HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC
BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
Lĩnh vực: CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ VÀ CÔNG CHỨNG CÁC HỢP ĐỒNG GIAO
DỊCH KHÁC
Họ và tên:
Sinh ngày:
SBD:
Lớp đào tạo nghiệp vụ công chứng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
NỘI DUNG BÁO CÁO
2
I.
2
So sánh phụ lục hợp đồng và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
1.1.
Quy định pháp luật về phụ lục hợp đồng
2
1.2.
Quy định pháp luật về văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
3
1.3.
Những điểm tương đồng và khác biệt của phụ lục hợp đồng và văn bản sửa
đổi, bổ sung hợp đồng
4
II.
Những vấn đề cần lưu ý khi công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
6
2.1.
Các yêu cầu, điều kiện cần lưu ý khi thực hiện công chứng văn bản sửa đổi,
bổ sung hợp đồng
7
2.2.
III.
Trình tự, thủ tục cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch
10
Thực tiễn công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
13
3.1.
Những mặt đạt được
13
3.2.
Những mặt hạn chế
14
IV. Kiến nghị giải pháp hồn thiện pháp luật về cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ
sung hợp đồng
17
4.1.
Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về công chứng văn bản sửa đổi, bổ
sung hợp đồng.
17
4.2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch
nói chung.
18
KẾT LUẬN
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
20
MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế trên
nhiều lĩnh vực khác nhau của nước ta, trong đó hội nhập về kinh tế diễn ra mạnh mẽ và
sâu rộng nhất, song hành cùng sự phát triển và hội nhập của đất nước là sự gia tăng các
giao dịch dân sự. Có thể nói giao dịch dân sự chính là phương tiện pháp lý quan trọng
trong giao lưu dân sự nhằm đáp ứng những nhu cầu quan trọng trong việc chuyển dịch
tài sản và cung ứng dịch vụ. Xuất phát từ tầm quan trọng của giao dịch dân sự, Bộ luật
dân sự 2015 đã quy định cụ thể, chi tiết và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực
hiện sửa đổi bổ sung, chấm dứt giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng.
Việc này đã tạo cơ sở cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật cho các chủ thể khi
tham gia giao kết hợp đồng, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc áp
dụng pháp luật của công chứng viên trong hoạt động hành nghề.
Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể
nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự do, tự
nguyện, bình đẳng. Tự do ý chí ln được xác định là nguyên tắc cốt lõi của giao kết,
thực hiện, thay đổi, chấm dứt hợp đồng. Quyền tự do thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung
hợp đồng đã giao kết trong quá trình thực hiện hợp đồng là sự khẳng định quyền trọn
vẹn của các chủ thể trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Quy định này có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tôn trọng sự quyết định ý chí của các bên trong
q trình thực hiện hợp đồng, có thể là quyết định thay đổi một phần hợp đồng, hoặc
quyết định chấm dứt hợp đồng khi ý chí của cả hai bên trong hợp đồng muốn thay đổi,
bổ sung hợp đồng đã ký kết. Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng
ban đầu. Quy định này được hiểu là nếu hợp đồng bằng văn bản thì việc sửa đổi cũng
phải được làm thành văn bản. Đồng thời trường hợp hợp đồng đã được cơng chứng,
chứng thực thì việc sửa đổi cũng phải được công chứng, chứng thực.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động công chứng và sự cần thiết của
việc đảm bảo hoạt động công chứng diễn ra một cách minh bạch, khách quan, bên
cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng viên, tổ chức hành
nghề công chứng, việc hành nghề công chứng, quản lý nhà nước về cơng chứng..., nhà
nước cịn chú trọng xây dựng các quy định về quy trình cơng chứng hợp đồng giao
dịch nói chung và quy định về quy trình cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp
1
đồng, giao dịch. Có thể ví quy trình trên như phần khung của cuốn cẩm nang hành
nghề của công chứng viên. Công chứng viên khi thực hiện hoạt động công chứng văn
bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch bắt buộc phải tuân thủ một cách nghiêm
ngặt, chặt chẽ theo quy định của pháp luật về quy trình. Nếu có sai phạm, cơng chứng
viên sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật, văn bản công chứng có thể bị
tun vơ hiệu. Vì thế khơng thể xem nhẹ vai trò của việc nghiên cứu về quy trình cơng
chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch của cơng chứng viên từ góc độ
pháp luật cũng như thực tiễn. Đây chính là động lực thơi thúc tác giả nghiên cứu và
viết báo cáo về đề tài: So sánh phụ lục hợp đồng và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp
đồng. Hãy nêu những vấn đề cần lưu ý khi công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung
hợp đồng
Thực tế văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng giao dịch thường dễ bị nhầm lẫn
với phụ lục hợp đồng. Do đó từ việc phân tích những điểm tương đồng và khác biệt
của văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng giao dịch và phụ lục hợp đồng, cũng như quy
định về quy trình cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng giao dịch, tác giả rút
ra những vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong q trình cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ
sung hợp đồng giao dịch. Bên cạnh đó, bằng góc nhìn toàn diện về những ưu điểm
cũng như những hạn chế, bất cập của các quy định về quy trình cơng chứng chứng văn
bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng giao dịch nói riêng và quy trình cơng chứng hợp đồng,
giao dịch nói chung, báo cáo đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy định pháp
luật về quy trình công chứng, giải quyết những vấn đề bất cập trong việc áp dụng các
quy định trên trong thực tiễn.
NỘI DUNG BÁO CÁO
I.
So sánh phụ lục hợp đồng và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
I.1. Quy định pháp luật về phụ lục hợp đồng
Thực tế có nhiều trường hợp để đảm bảo được tính chặt chẽ và đảm bảo
quyền, lợi ích của các bên tham gia; đơi khi các điều khoản quy định trong hợp đồng
rất cần sự chi tiết đồng nghĩa với việc nội dung của hợp đồng sẽ rất dài và phức tạp.
