1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Đình Mạnh
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU 5
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN
VÀ KHUYẾN HỌC Ở XỨ THANH 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 11
1.2. Cơ sở lý luận 16
1.2.1. Một số khái niệm công cụ 16
1.2.1.1. Khuyến học 16
1.2.1.2. Dòng họ 17
1.2.1.3. Văn hóa dòng họ 19
1.2.1.4. Dòng họ khoa bảng 22
1.2.2. Khuyến học qua văn hóa dòng họ 23
1.3. Khuyến học ở xứ Thanh 26
1.3.1. Xứ Thanh - môi trường tự nhiên và xã hội cho việc học 26
1.3.2. Động cơ của tinh thần hiếu học 31
1.3.3. Khuyến học qua hương ước 36
1.3.4. Tác động của yếu tố tâm linh 41
1.3.5. Ảnh hưởng của giáo dục Nho giáo 45
Tiểu kết chương 1 51
Chương 2: KHUYẾN HỌC DÒNG HỌ Ở XỨ THANH 52
2.1. Khuyến học dòng họ trong truyền thống xứ Thanh 52
2.1.1. Dòng họ là chỗ dựa tinh thần 53
2.1.2. Dòng họ hỗ trợ vật chất 56
2.1.3. Vinh danh người học 60
2.1.4. Kế thừa “gien” khoa bảng 66
2.1.5. Yếu tố tâm linh dòng họ 71
2.1.6. Ràng buộc của dòng họ 76
2.1.7. Trách nhiệm của người đỗ đạt 79
3
2.2. Khuyến học trong một số dòng họ tiêu biểu xứ Thanh 81
2.2.1. Khuyến học của dòng họ Lê 82
2.2.2. Khuyến học của dòng họ Nguyễn 88
2.2.3. Khuyến học của dòng họ Đỗ 94
Tiểu kết chương 2 99
Chương 3: KHUYẾN HỌC DÒNG HỌ Ở XỨ THANH HIỆN NAY
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 100
3.1. Thực trạng khuyến học dòng họ ở xứ Thanh hiện nay 100
3.1.1. Sự nối tiếp truyền thống hiếu học 100
3.1.2. Tinh thần hiếu học dòng họ là hành trang lập nghiệp 104
3.1.3. Sự “đứt đoạn” truyền thống của một số dòng họ khoa bảng 110
3.1.4. Bước khởi đầu của một số dòng họ “chưa khoa bảng” 115
3.2. Vai trò của khuyến học dòng họ trong bối cảnh hiện nay 119
3.2.1. Giá trị tích cực của khuyến học dòng họ 119
3.2.2. Một số hạn chế của khuyến học dòng họ hiện nay 125
3.3. Một số giải pháp phát huy giá trị khuyến học qua văn hóa
dòng họ
131
3.3.1. Tiếp thu truyền thống và đa dạng hóa khuyến học dòng họ 132
3.3.2. Tôn vinh những tấm gương tiêu biểu trong học tập của dòng họ.134
3.3.3. Tăng cường trách nhiệm của cộng đồng trong khuyến học
dòng họ
136
3.3.4. Kết nối mạng lưới xã hội cho hoạt động khuyến học dòng họ 138
Tiểu kết chương 3 141
KẾT LUẬN 142
4
BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1 CP Chính phủ
2 ĐH Đại học
3 GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
4 GS Giáo sư
5 Nxb Nhà xuất bản
6 PGS Phó Giáo sư
7 TDTT Thể dục thể thao
8 TH Tiểu học
9 THCS Trung học cơ sở
10 THPT Trung học phổ thong
11 TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
13 TW Trung ương
14 UBND Uỷ ban nhân dân
15 VHTT&DL Văn hóa Thể thao và Du lịch
16 XHCN Xã hội chủ nghĩa
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống trọng việc học hành. Việc chăm lo
đến giáo dục là mối quan tâm thường xuyên của mọi người, mọi nhà, là một biện
pháp quan trọng góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước, vì lợi ích của Tổ quốc và lợi ích của chính bản thân mỗi người. Trong
nhiều năm qua, khuyến học được đề
cao như một biện pháp hiệu quả để hướng tới
việc xây dựng một xã hội học tập cho mọi người. Hiện tại, các địa phương trên cả
nước đều thành lập tổ chức Hội khuyến học cấp tỉnh, thành phố và cả ở các xã,
phường, thị trấn, cho đến tận thôn bản. Các hoạt động như: Tạo Quỹ khuyến học,
tặng h
ọc bổng, xây dựng các công trình giáo dục … được tổ chức khá rầm rộ và
bước đầu đạt hiệu quả xã hội tốt.
Tuy nhiên, khía cạnh gốc rễ của khuyến học bắt đầu ngay từ trong cái nôi
nuôi dưỡng, hun đúc nên phẩm chất trí tuệ, nhân cách con người từ thủa nhỏ, đó
chính là gia đình và dòng họ. Mối liên hệ huyết thống của người Việt (cá nhân – gia
đình – dòng họ và xã hội) là mối liên hệ
bền chặt, ổn định. Việc học tập không chỉ
là ước vọng của cá nhân người học mà còn là khát khao, sở nguyện của cả gia đình,
dòng họ. Tinh thần hiếu học nảy sinh từ các cá nhân, gia đình rồi lan tỏa trong dòng
họ và truyền thống hiếu học đã được nhân lên bằng chính sự nỗ lực của các cá nhân
trong dòng họ ấy. Tinh thần khuyến học cũng được nuôi dưỡng trên cơ s
ở mạch
nguồn này. Vì vậy, khuyến học dòng họ phải được nhìn nhận như một ứng xử văn
hóa của từng dòng họ trong sự tồn tại và phát triển của cộng đồng. Họ tộc kế thế
đăng khoa là vinh dự, là niềm tự hào để con cháu noi theo, nhưng mặt khác, đó
cũng chính là tấm gương, là sự khích lệ các sĩ tử của các họ tộc khác cùng phấn đấu
vươn lên. Truyền thống cha dạy con, ông dạy cháu, anh em bảo nhau là truyền
thống tốt đẹp, là nét văn hoá đặc sắc, là mạch ngầm văn hoá dân gian về tinh thần
hiếu học của các làng quê Việt Nam mà đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị.
Thanh Hóa là một vùng đất có truyền thống lâu đời nằm ở cực Bắc Trung
Bộ. Đây là một vùng đất được nhà nước phong kiến (thời vua Lê Thánh Tông) gọi
là Thanh Hoa xứ như cách gọ
i về xứ Đông, xứ Đoài, xứ Nghệ. Người dân Thanh
Hóa xưa nay vẫn quen gọi quê mình là “xứ Thanh” hàm chứa niềm tự hào về một
6
miền quê với nhiều giá trị truyền thống của một tiểu vùng văn hóa. Do đó, luận án
chọn tên gọi dân gian “xứ Thanh” cho việc nghiên cứu khuyến học dòng họ như
một nét văn hóa ở vùng đất giàu truyền thống này.
Do những đặc thù riêng của vùng đất với những điều kiện tự nhiên và xã hội
khác biệt nên khuyến học xứ Thanh cũng có những nét vừa chung, vừa riêng so với
khuyế
n học của nhiều địa phương trong cả nước. Xứ Thanh là vùng đất sản xuất
nông nghiệp, thiên tai, lũ lụt, hạn hán quanh năm nhưng người xứ Thanh từ xưa đến
nay vẫn tự hào về truyền thống hiếu học, chuộng học, quý học. Từ xa xưa, người xứ
Thanh đã quan tâm và luôn có những đầu tư thích đáng cho việc học, thông qua
hoạt động khuyến học. Ở m
ột vùng quê có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, đời sống
khá đói nghèo, người dân xứ Thanh không cam chịu, đã vươn lên tự cải thiện cuộc
sống của mình, khẳng định vị thế của bản thân, gia đình và dòng họ mình bằng
chính sự học. Học tập là nét đẹp văn hoá nhưng cũng là một phương kế mưu sinh
của một vùng quê hiếu học. Khuyến học dòng họ
chính là gia tăng kết nối của từng
cá nhân trong dòng họ và giữa các dòng họ trong cộng đồng. Sự kết nối này đã vượt
qua phạm vi làng xóm, vùng miền mà trở thành sự thu hút mọi nguồn lực cho việc
học và tạo nên sự cố kết dòng họ cũng bởi vì chính việc học đó.
