BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BỘ MƠN LUẬT
----------------------
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH LUẬT KINH TẾ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI CỦA BÊN THỨ BA GIÁN TIẾP
GÂY RA THIỆT HẠI TRONG TAI NẠN
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
HỌ TÊN SV: NGUYỄN THỊ CẨM TÚ
MSSV: 15DH380148
HỌ TÊN GVHD: THS NGUYỄN NAM TRUNG
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BỘ MƠN LUẬT
----------------------
NGUYỄN THỊ CẨM TÚ
MSSV: 15DH380148
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI CỦA BÊN THỨ BA GIÁN TIẾP
GÂY RA THIỆT HẠI TRONG TAI NẠN
GIAO THƠNG ĐƯỜNG BỘ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
THS NGUYỄN NAM TRUNG
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2019
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt khoảng thời gian bốn năm học tập tại giảng đường Đại học Ngoại
ngữ - Tin học TP.HCM, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ tận tình từ
các thầy cơ, bạn bè và gia đình. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến quý thầy
cô tại trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM, đặc biệt là quý thầy cô ở Bộ
môn Luật đã giúp đỡ em trong suốt thời gian em học tại trường và đã tạo mọi tạo điều
kiện để em có thể hồn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Bên cạnh đó, em cũng muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Nam
Trung, mặc dù công việc bận rộn nhưng thầy vẫn tranh thủ dành thời gian để có thể
trao đổi, hỗ trợ, giúp đỡ em trong suốt quá trình em thực hiện đề tài. Một lần nữa em
xin chân thành cảm ơn thầy.
.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: NGUYỄN THỊ CẨM TÚ
MSSV: 15DH380148
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, thông
tin sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)
NGUYỄN THỊ CẨM TÚ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Tên đầy đủ
1
Bộ luật Dân sự
Tên viết
tắt
BLDS
2
Phương tiện giao thông
PTGT
3
Phương tiện giao thông đường bộ
PTGTĐB
4
Tai nạn giao thông
TNGT
5
Tai nạn giao thông đường bộ
TNGTĐB
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................3
5. Kết cấu chuyên đề ..............................................................................................3
PHẦN LÝ THUYẾT .................................................................................................4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA BÊN THỨ BA GIÁN TIẾP GÂY RA THIỆT HẠI
TRONG TNGTĐB ....................................................................................................4
1.1 Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo
pháp luật hiện hành Việt Nam. .............................................................................4
1.1.1 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…..........4
1.1.2 Đặc điểm…..................................................................................................5
1.1.2.1 Cơ sở pháp lý….....................................................................................5
1.1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.....5
1.1.2.3 Chủ thể áp dụng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng…...............................................................................................................6
1.1.2.4 Hình thức và phương thức bồi thường thiệt hại….................................6
1.1.2.5 Các trường hợp không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại......7
1.1.3 Ý nghĩa…....................................................................................................9
1.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại
trong tai nạn giao thông đường bộ. ....................................................................10
1.2.1 Một số khái niệm liên quan…..................................................................10
1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián
tiếp gây ra thiệt hại trong TNGTĐB…..............................................................11
1.2.2.1 Thiệt hại thực tế xảy ra…....................................................................12
1.2.2.2 Hành vi gián tiếp gây ra thiệt hại phải là hành vi vi phạm các quy định
pháp luật về giao thông đường bộ…................................................................13
1.2.2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của bên thứ ba
gián tiếp gây ra thiệt hại và thiệt hại xảy ra…..................................................15
1.2.2.4 Bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại có lỗi….......................................15
1.2.3 Xác định thiệt hại trong TNGTĐB….......................................................16
1.2.3.1 Thiệt hại về vật chất….........................................................................16
1.2.3.2 Thiệt hại về tinh thần…........................................................................21
1.2.4 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại…...........................................................23
1.2.4.1 Nguyên tắc thỏa thuận….....................................................................23
1.2.4.2 Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời….....................................23
1.2.4.3 Nguyên tắc bồi thường căn cứ vào mức độ lỗi và khả năng kinh tế...24
1.2.4.4 Nguyên tắc bồi thường căn cứ vào tình hình thực tế….......................24
1.2.4.5 Nguyên tắc về trách nhiệm hạn chế thiệt hại…....................................25
1.2.5 Chủ thể bồi thường thiệt hại của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong TNGTĐB…...................................25
1.2.5.1 Chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ….................................................................................................................26
1.2.5.2 Chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng súc vật…..............28
1.2.5.3 Doanh nghiệp bảo hiểm…...................................................................29
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI CỦA BÊN THỨ BA GIÁN TIẾP GÂY RA THIỆT HẠI TRONG TNGTĐB
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ...........33
2.1.1 Khó xác định được bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại….....................34
2.1.2 Khó khăn trong việc xác định lỗi…..........................................................36