Trong khi đó, các điều khoản hình thành nên hợp đồng cần ngắn gọn, dễ hiểu, chứa
đựng thông tin cần thiết để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng đạt hiệu quả. Do vậy,
thay vì lập một bản hợp đồng chứa đựng quá nhiều nội dung dài dòng, người lập hợp
2
đồng thường lựa chọn phương pháp làm một bản hợp đồng ngắn gọn, rõ ràng quy định
một cách đầy đủ và đúng ý chí và thỏa thuận của các bên sau đó Phụ lục hợp đồng sẽ
đóng vai trị là một phần của hợp đồng để giải thích và quy định điều khoản một cách
chi tiết và giải thích rõ các từ ngữ khó hiểu nhằm tránh hiểu nhầm ý nghĩa. Chẳng hạn
như kèm theo hợp đồng thuê nhà là phụ lục mô tả loại, số lượng, chất lượng tài sản
hiện có trong ngơi nhà cho th.
Quy định về phụ lục hợp đồng được ghi nhận tại Bộ luật dân sự 2015. Cụ thể
Điều 403 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về Phụ lục hợp đồng:
“1. Hợp đồng có thể có phụ lục kèm theo để quy định chi tiết một số điều
khoản của hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của phụ
lục hợp đồng không được trái với nội dung của hợp đồng.
2.
Trường hợp phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với nội dung của điều
khoản trong hợp đồng thì điều khoản này khơng có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác. Trường hợp các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với
điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được sửa
đổi.”
Đồng thời, Khoản 6 Điều 2 Nghị định 37/2015/NĐ-CP hướng dẫn về hợp
đồng xây dựng có đưa ra định nghĩa “Phụ lục của hợp đồng xây dựng là tài liệu kèm
theo hợp đồng xây dựng để quy định chi tiết, làm rõ, sửa đổi, bổ sung một số điều
khoản của hợp đồng xây dựng.” Tuy nhiên chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào
đưa ra khái niệm chung về Phụ lục hợp đồng.
Rà soát các quy định pháp luật về phụ lục hợp đồng, có thể thấy nếu như hợp
đồng “là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ” thì phụ lục hợp đồng là văn bản đi kèm theo hợp đồng quy định chi tiết một
số điều khoản đã được ghi nhận trong hợp đồng. Bên cạnh đó, nội dung phụ lục hợp
đồng cũng có thể ghi nhận việc sửa đổi, bổ sung điều khoản trong hợp đồng theo quy
định pháp luật. Cụ thể Trường hợp Phụ lục Hợp đồng có điều khoản trái với nội dung
của điều khoản trong hợp đồng mà các Bên chấp thuận nội dung đó thì coi như Hợp
đồng đã được sửa đổi. Tuy nhiên điều khoản này không được trái với quy định của
pháp luật, không được trái đạo đức xã hội. Đồng thời theo quy định tại Điều 22 Bộ luật
Lao động 2019, phụ lục hợp đồng lao động quy định chi tiết một số điều khoản hoặc
3
để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. Trường hợp phụ lục hợp đồng lao động dùng
để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động thì phải ghi rõ nội dung những điều khoản sửa
đổi, bổ sung và thời điểm có hiệu lực.
I.2. Quy định pháp luật về văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
Tuy hợp đồng được thiết lập có giá trị ràng buộc đối với các bên, nhưng hiệu
lực của hợp đồng không phải là bất biến, mà có thể thay đổi khi có căn cứ pháp lý. Sự
thay đổi đó có thể là sửa đổi hoặc bổ sung thêm các điều khoản, nội dung mới vào hợp
đồng. Ví dụ: Các bên có thể sửa đổi, bổ sung các nội dung cụ thể, như về giá cả (nâng
giá cho thuê nhà), thay đổi về đối tượng, chất lượng của hàng hóa, u cầu của cơng
việc, kéo dài thời hạn hợp đồng, và các thay đổi khác...
Theo Đại Từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý do Nhà xuất bản Văn
hố - Thơng tin xuất bản năm 1998 thì “Sửa đổi là sửa chữa, thêm bớt cho phù hợp
với yêu cầu mới”.Theo đó, việc sửa đổi không chỉ là sửa chữa những nội dung đã
được quy định hoặc thoả thuận mà đồng thời có thể thỏa thuận bổ sung (thêm) hoặc
bớt đi những nội dung cho phù hợp với yêu cầu mới. Còn bổ sung là thêm vào cho đủ.
Như vậy, sửa đổi hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên để điều chỉnh một
phần nội dung hợp đồng đã được giao kết, bằng cách đưa ra một số điều khoản mới
phù hợp với lợi ích của các bên, để thay cho các điều khoản cũ đã bị bãi bỏ. Bổ sung
hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm đưa thêm vào hợp đồng đã được giao
kết một số điều khoản mới nhằm làm cho hợp đồng trở nên rõ ràng, cụ thể, đầy đủ,
hoặc trở nên phù hợp hơn với nguyện vọng và lợi ích của các bên. Việc sửa đổi, bổ
sung hợp đồng phải đúng thẩm quyền và phải đúng trình tự, thủ tục nhất định theo
quy định của pháp luật.
Bộ luật Dân sự 2015, Điều 421 quy định: “1. Các bên có thể thỏa thuận sửa
đổi hợp đồng... 3. Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban
đầu”. Ngồi việc tn thủ đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền khi sửa đổi hợp đồng,
giao dịch các bên cịn phải tn thủ về mặt hình thức theo quy định của pháp luật.
Hình thức đó có thể phải là bằng văn bản, có thể phải được cơng chứng, chứng thực,
có thể phải đăng ký hoặc có thể bao gồm tất cả các hình thức trên.
