định đưa
một dự án vào CTXDLPL hàng năm, Quốc hội đã phải xem xét tồn diện các mặt của
tính cần thiết ban hành văn bản được đưa vào Chương trình. Tuy nhiên, trong quá trình
xây dựng và trình các dự án luật, pháp lệnh, cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra lại đi
xem xét, chứng minh việc cần thiết hoặc không cần thiết ban hành văn bản. 2
Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm
2015, thẩm quyền thẩm tra của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội được quy định cụ thể
hơn. Đây là cơ sở pháp lý để Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) phân công thẩm
tra dự án luật, pháp lệnh cho HĐDT, từng Ủy ban của Quốc hội. Tuy nhiên, việc triển
khai những quy định này thực tế không đơn giản và không phải trong mọi trường hợp,
việc phân công cho HĐDT, Ủy ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh đều
đã khoa học, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan.
Thứ ba, quá trình thực hiện quy định về chuẩn bị cuộc họp thẩm tra cho thấy, trong
một số trường hợp, dự án luật, pháp lệnh đã được trình Quốc hội, UBTVQH và đưa vào
chương trình kỳ họp Quốc hội, phiên họp của UBTVQH, nhưng lại thiếu các thông tin,
tư liệu cần thiết và trong nhiều trường hợp, các thông tin này lại mang ý nghĩa quyết định
cho việc thẩm tra của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội. Thực tế cho thấy, khi chưa có đủ
thơng tin, tư liệu cần thiết, nhất là ý kiến của các cơ quan có liên quan tới nội dung quy
định của dự án luật, pháp lệnh mà theo yêu cầu vẫn phải tiến hành thẩm tra, thì việc xử lý
các hậu quả sau đó gặp khơng ít khó khăn, tốn nhiều thời gian và như vậy thường là phải
thẩm tra lại.
Thứ tư, thực tế phát sinh vấn đề cần xử lý là sau khi có phiên họp thẩm tra của
HĐDT hoặc Ủy ban của Quốc hội thì cơ quan soạn thảo dự án tiếp thu ý kiến của cơ
quan thẩm tra để chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh và làm lại tờ trình, dự án mới để trình ra
trước Quốc hội, UBTVQH. Trong trường hợp này, cơ quan thẩm tra thường khơng có
điều kiện về thời gian để tổ chức họp toàn thể thẩm tra lại dự án đã được tiếp thu chỉnh
lý; do đó, bộ phận thường trực của cơ quan thẩm tra sẽ xử lý vấn đề này. Như vậy, báo
cáo thẩm tra có thể khơng phản ánh hết được toàn diện ý kiến của tất cả các thành viên
Ủy ban. Đây là vấn đề cần được rút kinh nghiệm ở khâu tổ chức thực hiện.

2

/>
4


Thứ năm, thời hạn thẩm tra kéo dài; nội dung thẩm tra cịn nặng về hình thức, thiếu
các biện pháp khảo sát rộng rãi; chất lượng văn bản đôi khi chưa đáp ứng những yêu cầu,
đòi hỏi đặt ra. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: chưa xác định được một
cơ chế thẩm tra thực sự hợp lý và hiệu quả; một số quy định của pháp luật về hoạt động
này cịn mang tính ngun tắc, thiếu tính cụ thể; việc tổ chức thẩm tra cịn chưa kịp thời;
đội ngũ cán bộ công chức thực hiện công tác này còn thiếu về số lượng và bất cập về chất
lượng; sự phối hợp giữa các cơ quan trong q trình tiến hành thẩm tra cịn chưa chặt
chẽ; một số điều kiện đảm bảo cần thiết đối với hoạt động thẩm tra còn hạn chế, bất cập.
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành hoạt động
thẩm tra dự thảo luật, pháp lệnh
Thứ nhất, việc xem xét sự cần thiết ban hành văn bản luật, pháp lệnh và thứ tự ưu
tiên phải được làm rõ ngay từ khi lập Chương trình, có như vậy mới đáp ứng yêu cầu của
công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm tính khoa học, tính có căn cứ và khả thi của
CTXDLPL đã được Quốc hội quyết định.
Thứ hai, trong q trình phân cơng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, điều đáng lưu ý
là trong nhiều luật, pháp lệnh thường chứa đựng những nội dung rất quan trọng về hoạt
động quản lý nhà nước đối với từng lĩnh vực mà luật, pháp lệnh quy định và nội dung
này có quan hệ mật thiết, khơng thể tách rời với pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, đặc biệt là về phạm vi thẩm quyền quản lý nhà nước của từng cơ quan ở
trung ương hoặc từng cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp này, Ủy ban Pháp
luật cho dù chỉ với tư cách là Ủy ban tham gia thẩm tra, song vẫn có một trách nhiệm lớn
và khơng thể thiếu trong việc cho ý kiến về những dự án luật, pháp lệnh do HĐDT, các
Ủy ban khác của Quốc hội thẩm tra.
Thứ ba, thường trực HĐDT hoặc các Ủy ban của Quốc hội cần báo cáo và đề nghị