Từ trước đến nay đã có một số sách viết về các dòng họ xứ Thanh, trong đó
có đề cập đế
n tinh thần hiếu học, nhưng chưa có tác giả nào, công trình nào nghiên
cứu tập trung về khuyến học như một nét văn hoá dòng họ một cách độc lập và có
hệ thống. Do vậy, việc nghiên cứu khuyến học qua văn hoá dòng họ ở một số dòng
họ xứ Thanh sẽ làm rõ những vấn đề xã hội mang ý nghĩa văn hoá, góp phần lý giải
nguyên nhân thành công của việc khuyến học của người Thanh Hóa xưa và nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án tìm hiểu về khuyến học dòng họ ở xứ Thanh để tìm ra nét văn hóa
đặc trưng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát huy giá trị của khuyến học dòng
họ xứ Thanh, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dòng họ, bản sắc văn
hóa làng trong giai đoạn hiện nay.
7
Luận án đặt ra câu hỏi nghiên cứu chính là: Văn hóa dòng họ đã tạo dựng
truyền thống khuyến học như thế nào và khuyến học đã góp phần định hình văn hóa
dòng họ như thế nào?
Với những mục tiêu cụ thể như sau:
- Khái quát được những đặc điểm cơ bản của việc khuyến học qua văn hóa
dòng họ ở xứ Thanh.
- Chỉ ra nhữ
ng giá trị của văn hóa khuyến học dòng họ ở xứ Thanh trong
truyền thống và hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục phát huy giá trị văn hóa khuyến học
dòng họ trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là đi sâu vào tìm hiểu truyền
thống khuyến học dòng họ ở xứ Thanh qua một số dòng họ khoa bả
ng tiêu biểu.
Luận án chọn 3 dòng họ khoa bảng tiêu biểu có số lượng người đỗ đạt cao thời kỳ
phong kiến ở xứ Thanh là: Dòng họ Lê, dòng họ Nguyễn và dòng họ Đỗ, trong đó 2
dòng họ Lê và Nguyễn hiện nay vẫn tiếp tục phát huy được truyền thống khoa bảng
của mình, còn dòng họ Đỗ đã bị “đứt đoạn” truyền thống. Đồng thời, thông qua việc
so sánh khuyến học dòng họ
xứ Thanh với khuyến học của một số dòng họ tiêu biểu
của 3 địa phương giàu truyền thống khoa bảng là: Thăng Long – Hà Nội, Nghệ An
và Hải Dương, luận án sẽ chỉ ra những nét đặc trưng trong khuyến học dòng họ của
mỗi địa phương, đặc biệt là sự trội vượt trong văn hóa khuyến học dòng họ xứ
Thanh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Cùng sinh sống trên
đất Thanh Hóa hiện nay có 7
dân tộc chính gồm: Kinh, Mường, Thái, Dao, Tày, H’mông, Khơ Mú nhưng truyền
thống khoa bảng được ghi nhận trong thời phong kiến đều thuộc về các dòng họ
người Kinh. Vì vậy, đối tượng chính của luận án là các dòng họ khoa bảng người
Kinh ở xứ Thanh.
Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng thể về khuyến học ở xứ Thanh, ở chương 3
luận án cũng sẽ đề cập đến việc khuyến họ
c của một số dòng họ dân tộc thiểu số
tiêu biểu trong giai đoạn hiện nay. Ngoài các cá nhân và dòng họ khoa bảng đã vinh
8
hiển ở xứ Thanh, luận án có đề cập đến một số cá nhân, dòng họ là người Kinh xứ
Thanh đã thành danh ở địa phương khác, cũng như một số dòng họ khoa bảng ở một
số vùng đất học khác nhằm so sánh và đúc rút những luận cứ khoa học của mình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bốn phương pháp nghiên cứu chính được luận án sử dụng là: Phương pháp
phân tích tài liệu thứ cấp, phươ
ng pháp so sánh tổng hợp, phương pháp điều tra điền
dã, phỏng vấn sâu và phương pháp hồi cố tư liệu lịch sử.
4.1. Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp được sử dụng nhiều nhất trong
toàn bộ luận án nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ qua việc tra cứu, phân tích các tài liệu, các
công trình nghiên cứu về văn hóa dòng họ, khuyến học dòng họ, làng xã và văn hóa
làng khu vực châu thổ sông Hồng, lưu v
ực sông Mã … của các nhà nghiên cứu
trước đó để có cái nhìn tổng thể, khoa học hơn về thực trạng nghiên cứu vấn đề,
cũng như quan điểm của các nhà khoa học nhằm tìm tiếng nói chung về vấn đề
khuyến học qua văn hóa dòng họ Việt Nam nói chung và xứ Thanh nói riêng.
Tuy nhiên, những dữ liệu cụ thể về truyền thống khoa bảng xưa của các
dòng họ được xuất bản chính th
ống rất ít, mà hầu hết chỉ được ghi lại qua hương
ước, gia phả (đa số cũ nát và ít dịch ra chữ Quốc ngữ) hoặc qua lời kể của các nhân
vật cung cấp tư liệu (ông trưởng họ, người giữ nhà thờ họ, cán bộ khuyến học xã,
thôn …) nên tư liệu phục vụ nghiên cứu vẫn còn hạn chế.
4.2. Phương pháp so sánh, tổng hợp là phương pháp được sử dụ
ng nhiều
trong luận án nhằm phân tích các số liệu, các hiện tượng để tìm ra mẫu số chung
cho truyền thống khuyến học của các dòng họ xứ Thanh. Phân tích những số liệu
ngẫu nhiên về các nhà khoa bảng, về số lượng người đỗ đạt của từng dòng họ (ít
nhất trong 3 dòng họ chọn mẫu), từng vùng đất … bước đầu gợi mở hướng nghiên
cứu về truyền thống khuyế
n học dòng họ, những yếu tố tạo nên sự khác biệt của
dòng họ này so với dòng họ khác hay của cả xứ Thanh nói chung so với các vùng
đất khác.
Luận án đặt truyền thống khuyến học của một số dòng họ xứ Thanh trong
mối tương quan với các dòng họ tiêu biểu ở các địa phương khác như Thăng Long –
Hà Nội, Hải Dương, Nghệ An, để có sự đối chiếu, so sánh nhằm tìm ra nét tương
9
đồng và sự khác biệt giữa chúng. Việc so sánh, xử lý các số liệu liên quan đến
truyền thống khoa cử, tần xuất đỗ đạt và quan hệ huyết thống của các vị đại khoa
trong các dòng họ khoa bảng để có cái nhìn toàn cục hơn về truyền thống khoa bảng
dòng họ, như một sự gợi ý về các biện pháp khuyến học dòng họ và thái độ ứng xử
đối với việc khuyến học nh
ư một nét văn hóa của dòng họ đó.
4.3. Phương pháp điều tra điền dã, kết hợp sử dụng nghiên cứu sâu về văn
hoá dân gian, tiếp cận, phỏng vấn sâu các ông trưởng họ, ông thủ từ nhà thờ họ, cán
bộ khuyến học các cấp ở các làng và các dòng họ khoa bảng nổi tiếng xứ Thanh, họ
Lương làng Hội Triều, họ Vũ làng Mộ Trạch, Hải Dương …vv, quan sát th
ực địa,
tham gia các hoạt động tế lễ nhân ngày giỗ tổ, hội làng, ghi âm, ghi hình các nhân
vật, sự kiện tại Mộ Trạch, Nguyệt Viên, Hoằng Lộc, Gia Miêu, Cổ Định, Quảng
Lưu, … để tìm hiểu những nhân tố của từng gia đình, dòng họ đã làm nên truyền
thống tốt đẹp đó.
Phương pháp hồi cố tư liệu và điều tra điền dã được sử dụng nhi
ều ở chương
2 và chương 3 của luận án, trong đó, chú trọng nghiên cứu truyền thống khoa cử,
khuyến học của xứ Thanh và của 3 dòng họ xứ Thanh (dòng họ Lê, họ Nguyễn và
họ Đỗ).