4
Mặc dù sửa đổi hợp đồng là một trong các quyền của các bên trong hợp đồng,
nhưng quyền này bị giới hạn bởi quy định của pháp luật trong một số trường hợp nhất
định. Tức là, trong một số’ trường hợp, các bên không được sửa đổi hợp đồng. Cụ thể
theo quy định tại Điều 417 Bộ luật Dân sự 2015: “Khi người thứ ba đã đồng ý hưởng
lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực hiện,’ các bên giao kết hợp đồng cũng không
được sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý”.
Trong một số trường hợp, việc sửa đổi hợp đồng không dựa trên sự thỏa thuận
của các bên mà do pháp luật quy định. Tuy nhiên, việc sửa đổi hợp đồng trong trường
hợp này chỉ được thực hiện khi có những điều kiện nhất định. Cụ thể theo quy định tại
Điều 420 Bộ luật Dân sự 2015, việc sửa đổi hợp đồng được thực hiện khi có các điều
kiện sau:
(i) Hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi theo quy định tại khoản 1 Điều
420;
(ii) Một bên bị ảnh hưởng đến lợi ích do hồn cảnh thay đổi;
(iii) Các bên không thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời
hạn hợp lý. Trong trường hợp này, việc sửa đổi hợp đồng do Tòa án thực hiện mà
không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
I.3. Những điểm tương đồng và khác biệt của phụ lục hợp đồng và văn
bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
Về những điểm tương đồng, có thể thấy phụ lục hợp đồng và văn bản sửa đổi,
bổ sung hợp đồng đều có thể được lập sau khi hợp đồng đã giao kết và có hiệu lực như
hợp đồng, các bên tham gia ký kết hợp đồng khơng những chỉ có nghĩa vụ phải thực
hiện đúng nội dung hợp đồng đã ký kết, mà còn phải thực hiện đúng các nội dung
được thể hiện trong bản phụ lục của hợp đồng và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
đã giao kết.
Đồng thời, có những lúc nội dung của phụ lục trùng với nội dung của văn bản
sửa đổi. Cụ thể trong văn bản sửa đổi, bổ sung, các bên có thể thỏa thuận khác hoặc
trái với nội dung của hợp đồng, giao dịch nhưng nội dung thỏa thuận bổ sung, sửa đổi
đó vẫn có hiệu lực. Đối với phụ lục hợp đồng, trong trường hợp nội dung của phụ lục
5
trái với nội dung của hợp đồng mà các bên chấp nhận nội dung trái đó thì điều khoản
đó được coi là điều khoản sửa đổi nội dung của hợp đồng.
Trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, có cơng chứng, chứng thực,
phải đăng ký,… thì phụ lục hợp đồng và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng cũng phải
công chứng, chứng thực, đăng ký,…giống như hợp đồng;
Bên cạnh đó, đối tượng tham gia ký kết phụ lục hợp đồng và văn bản sửa đổi,
bổ sung hợp đồng đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu
lực và các quy định khác có liên quan:
– Các bên tham gia ký kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, dựa trên
ngun tắc tự nguyện, thỏa thuận, khơng có hành vi ép buộc, lừa dối;
– Người ký phải đúng thẩm quyền, phạm vi.
Về những điểm khác biệt của phụ lục hợp đồng và văn bản sửa đổi, bổ sung
hợp đồng, có thể xét trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt bản chất: phụ lục hợp đồng và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp
đồng có bản chất hồn tồn khác nhau.
Sửa đổi hợp đồng dân sự là việc các bên đã tham gia giao kết hợp đồng bằng ý
chí tự nguyện của mình thỏa thuận với nhau để phủ nhận ( làm thay đổi) một số điều
khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết.
Sau khi hợp đồng đã được sửa đổi, các bên thực hiện hợp đồng theo những
phần không bị sửa đổi trong nội dung của hợp đồng trước đó cùng với những nội dung
mới được sửa đổi đồng thời, cùng nhau giải quyết những hậu quả khác của việc sửa
đổi hợp đồng.1
Bản chất của Phụ lục Hợp đồng là mô tả, diễn giải, liệt kê mang tính làm rõ,
chi tiết hóa của một vài điều khoản Hợp đồng. Do đó, phụ lục hợp đồng khơng phải là
một văn bản mang hàm ý để thay đổi, bổ sung nội dung Hợp đồng chính như văn bản
sửa đổi, bổ sung hợp đồng. Cho nên, khi muốn sửa đổi, bổ sung Hợp đồng đã ký, mà
lại đi soạn Phụ lục Hợp đồng là không chuẩn xác, là sai về mặt hình thức pháp lý.
1
Luật Lawkey, “Sửa đổi và chấm dứt hợp đồng dân sự theo quy định hiện nay” truy cập ngày 27/11/2021
6
Khoản 1 Điều 403 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định rất rõ: Nội dung của Phụ
lục Hợp đồng khơng được trái nội dung Hợp đồng. Do đó, nếu Phụ lục Hợp đồng có
nội dung trái với Hợp đồng thì nó khơng có giá trị pháp lý. Mặc dù Khoản 2 Điều 403
Bộ luật Dân sự 2015 có quy định “Chữa cháy” giúp cho các Bên rằng: Trường hợp
các Bên chấp thuận nội dung của Phụ lục Hợp đồng, có nội dung trái với Hợp đồng,
thì coi như Hợp đồng đã được sửa đổi.