UBTVQH chưa đưa dự án đó vào chương trình kỳ họp Quốc hội hoặc phiên họp của
UBTVQH; đồng thời yêu cầu cơ quan soạn thảo phải hoàn thiện các bước theo quy định
của pháp luật và bảo đảm cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết trước khi tiến hành
cuộc họp thẩm tra để trình Quốc hội, UBTVQH xem xét, quyết định.
Thứ tư, nâng cao chất lượng của dự thảo và hồ sơ gửi thẩm tra. Cơ quan soạn thảo
VBQPPL là cơ quan khởi động sáng kiến xây dựng pháp luật và đóng vai trị hết sức
quan trọng trong quy trình lập pháp, lập quy. Việc nâng cao chất lượng dự thảo và rút
ngắn thời gian chuẩn bị phần nhiều phụ thuộc vào cơ quan này. Hoạt động thẩm tra sẽ

5


thuận lợi hơn nếu hồ sơ trình dự thảo Luật, pháp lệnh đáp ứng được yêu cầu về hình
thức, nội dung.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động thẩm tra dự thảo
Luật, pháp lệnh. Hiện nay, hệ thống pháp luật về hoạt động thẩm tra dự thảo VBQPPL đã
tương đối đồng bộ. Tuy nhiên, thực tế việc thực hiện những quy định này còn gặp những
khó khăn vì vậy, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến vấn
đề này.
Thứ sáu, củng cố và tăng cường chất lượng thẩm tra VBQPPL. Chất lượng công
tác thẩm tra lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, chủ quan. Chất lượng thẩm tra
không phải lúc nào cũng đáp ứng được yêu cầu nên có một số văn bản ở cấp độ cao như
luật, pháp lệnh vừa mới ban hành đã phải đặt ra vấn đề sửa đổi, bổ sung. Để khắc phục
tình trạng này, cần tăng cường các cơ quan thẩm tra của Quốc hội; có cơ chế thu hút sự
tham gia của các tổ chức xã hội, các công ty luật và các nhà chuyên môn, nhà khoa học
vào công tác này. Qua đó, kết quả thẩm tra sẽ bảo đảm tính khách quan, độc lập, khoa
học, có sức thuyết phục cao.

Câu 2. (5 điểm) Với tư cách là cơ quan tiến hành thẩm định, anh (chị) hãy
phát biểu về sự cần thiết ban hành Nghị định quy định về quản lý các trang mạng

xã hội.
I. Cơ sở thực tiễn
1. Hiện trạng
Những năm gần đây, mạng xã hội đã phát triển mạnh mẽ, thu hút đông đảo người
dùng Internet trong nước sử dụng, đặc biệt là hai mạng xã hội của nước ngoài cung cấp
xuyên biên giới vào Việt Nam là Facebook và Youtube. Sự phát triển của mạng xã hội đã
có những tác động cả tiêu cực và tích cực đối với đời sống xã hội. Thời gian gần đây xuất
hiện hiện tượng một số đối tượng đã lợi dụng các tính năng của mạng xã hội như:
phát sóng trực tuyến (livestream), chia sẻ hình ảnh, video clip, trao đổi theo
nhóm… để đăng tải những nội dung vi phạm pháp luật, trong đó chủ yếu là hành vi xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của các tổ chức, cá nhân khác; sử dụng ngôn ngữ phản cảm,
vi phạm thuần phong mỹ tục; tung tin giả, tin sai sự thật; quảng cáo, kinh doanh dịch vụ
trái phép... gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.
6