4.4. Phương pháp hồi cố tư liệu lịch sử được sử dụng tập trung ở chương 1
và chương 2 của luận án để có cái nhìn biện chứng, tìm ra được nét chung liên quan
đến truyền thống khuyến h
ọc ở các địa phương, dòng họ xứ Thanh xưa trong bối
cảnh giáo dục Nho học Việt Nam thời kỳ cực thịnh. Từ đó, đánh giá khách quan và
khoa học về truyền thống khuyến học được biểu hiện như một nét đẹp văn hoá cần
phát huy.
Hồi cố các tư liệu lịch sử về một vùng đất “địa linh nhân kiệt’ xứ Thanh với
những đi
ều kiện địa lý, lịch sử, xã hội đặc biệt, quy định nên tố chất con người của
một vùng đất ở vị trí trung gian giữa miền Bắc và miền Trung này. Từ đó, để thấy
được người xứ Thanh xưa đã quan niệm và đầu tư cho việc học như thế nào? Việc
khuyến học (dù chưa được gọi tên như hiện nay) đã đi vào đời sống và trở
thành nét
văn hóa dòng họ như thế nào? đã có tác dụng thúc đẩy (và làm thay đổi) đời sống
của người dân xứ Thanh ra sao?
10
5. Đóng góp của luận án
5.1. Luận án góp phần bổ sung và làm phong phú thêm nguồn tư liệu nghiên
cứu về khuyến học Việt Nam, khuyến học xứ Thanh và khuyến học như một nét
văn hoá truyền thống của một số dòng họ ở xứ Thanh, qua đó giúp các nhà nghiên
cứu có cơ sở để tiếp tục tìm hiểu về văn hóa khuyến học Việt Nam.
5.2. Thông qua nghiên cứu về khuyến họ
c của một số dòng họ xứ Thanh xưa
và nay, có đối sánh với một số dòng họ tiêu biểu ở một số địa phương khác để giải
mã nguyên nhân thành công trong việc khuyến khích học tập của các dòng họ.
5.3. Tiếp thu kết quả nghiên cứu của những người đi trước, kết hợp với việc
khảo sát thực địa tại địa phương, luận án nghiên cứu một cách toàn diệ
n, có hệ
thống về khuyến học của một số dòng họ tiêu biểu của xứ Thanh. Từ đó, nêu bật nét
đặc trưng và giá trị của khuyến học ở đây, góp phần làm rõ nguyên nhân nào khiến
dòng họ trở thành nền tảng, là cơ sở nuôi dưỡng tinh thần hiếu học và tại sao
khuyến học lại trở thành một nét văn hóa dòng họ.
5.4. Luận án đưa ra một số giả
i pháp nhằm phát huy giá trị văn hóa dòng họ
về khuyến học ở xứ Thanh trong việc nâng cao dân trí, cung ứng nguồn nhân lực,
phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho quê hương và đất nước; là cơ sở để các nhà
hoạch định chính sách có những chủ trương thích hợp nhằm tạo cơ cấu nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu của các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ hội
nhập hiện nay.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu 7 trang, kết luận 3 trang, danh mục tài liệu tham khảo 10
trang và phụ lục 38 trang, luận án chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khuyến
học ở xứ Thanh (từ trang 10 đến trang 49)
Chương 2: Khuyến học dòng họ ở xứ Thanh (từ trang 50 đến trang 98)
Chương 3: Khuyến học dòng họ ở xứ Thanh hiện nay - M
ột số vấn đề
đặt ra (từ trang 99 đến trang 141)
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHUYẾN HỌC Ở XỨ THANH
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về giáo dục và dòng họ Việt Nam xưa và nay đã được nhiều
học giả quan tâm và đã có nhiều công trình công bố rất có giá trị. Tìm hiểu về dòng
họ Việt Nam cũng đã có một số công trình đáng chú ý như những nghiên cứu về
vua Lê, chúa Trịnh, dòng họ Nguyễn, họ
Trần, họ Vũ – Võ, Huỳnh – Hoàng, Đỗ -
Đậu … Các công trình đã nêu được lịch sử hình thành và phát triển của dòng họ
Việt Nam, sự hình thành, những nét đặc trưng và quá trình phát triển, thịnh suy của
các dòng họ, thành tích đỗ đạt xưa của các dòng họ, nhưng nghiên cứu về khuyến
học qua văn hóa dòng họ chưa được quan tâm hoặc có đề cập đến thì chỉ giới thiệu
xen kẽ trong các nội dung khác. Có thể nêu một số công trình nghiên c
ứu có liên
quan nhiều đến khuyến học ở xứ Thanh sưu tập được theo trình tự thời gian xuất
bản như sau:
- Cuốn sách cổ nhất có đề cập đến việc học hành ở xứ Thanh là cuốn Thanh
Hóa quan phong do Vương Duy Trinh – Tổng đốc Thanh Hóa, hàm Hiệp biện Đại
học sĩ viết năm thứ 15 niên hiệu Thành Thái (năm Quý Mão 1903), Tủ sách cổ văn,
Ủy ban dịch thuật Bộ Văn hóa Giáo d
ục và Thanh niên xuất bản năm 1973 theo bản
phiên diễn của Nguyễn Duy Tiếu [150], đã đề cập đến những lời khuyên răn học tập
của các vùng thuộc tỉnh Thanh Hóa xưa nhưng cũng chỉ dừng lại ở những câu ca,
những lời hát chúc dạng “lời ăn tiếng nói” của các địa phương. Cũng có xuất hiện lẻ
tẻ một vài đoạn viết về đấ
t nước, con người, về phong tục tập quán của các phủ,
huyện và châu của tỉnh Thanh Hóa xưa chứ chưa nêu được bản chất của việc học và
khuyến khích học tập của người đất này.
- Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919 do Ngô Đức Thọ, Nguyễn
Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi biên soạn, Nxb Văn học Hà Nội xuất bản năm 1993
[133] là một công trình nghiên cứu rất có giá trị trong việc tra cứu lịch sử
giáo dục
thời phong kiến Việt Nam, đặc biệt là phần trích ngang của các nhà khoa bảng
12
người xứ Thanh. Tuy nhiên, công trình chưa đề cập đến việc khuyến học của các
dòng họ Việt Nam nói chung và khuyến học của các dòng họ khoa bảng xứ Thanh
nói riêng.
- Cuốn sách Danh sĩ Thanh Hóa và việc học thời xưa do Trần Văn Thịnh
(chủ biên) - Trịnh Mạnh – Lê Bá Chức – Nguyễn Thế Long, Phan Văn Các hiệu
đính, được Nxb Thanh Hóa – Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Thanh Hóa xuất bản năm
1995 [132] có nhiều tư liệu quý, đã nêu gầ
n như đầy đủ những yêu cầu, các nét cơ
bản, những câu chuyện hay của việc học thời xưa ở Thanh Hóa nhưng cũng chưa có
những nghiên cứu, đúc rút về khuyến học, đặc biệt là khuyến học của các dòng họ
khoa bảng xứ Thanh.
- Trong sách Hoằng Lộc đất hiếu học do Bùi Khắc Việt và Nguyễn Đức
Nhuệ viết cùng với sự cộng tác củ
a Nguyễn Cứ, Nguyễn Huy Chếch, Lê Duy
Phởng, Nguyễn Đức Phổ, Nguyễn Huy Tản do Nxb Thanh Hoá xuất bản năm 1996
[158], các tác giả chủ yếu viết về lịch sử hình thành và phát triển của làng Hoằng
Lộc, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, truyền thống cách mạng và khoa cử của
địa phương mà chưa phân tích kỹ nguồn gốc của truyền thống đó. Đặc biệt, chưa đề
cập đến vi
ệc khuyến học ở nơi đây.
- Kỷ yếu hội thảo Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An với sự nghiệp thực hiện
chiến lược con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI do Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An,
Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường, Ủy ban dân số và Kế hoạch hóa gia đình
Nghệ An, Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian tổ chức tại Nghệ An, Nxb Nghệ
An
xuất bản năm 1997 [63] là nguồn tư liệu phong phú tập hợp nhiều bài tham luận của
các nhà nghiên cứu đầu ngành về Văn hóa dân gian, Hán Nôm, Nhân học … có giá
trị tham khảo về lý luận văn hóa, dòng họ và văn hóa dòng họ nhưng cũng không
thấy đề cập đến việc khuyến học và khuyến học qua văn hóa dòng họ ở Nghệ An.