Cũng chính vì vậy so với việc lập văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, việc sử
dụng phụ lục để sửa đổi các nội dung của hợp đồng có một rủi ro pháp lý vơ cùng lớn,
đó là nội dung trái với hợp đồng của phụ lục hợp đồng chỉ có giá trị như điều khoản
sửa đổi hợp đồng khi các Bên cùng bày tỏ ý chí chấp thuận nội dung trái với hợp đồng
đó. Như vậy khi có tranh chấp, một Bên họ có thể khơng chấp nhận nội dung trái với
hợp đồng đó, và Chúng ta khơng thể lý giải suy đốn rằng: Vì Họ đã ký Phụ lục,
đương nhiên họ chấp nhận, bởi Họ có thể phản biện rằng: Họ khơng biết, không nhận
ra như thế là trái. Hơn nữa theo cách hành văn của Điều 403 thì tinh thần của Nhà làm
luật phải được hiểu: Phụ lục Hợp đồng nếu trái Hợp đồng là khơng có hiệu lực. Trừ
khi có sự chấp thuận của các bên. Như vậy cái gọi là chấp thuận này phát sinh sau. 2
Thứ hai, về thời điểm xác lập:
Các bên có thể thỏa thuận xác lập phụ lục hợp đồng trong quá trình giao kết
hợp đồng, hoặc sau khi hợp đồng đã có hiệu lực mà nhận thấy có những điều khoản
trong hợp đồng cần được làm rõ, giải thích, quy định chi tiết nhằm đảm bảo việc thực
hiện hợp đồng. Khác với phụ lục hợp đồng, việc sửa đổi bổ sung hợp đồng chỉ được
tiến hành khi hợp đồng đã có hiệu lực. Nếu hợp đồng chưa có hiệu lực thì khơng coi là
sửa đổi, bổ sung hợp đồng mà chỉ là quá trình các bên thay đổi các nội dung thỏa
thuận trong quá trình giao kết hợp đồng.
Thứ ba, về hậu quả pháp lý:
Sau khi các bên đã giao kết văn bản sửa đổi bổ sung hợp đồng, phần nội dung
hợp đồng bị sửa đổi khơng cịn giá trị pháp lý. Các điều khoản mới có hiệu lực thay
thế cho các điều khoản đã bị sửa đổi.
2
“Phân biệt: hợp đồng phụ - phụ lục hợp đồng - hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng!”
Truy cập ngày 27/11/2021
7
Còn phụ lục hợp đồng là văn bản đi kèm theo hợp đồng có chức năng quy
định chi tiết một số điều khoản đã được ghi nhận trong hợp đồng hoặc có chức năng
quy định việc sửa đổi, bổ sung điều khoản trong hợp đồng mà các bên cùng thống nhất
ý chí thỏa thuận nhưng khơng trái với quy định của pháp luật. Chỉ trong trường hợp
các Bên chấp thuận nội dung của Phụ lục Hợp đồng, có nội dung trái với Hợp đồng,
thì coi như Hợp đồng đã được sửa đổi, phần nội dung hợp đồng bị sửa đổi mới khơng
cịn giá trị pháp lý.
II.
Những vấn đề cần lưu ý khi công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung
hợp đồng
II.1. Các yêu cầu, điều kiện cần lưu ý khi thực hiện công chứng văn bản
sửa đổi, bổ sung hợp đồng
Điều 51 Luật Cơng chứng 2014 đã quy định trình tự, thủ tục của việc công
chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch như sau:
“1. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được
cơng chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả
những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó;
2. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được
công chứng được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc cơng
chứng đó và do cơng chứng viên tiến hành. Trường hợp tổ chức hành nghề công
chứng đã thực hiện việc công chứng chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng
hoặc giải thể thì cơng chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ
sơ công chứng thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch;
3. Thủ tục công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã
được công chứng được thực hiện như thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch quy
định tại Chương này” .
Theo quy định này, việc công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung phải bảo đảm
các điều kiện sau:
(1) Hợp đồng, giao dịch đã được cơng chứng và cịn hiệu lực: Các chủ thể chỉ
thực hiện công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng khi và chỉ khi hợp đồng,
giao dịch đã được công chứng. Đồng thời hợp đồng, giao dịch phải còn hiệu lực pháp
8
luật, nếu hợp đồng, giao dịch đã hết hiệu lực hoặc bị tun vơ hiệu thì các bên khơng
được thoả thuận văn bản sửa đổi, bổ sung.
Đối với hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật phải tuân thủ hình
thức đăng ký theo quy định pháp luật thì các bên có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung
ngay sau khi được công chứng hoặc sau khi đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền
(Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, Hợp đồng mua bán nhà
ở, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất…). Tuy nhiên, tùy từng trường hợp
và nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể mà pháp luật quy định việc các bên có phải tiến
hành đăng ký thay đổi hay không. Chẳng hạn Khoản 6, Điều 18 Nghị định số
102/2017/NĐ-CP ngày 1/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm quy
định, trường hợp phải đăng ký thay đổi nội dung thế chấp đã đăng ký là: Bổ sung
nghĩa vụ được bảo đảm mà trong hợp đồng bảo đảm ban đầu các bên khơng có thỏa
thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm cho các nghĩa vụ phát sinh trong
tương lai.
Khoản 3, Điều 23 Nghị định này quy định, các bên không phải thực hiện đăng
ký thay đổi đối với trường hợp bổ sung nghĩa vụ được bảo đảm, nếu đáp ứng đủ các
điều kiện sau đây:
- Trong hợp đồng bảo đảm hoặc hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm đã đăng
ký có điều khoản về việc cầm cố, thế chấp tài sản bảo đảm cho các nghĩa vụ sẽ phát
sinh trong tương lai;
- Bổ sung nghĩa vụ được bảo đảm nhưng không bổ sung tài sản bảo đảm;
- Các bên chỉ ký kết hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm đã đăng ký
hoặc sửa đổi hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm mà không ký kết hợp đồng bảo đảm
mới.
(2) Phải có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã
tham gia hợp đồng, giao dịch đó: Điều này hồn tồn phù hợp với nguyên tắc giao kết
hợp đồng. Luật Công chứng 2014 không đưa ra khái niệm về người tham gia hợp
đồng, giao dịch nhưng xuyên suốt các quy định của Luật này và các quy định khác
liên quan thì chúng ta có thể hiểu người tham gia hợp đồng, giao dịch là người yêu
cầu công chứng và trong những trường hợp cụ thể thì có thể sẽ bao gồm cả người làm
chứng, người phiên dịch, người đại diện (trong trường hợp hợp đồng, giao dịch cần có
người làm chứng, người phiên dịch hoặc người đại diện).