Năm 2020, Google thống kê Việt Nam đứng tốp 10 các nước có số lượng thơng tin
vi phạm chính sách bị yêu cầu xử lý. Đặc biệt, việc các thế lực thù địch, các phần tử cơ
hội, chống đối chính trị đã và đang triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội để thực hiện
các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, đặt công tác quản lý thông tin trên mạng, định
hướng dư luận ở nước ta đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức. 3
2. Hậu quả
Thứ nhất, việc không quản lý chặt chẽ các trang mạng xã hội sẽ tạo kẽ hở cho một
bộ phận người sử dụng đăng tải, bình luận, chia sẻ nội dung sai sự thật, kém văn minh,
nói, viết thiếu văn hóa, lợi dụng mạng xã hội để tung hơ mình, kích động điều xấu, xâm
phạm nghiêm trọng quyền nhân thân của người khác …
Thứ hai, sự gia tăng của những tin độc, tin giả, thông tin thất thiệt, sai sự thật trên
mạng xã hội khơng chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển, hình thành nhân cách, đạo đức xã
hội; xâm phạm đến danh dự, uy tín, lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ chức mà nó cịn gây
nên những tác động tiêu cực trong dư luận xã hội, gia tăng tội phạm, mất trật tự an ninh

xã hội; làm giảm uy tín của Nhân dân đối với một bộ phận cán bộ, đảng viên và của
Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, lợi dụng những ưu thế của không gian mạng, các thế lực thù địch đã thực
hiện các hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam bằng việc phát tán
thông tin bịa đặt, độc hại, những phát ngôn gây hận thù lan truyền rộng khắp, mức độ tác
động xấu đến xã hội ngày càng nghiêm trọng. Điều nguy hại nhất của MXH là yếu tố
kích động xã hội. Từ những thông tin thất thiệt, bịa đặt, vu khống về các sự việc được lan
truyền có chủ ý trên MXH mà không được kiểm chứng, các thế lực thù địch lợi dụng tâm
lý đám đơng để kích động những hành vi bột phát của công chúng nhằm phục vụ cho
mưu đồ gây rối loạn trật tự chính trị xã hội, như ở Bình Dương, Hà Tĩnh và một số địa
phương khác khi xảy ra sự cố ô nhiễm môi trường biển do Cơng ty Formosa gây ra (năm
2016); hay tình trạng tụ tập gây bạo loạn ở Bình Thuận, Khánh Hịa và một số địa
phương khác khi Quốc hội lấy ý kiến góp ý về Luật Đặc khu (năm 2018).
3. Nguyên nhân
Thứ nhất, do đặc thù phát triển quá nhanh của công nghệ, của các dịch vụ, nội
dung thông tin trên MXH nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã bộc lộ

3

/>asset_publisher/YqSB2JpnYto9/content/su-phat-trien-cua-mang-xa-hoi-va-kha-nang-ung-dung-cac-loi-the-tien-ich-cuamang-xa-hoi-trong-cong-tac-thong-tin-tuyen-truyen-o-viet-nam

7


nhiều bất cập, hạn chế; chưa cụ thể hóa, bao quát hết các đối tượng và hoạt động cần
quản lý, hành vi sai phạm, chế tài xử lý chưa bảo đảm tính răn đe.
Thứ hai, sự thiếu hiểu biết, đặc biệt là việc cập nhật, nhận biết các thông tin sai trái
trên mạng xã hội của người dùng mạng xã hội còn hạn chế nên dễ tiếp tay, lan truyền,
phát tán thông tin sai lệch trên mạng xã hội. Khi chưa nắm vững hoặc chưa hiểu biết về
các quy định pháp luật thì có những hành vi sai lệch khi tham gia MXH là điều khó