2.1.3 Xác định không đúng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra…..........................................................................................38
2.1.4 Vướng mắc trong việc giải quyết bồi thường tổn thất tinh thần….........39
2.2 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại ...........................................................40
2.2.1 Ứng dụng công nghệ thông tin vào điều hành, quản lý giao thơng đường
bộ…....................................................................................................................40
2.2.2 Hồn thiện quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại tinh thần.........41
2.2.3 Hoàn thiện quy định về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra….........................................................42
2.2.4 Hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thơng
đường bộ…........................................................................................................43
2.2.5 Bồi dưỡng đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ Thẩm
phán…...............................................................................................................43
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................48
PHỤ LỤC .....................................................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm trở lại đây, kinh tế đất nước đang không ngừng đổi mới và
phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân cũng từng bước được cải
thiện, cùng với đó là sự gia tăng về nhu cầu đi lại của người dân, đây cũng là một
trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho tình hình giao thơng hiện nay diễn biến
khá phức tạp, đặc biệt là giao thông đường bộ. Số lượng tai nạn giao thông đường bộ
xảy ra trên cả nước có dấu hiệu giảm nhưng ngược lại mức độ nghiêm trọng của thiệt
hại thì càng tăng, để lại những tổn thất vô cùng nặng nề về người và tài sản. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thơng đường bộ, có ngun nhân chủ quan và cũng
có nguyên nhân khách quan, nhưng phổ biến nhất phải nói đến là xuất phát từ văn
hóa tham gia giao thơng cịn chưa thật sự tốt của người tham gia giao thơng. Bên cạnh
đó, sự xuống cấp trầm trọng của hạ tầng giao thông đường bộ và việc sử dụng các
phương tiện giao thơng chưa đạt chuẩn an tồn cũng là một trong những nguyên nhân
khiến cho tai nạn giao thơng xảy ra ngày càng nhiều.
Trên thực tế, ngồi những trường hợp tai nạn giao thông xảy ra do hành vi trái
pháp luật của bên bị thiệt hại và bên trực tiếp gây ra thiệt hại thì cũng có khơng ít
trường hợp tai nạn giao thơng xảy ra xuất phát từ hành vi trái pháp luật của bên thứ
ba, hành vi trái pháp luật của bên thứ ba này tuy không phải là hành vi trực tiếp gây
ra thiệt hại nhưng lại đóng một vai trị quyết định dẫn đến phát sinh thiệt hại. Từ trước
đến nay, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao
thông đường bộ luôn là một vấn đề tương đối phức tạp, đặc biệt là trong các trường
hợp tai nạn giao thông do hành vi trái pháp luật của bên thứ ba gây ra thì càng phức
tạp hơn.
Trên cơ sở đó, tác giả quyết định chọn để tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ ” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp ngành Luật kinh tế của mình.
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Đề tài này nghiên cứu một cách tổng quát các vấn đề pháp
lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong
các vụ tai nạn giao thông đường bộ, dựa trên thực tiễn xét xử về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông
đường bộ để nêu ra những bất cập, khó khăn. Từ đó, đề xuất một số giải pháp, kiến
nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên
thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ.
Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ các khái niệm, đặc điểm quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thơng đường bộ.
- Phân tích, đánh giá các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thơng đường bộ.
- Tìm hiểu thực tiễn xét xử về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba
gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ trong những năm trở lại
đây để tìm ra khó khăn, bất cập, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ
trên cơ sở các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Bộ luật Dân sự
năm 2015 và thực tiễn xét xử trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián
tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ thông qua một số bản án điển
hình.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật
hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại
trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, thông qua thực tiễn xét xử trách nhiệm bồi
2
thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông
đường bộ trong các vụ án Dân sự, Hình sự để nêu ra một số khó khăn, vướng mắc.
Từ đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn
giao thơng đường bộ nói riêng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
nói chung.
Đối với các vấn đề khác luận văn chỉ nghiên cứu ở mức độ sơ bộ làm nền tảng
cho các vấn đề mà đề tài nghiên cứu. Luận văn này không nghiên cứu các vấn đề
khác nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu, khai thác các tài liệu có sẵn về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng như là các bản án, các văn bản pháp luật
- Phương pháp phân tích, tổng hợp từ các bản án và tài liệu liên quan để nêu
ra những khó khăn, bất cập trong thực tiễn xét xử trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm so sánh các quy định pháp luật
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015 và các quy định pháp
luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ở BLDS năm 2005
5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài Phần mở đầu, Lời cảm ơn, Lời cam đoan, Mục lục và Phần kết luận thì
kết cấu đề tài gồm 02 chương, cụ thể
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ theo pháp
luật hiện hành Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ
ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong tai nạn giao thơng đường bộ, khó khăn, vướng mắc
và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
3
PHẦN LÝ THUYẾT
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA BÊN THỨ
BA GIÁN TIẾP GÂY RA THIỆT HẠI TRONG TNGTĐB
1.1 Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo pháp luật hiện hành Việt Nam.