9
Như vậy, đối với hợp đồng, giao dịch đã được cơng chứng mà có sự tham gia
của người làm chứng, người phiên dịch, người đại diện thì khi cơng chứng văn bản
sửa đổi, bổ sung cũng phải có sự tham gia của những người này. Tuy nhiên, công
chứng viên không nên áp dụng pháp luật một cách cứng ngắc, trong mọi trường hợp
đều bắt buộc phải có sự có mặt của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao
dịch đó. Bởi khơng phải trong mọi trường hợp khi sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao
dịch đều phải có sự tham gia của tất cả những người này. Thực tế có nhiều trường hợp
tại thời điểm cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch, xét về phương
diện chủ thể đã đủ điều kiện để tự mình giao kết mà khơng cần phải có sự tham gia
chứng kiến của người làm chứng hoặc sự tham gia của người phiên dịch hay người đại
diện nữa. Chẳng hạn tại thời điểm công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng,
giao dịch, người yêu cầu công chứng đã có thể tự ký được, hay người u cầu cơng
chứng đã đủ 18 tuổi.
Đồng thời trong nhiều trường hợp ngay cả đối với người yêu cầu công chứng,
không phải lúc nào họ cũng có thể trực tiếp tham gia vào văn bản sửa đổi, bổ sung
hợp đồng, giao dịch được. Theo quy định của pháp luật hiện hành, họ hoàn tồn có thể
thực hiện việc ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia giao kết văn bản sửa
đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch. Đối với những người tham gia hợp đồng, giao dịch
mà không phải là người yêu cầu công chứng (người làm chứng, người phiên dịch,
người đại diện) thì những người này hồn tồn có thể bị thay đổi do đã chết, do khơng
cịn đủ điều kiện làm người làm chứng, người phiên dịch, người đại diện… Như vậy,
rất khó để bắt buộc phải chính những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch tham gia
vào văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch được. Tương tự như vậy, quy định
này cũng không phù hợp đối với trường hợp người tham gia hợp đồng, giao dịch là
người đại diện của pháp nhân, tổ chức vì những người này hồn tồn có thể được thay
thế bằng người đại diện khác.
(3) Do công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện công
chứng hợp đồng, giao dịch đó hoặc nơi lưu trữ hồ sơ công chứng trong trường hợp tổ
chức hành nghề công chứng chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc
giải thể. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Luật Công chứng 2014, tổ chức hành
nghề công chứng đã chứng nhận hợp đồng, giao dịch mà vẫn còn hoạt động thì bất kỳ
cơng chứng viên nào của tổ chức hành nghề cơng chứng đó đều được phép chứng
10
nhận văn bản sửa đổi, bổ sung mà không cần phải chính cơng chứng viên đã chứng
nhận hợp đồng, giao dịch đó. Trong trường hợp tổ chức hành nghề cơng chứng đã
chứng nhận hợp đồng, giao dịch bị chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng
hoặc giải thể thì bất kỳ công chứng viên nào của tổ chức hành nghề công chứng đang
lưu trữ hồ sơ công chứng sẽ thực hiện chứng nhận văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng,
giao dịch.
(4) Đối với các hợp đồng bảo đảm cho nghĩa vụ của người thứ ba, việc sửa
đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm, ngoài sự thỏa thuận của bên bảo đảm và bên nhận
bảo đảm thì cịn phải được sự đồng ý của bên được bảo đảm (người thứ ba) theo quy
định tại Điều 417 Bộ luật Dân sự 2015: “Khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi thì dù
hợp đồng chưa được thực hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi
hoặc hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý”.
Đúng ra, việc đồng ý của người thứ ba chỉ cần thiết trong trường hợp lợi ích
của người đó bị giảm sút, cịn đối với hợp đồng bảo đảm, thì lợi ích của người nhận
bảo đảm mối là quyết định. Nhưng vì xu thế tuyệt đối hố theo logic hợp đồng chung,
nên vẫn buộc phải cân nhắc thực hiện những quy định không hợp lý, giống như việc
một người tham gia với hai tư cách trong một hợp đồng bảo đảm.3
(5) Việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng tuân thủ các quy định của pháp luật về
điều kiện có hiệu lực và các quy định khác có liên quan thì hợp đồng được sửa đổi, bổ
sung có giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia. Do đó việc công chứng văn bản
sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch phải đảm bảo tuân thủ các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự:
- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái
đạo đức xã hội;
- Người yêu cầu công chứng phải xuất trình đủ giấy tờ cần thiết liên quan đến
việc cơng chứng và chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của các giấy tờ
đó;
- Điều kiện đối với các bên:
+ Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
3
Lê Thủy Tiên, Quy định của Bộ luật Dân sự về phụ lục và sửa đổi hợp đồng bảo đảm />quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-ve-phu-luc-va-sua-doi-hop-dong-bao-dam.aspx, truy cập ngày 28/11/2021
11
+ Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe
được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy
định thì việc cơng chứng phải có người làm chứng.
+ Trường hợp người u cầu cơng chứng khơng thơng thạo tiếng Việt thì
họ phải có người phiên dịch.
+ Trường hợp giao dịch tài sản của người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự chỉ được thực hiện vì lợi ích của người đó;
- Trong trường hợp sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài
sản mà pháp luật có quy định điều kiện ràng buộc thì phải tn thủ quy định này;
II.2. Trình tự, thủ tục cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng,
giao dịch
Trình tự, thủ tục công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch
được thực hiện theo trình cơng chứng hợp đồng, giao dịch nói chung được quy định
tại Điều 40, 41 Luật Công chứng 2014. Cụ thể khi công chứng văn bản sửa đổi, bổ
sung, công chứng viên phải tiến hành các bước sau:
Bước 1: Tiếp nhận yêu cầu Công chứng.