- Việc khuyến học thời kỳ phong kiến đã xuất hiệ
n trong hương ước của các
làng xã xứ Thanh xưa, cuốn Hương ước Thanh Hoá do Võ Quang Trọng và Vũ
Ngọc Khánh biên soạn, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2000 [153] đã tập hợp
được 40 bản hương ước xưa ở Thanh Hoá. Trong các hương ước này, có khá nhiều
bản nói đến những điều khoản khuyến khích học tập thông qua quyền lợi của người
đỗ đạt, chế độ trợ cấ
p cho người học, các biện pháp chế tài đối với những hành vi vi
13
phạm về học tập … Sách đã cung cấp những tư liệu quý giá về khuyến học ở xứ
Thanh, nhưng rất tiếc, trong các bản hương ước mà tác giả sưu tầm được chưa có
bản nào nói về khuyến học của các dòng họ.
- Báo cáo khoa học Hương ước và giá trị văn hoá (qua các văn bản hương
ước Hà Tây cổ truyền) của Kiều Thu Hoạch, trong Kỷ yế
u Hội thảo khoa học quốc
tế Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam [66] cho biết: Đối với việc
học hành thi cử của con em trong làng xã, nhiều bản hương ước cổ truyền Hà Tây
(nay là Hà Nội) đã tỏ rõ sự coi trọng và khuyến khích đặc biệt. Báo cáo khoa học
của tác giả Kiều Thu Hoạch, mặc dù rất thú vị, nhưng mới chỉ hạn chế ở việc
khuyến khích học tập ở xứ Đoài xưa và cũng chưa cho biết việc khuyến học ở các
dòng họ qua hương ước như thế nào.
- Sách Địa chí Thanh Hóa do Tỉnh ủy – Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân
dân tỉnh Thanh Hóa biên soạn, Nxb Văn hóa Thông tin – Hà Nội xuất bản năm
2000 [130], sách Địa chí văn hóa Hoằng Hóa do Ninh Viết Giao chủ biên, Nxb
Khoa học Xã hội – Hà Nội, xuất bản năm 2000 [42] và một số cuốn đị
a chí văn hóa
của các huyện, thị Thanh Hóa khác cũng có nói về truyền thống giáo dục, kết quả
đỗ đạt, những ưu tiên cho việc học … của từng địa phương nhưng chưa có phân
tích, chưa chỉ ra được giá trị của khuyến học dòng họ.
- Cuốn Khoa bảng Nghệ An 1075 - 1919 của tác giả Đào Tam Tỉnh do Sở
Văn hóa Thông tin Nghệ An xuất bản năm 2000 [147] là cuốn sách viết tương
đối
đầy đủ về các nhà khoa bảng xứ Nghệ. Sách đã dành hẳn 1 chương nói về dòng họ
khoa bảng xứ Nghệ rất chi tiết, có giá trị khảo cứu tư liệu, nhưng chưa đề cập đến
khuyến học của các dòng họ này.
- Các tác phẩm: Tuyển tập Quốc văn giáo khoa thư do Nha học - chính Đông
– Pháp xuất bản 1941, Nxb Trẻ tái bản năm 2001 [102], Khoa cử và Giáo dục Việt
Nam
của Nguyễn Quang Thắng, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh tái bản lần thứ
IV, có bổ sung [124], Giáo dục và thi cử Việt Nam (trước cách mạng tháng Tám
1945) của Phan Ngọc Liên, Nxb Từ điển Bách khoa 2006 [87], Một số yếu tố văn
hóa và giáo dục ảnh hưởng đến sự phát triển làng – xã từ hướng tiếp cận Toàn thể
luận Kinh – Trọng của 2 tác giả: Nguyễn Lâm Tuấn Anh – Nguyễn Thị Minh
Phương, Nxb Thế
giới, Hà Nội 2006 [7] v.v đã nêu một cách hệ thống về nguồn
14
gốc khoa cử Việt Nam, nội dung, chương trình giảng dạy, cách thức tổ chức các kỳ
thi xưa … rất có giá trị tra cứu về nền giáo dục Nho học xưa nhưng việc nghiên cứu
về chế độ khuyến khích học tập của các dòng họ khoa bảng lại chưa được các tác
giả đề cập.
- Công trình nghiên cứu thuộc chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam
mang tên Vũ tộc thế h
ệ sự tích Mộ Trạch – Hải Dương do Vũ Thế Khôi dịch và chú
thích, Nguyễn Văn Nguyên hiệu đính, Viện Việt Nam học và phát triển – Đại học
Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2004 [80] là một công trình nghiên cứu đồ sộ về họ
Vũ – dòng họ khoa bảng hàng đầu Việt Nam. Những giá trị nghiên cứu về gia phả,
về các chi, các đời, sự phát tích và thành tích khoa bảng của dòng họ Vũ là rất l
ớn,
nhưng rất tiếc, công trình chưa chỉ ra được giá trị khuyến học của dòng họ Vũ – Võ
Việt Nam.
- Tài liệu viết nhiều nhất về các dòng họ khuyến học Thanh Hoá là các cuốn
tài liệu do Hội Khuyến học Thanh Hoá xuất bản nhân Đại hội lần thứ nhất. Đó là
các cuốn: Những tấm gương gia đình hiếu học xứ Thanh” (2004 – 2007) và Những
tấm gương gia
đình hiếu học xứ Thanh ngày nay (xuất bản tháng 9/2004), nhưng cả
2 cuốn tài liệu nêu trên chỉ mới liệt kê ra được những tấm gương điển hình trong
phong trào khuyến học theo cách ký sự, kể chuyện chứ chưa đặt vấn đề nghiên cứu
về việc này.
- Hội khuyến học Việt Nam đã xuất bản bộ 3 cuốn tài liệu Gương sáng gia
đình hiếu học tập 1, t
ập 2 và tập 3. Qua nghiên cứu 3 cuốn tài liệu nêu trên cho thấy,
Hội đã thành công trong việc đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm, biểu
dương những tập thể, cá nhân làm tốt phong trào khuyến học nhưng chưa nêu ra
được nguyên nhân thành công và chưa đề ra được những giải pháp cụ thể để phát
huy truyền thống khuyến học của các dòng họ nhằm đẩy mạnh phong trào khuyến
khích học tập trong cả nước. Tuy nhiên, các tài liệu này là mộ
t gợi ý quan trọng
(cùng với giới thiệu của Hội khuyến học tỉnh Thanh Hóa) để tác giả luận án có căn
cứ để tìm đến nghiên cứu các dòng họ làm tốt công tác khuyến học xưa và nay,
cũng như một số dòng họ đã bị “đứt đoạn” truyền thống quý báu này.
- Nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội và 56 năm giải phóng
Thủ đô (1954 – 2010), một loạt công trình nghiên cứ
u về Thăng Long – Hà Nội đã
15
được xuất bản, có nhiều cuốn sách rất có giá trị cho việc tìm hiểu truyền thống khoa
bảng của Hà Nội xưa. Đó là cuốn: Các làng khoa bảng Thăng Long - Hà Nội của
Bùi Xuân Đính – Nguyễn Viết Chức [39], Giáo dục và khoa cử nho học Thăng
Long Hà Nội của Bùi Xuân Đính [40] Đây là các công trình nghiên cứu công phu
về giáo dục, thi cử Nho học và các nhà khoa bảng Thăng Long - Hà Nội xưa, đã
cung cấp được một s
ố tư liệu về một số dòng họ gốc xứ Thanh đã vinh hiển ở
Thăng Long – Hà Nội, nhưng chưa đề cập đến việc khuyến học dòng họ, cũng như
chưa chỉ ra được khuyến học là một nét văn hóa của các dòng họ khoa bảng.