1.1.1 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Cùng với sự tiến bộ của kinh tế- xã hội, các quy định pháp luật được ban hành
cũng theo hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, bất kỳ ai
cũng khơng có quyền vì lợi ích của bản thân mình mà xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác. Nếu một người có hành vi vi phạm pháp luật mà gây
thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín của người
khác thì người đó bắt buộc phải bồi thường phần thiệt hại do chính mình gây ra đó
gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trách nhiệm dân sự được điều chỉnh
bởi các quy định của Bộ luật dân sự, tuy nhiên đến nay chưa thực sự có quy định nào
trong Bộ luật dân sự nêu rõ khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được chia làm 02 loại đó là trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh khi một bên vi phạm nghĩa vụ mà các
bên đã cam kết trong hợp đồng, tức là giữa các bên có tồn tại quan hệ hợp đồng. Còn
đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thì những thiệt hại phát sinh
giữa các chủ thể không phụ thuộc vào các quy định trong hợp đồng, mà phát sinh do
các hành vi vi phạm quy định pháp luật, xâm phạm đến tài sản, sức khỏe, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm và uy tín của người khác.
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định tương đối đa
dạng và phức tạp và được xem là một trong những chế định có lịch sử rất sớm trong
hệ thống pháp luật nước ta, tuy nhiên so với BLDS đầu tiên ban hành năm 1959 thì
4
đến năm 2000 các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mới
được quy định một cách chi tiết và hoàn thiện hơn ở BLDS năm 2015 là Bộ luật đang
hiện hành.
1.1.2 Đặc điểm
1.1.2.1 Cơ sở pháp lý
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được điều chỉnh bởi các quy
định pháp luật trong BLDS, khi một người có hành vi trái pháp luật mà gây thiệt hại
về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín cho người khác thì
phải bồi thường, theo đó người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường và người gây
ra thiệt hại phải có nghĩa vụ bồi thường đối với những thiệt hại do mình gây ra, quyền
và nghĩa vụ của các bên được quy định trong BLDS. [24]
1.1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là các căn
cứ mà dựa vào đó các cơ quan có thẩm quyền có thể xác định có phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay khơng. Theo Điều 584 BLDS năm 2015 thì
“Người nào có hành vi xâm phạm tín mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường”, nếu như trước đây tại Điều 604 BLDS năm 2005 u cầu người gây thiệt
hại phải “có lỗi vơ ý hoặc cố ý” thì mới làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng thì nay theo quy định tại Điều 584 BLDS năm 2015 chỉ cần “người
gây thiệt hại có hành vi xâm phạm” thì cũng có thể làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường.
Có bốn căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
gồm thiệt hại thực tế xảy ra, hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại và thiệt hại xảy ra và
người gây thiệt hại có lỗi, các căn cứ này là một thể thống nhất, luôn đi cùng với nhau
nếu thiếu một trong các căn cứ thì khơng thể làm phát sinh trách nhiệm bồi thường.
5
Tuy nhiên, theo quy định pháp luật thì đối với những thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra hoặc thiệt hại do ơ nhiễm mơi trường thì yếu tố lỗi khơng cịn là căn cứ
bắt buộc phải có, tức là chỉ cần có thiệt hại thực tế xảy ra, hành vi gây ra thiệt hại là
hành vi trái pháp luật và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây ra
thiệt hại và thiệt hại xảy ra thì cũng đủ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường.
1.1.2.3 Chủ thể áp dụng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng áp dụng đối với mọi cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác, cụ thể là ngồi người trực tiếp gây ra thiệt hại thì cha
mẹ của con chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân
đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện cũng là chủ thể áp dụng của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1.2.4 Hình thức và phương thức bồi thường thiệt hại
Hình thức bồi thường là cách thức mà người có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại thực hiện nghĩa vụ bồi thường đối với người bị thiệt hại. Theo quy định pháp luật,
có 03 hình thức bồi thường thiệt hại gồm: bồi thường thiệt hại bằng hiện vật, bồi
thường thiệt hại bằng tiền hoặc bồi thường thiệt hại bằng việc thực hiện một cơng
việc. Bồi thường thiệt hại bằng hiện vật có thể hiểu là việc đền bù một tài sản khác
có giá trị tương đương với tài sản bị thiệt hại hoặc sửa chữa những tài sản bị hư hỏng
nhằm khôi phục lại giá trị tài sản như ban đầu. Khi người có trách nhiệm bồi thường
khơng có khả năng bồi thường bằng hiện vật như trong trường hợp tài sản đó bị hư
hỏng nặng không thể sửa chữa được và không thể tìm lại tài sản nào tương tự để thay
thế thì lúc này các bên có thể thỏa thuận lựa chọn việc bồi thường bằng tiền, mức bồi
thường phải tương ứng với giá trị của tài sản bị thiệt hại tại thời điểm xem xét bồi
thường, hình thức này được xem là hình thức bồi thường phổ biến nhất. Bên cạnh
việc có thể bồi thường thiệt hại bằng hiện vật hoặc bằng tiền, thì người có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cịn có thể bồi thường thiệt hại bằng việc thực hiện cơng việc,
tuy nhiên trên thực tế thì việc áp dụng hình thức bồi thường này là rất hiếm. Các bên
6
có thể thỏa thuận với nhau về việc lựa chọn hình thức bồi thường, thơng thường đối
với các thiệt hại về tài sản, người có trách nhiệm bồi thường có thể bồi thường bằng
hiện vật, tiền hoặc thực hiện một cơng việc, tùy thuộc theo thỏa thuận của các bên.