tránh.
Thứ ba, sự phát triển của khoa học - công nghệ làm cho các thiết bị thơng minh
ngày càng có nhiều tính năng, tiện ích trong việc chia sẻ, lan tỏa thông tin khiến công tác
điều tra, phát hiện, xử lý tội phạm còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, cơng tác quản lý MXH ở nước ta lâu nay còn nhiều điểm bất cập, các giải
pháp quản lý chưa đồng bộ, chủ yếu thụ động, xử lý hậu quả khi sự việc, tin đồn đã xảy
ra, chứ chưa chủ động định hướng, cung cấp thông tin tích cực, chính thống lên MXH,
nắm bắt và dẫn dắt dư luận; còn bị động vào sự hợp tác của doanh nghiệp nước ngoài
trong việc ngăn chặn, gỡ bỏ thơng tin vi phạm…
Như vậy, có thể thấy rằng, những hành vi vi phạm trên mạng xã hội ngày càng gia
tăng và phức tạp hơn nhiều dưới sự phát triển của khoa học cơng nghệ. Những hành vi đó
khơng chỉ tác động tiêu cực đến xã hội mà còn ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị, chính
sách lãnh đạo của Nhà nước. Do đó, sự cần thiết của hoạt động quản lý các trang mạng
xã hội là vô cùng cấp bách, quan trọng đối với các quốc gia nói chung và Việt Nam nói
riêng.
II. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý của việc cần thiết phải ban hành Nghị định quy định về quản lý các
trang mạng xã hội được xác định là sự thiếu sót hoặc chưa hồn chỉnh các quy định pháp
luật hiện hành, chủ yếu như sau:
Thứ nhất, ranh giới giữa vi phạm hành chính với vi phạm hình sự cịn chưa có sự
phân biệt rõ ràng. Vi phạm các hành vi bị cấm liên quan đến sử dụng, lưu trữ, phát tán
thông tin mạng sẽ bị xử phạt theo Nghị định số 174/2013/ NĐ-CP. Tùy theo tính chất
mức độ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 116 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội phá hoại chính sách đồn kết có liệt kê
bốn hành vi nhằm chống chính quyền nhân dân. Trong khi đó, Điều 64 Nghị định số
174/2013/NĐ-CP xử phạt các vi phạm về trang thông tin điện tử, trang thông tin điện tử
tổng hợp cũng xác định chế tài hành chính đối với các hành vi này nhưng “chưa đến mức
8



truy cứu trách nhiệm hình sự”. Vấn đề có tính thực tiễn đặt ra là “chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự” khơng có chuẩn mực chung và phụ thuộc hoàn toàn vào nhận thức
của các chủ thể áp dụng pháp luật.
Thứ hai, vấn đề xử lý vi phạm đối với chủ thể không xác định sử dụng mạng xã
hội nước ngoài vẫn chưa cụ thể. Vấn đề quản lý thơng tin trên mạng xã hội nước ngồi
cịn gặp nhiều khó khăn do khoảng cách địa lý. Đối với hành vi vi phạm quản lý thông
tin mạng xã hội mà xác định được chủ thể là người nước ngoài thì xử lý theo hình thức
khơng xác định được đối tượng và phải phối hợp với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
xuyên biên giới nhằm ngăn chặn. Vì đối tượng vi phạm là chủ thể không xác định và
hành vi vi phạm được thực hiện trên mạng xã hội nước ngồi nên việc xử lý hành vi vi
phạm đó chỉ được thực hiện về phương diện kỹ thuật mà khơng có bất kỳ chế tài nào đối
với chủ thể đó.
Thứ ba, Luật An ninh mạng đã bỏ quy định về việc đặt máy chủ đối với doanh
nghiệp nước ngoài và nó chỉ cịn là quyền của các doanh nghiệp theo Nghị định số
72/2013/NĐ-CP của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 27/2018/ NĐCP). Doanh nghiệp có thể lựa chọn nơi đặt máy chủ, có thể là ở Việt Nam hoặc có thể là
ở nước ngồi. Tuy nhiên, quy định này vẫn gây những khó khăn nhất định cho việc quản
lý nội dung thông tin mạng.
Thứ tư, việc áp dụng chế tài không thống nhất giữa các văn bản pháp luật. Theo
quy định tại Nghị định 27/2018/NĐ-CP thì trang thơng tin điện tử và mạng xã hội của
cùng một tổ chức, doanh nghiệp không được sử dụng cùng một tên miền. Quy định này
có nghĩa là mạng xã hội và trang thông tin điện tử tổng hợp của cùng một tổ chức, doanh
nghiệp phải có sự tách biệt, phân biệt rõ ràng, không được mập mờ, lẫn lộn, kết hợp cả
hai loại hình trên cùng một tên miền. Tuy nhiên, trên thực tế một số trang mạng xã hội
được cấp phép vẫn cung cấp cả thông tin điện tử tổng hợp cho đăng nhiều bài viết được
dẫn nguồn từ nhiều cơ quan báo chí. Vấn đề cần nói là nếu xử phạt theo Nghị định số
174/2013/ NĐ-CP thì mức tiền phạt chỉ từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, cịn xử
phạt theo Nghị định số 159/2013/NĐ-CP thì mức tiền phạt cao hơn rất nhiều (từ
70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng). Trên thực tế, các cơ quan áp dụng pháp luật để
xử phạt cũng có những băn khoăn nhất định.
Thứ năm, mặc dù pháp luật có quy định về việc cung cấp thông tin thật của cá