Đây là giai đoạn đầu tiên của quy trình cơng chứng, việc tiếp nhận u cầu
cơng chứng phải hướng tới mục tiêu xác định chính xác yêu cầu công chứng và kiểm
tra các căn cứ về thẩm quyền công chứng, hồ sơ, chủ thể, nội dung thỏa thuận và các
vấn đề khác có liên quan để tiến hành thủ tục công chứng.
Người yêu cầu công chứng nộp một bộ hồ sơ cho công chứng viên bao gồm:
Phiếu yêu cầu công chứng; Dự thảo văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch;
Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng; Bản sao giấy chứng nhận
quyền sở hữu, sử dụng; Bản sao hợp đồng, giao dịch đã được công chứng; Các giấy tờ
khác liên quan đến hợp đồng, giao dịch và giấy tờ khác liên quan đến văn bản sửa đổi,
bổ sung (khoản 1 Điều 40 Luật Công chứng 2014). Bản sao này là bản chụp, bản in
hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như bản chính và khơng phải chứng
thực (khoản 2 Điều 40 Luật Công chứng 2014). Tuy nhiên, người u cầu cơng chứng
có cần phải nộp đầy đủ các giấy tờ như công chứng hợp đồng, giao dịch hay khơng
cũng cịn đang có nhiều quan điểm trái chiều. Đa số quan điểm cho rằng khi công
chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch người yêu cầu công chứng không
12
nhất thiết phải xuất trình tất cả các giấy tờ đã nộp như Sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận
kết hôn, giấy khai sinh…
Tại bước này, công chứng viên cần lưu ý việc đảm bảo đầy đủ các thông tin
trong phiếu yêu cầu công chứng theo quy định pháp luật bởi điều này rất cần thiết,
giúp hạn chế việc người yêu cầu công chứng khiếu nại, khiếu kiện cũng như giúp cho
việc thanh tra (nếu có) được thực hiện một cách thuận lợi.
Bước 2: Kiểm tra, nghiên cứu, xử lý hồ sơ
Trong thủ tục, trình tự cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao
dịch nói riêng và cơng chứng hợp đồng, giao dịch nói chung, việc tiếp nhận hồ sơ, thụ
lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ và xử lý hồ sơ rất quan trọng, các bước tác nghiệp này cần
có nhận định chính xác. Do vậy cơng chứng vận dụng kết hợp các kỹ năng nghề
nghiệp như kỹ năng nhận dạng chủ thể, xác minh nhân thân người yêu cầu công
chứng, xác định năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng, xác minh đối
tượng hợp đồng là có thật, nhận dạng chữ ký, chữ viết, con dấu trong văn bản, kỹ
năng tư vấn, giải quyết hồ sơ...…để nhận biết được tính đầy đủ và các vấn đề khác
trong hồ sơ. Công chứng viên tiến hành kiểm tra, đánh giá tính đầy đủ, logic, tính
thống nhất, tính hợp pháp của giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ yêu cầu công chứng văn bản
sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch.
Cùng với việc nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ yêu cầu công
chứng, công chứng viên bằng những kỹ năng nghiệp vụ của mình, thực hiện biện pháp
trao đổi với các bên tham gia giao dịch để xác minh được ý chí của họ khi tham gia
giao dịch, năng lực hành vi dân sự của các bên cũng như đối tượng mà hợp đồng giao
dịch hướng tới. Trong quy trình cơng chứng, việc xác minh là một trong những hoạt
động nghiệp vụ quan trọng của Công chứng viên trong việc chứng nhận các hợp đồng,
giao dịch đúng quy định của pháp luật. Trong trường hợp cơng chứng viên nhận thấy
có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép,
có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối
tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mơ tả cụ thể thì cơng chứng viên đề nghị
người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng,
Công chứng viên tiến hành xác minh để bảo đảm được an toàn pháp lý cao cho văn
bản công chứng. Xác minh trong hoạt động công chứng là xem xét những sự việc có
13
thật liên quan tới nội dung cần công chứng để làm căn cứ đánh giá, kết luận cho hành
vi công chứng của Công chứng viên đúng quy định. Việc xác minh là để làm rõ tính
xác thực của nội dung hợp đồng, giao dịch mà cá nhân, tổ chức yêu cầu công chứng
nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, bảo đảm hành lang pháp lý an toàn, ngăn ngừa
các tranh chấp xảy ra.
Công chứng viên cần hướng dẫn người yêu cầu công chứng hiểu rõ và tuân
thủ đúng các quy định pháp luật có liên quan đến việc cơng chứng văn bản sửa đổi, bổ
sung hợp đồng, giao dịch; Giải thích cho người u cầu cơng chứng hiểu rõ quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng.
Bước 3: Soạn thảo văn bản thỏa thuận theo yêu cầu của người yêu cầu
công chứng.