Cịn đối với các thiệt hại về tinh thần, cụ thể là các thiệt hại do sức khỏe, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm thì hầu hết đều được bồi thường bằng
tiền.
Về phương thức bồi thường, phương thức bồi thường thiệt hại được hiểu là
cách thức mà người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải thực hiện để bù đắp
những tổn thất vật chất cho người bị thiệt hại hoặc người thân thích của người bị thiệt
hại [14]. Phương thức bồi thường sẽ dựa trên sự thỏa thuận của các bên, nếu không
thỏa thuận được thì tùy vào từng thiệt hại và hồn cảnh cụ thể, Tòa án sẽ xem xét một
trong các phương thức sau: phương thức bồi thường một lần hay nhiều lần, theo định
kỳ hoặc không theo định kỳ. Thông thường, những thiệt hại về vật chất như tổn thất
về tài sản, các chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế khắc phục thiệt hại và thu nhập
thực tế bị mất mác, giảm sút khi sức khỏe, tính mạng bị xâm hại thì sẽ được tính tốn
thành tiền và bồi thường một lần. Còn đối với những khoản cấp dưỡng cho những
người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định pháp luật, cũng như
các chi phí hợp lý để chữa trị, phục hồi của người bị thiệt hại bị mất hoàn toàn khả
năng lao động và thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút của người chăm sóc người bị
thiệt hại đó thì sẽ được bồi thường nhiều lần theo định kỳ hàng tháng, theo quý hoặc
theo năm, tùy theo sự thỏa thuận của các bên.
1.1.2.5 Các trường hợp không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng, pháp luật quy định trường hợp thiệt
hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng thì chủ thể gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách
nhiệm bồi thường. Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 thì “Sự kiện
bất khả kháng được hiểu là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường
trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
và khả năng cho phép”. Như vậy, một sự kiện xảy ra để được xem là sự kiện bất khả
7
kháng thì phải đáp ứng đủ ba điều kiện: sự kiện xảy ra khách quan do thiên tai gây ra
như động đất, bão lũ hoặc cũng có thể do hành vi của con người; sự kiện này không
thể lường trước được, tức là nằm ngoài dự liệu của các bên; thiệt hại xảy ra không
thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Thiệt hại xảy ra do tình thế cấp thiết, tình thế cấp thiết là tình thế mà khi một
chủ thể trong hồn cảnh đó phải lựa chọn gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần
ngăn chặn nhằm tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa đến lợi ích của Nhà nước và
của các chủ thể khác. Người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết thì khơng phải chịu
trách nhiệm bồi thường, một tình thế được xem là tình thế cấp thiết khi đáp ứng đủ
bốn điều kiện sau:
Có nguy hiểm thực tế gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, tập thể và lợi
ích chính đáng của mình và các chủ thể khác, những nguy hiểm này có thể
xuất phát từ hành vi của con người, do súc vật hoặc do thiên nhiên gây ra.
Nguy hiểm thực tế này đang xảy ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại
nhất định.
Nguy cơ này phải có thực, tức là đang xảy ra một cách thực tế, có khả
năng gây ra thiệt hại nếu khơng có biện pháp ngăn chặn, đã bắt đầu, đang xảy
ra và chưa kết thúc.
Việc gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là biện pháp tốt nhất và duy
nhất để ngăn chặn thiệt hại lớn hơn có nguy cơ xảy ra, để xác định đây có thể
là biện pháp tốt nhất và duy nhất hay khơng thì cần phải căn cứ vào tình hình
cụ thể ngay lúc đó và thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết phải nhỏ hơn thiệt
hại cần ngăn ngừa.
Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại
khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thiệt hại xảy ra do thực hiện quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thì cũng khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
8
Thiệt hại xảy ra do phịng vệ chính đáng, phịng vệ chính đáng được hiểu là
hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống lại một cách cần thiết người
đang có hành vi xâm hại các lợi ích nói trên. Hành vi phịng vệ chính đáng được xem
là hành vi hợp pháp, vì thế khi một người gây thiệt hại do phịng vệ chính đáng thì dù
thiệt hại có lớn hơn thiệt hại mà người bị thiệt hại (do hành vi phịng vệ) gây ra thì
cũng khơng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Một hành vi được coi là phịng vệ
chính đáng phải đáp ứng ba điều kiện:
Đối với người bị thiệt hại (do hành vi phịng vệ) có hành vi xâm phạm
đến lợi ích Nhà nước, tổ chức, cá nhân và có tính chất nguy hiểm đáng kể, hành
vi này phải đang diễn ra và là hành vi trái pháp luật.
Đối với người thực hiện hành vi phòng vệ gây thiệt hại cho chính người
có hành vi xâm phạm, thiệt hại gây ra chỉ có thể là thiệt hại về sức khỏe và tính
mạng.
Hành vi chống trả phải là cần thiết, tức là khi gặp hành vi xâm phạm thì
khơng thể khơng chống trả.
1.1.3 Ý nghĩa
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định nhằm giúp
giúp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, đảm bảo công bằng
xã hội, trên cơ sở các quy định của mình mà buộc người có hành vi xâm phạm đến
tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của chủ thể khác phải bồi
thường những tổn thất do mình gây ra. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng có mang tính giáo dục, răn đe, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp
luật, để mọi người có thể nhận thức được những hậu quả bất lợi mà mình có thể phải
gánh chịu khi có hành vi xâm phạm đến tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm và uy tín của người khác.
9
1.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra
thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ.
1.2.1 Một số khái niệm liên quan
Tai nạn giao thông là một khái niệm đã tồn tại từ rất lâu, từ khi phương tiện
giao thông (PTGT) ra đời thì theo đó là sự xuất hiện của tai nạn giao thơng. Ở nước
ta, có nhiều định nghĩa về tai nạn giao thông được đưa ra bởi cá nhân, tổ chức, tuy
nhiên dưới góc độ quy phạm pháp luật thì hiện nay có hai định nghĩa cơ bản về TNGT
như sau
Theo Nghị định 97/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính Phủ quy định về
nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu quốc gia thì “TNGT là sự kiện bất
ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, xảy ra khi các đối tượng tham gia
giao thông đang hoạt động trên đường giao thông công cộng, đường chuyên dùng
hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng (gọi là mạng lưới giao thông Đường bộ,
đường sắt, đường thủy, đường hàng không), nhưng do chủ quan, vi phạm các quy tắc
an tồn giao thơng hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất khơng kịp phịng
tránh, đã gây ra những thiêt hại nhất định cho tính mạng, sức khỏe con người hoặc
tài sản.”
Theo Bộ y tế thì “TNGT là sự va chạm bất ngờ nằm ngoài ý muốn chủ quan
của con người, xảy ra khi các đồi tượng tham gia giao thông hoạt động trên đường
giao thông công cộng, đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn công cộng nhưng do
chủ quan vi phạm luật lệ giao thông hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất
khơng kịp phanh, tránh, gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe” [5].
Tóm lại, trên cơ sở các định nghĩa về TNGT nêu trên có thể hiểu một các đơn
giản TNGT là sự kiện bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, xảy ra khi
các đối tượng tham gia giao thông hoạt động trên đường giao thông công cộng mà vi
phạm các quy định pháp luật về giao thơng đường bộ hoặc gặp phải tình huống bất
ngờ, gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng.
10
“TNGTĐB là sự việc xảy ra do người tham gia giao thông đang hoạt động
trên mạng lưới giao thông đường bộ vi phạm các quy định về trật tự, an tồn gaio
thơng đường bộ hay gặp phải sự cố bất ngờ gây ra những thiệt hại nhất định đến tính
mạng, sức khỏe của con người hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân ”[4].
Khi TNGTĐB xảy ra thì ít nhiều gì cũng sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong TNGTĐB là một trường hợp cụ thể
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, theo đó người có hành vi vi
phạm các quy định pháp luật về giao thông đường bộ mà gây thiệt hại về tài sản, sức
khỏe, tính mạng cho chủ thể khác thì phải có trách nhiệm bồi thường đối với những
thiệt hại do mình gây ra. Trên thực tế, có nhiều trường hợp TNGTĐB xảy ra không
phải xuất phát từ lỗi của người bị thiệt hại hoặc của người trực tiếp gây ra thiệt hại
mà là do lỗi của bên thứ ba khác.
Hiện nay, pháp luật chưa có định nghĩa nào về bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt
hại trong TNGTĐB, hiểu một cách đơn giản thì bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại
trong TNGTĐB là một chủ thể có hành vi vi phạm các quy định pháp luật về giao
thông đường bộ, hành vi vi phạm này không phải là hành vi trực tiếp dẫn đến thiệt
hại nhưng nó lại đóng vai trò là nguyên nhân quyết định dẫn đến thiệt hại, tức là nếu
khơng có hành vi vi phạm đó thì thiệt hại sẽ khơng xảy.