nhân khi đăng ký trở thành thành viên của mạng xã hội nhưng quy định này chưa được
thực thi một cách triệt để. Theo Điều 9 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ
9


sung bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP) và theo điểm a khoản 2 Điều 26 Luật An ninh
mạng năm 2018, một trong những trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội
là phải bảo đảm chỉ những người đã cung cấp đầy đủ, chính xác thơng tin người dùng thì
mới được thiết lập trang thơng tin điện tử cá nhân hoặc cung cấp thông tin trên mạng xã
hội. Tuy nhiên, để áp dụng được quy định này trên thực tế thì cần phải có sự phối hợp
giữa doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội và cơ quan nhà nước nhằm kiểm tra
tính xác thực của thơng tin như họ và tên, số chứng minh nhân dân/ số thẻ căn cước công
dân… Nếu không thực hiện được điều này thì quy định trên vẫn chỉ là trên lý thuyết. 4
Thứ sáu, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý
thông tin trên MXH còn bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của thực tế. Do đặc thù phát
triển quá nhanh của công nghệ, của các dịch vụ, nội dung thông tin trên MXH nên hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế; chưa cụ
thể hóa, bao quát hết các đối tượng và hoạt động cần quản lý, hành vi sai phạm, chế tài
xử lý chưa bảo đảm tính răn đe. Trong khi đó, quy trình sửa đổi, bổ sung, hồn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực này theo quy định hiện hành mất khá nhiều
thời gian, dẫn đến việc quy định vừa sửa đổi, bổ sung xong đã bắt đầu lạc hậu, gây khó
khăn cho cơng tác quản lý.
III. Cơ sở chính trị
Việc ban hành Nghị định quy định về quản lý các trang mạng xã hội nhằm thể chế
hóa đầy đủ, kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng được nêu tại một số văn bản như:
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị về phát triển và tăng cường quản
lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thơng khác trên Internet; Công
văn 1800/BTTTT-PTTH&TTĐT ngày 28/5/2021 của Bộ thông tin và truyền thông về
tăng cường quản lý, xử lý thông tin vi phạm trên mạng xã hội; Quyết định số: 874/QĐBTTTT ngày 17/6/2021 của Bộ thông tin và truyền thông về việc ban hành bộ quy tắc
ứng xử trên mạng xã hội.

Như vậy, việc ban hành Nghị định quy định về quản lý các trang mạng xã hội là vô
cùng cần thiết xuất phát từ ba lý do sau: quan hệ xã hội cần điều chỉnh thực sự bất cập,
pháp luật hiện hành chưa hoàn thiện và yêu cầu thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng.

4

/>
10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Giáo trình Kỹ năng thẩm định, thẩm tra văn bản
quy phạm pháp luật.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Hội thảo khoa học Góp ý dự thảo Giáo trình Kỹ
năng thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
3. Hiến pháp năm 2013
4. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014
5. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
6. Nghị định số 174/2013/ NĐ-CP
7. Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
27/2018/ NĐ-CP).
8. Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị về phát triển và tăng cường
quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thơng khác trên Internet.
9. Công văn 1800/BTTTT-PTTH&TTĐT ngày 28/5/2021 của Bộ thông tin và truyền
thông về tăng cường quản lý, xử lý thông tin vi phạm trên mạng xã hội.
10.Quyết định số: 874/QĐ-BTTTT ngày 17/6/2021 của Bộ thông tin và truyền thông về
việc ban hành bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội.
11. />12. />13. />14. />%3Apath%3A/sottttlibrary/siteofsotttt/tintucsukien/cactinkhac/vanhoaung
15. />16. />17. />11




×