- Trong các bản gia phả, văn bia dòng họ, trên các trang báo giấy, báo hình
và đặc biệt trên nhiều trang mạng Internet đã xuất hiện một số
tư liệu, bài viết,
nghiên cứu của một số tác giả đã đề cập đến truyền thống học hành thi cử và đỗ đạt
của một số dòng họ, địa phương nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở mức độ phát hiện và
đưa tin, tuyên truyền về sự kiện chứ chưa đưa ra được những nhận xét mang ý nghĩa
khoa học về việ
c học và văn hóa khuyến học dòng họ ở các làng quê này.
- Các công trình nghiên cứu gần đây nhất liên quan đến việc khuyến học và
văn hóa dòng họ có thể kể đến là: Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học Văn hóa dòng họ
Nguyễn Ngọc làng Phương Trạch của Nguyễn Thế Phương vào năm 2010 (Viện
Nghiên cứu văn hóa – Viện Khoa học xã hội Việt Nam) [113], Luận văn Thạc sĩ
Văn hóa học Truyền thống hiếu học làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội của Nguyễn Thị Thanh Nga vào năm 2011(Viện Khoa học xã hội – Học viện
Khoa học xã hội Việt Nam) [95] và Luận án Tiến sĩ Văn hóa học Di sản văn hóa
dòng họ và vấn đề nghiên cứu danh nhân văn hóa, phát triển nhân tài hiện nay (qua
khảo sát một số dòng họ tiêu biểu ở Hà Tĩnh) của Võ H
ồng Hải vào năm 2012
(Viện Văn hóa – Nghệ thuật Việt Nam) [57] đều nêu lên tầm quan trọng của khuyến
học, giá trị của văn hóa dòng họ, đặc biệt vấn đề danh nhân văn hóa, dòng họ văn
hóa được xem như một di sản văn hóa dân tộc nhưng rất tiếc, chưa có sự xâu chuỗi
các giá trị của truyền thống hiếu học, khuyến học dòng họ cũng như chư
a chỉ ra giá
trị, những đặc điểm nổi bật của việc khuyến học qua văn hóa dòng họ.
Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu toàn
diện về khuyến học cũng như khuyến học qua văn hoá dòng họ ở xứ Thanh nói
riêng và Việt Nam nói chung. Việc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về khuyến học qua
16
văn hoá dòng họ ở xứ Thanh, cũng như lý giải bước đầu về giá trị văn hóa khuyến
học, nguyên nhân thành công và “đứt đoạn” truyền thống khoa cử của một số dòng
họ khoa bảng ở xứ Thanh của luận án sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nhìn nhận
khuyến học dòng họ như một hiện tượng văn hóa, chỉ ra những thay đổi về giá trị
dòng họ trong cộng đồng khi các dòng họ thành công trong khoa cử.
1.2. Cơ sở lý luận
Để góp phần lý giải những vấn đề đặt ra trong luận án, trong phần này chúng
tôi trình bày một số khái niệm được sử dụng trong nghiên cứu như: Khuyến học,
dòng họ, văn hóa dòng họ, dòng họ khoa bảng Đồng thời chúng tôi cũng sẽ thảo
luận về mối quan hệ của khuyến học với văn hóa dòng họ. Ph
ần phân tích các khái
niệm này đóng vai trò như một phần chính cơ sở lý luận của luận án.
1.2.1. Một số khái niệm công cụ
1.2.1.1. Khuyến học
Theo Từ điển Bách khoa thì: “Khuyến học là việc cổ vũ và nâng đỡ việc
học” [157 - tr. 473]. Còn theo nghĩa thông thường thì khuyến học là khuyến khích
việc học tập. Đây là những định nghĩa hết sức ngắn gọn, súc tích về khuyến họ
c
nhưng chưa bao hàm hết những vấn đề về thao tác của việc khuyến học và giá trị
đạt được của khuyến học. Luận án là công trình nghiên cứu về khuyến học dòng họ
xứ Thanh như một giá trị văn hóa dân gian, đồng thời quan tâm nhiều đến việc ứng
dụng các giá trị của khuyến học qua văn hóa dòng họ vào cuộc sống trong giai đoạn
hiện nay nên xin được hiểu khuy
ến học theo diễn đạt của Hội Khuyến học Việt
Nam [70- tr.100]:
“…Khuyến học là sự khuyên bảo, hướng dẫn, khích lệ, giúp đỡ của
các tổ chức và cá nhân để người ta hứng thú nghe theo, làm theo, cùng nhau
thúc đẩy học tập và vận động các nguồn lực để tạo cơ hội và điều kiện cho
mọi người được học và tự học: Học thường xuyên, học suốt đờ
i; học chữ,
học nghề, học làm người, học để biết, để làm việc, để làm người, để chung
sống và phát triển ở cộng đồng, góp phần xây dựng cả nước trở thành một
xã hội học tập…”.
Như vậy, theo định nghĩa khuyến học ở đây, "khuyến học" là nói đến hành
17
động thúc đẩy học tập. Nội hàm của thuật ngữ này nhấn mạnh đến tính tích cực, có
giá trị của các hành động nhằm làm cho các chủ thể của việc khuyến học (ở đây là
người học) trở nên tốt hơn. Khuyến học qua văn hóa dòng họ ở xứ Thanh sẽ được
hiểu từ góc độ khuyến khích, nâng đỡ và cổ vũ của dòng họ đối vớ
i người học ở
nhiều khía cạnh … Ví dụ: Khuyến khích bằng vật chất, nâng đỡ tinh thần, bằng các
yếu tố tâm linh, hương ước, cho đến việc ràng buộc, các “chế tài” của dòng họ, làng
xã đối với việc học và trách nhiệm của người đỗ đạt đối với dòng họ mình Trong
bối cảnh nghiên cứu này, luận án sẽ chỉ tập trung vào khuyến học dòng họ theo
nghĩa khoa bảng (thành tích họ
c tập, đỗ đạt) chứ không đề cập đến các lĩnh vực về
học làm người hay học nghề .vv
1.2.1.2. Dòng họ
Dòng họ Việt Nam là một hiện tượng lịch sử đặc thù, một thực thể sống
động mang tính tự nhiên – huyết thống, vừa mang yếu tố xã hội, vừa mang giá trị
văn hóa. Dòng họ là một gia đình lớn gồm nhiều gia đình hạt nhân cùng huyế
t
thống. Yếu tố quan trọng nhất của dòng họ chính là huyết thống và nghĩa tình, là
trách nhiệm của các thành viên trong cộng đồng đó. Nhiệm vụ thông thường của
dòng họ là cố kết, dựa vào nhau để tạo lập cho các thế hệ kế tiếp nhau một cuộc
sống đầy đủ cả về vật chất, tinh thần và duy trì nòi giống. Nói đến dòng họ, người ta
hay liên tưởng đến một sơ
đồ hình cây mà gốc là tổ tiên, các chi, họ, các thành viên
như những nhánh, cành, đâm chồi nảy lộc từ gốc mà ra. Nói đến dòng họ là nói
huyết thống thiêng liêng, là nói đến nguồn cội với sự ngưỡng vọng, thành kính của
mỗi người con trong họ tộc.
“…Con người có tổ, có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn…”
Cho đến ngày nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước định
nghĩa về dòng họ người Việt. Léopol Cadière thì quan niệm ngườ
i Việt cho dù bất
cứ hoàn cảnh nào cũng thuộc về một họ, tức gia đình theo nghĩa rộng, tổ chức vững
chắc, liên kết chặt chẽ bằng huyết thống, bằng những quyền lợi vật chất, bằng
những niềm tin tôn giáo, bằng những mối dây luân lý của cộng đồng [16]. Cũng
nhận định về dòng họ, Phan Đại Doãn cho rằng có cả liên kết chiều d
ọc và bề
ngang, trong đó chiều dọc theo huyết thống mang ý nghĩa quyết định: Theo nghĩa
18
rộng thì dòng họ, ngoài mối liên hệ ngang lại có mối liên hệ dọc đứng đến 9 đời:
Cao – Tằng – Tổ - Phụ - Thân – Tử - Tôn – Tằng – Huyền [30].