Trường hợp văn bản sửa đổi, bổ sung đã được người yêu cầu công chứng soạn
thảo sẵn: Công chứng viên kiểm tra dự thảo văn bản, nếu trong dự thảo văn bản sửa
đổi, bổ sung có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, nội dung của văn
bản không phù hợp quy định của pháp luật, Công chứng viên phải chỉ rõ cho người
yêu cầu công chứng để sửa chữa. Nếu người yêu cầu cơng chứng khơng sửa chữa thì
Cơng chứng viên có quyền từ chối công chứng;
Trường hợp văn bản do Công chứng viên soạn thảo theo đề nghị của người
yêu cầu công chứng: nội dung, ý định giao kết văn bản sửa đổi, bổ sung là xác thực,
không vi phạm pháp luật, khơng trái đạo đức xã hội thì Cơng chứng viên soạn thảo
văn bản sửa đổi, bổ sung; Văn bản sửa đổi, bổ sung cũng phải bảo đảm các yêu cầu về
mặt hình thức, thể thức văn bản theo quy định của pháp luật. Khi soạn thảo văn bản
sửa đổi, bổ sung, công chứng viên cần lưu ý việc dẫn chiếu các điều khoản của hợp
đồng, giao dịch đã ký kết cần phải sửa đổi, bổ sung. Trong văn bản sửa đổi, bổ sung,
cơng chứng viên có thể trích dẫn lại điều khoản đã quy định trong hợp đồng, giao dịch
hoặc khơng trích dẫn nhưng phải ghi rõ là được sửa đổi hay bổ sung điểm, khoản,
điều nào của hợp đồng, giao dịch. Văn bản sửa đổi, bổ sung có từ hai trang trở lên thì
từng trang cũng phải được đánh số thứ tự theo quy định Điều 49 Luật Công chứng
2014.
Bước 4: Ký công chứng
14
Sau khi hoàn thành việc soạn thảo/ kiểm tra dự thảo văn bản sửa đổi, bổ sung,
công chứng viên cung cấp bản dự thảo này cho người yêu cầu công chứng tự đọc lại
hoặc công chứng viên đọc cho người yêu cầu công chứng nghe theo đề nghị của người
yêu cầu công chứng (khoản 7 Điều 40 Luật Công chứng 2014). Trường hợp người yêu
cầu công chứng không đọc được thì phải có người làm chứng. Người làm chứng phải
bảo đảm các điều kiện được quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật Cơng chứng 2014.
Ngồi ra, trong một số trường hợp cụ thể người làm chứng còn phải tuân thủ điều kiện
về người làm chứng tại các văn bản pháp luật khác, chẳng hạn quy định tại Điều 632
Bộ luật Dân sự 2015 về người làm chứng trong việc lập di chúc. Đối với trường hợp
có người làm chứng, công chứng viên là người đọc hoặc người làm chứng đọc cho
người yêu cầu công chứng nghe.
Đối với trường hợp người u cầu cơng chứng khơng thơng thạo tiếng Việt
thì phải có người phiên dịch. Người phiên dịch phải đáp ứng điều kiện được quy định
lại khoản 3 Điều 47 Luật Công chứng 2014. Người phiên dịch sẽ là người dịch toàn
bộ nội dung của văn bản sửa đổi, bổ sung cho người yêu cầu công chứng nghe.
Trường hợp Người u cầu cơng chứng đồng ý tồn bộ nội dung trong dự thảo
văn bản sửa đổi, bổ sung thì cơng chứng viên hướng dẫn họ ký vào từng trang của văn
bản sửa đổi, bổ sung (khoản 8 Điều 40 Luật Công chứng 2014), ghi “ tôi đã đọc và
đồng ý” và ký, ghi rõ họ tên, điểm chỉ vào trang cuối cùng của văn bản. Nếu người
yêu cầu công chứng khơng tự ký được thì có thể điểm chỉ hoặc việc điểm chỉ có thể
được thực hiện đồng thời trong việc công chứng sửa đổi, bổ sung di chúc. Đồng thời
theo quy định tại Khoản 3 Điều 48 Luật Công chứng năm 2014, trong trường hợp công
chứng viên nhận thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu cơng chứng thì
cơng chứng viên có thể cho thực hiện điểm chỉ đồng thời với việc ký văn bản cơng
chứng.
Trường hợp có người làm chứng, người đại diện, người phiên dịch thì những
người này cũng phải ký vào văn bản. Luật Công chứng 2014 không quy định rõ người
phiên dịch, người làm chứng phải ký vào từng trang của văn bản cơng chứng. Tuy
nhiên nếu phân tích về địa vị pháp lý, tính chịu trách nhiệm của từng chủ thể thì rõ
ràng người làm chứng, người phiên dịch cũng phải ký vào từng trang của văn bản sửa
đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch.
15
Việc ký từng trang của người đại diện cho doanh nghiệp, tổ chức: Một thực tế
hiện nay, các văn bản có doanh nghiệp, tổ chức tham gia thường chỉ được người đại
diện cho doanh nghiệp, tổ chức ký vào trang cuối của văn bản, còn việc ký vào từng
trang sẽ do những người khác ký hoặc văn bản chỉ đóng dấu giáp lai (phổ biến là bên
nhận thế chấp, cầm cố trong các hợp đồng thế chấp, cầm cố), điều này không phù hợp
với quy định của Luật Công chứng. Cụ thể theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật
Cơng chứng 2014 thì người đại diện cho tổ chức là người yêu cầu công chứng. Khoản
1 Điều 48 cũng quy định: “…Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp
đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức
hành nghề cơng chứng thì người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên
phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc
công chứng”. Như vậy, việc ký từng trang văn bản công chứng là bắt buộc và phải do
người có thẩm quyền ký (đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền của tổ
chức, pháp nhân, doanh nghiệp) chứ khơng được đóng dấu giáp lai thay cho việc ký
từng trang hoặc do người khác không phải là người đại diện ký. Do đó, cơng chứng
viên cần lưu ý vấn đề này để đảm bảo về mặt hình thức của văn bản công chứng, tránh
việc giá trị pháp lý của văn bản công chứng không được đảm bảo.
Tiếp đó, Cơng chứng viên u cầu người u cầu cơng chứng xuất trình bản
chính của các giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng để đối chiếu trước khi ghi lời
chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch và chuyển bộ phận thu phí của tổ
chức hành nghề công chứng.
III.