1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba
gián tiếp gây ra thiệt hại trong TNGTĐB
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong
TNGTĐB là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng, vì vậy trên cơ sở các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi
hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại
trong TNGTĐB cũng gồm bốn căn cứ: có thiệt hại thực tế xảy ra, hành vi gián tiếp
gây ra thiệt hại phải là hành vi vi phạm các quy định pháp luật về giao thông đường
bộ, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của bên thứ ba gián tiếp gây ra
thiệt hại và thiệt hại xảy ra, bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại có lỗi.
11
1.2.2.1 Thiệt hại thực tế xảy ra
Thiệt hại là điều kiện tiên quyết phải có để có thể làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại trong TNGTĐB, vì thực
chất bồi thường thiệt hại là việc làm mang tính bù đắp, khôi phục lại những tổn thất
mà người bị thiệt hại phải gánh chịu vì thế nếu khơng có thiệt hại thì khơng thể nào
phát sinh trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại được hiểu là sự mất mác hoặc giảm sút
thực tế về tài sản, thể chất và tinh thần của con người, thiệt hại được chia thành hai
loại gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Thiệt hại về vật chất được hiểu là những mất mác hoặc giảm sút lợi ích
vật chất được pháp luật bảo vệ như tổn thất về tài sản (tài sản bị mất mác, hư
hỏng hoặc bị phá hoại,..), những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc
phục thiệt hại như chi phí cứu chữa, phục hồi, bồi dưỡng, chăm sóc cho người
bị thiệt hại, chi phí cấp dưỡng cho người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng theo quy định pháp luật và chi phí mai táng nếu người bị thiệt hại mất
đi, thu nhập thực tế bị ảnh hưởng gồm thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút của người bị thiệt hại hoặc của người chăm sóc người bị thiệt hại trong
suốt quá trình người bị thiệt hại điều trị.
Thiệt hại về tinh thần là những tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe hay danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân
thân khác của chủ thể, tổn thất về tinh thần có thể được hiểu là khi một chủ thể
bị xâm phạm về sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín thì những
người thân của họ hoặc có thể là chính chủ thể đó sẽ bị ảnh hường về tinh thần
như chịu đau thương, buồn rầu thậm chí là có thể bị xa lánh do bị hiểu lầm vì
thế họ cần phải được bồi thường một khoản tiển bù đắp cho những tổn thất
tinh thần mà họ phải chịu. Thiệt hại về tinh thần khơng thể tính tốn được bằng
tiền, vì thế tùy từng trường hợp mà Tịa án sẽ xác định khoản tiền bù đắp tổn
thất tinh thần phù hợp.
12
Trên thực tế, khi TNGTĐB xảy ra thì việc phát sinh thiệt hại là điều không thể
tránh khỏi, thiệt hại xảy ra trong các vụ TNGTĐB bao gồm cả thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần, cụ thể thiệt hại về vật chất là thiệt hại do tổn thất về tài sản,
thiệt hại về sức khỏe và tính mạng của con người, cịn thiệt hại về tinh thần chính là
những tổn thất về tinh thần như đau thương, mất mác, buồn rầu mà bản thân ngưởi bị
thiệt hại hoặc cũng có thể là người gần gũi, thân thích với người bị thiệt hại phải gánh
chịu khi người bị thiệt hại bị thương tật hoặc thậm chí là bị chết. Thiệt hại về vật chất
cũng như thiệt hại về tinh thần phải là những thiệt hại thực tế, đang tồn tại khách quan
chứ không phải do sự suy diễn của con người, những thiệt hại này là hậu quả do việc
vi phạm các quy định pháp luật về giao thông đường bộ gây ra. Đối với những thiệt
hại về vật chất có thể tính tốn được bằng tiền, cịn đối với những thiệt hại về tinh
thần thì khơng thể tính tốn được thành tiền mà khoản tiền bồi thường tổn thất tinh
thần chỉ mang tính động viên, an ủi, xoa dịu nỗi đau, mất mác cho người bị thiệt hại
hoặc cho người thân thích của người bị thiệt hại.
1.2.2.2 Hành vi gián tiếp gây ra thiệt hại phải là hành vi vi phạm các
quy định pháp luật về giao thông đường bộ.
Hành vi trái pháp luật là những hành vi trái với quy định pháp luật xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín của các chủ thể khác, được
thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành vi gián tiếp gây ra thiệt
hại phải là hành vi trái pháp luật, nếu hành vi đó khơng phải là hành vi trái pháp luật
thì khơng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt
hại trong TNGTĐB thì hành vi của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại về tài sản, sức
khỏe và tính mạng cho chủ thể khác trong các vụ TNGTĐB phải là các hành vi vi
phạm pháp luật về giao thông đường bộ, cụ thể
Một là, các hành vi vi phạm các quy tắc về giao thông đường bộ như
vượt, tránh xe, chuyển hướng xe không đúng quy định pháp luật, không chấp
13
hành báo hiệu đường bộ, đi sai làn đường, vi phạm tốc độ và các hành vi vi
phạm khác theo quy định pháp luật.