Như vậy, về chung nhất, gia đình và dòng họ (chúng tôi hiểu theo nghĩa
truyền thống) là một thiết chế xã hội đặc biệt gắn bó với nhau bởi huyết thống do
được khởi thủy từ một ông tổ nhất định. Trong mối quan hệ đồ
ng huyết này, các cá
nhân (bao gồm cả người sống và người đã chết) đều mang danh tộc về phía bố nên
người Việt thường coi trọng bên nội hơn (“Trăm cái phúc nhà vợ không bằng một
cái nợ nhà chồng”). Như vậy, trong thiết chế làng xã Việt Nam, dòng họ là một tổ
chức cơ sở gồm nhiều gia đình, gắn kết với nhau bằng huyết thống, nghĩa tình, là
một môi trườ
ng văn hoá mang tính đặc thù. Nhiều gia đình cùng dòng máu, cùng tổ
tiên quy hợp với nhau thành dòng họ. Gia phong - truyền thống dòng họ đã trở
thành hạt nhân văn hoá góp phần tạo nên truyền thống văn hoá làng xã, địa phương
và dân tộc. Ngô Đức Thịnh nhận xét:
“ Dòng họ là một thực thể xã hội mang tính phổ quát của loài người.
Nó hình thành trên cơ sở quan hệ huyết thống của một quần thể người nhất
định thể hiệ
n qua ý niệm về dòng dõi từ một ông tổ chung. Do vậy, dòng họ
là một thực thể vừa mang tính sinh học, vừa mang tính xã hội. Nó xuất hiện
từ rất sớm trong xã hội loài người, trở thành một nguyên lý cố kết giữa các
con người sớm nhất, rồi biến đổi qua các thời đại và tồn tại cho đến ngày
nay ” [63 – tr.46].
Như vậy, dòng họ Việt Nam là một cộng đồng huyết thống có tính liên kết
chặt chẽ giữa các thành viên trong một gia đình hay giữa các gia đình thành viên
trong một dòng họ đó. Đây là một quan niệm mang tính chất tiền đề lý luận mà
chúng tôi sử dụng cho nghiên cứu về dòng họ và văn hóa dòng họ trong luận án
này.
Theo các nhà nghiên cứu, mô hình phát triển văn hoá Việt Nam: Nhà - Làng
- Nước làm cho gia đình, dòng họ tiếp thu, lưu giữ văn hoá chung của đất nước,
nhưng ngược lại, chính nó lại bảo vệ và làm phong phú thêm cho nước. Sau nhi
ều
biến động dân cư, phần lớn các làng, cộng đồng dân cư các cấp đều có nhiều họ lớn,
họ gốc. Gia tộc, dòng họ gắn chặt với làng, nước, hòa vào nhau và tạo thành quan
hệ làng xã, cộng đồng. Rộng hơn, quan hệ huyết thống dòng họ còn mở rộng ra cả
19
tộc người và cả quốc gia. Như vậy, huyết thống - gia tộc và dòng họ đồng nghĩa với
ý niệm nguồn cội, tổ tiên, đất nước trên phạm vi rộng hẹp khác nhau từ gia đình,
dòng họ đến quốc gia, dân tộc.
1.2.1.3. Văn hóa dòng họ
Thuật ngữ “văn hóa dòng họ” hàm ý nhấn mạnh khía cạnh ứng xử giữa các
cá nhân trong dòng họ, tạo nên nét văn hóa riêng biệt của từng dòng họ, mang tính
đặc thù cho một cộng đồng người cùng chung huyết thống. Mỗi một dòng họ đã tạo
nên và lưu truyền những nét đẹp văn hóa riêng của họ tộc mình. Văn hóa của các
dòng họ lại góp phần cấu thành bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Có các gia
đình
cùng chung huyết thống, tổ tiên sẽ hình thành nên dòng họ với tôn ti, trật tự riêng
của nó để thành nề nếp, gia phong, tạo nên nét đặc trưng cho một cộng đồng người.
Trong cộng đồng đó vẫn đảm bảo những cái riêng tư cho sự phát triển của từng cá
nhân, từng gia đình trong dòng họ và ngược lại từng cá nhân, gia đình lại đóng góp
cho sự phát triển văn hóa của cả dòng họ. Người dân khu v
ực Bắc Trung Bộ nói:
“Đi làng giữ họ, đi họ giữ anh em”, theo chúng tôi thì “đi” ở đây không những là
việc vận động, di chuyển mà mang ý nghĩa cao hơn là sự giao lưu, thể hiện mối
quan tâm, gắn bó, mối bang giao giữa các họ trong làng để giữ vị thế, tiếng nói của
dòng họ mình và “đi họ” cũng mang ngầm ý như vậy trong quan hệ họ tộc. Nét văn
hoá của dòng họ xuấ
t phát từ chính cái chung của cả dân tộc và bản sắc văn hóa
Việt Nam nhưng cũng hàm chứa những nét riêng có của từng dòng họ.
Ninh Viết Giao cho rằng văn hóa của một dòng họ không chỉ là vấn đề học
hành, thi cử, đỗ đạt, khoa bảng, khảo cứu học thuật, văn chương … mà còn là vấn
đề ứng xử đạo đức, sinh hoạt, ngôn từ, lao động… và văn hóa trước hết là sản phẩ
m
của cá nhân, đặc biệt là cá nhân lỗi lạc… [63 - tr.142]. Thống nhất với nhận định
của ông, theo chúng tôi, dòng họ không chỉ mang yếu tố cấu thành do quan hệ huyết
thống mà mở rộng ra mang một ý nghĩa văn hóa hết sức to lớn đó là tổ quốc, dân
tộc, đại gia đình Việt Nam với các biểu tượng “đồng bào”, “con Rồng, cháu Tiên”,
cha Lạc Long, mẹ Âu Cơ đưa 50 người con lên rừng, 50 người con xuống biể
n ….
Như vậy, ở đây, dòng họ không còn là một thực thể xã hội mà đã mang ý
nghĩa của một môi trường văn hóa đặc thù. Yếu tố đặc thù này chỉ có thể được xem
xét một cách tường minh khi đặt nó trong bối cảnh tương quan rộng hơn như: Văn
20
hóa dòng họ trong làng, văn hóa làng trong vùng văn hóa hoặc vùng địa giới hành
chính, văn hóa quốc gia trong khu vực và thế giới. Theo Ngô Đức Thịnh “… Dòng
họ, văn hóa dòng họ còn đồng nghĩa với sự đa dạng văn hóa, bản sắc văn hóa, một
nhân tố động lực thức đẩy sự phát triển văn hóa và xã hội Việt Nam…” [63- tr.47].
Còn theo Nguyễn Đình Chú thì “…Chính nó (văn hóa dòng họ) cũng là một thực
thể văn hóa…”
[63- tr.113]. Thích Minh Nghiêm nhận xét “… Văn hóa dòng họ -
họ tộc là sức mạnh thiêng liêng sâu thẳm trong tâm khảm của mỗi thế hệ. Đó không
chỉ đơn thuần là đặc điểm di truyền của gien sinh học, tạo nên những thế hệ mới kế
thừa tổ tông mà còn mang hàm nghĩa sinh thành …” [96- tr.77]. Trong các kỷ yếu
Hội thảo khoa học về văn hóa dòng họ và dòng họ như: Hội thảo “Văn hóa các
dòng họ ở
Nghệ An” tổ chức năm 1997 [63], Hội thảo “Thanh Hóa thời Lê” tổ chức
năm 1997 [10], Hội thảo “Văn hóa dòng họ ở Thái Bình” tổ chức năm 1999 [119],
Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn thế kỷ XVI – XIX” tổ
chức tại Thanh Hóa năm 2008 và một số hội thảo khoa học khác thì các nhà khoa
học, các nhà nghiên cứu đều thống nhất: Văn hoá dòng họ Việt Nam vừa là nét văn
hóa riêng biệt củ
a từng dòng họ, vừa mang tính đặc thù cho một cộng đồng người
cùng chung huyết thống, cùng tổ tiên. Văn hóa dòng họ là một dạng thức văn hóa có
tổ chức, là văn hóa của một cộng đồng. Văn hóa dòng họ là một tiểu hệ thống văn
hóa chứa đựng toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần và tâm linh do các dòng họ
sản sinh ra trong quá trình tồn tại và phát triển.