Thực tiễn công chứng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng
III.1. Những mặt đạt được
Sau hơn 7 năm triển khai thi hành, Luật Công chứng năm 2014 được xem là
hành lang pháp lý quan trọng tạo thuận lợi cho công chứng viên thực hiện tốt trách
nhiệm pháp lý đối với văn bản cơng chứng, hồn thành sứ mệnh của một “người gác
cổng cho các hợp đồng, giao dịch”, đảm bảo tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp
đồng giao dịch nói chung và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch nói riêng,
phịng ngừa nguy cơ tranh chấp, đảm bảo an toàn pháp lý của xã hội. Từ đó tạo sự an
tâm cho các chủ thể khi tham gia giao kết, đảm bảo tạo thuận lợi cho các chủ thể trong
việc thực hiện quyền được tự do thỏa thuận thay đổi nội dung hợp đồng trong quá trình
16
thực hiện hợp đồng giao dịch, củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp luật và thể chế
xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Có thể thấy giai đoạn vừa qua, các lĩnh vực pháp luật có liên quan đến hoạt
động công chứng, đặc biệt là lĩnh vực dân sự, hơn nhân và gia đình, đất đai, hộ tịch,
nhà ở... khơng ngừng được hồn thiện để kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh
trên thực tiễn. Điều này đã tạo tiền đề pháp lý vững chắc cho việc triển khai hoạt động
cơng chứng hợp đồng giao dịch nói chung và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao
dịch nói riêng, từ đó hạn chế rủi ro pháp lý, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp
cho các bên trong giao dịch dân sự. Các vướng mắc về thủ tục, trình tự thực hiện các
việc cơng chứng theo quy định của pháp luật từng bước được giải quyết. Việc kiểm tra
và hướng dẫn tập huấn nghiệp vụ cho các công chứng viên được triển khai và từng
bước ổn định. Điều này tạo rất nhiều thuận lợi cho hoạt động công chứng hợp đồng,
giao dịch cũng như hoạt động công chứng hợp đồng văn bản sửa đổi, bổ sung hợp
đồng, giao dịch.
III.2. Những mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt đạt được, từ phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy
các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng hợp đồng văn bản sửa đổi,
bổ sung hợp đồng, giao dịch còn nhiều bất cập, dẫn đến việc áp dụng trong thực tế gặp
nhiều khó khăn, cụ thể:
Thứ nhất, tên tiêu đề và nội hàm Điều 51 Luật Công chứng quy định “công
chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch” là chưa tương thích với quy
định tại Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2015. Bộ luật Dân sự 2015 chỉ quy định sửa
đổi, chấm dứt hợp đồng, theo đó Bộ luật Dân sự không quy định “bổ sung hợp đồng”
bởi xét nội hàm nghĩa của từ “sửa đổi” đã bao gồm việc “bổ sung”. Do đó, quy định tại
Điều 51 Luật Công chứng rõ ràng chưa phù hợp với Bộ luật Dân sự 2015.
Thứ hai, Luật Cơng chứng chưa có quy định cụ thể về trường hợp ký kết văn
bản sửa đổi, bổ sung có người làm chứng, người đại diện (người đại diện cho con chưa
thành niên, người giám hộ), người phiên dịch thì những người này có phải ký vào từng
trang của văn bản sửa đổi, bổ sung hay không? Luật Công chứng 2014 không quy định
rõ về vấn đề này. Tại khoản 1 Điều 48 chỉ quy định: “Người yêu cầu công chứng,
người làm chứng, người phiên dịch phải ký vào hợp đồng, giao dịch trước mặt công
17
chứng viên…”. Trong khi khoản 8 Điều 40 cũng chỉ quy định: “Người u cầu cơng
chứng đồng ý tồn bộ nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào từng
trang của hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên u cầu người u cầu cơng chứng
xuất trình bản chính của các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này để đối chiếu trước
khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch”. Hiện có ba quan điểm
về vấn đề này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nếu luật khơng quy định thì những người này
khơng cần phải ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng: Nếu phân tích ở khía cạnh trách nhiệm của
từng người thì chỉ cần người đại diện, người phiên dịch mới phải ký vào từng trang
của văn bản cịn người làm chứng khơng nhất thiết phải ký vào từng trang của văn bản
vì người làm chứng không chịu trách nhiệm về nội dung của văn bản.
Quan điểm thứ ba thì cho rằng: Tất cả những người trên đều phải ký vào từng
trang của văn bản, kể cả người làm chứng vì người làm chứng ở đây tuy không chịu
trách nhiệm về nội dung nhưng lại chịu trách nhiệm về việc ký, điểm chỉ của người
yêu cầu công chứng. Do vậy, người yêu cầu công chứng ký từng trang vào văn bản thì
người làm chứng cũng phải ký vào từng trang để làm chứng cho việc ký từng trang đó
của người u cầu cơng chứng. Đa số hiện nay các ý kiến đều nghiêng về quan điểm
thứ ba.
Thứ ba, trường hợp người yêu cầu công chứng thực hiện việc giao kết văn
bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch thông qua uỷ quyền hiện nay cũng vẫn còn
một số vướng mắc còn tranh cãi do chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể. Thực tế
nhiều trường hợp trong hợp đồng uỷ quyền chỉ có nội dung người được uỷ quyền chỉ
được ký kết hợp đồng, giao dịch mà khơng có nội dung được ký kết các văn bản sửa
đổi, bổ sung của hợp đồng, giao dịch đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu người được uỷ
quyền có được ký kết văn bản sửa đổi, bổ sung hay không? Việc ký kết có vi phạm về
phạm vi đại diện hay khơng?
Có thể thấy hầu như các hợp đồng uỷ quyền không ghi nội dung được ký văn
bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch. Vì vậy, khi tiếp nhận yêu cầu công chứng
trong các trường hợp này, đa số các công chứng viên không chấp nhận cho người được
uỷ quyền ký văn bản sửa đổi, bổ sung. Bởi theo quy định tại Điều 139 Bộ luật Dân sự
18