Hai là, các hành vi vi phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các
công trình giao thơng đường bộ. Các hành vi này có thể là khơng thực hiện
sửa chữa, duy tu cơng trình giao thơng đường bộ khi phát hiện cơng trình giao
thơng bị hư hỏng, có thể gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông hoặc
thực hiện duy tu, sửa chữa nhưng không thực hiện các biện pháp cảnh báo cho
người tham gia giao thông biết, để vật liệu ra đường và các vi phạm khác theo
quy định pháp luật [12].
Ba là, các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia giao thông
đường bộ như việc đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ
chưa đảm bảo về chất lượng, an toàn kỹ thuật.
Bốn là, các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện
tham gia giao thông đường bộ như giao cho người chưa đủ tuổi, người không
đáp ứng điều kiện về sức khỏe hoặc chưa có bằng lái xe phù hợp theo quy định
pháp luật lái xe tham gia giao thông đường bộ.
Năm là, các hành vi cản trở giao thông đường bộ, có thể là các hành vi
như đào, khoan, xẻ đường trái phép; đặt, để chướng ngại vật trái phép trên
đường; đặt trái phép vật liệu, rác thải ra đường; tự ý tháo dỡ, di chuyển trái
phép hoặc làm sai lệch cơng trình đường bộ; lấn chiếm, chiếm dụng trái phép
lòng đường; vi phạm quy định về bảo đảm an tồn khi thi cơng trên đường bộ,
lấn chiếm lịng lề đường trái phép và các hành vi cản trở giao thông đường bộ
khác theo quy định pháp luật.
Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của thiệt hại phát sinh và hành vi vi phạm
mà bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại có thể bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
14
1.2.2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của bên thứ
ba gián tiếp gây ra thiệt hại và thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại xảy ra phải là hậu quả tất yếu do các hành vi vi phạm pháp luật về
giao thông đường bộ gây ra, hành vi trái pháp luật là nguyên nhân còn thiệt hại chính
là hậu quả. Đối với trường hợp có sự xuất hiện của bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt
hại thì mặc dù hành vi trái pháp luật của bên thứ ba này không phải là hành vi trực
tiếp gây ra thiệt hại nhưng lại đóng vai trị là nguyên nhân quyết định đối với thiệt hại
phát sinh thì đây cũng được xem là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật và thiệt hại xảy ra. Có nhiều trường hợp TNGTĐB xảy ra là do nhiều nguyên
nhân, sự tác động của mỗi nguyên nhân dẫn đến thiệt hại là khác nhau, vì thế khi xem
xét mối quan hệ nhân quả trong trường hợp có sự tác động của nhiều nguyên nhân thì
cần xác định nguyên nhân nào là nguyên nhân chủ yếu, mang tính quyết định đối với
thiệt hại phát sinh, nguyên nhân nào là thứ yếu.
1.2.2.4 Bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại có lỗi.
Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ tâm lý của người có hành vi gây ra thiệt
hại và hậu quả của hành vi đó, được biểu hiện dưới dạng lỗi cố ý và lỗi vô ý. Thông
thường, lỗi trong các vụ TNGTĐB là lỗi vô ý, pháp luật phân chia lỗi vô ý thành lỗi
vô ý vì q tự tin và lỗi vơ ý do cẩu thả. Khi người có hành vi vi phạm các quy định
pháp luật về giao thông đường bộ không nhận thức rõ được hành vi của mình có thể
gây ra thiệt hại cho người khác mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước về hậu
quả xảy ra thì lúc này người đó được xem là có lỗi vơ ý do cẩu thả, cịn vơ ý vì q
tự tin là trường hợp người có hành vi vi phạm các quy định pháp luật về giao thông
đường bộ nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại cho người khác
nhưng tự tin là có thể ngăn chặn được thiệt hại đó hoặc nghĩ rằng thiệt hại đó sẽ khơng
xảy ra.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ TNGTĐB nói chung, việc xác định lỗi của
các bên là tương đối phức tạp, đặc biệt là trong các trường hợp TNGTĐB xảy ra liên
quan đến bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại, nếu thiệt hại xảy ra do lỗi hỗn hợp của
cả người bị thiệt hại, người trực tiếp gây ra thiệt hại và của bên thứ ba gián tiếp gây
15
ra thiệt hại thì tùy thuộc vào mức độ lỗi của mỗi bên mà xác định mức bồi thường
tương ứng. Bên cạnh đó, yếu tố lỗi cịn là căn cứ để xem xét miễn giảm mức bồi
thường, cụ thể nếu thiệt hại phát sinh hoàn toàn do lỗi của bên thứ ba gián tiếp gây ra
thiệt hại thì bên thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại sẽ phải bồi thường toàn bộ, nếu bên
thứ ba gián tiếp gây ra thiệt hại và người trực tiếp gây ra thiệt hại cùng có lỗi thì phải
liên đới bồi thường.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp TNGTĐB xảy ra liên quan đến PTGT cơ
giới – là nguồn nguy hiểm cao độ thì trong những trường hợp này yếu tố lỗi khơng
cịn là yếu tố bắt buộc nữa, tức là chỉ cần có ba căn cứ là thiệt hại thực tế xảy ra, có
hành vi vi phạm các quy định pháp luật về giao thông đường bộ và mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi vi phạm các quy định pháp luật về giao thơng đường bộ và thiệt hại
xảy ra thì cũng có thể phát sinh trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ áp dụng khi thiệt hại phát sinh do tự bản
thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nằm ngồi sự kiểm sốt của con người, ví dụ
như xe ô tô đang chạy trên đường thì mất phanh, nổ lốp gây ra thiệt hại, ...