Đó là cách đánh giá chung nhất, đầy
đủ và toàn diện về văn hóa dòng họ với
tư cách là một thiết chế văn hóa trong sự phát triển của văn hóa cộng đồng nhưng
chưa bao hàm ý nghĩa sâu về văn hóa ứng xử dòng họ đối với một vấn đề mà cả
dòng họ quan tâm. Thống nhất với đánh giá đó, trong công trình này, chúng tôi
nhấn mạnh khía cạnh ứng xử của các cá nhân trong cộng đồng, tạo nên nét riêng
biệt của t
ừng dòng họ, đó chính là sự kết nối bền vững, liên tục giữa các cá nhân
trong cả cộng đồng đó. Đồng thời, trong quá trình tồn tại và phát triển, dòng họ đã
sản sinh ra các giá trị văn hóa, tạo nên sự đa dạng bản sắc văn hóa, dòng họ là một
nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển văn hóa và xã hội Việt Nam. Cũng vì làng
xã là cộng đồng do các dòng họ cư trú mà thành nên theo chúng tôi, chính gia
phong, truyền thố
ng dòng họ đã trở thành một nhân tố, một hạt nhân văn hóa tạo
21
nên văn hóa làng, truyền thống văn hóa địa phương và rộng ra cả dân tộc. Trong
công trình này, chúng tôi nghiên cứu văn hóa dòng họ bao hàm các thành tố theo
gợi ý của Nguyễn Đình Chú: Truyền thống của dòng họ trong đó nhấn mạnh truyền
thống giáo dục (giáo dục đạo đức và giáo dục văn hóa); truyền thống tín ngưỡng
(truyền thống thờ phụng, tri ân, tri đức tổ tiên); truyền thống đoàn kết (huyết thống
nâng đỡ
nhau) [63- tr.114]. Và chúng tôi cũng nhấn mạnh khía cạnh ứng xử văn hóa
giữa cá nhân với gia đình, dòng họ và ngược lại, tính tôn ti trật tự trong dòng họ, sự
ràng buộc, hỗ trợ của dòng họ, sự chia sẻ những giá trị chung như: Vinh quang, sự
“truyền gien” khoa bảng, trách nhiệm đối với dòng họ… đã làm nên truyền thống
học vấn, đỗ đạt của chính họ.
Văn hóa dòng họ không nên hiểu là đồng nh
ất với dòng họ văn hóa. Nếu văn
hóa dòng họ là sự ứng xử của các cá nhân trong dòng họ đó (theo cách nhấn mạnh
của luận án) đối với các vấn đề xã hội, đặc biệt liên quan đến đời sống văn hóa cộng
đồng thì dòng họ văn hóa hay một dòng họ được tôn vinh là một “dòng họ văn hóa”
phải thỏa mãn một số tiêu chí đánh giá do cộng đồng (hoặc do nhà nước) quy định.
Theo tài liệu của Cục Văn hóa cơ sở - Bộ VHTT&DL thì một dòng họ đạt danh
hiệu “Dòng họ văn hóa” phải đạt các tiêu chí sau:
- Đoàn kết họ tộc gắn với đoàn kết dân tộc.
- Thực hiện gia phong, gia đạo, gia lễ, gia quy gắn liền với việc tạo phúc đức,
xây dựng lòng hiếu thảo cho con cái.
- Thực hiện quan - hôn - tang - tế chu đáo, nghiêm trang; dựng gia phả, xây
từ đường và chăm lo mồ mả tổ tiên nghiêm túc.
- Khuyến học, khuyến nghiệp, khuyến tài sôi nổi.
- Ân cần lo việc nghĩa.
- Thượng tôn pháp luật mẫu mực.
- Đoàn kết họ tộc - đoàn kết dân tộc.
Còn theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc, để trở thành một gia tộc mẫu về
văn hóa (gần với dòng họ văn hóa ở Việt Nam) thì gia tộc đó không chỉ biểu hiện
nhiều hay ít nhân vật lỗi lạc mà còn đòi hỏi tính chỉnh thể của văn hóa gia tộc gồm:
22
Trú tại địa phương một thời gian dài; có một số lượng dân cư lớn; có nhiều nhân tài
ưu tú; có nhiều sĩ hoạn (nhiều quan tước); được coi trọng về đạo đức … hay một
danh gia vọng tộc về văn hóa ở Trung Quốc thì phải: Coi trọng giáo dục; thành
công trong sự nghiệp khoa cử, có lượng sách vở lớn được tàng trữ; chú trọng thu
thập và chỉnh lý các tư liệu văn hiến của gia tộ
c; xuất hiện đông đảo nhân tài; hình
thành trung tâm văn hóa của khu vực; giao lưu rộng rãi với xã hội; đóng góp vào sự
phát triển của văn hóa địa phương [57 - tr.40]. Trong luận án này chúng tôi áp dụng
cách đánh giá của Bộ VHTT&DL về dòng họ văn hóa, chú trọng phân tích phần về
các yếu tố liên quan đến khuyến học dòng họ và có tham khảo cách phân định của
các nhà nghiên cứu Trung Quốc về gia tộc mẫu văn hóa hay một danh gia vọng tộc
v
ăn hóa.
1.2.1.4. Dòng họ khoa bảng
Là mỹ từ liên quan đến các danh hiệu, học vị của nhà nước phong kiến trước
đây mà dân gian gắn cho những cộng đồng dân cư có nhiều thành tích đỗ đạt trong
học tập. Nói đến khoa bảng, trước hết phải là việc học tập và đỗ đạt qua các kỳ thi
Hội và thi Đình từ thời phong kiến. Những người đỗ đại khoa (có học vị từ Tiến sỹ
trở lên) mới được xem là căn cứ để xét danh hiệu khoa bảng cho một làng hay một
dòng họ.
Dòng họ khoa bảng là một cộng đồng dân cư có quan hệ huyết thống, có
nhiều người theo đuổi việc học hành và đỗ đạt cao qua các kỳ thi Nho học của nhà
nước phong kiến. “Dòng họ khoa bảng” tạo nên “Làng khoa bảng” (vì các dòng họ
đều phải sống trong một làng nào đó, tuy nhiên, cá biệt có làng chỉ có một họ), t
ạo
nên truyền thống hiếu học, khoa bảng của làng quê Việt Nam qua nhiều thế hệ nối
tiếp nhau trong lịch sử dân tộc.
Theo cách phân định hiện nay, danh hiệu “Dòng họ khoa bảng” căn cứ vào
số lượng Tiến sỹ của các dòng họ. Theo cách phân định của các tác giả trong cuốn
Các làng khoa bảng Thăng Long – Hà Nội [39] thì các dòng họ khi có 4 Tiến sỹ trở
lên mới được gọi là dòng họ khoa bảng. Còn các tác giả sách Danh sĩ
Thanh Hoá và
việc học thời xưa [132] thì có dòng họ nhiều người đỗ đạt như họ Lê có 57 người
nhưng cũng có dòng họ dù chỉ đỗ 1, 2 người như họ Đoàn, họ An [Phụ lục 3. tr.
177] đều được người xưa gọi là dòng họ khoa bảng. Các phân định của sách Khoa
23
bảng Nghệ An [147] cũng giống cách phân định của Thanh Hóa. Vì luận án này là
công trình nghiên cứu về khuyến học qua văn hóa dòng họ ở xứ Thanh xưa nên
chúng tôi chọn cách phân định của các tác giả cuốn Danh sĩ Thanh Hoá và việc học
thời xưa để gọi tên các “Dòng họ khoa bảng” xứ Thanh.
1.2.2. Khuyến học qua văn hóa dòng họ
Tìm hiểu khuyến học qua văn hóa dòng họ là đặt việc khảo sát các hình thức
thúc đẩy họ
c tập qua bối cảnh của văn hóa từng dòng họ cụ thể. Ở đây có mối quan
hệ tương hỗ hai chiều giữa “khuyến học” và “văn hóa dòng họ”. Việc khuyến học,
mà kết quả mong đợi của nó là sự thành công trong sự nghiệp của một cá nhân, sẽ
góp phần bồi đắp nên diện mạo văn hóa của một dòng họ. Ngược lại, những tác
nhân làm nên sắc thái văn hóa c
ủa một dòng họ cũng sẽ góp phần thúc đẩy, tạo
động lực cho nhu cầu về giáo dục và tinh thần khuyến học của dòng họ đó.
Nhìn từ một góc độ khác, việc khuyến học cũng có thể tạo ra những mâu
thuẫn, xung đột. Một người học hành thành đạt là làm vẻ vang cho gia đình, dòng
họ mình. Vẻ vang dòng họ là vẻ vang của cả làng xóm, cả tổng, cả huyện. Niềm vẻ
vang, kiêu hãnh này gắn liền với tên của dòng họ trong các sinh hoạt làng xã. Vì
vậy, đã xuất hiện sự ganh đua giữa các chi, nhánh trong cùng dòng họ và giữa các
dòng họ với nhau. Các dòng họ hơn nhau không chỉ là số lượng xuất đinh mà hơn
nhau ở trình độ học vấn, số lượng người đỗ đạt, ra làm quan. Những động thái vinh
danh của nhà nước phong kiến, của chính quyền địa phương và bà con lối xóm đối
với người đỗ
đạt đã làm vẻ vang gia đình, dòng họ của họ và cũng tạo nên sự ganh
đua, sức ép đối với các dòng họ khác.
Một luận điểm khác mà luận án nhấn mạnh, đó là mối quan hệ giữa khuyến
học và động cơ về địa vị xã hội và kinh tế. Các dòng họ Việt Nam xưa đã thấu hiểu
giá trị của việc học và cảm nhận sâu sắc nhữ
ng kết quả mà việc học đưa lại trong
việc cải thiện vị thế và đời sống của gia đình, dòng họ mình. Nhà nước phong kiến
Việt Nam rất coi trọng việc khuyến khích học tập, khoa cử để tuyển chọn nhân tài
và chính sách khuyến khích học tập của triều đình ấy đã được vận dụng khéo léo
trong mối liên kết huyết thống của gia đình, dòng họ để
đề cao ý thức học tập cho
người học. Vua Lê Thánh Tông đã viết tác phẩm mang tên Dụ khuyến học để
khuyến khích học tập và ông cho rằng, việc báo hiếu cha, mẹ được thực hiện bởi địa
24
vị xã hội do việc học mang lại:
“…Nhờ văn chương mà địa vị rõ ràng
Nhờ đạo đức mà tục dân giáo hóa
Giúp dân giúp chủ, lợi ích thấm khắp đương thời
Bản thân cha mẹ vẻ vang, sự nghiệp lưu truyền hậu thế …” [87– tr.173]
Mặt khác, luận án coi khuyến học dòng họ xứ Thanh là một hiện tượng văn
hóa để giải mã nguyên nhân thành công của các dòng họ. Khuyến học với tư
cách là
một nét văn hóa của dòng họ đã và đang là động lực cho sự phát triển ổn định của
cộng đồng làng xã hiện nay. Nghiên cứu "khuyến học qua văn hóa dòng họ" là xem
xét việc khuyến học trong mối quan hệ ứng xử của dòng họ, trong chuỗi liên kết văn
hóa giữa: Cá nhân, gia đình, dòng họ, xóm làng ở từng vùng miền của đất nước
trong một thời gian nhất định, là sự xem xét trong tổ
ng thể không gian và thời gian
của một gia tộc. Việc khuyến học đã được biểu hiện qua các thành tố của văn hóa
dòng họ một cách cụ thể như: khuyến khích vật chất, tinh thần của dòng họ, các
nghi lễ tâm linh, việc phân công trách nhiệm cộng đồng, trách nhiệm các thành viên
gia tộc đối với việc học Từ đó trả lời câu hỏi, việc khuyến học qua văn hóa dòng
họ đ
ã thúc đẩy việc học tập ra sao? Đã đem lại kết quả gì cho đời sống cộng đồng?
Nói cách khác, nghiên cứu khuyến học qua văn hóa dòng họ là nghiên cứu cách
thức, biện pháp khuyến khích việc học của các dòng họ như một nét văn hóa được
lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Theo quan niệm của Malinowski (1884 – 1942) - người theo Trường phái
chức năng - tâm lý, coi xã hội như một tổng thể các thành tố
mà mỗi thành tố đóng
một chức năng nào đó góp phần vào sự bền vững của xã hội.[44]. Mặt khác, một
nền văn hóa không phải chỉ là tổng của các thành tố mà các thành tố văn hóa có sự
tương tác kết nối chặt chẽ với nhau, đều có chức năng nhất định trong tổng thể nền
văn hóa mà chúng tồn tại [111].
Soi chiếu từ quan điểm chức nă
ng tâm lý vào nghiên cứu khuyến học trong
văn hóa dòng họ xứ Thanh, có thể thấy, khuyến học cũng đóng vai trò và có chức
năng nhất định trong tổng thể bối cảnh văn hóa, xã hội, chính trị, địa lý xứ Thanh.
Đồng thời trong văn hóa dòng họ xứ Thanh, luận án cũng sẽ chỉ ra những mối quan
hệ tương hỗ và liên kết chặt chẽ giữa tinh thần hiếu học của các cá nhân trong dòng
25
họ với tinh thần khuyến học của dòng họ (chương 3 phần khuyến học của các dòng
họ), giữa việc khuyến học dòng họ với cộng đồng trong bối cảnh địa lý - lịch sử -
chính trị của vùng đất nơi đây (chương 1, phần bối cảnh tự nhiên và xã hội cho việc
học), cũng như giữa việc khuyến học với các thành tố khác của vă
n hóa dòng họ
(chương 1, phần khuyến học và việc học ở xứ Thanh) vv Nói cách khác, sẽ không
thể hiểu được khuyến học dòng họ ở xứ Thanh nếu tách rời nó khỏi tổng thể các
thành tố khác trong tổng thể văn hóa nơi nó sinh ra và tồn tại.
Đồng thời, với những nét đặc trưng về điều kiện tự nhiên, xã hội do lịch sử
quy định đã tạo nên một x
ứ Thanh mang tính trung gian “Khu Bốn đẩy ra, khu Ba
đẩy vào” (xin được nói rõ trong mục 1.3.1 ngay sau đây) nên đất Thanh Hóa mang
diện mạo một vùng đất đặc thù về lịch sử và văn hóa. Vì vậy, Thuyết vùng văn hóa -
lịch sử của các nhà Dân tộc học Liên Xô cũ đề xướng đã được Ngô Đức Thịnh áp
dụng vào Việt Nam và đưa ra khái niệm Vùng văn hóa [125] cũng có thể sử dụng để
xem xét các vấn đề liên quan đến tính vùng, miền trong v
ăn hóa dòng họ xứ Thanh.
Vùng văn hóa được hiểu là một vùng lãnh thổ có tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên,
cư dân ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử, có những tương
đồng về kinh tế và xã hội. Giữa họ đã diễn ra giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại
nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt văn
hóa vậ
t chất và văn hóa tinh thần của cư dân. Vùng văn hóa được hình thành và tồn
tại là kết quả tác động của nhiều nhân tố tự nhiên, xã hội và lịch sử, trong đó quan
hệ giao lưu và ảnh hưởng qua lại có vai trò quan trọng hàng đầu. [125 – tr. 64, 65].
Trong các vùng văn hóa, giữa các tộc người luôn có sự giao tiếp lâu dài về
văn hóa dẫn tới sự biến đổi một số đặc điểm, thậm chí là cả tổng th
ể văn hóa cộng
đồng. Sự tiếp xúc đó diễn ra trên nhiều lĩnh vực với những cấp độ, hình thức khác
nhau. Tiếp xúc và giao tiếp văn hóa là tác nhân kích thích phát triển và nhờ đó nảy
sinh ra các hiện tượng văn hóa mới. Văn hóa của một cộng đồng phát triển hay tiêu
vong tùy thuộc vào những yếu tố nội sinh - truyền thống văn hóa của chính cộng
đồng ấy trong giao tiếp. Khi yếu tố nội sinh
đủ mạnh, nó sẽ tự lựa chọn và bản địa
hóa những yếu tố văn hóa mới tiếp thu được từ cộng đồng khác làm phong phú
thêm cho văn hóa của cộng đồng mình.[125 – tr. 18, 22].
Ở Việt Nam, xứ Thanh được nhiều nhà nghiên cứu xem như một tiểu vùng
văn hóa lịch sử vừa hoàn chỉnh, biệt lập tương đối lại vừa trung gian, chuyển tiếp