Đối với các trường hợp TNGTĐB, yếu tố lỗi có một ý nghĩa rất quan trọng, vì
dựa trên yếu tố lỗi và mức độ nghiêm trọng của thiệt hại mà cơ quan điều tra quyết
định truy tố hoặc khơng truy tố trách nhiệm hình sự.
1.2.3 Xác định thiệt hại trong TNGTĐB
1.2.3.1 Thiệt hại về vật chất
a. Thiệt hại về tài sản
Trong các vụ TNGTĐB, thiệt hại do tổn thất tài sản dễ thấy nhất đó là thiệt
hại về PTGTĐB như xe máy, xe ô tô, … khi các phương tiện này bị hư hỏng, bị hủy
hoại khơng thể khơi phục lại được thì lúc này cần một khoản chi phí để có thể sửa
chữa hoặc thay thế nhằm khơi phục lại phương tiện đó như lúc ban đầu thì thiệt hại
chính là khoản chi phí để sửa chữa, khắc phục thiệt hại.
16
Trên thực tế, bên cạnh việc phục vụ cho nhu cầu đi lại thì trong một số trường
hợp các PTGTĐB còn được sử dụng phục vụ cho việc kinh doanh như cho thuê, để
vận chuyển hàng hóa hoặc trung chuyển hành khách. Khi TNGTĐB xảy ra, gây hư
hỏng cho PTGTĐB thì trong khoảng thời gian PTGTĐB được sửa chữa, khơng thể
tiếp tục cho thuê, cũng không thể sử dụng để vận chuyển hàng hóa hoặc trung chuyển
hành khách để tạo ra những khoản lợi cho chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu,
sử dụng hợp pháp PTGTĐB thì lúc này ngồi những khoản chi phí để sửa chữa, khắc
phục những thiệt hại thì thiệt hại cịn bao gồm cả khoản lợi ích có được từ việc sử
dụng, khai thác PTGTĐB, cụ thể là những khoản tiền từ việc cho thuê, kinh doanh
dịch vụ vận tải, những khoản lợi này phải là những khoản lợi thực tế mà người bị
thiệt hại chắc chắn có được nếu như khơng xảy ra TNGTĐB.
Ngồi ra, thiệt hại về những hàng hóa mà phương tiện chuyên chở, vật dụng,
tư trang cá nhân của người điều khiển PTGTĐB hoặc cũng có thể là của người ngồi
trên PTGTĐB, hành khách khi tai nạn xảy ra thì cũng được tính vào thiệt hại về tài
sản.
Trong nhiều trường hợp, nhằm ngăn chặn, hạn chế thiệt hại lớn hơn có thể xảy
ra thì cần phải thực hiện một số biện pháp như việc thuê phương tiện để chuyên chở
hàng hóa đến nơi cần giao theo hợp đồng, thuê phương tiện để đưa hành khách rời
khỏi hiện trường tai nạn hoặc các biện pháp để khắc phục thiệt hại như thuê phương
tiện khác để di dời phương tiện bị tai nạn, ... thì các chi phí cho việc thực hiện các
biện pháp này cũng sẽ được tính vào thiệt hại về tài sản.
b. Thiệt hại về sức khỏe
Từ thực tiễn hiện nay, trong hầu hết các trường hợp TNGTĐB xảy ra đều có
thiệt hại về sức khỏe, tùy vào từng trường hợp mà mức độ thiệt hại về sức khỏe là
khác nhau, nhẹ thì chỉ bị trầy xướt, nặng thì có thể bị gãy tay chân hoặc chấn thương,
thậm chí là có trường hợp người bị thiệt hại cịn phải chịu thương tật vĩnh viễn. Sức
khỏe con người trên thực tế khơng thể tính tốn chính xác được bằng một khoản tiền,
vì thế việc bồi thường thiệt hại về sức khỏe thực chất là bồi thường những giá trị vật
17