Tải bản đầy đủ (.pdf) (673 trang)

Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.09 MB, 673 trang )

| sv
200-299

TON
2016
20137547

'ơn giáo nhìn từ viễn

IIIllllllll: ONGDUC
20137847

NiAXUAT BAN HONG BUC


Tién Si DUONG NGOC DUNG

TON GIAO NHINTU VIEN CANH
XA HOI HOC
HA XUAT BAN HONG DUC


Loi Sidi Thiéu
XG mi học tôn giáo (sociology of religion), néu
nhin tit quan điểm xã hội học truyền thống từ Émile

Durkheim

đến Max

Weber,



Pierre Bourdieu,

và Peter

L. Berger, nghién cứu vai trò của tôn giáo đối với các
thực hành xã hội (social practices) trong một bối cảnh

lịch sử cụ thể. Khác với triết học tôn giáo (philosophy of

religion), xã hội học tôn giáo khơng có mục đích đánh
giá các niềm tin tơn giáo là đúng hay sai. Như Berger đã
chỉ ra, phương pháp luận của nhà xã hột học dựa trên

một quan điểm triết học vô thần (methological atheism),

theo nghĩa, nhà nghiên cứu tơn giáo từ góc độ xã hội học

có vị thế hồn tồn trung lập đối với các tơn giáo mà họ

nghiên cứu. Cũng khác với tâm lý học tôn giáo, xã hội
học tôn giáo không tập trung soi sáng các trải nghiệm

_ cá nhân (theo phong cách William James) mà ln ln
nghiên cứu các trải nghiệm đó trong một bối cảnh xã hội

cụ thể. Dương nhiên vẫn có nhà nghiên cứu kết hợp cả hai
phương pháp tiếp cận (như Erich Fromm), tâm lý học và

_ xã hội học (theo tôi, đây là phương pháp nghiên cứu tôn

giáo khả quan nhất), nhưng điểm đặc thù chính của ngành
xã hội học tơn giáo là đặt câu hỏi tại sao một nhóm người
nào đó (chứ khơng phải một cá nhân nào äó) lại thực hiện

một nghỉ lễ nào đó, trong một hồn cảnh lịch sử cụ thể,
mà khơng phải là một nhóm khác, hay một nghỉ lễ khác,
và đâu là các ảnh hưởng của văn hóa, cấu trúc xã hội,

bối cảnh kinh tế đối với các hành vì tơn giáo của nhóm
đó. Xã hội học tôn giáo cũng không hẳn chỉ tập trung

nghiên cứu các giáo phái mà ngay cả các hành vì phi tơn

giáo, phủ nhận hay thậm chí chống đốt tơn giáo cũng có

thể là chả đề nghiên cứu của họ ( sociology of irreligion).
Thử nhìn lướt qua một vài chủ đề chính của ngành xã hội
học tơn giáo:


Việc phân loại thế nào là giáo phái (sect), tông phái
(denomination), tín ngưỡng (cuỈ!).
lịch sử tự tưởng xã hội học tơn giáo: khởi điểm là
các cơng trình của Emile Durkheim, Max Weber, Karl
Marx, cho dén Peter Berger, Thomas Luckmann, Bryan
Wilson, Rodney Stark, Robert Bellah, Christian Smith,
Robert Wuthnow, Meredith McGuire...v...v.

Sự cải đạo (conversion). Những lý do xã hội dẫn đến


sự thay đổi niềm tin tôn giáo.

Sự xuất hiện của các phong trào tôn giáo mới (new
religions)

Thé tuc héa (secularization) va phdn thé tuc héa

(desecularization). Su tdi sinh của cái thiêng (the reemergence of the sacred) ngay giữa lòng những xã hội
văn mình vật chất đến cực điểm.
Chúng tơi biên soạn tập sách nhỏ này nhằm mục tiêu
giúp sinh viên chuyên ngành tơn giáo học có thêm

được một số tư liệu chun ngành xã hội học tơn giáo
để có thể đi sâu hơn vào lãnh vực nghiên cứu tôn giáo.

Rất mong được sự đón nhận nơng nhiệt của các bạn
sinh viên và các đông nghiệp đang giảng dạy cùng một
chuyên ngành.

TS. Dương Ngọc Dũng


Dương Ngọc Dũng

7

CHUONG

1


5% CR

TON GIAO LA Gi?
Trong truyền thống triết học Tây Phương, suy tư về
những vẫn đề tôn giáo gần như chiếm vai trị trung tâm
điểm. Triết học tơn giáo, với tư cách là một chuyên ngành
được giảng dạy trong khoa Triết, là việc phân tích và đánh
giá, từ viễn cảnh triết học, ý nghĩa nhận thức (cognitive
meaning) trong các truyền thống tôn giáo khác nhau, nhưng

trong thực tế, hầu như tắt cả các triết gia tôn giáo tại phương

Tây chỉ tập trung vào Thiên Chua Giao (Christianity).

Những chủ đề mà họ thảo luận xoay quanh sự ton tại của

Thién Chua (the existence of God), nhitng pham chat cia
Ngài, nguồn gốc của su dit (the problem of evil), su bat tir
của linh hén (immortality of the soul), gid tri cha diễn ngôn
t6n gido (validity of religious knowledge claims), quan hé
giữa đức tin và lý tính, khoa học và tơn giáo, đánh giá bản

chất của kinh nghiệm tôn giáo, hàm nghĩa của đa nguyên tôn

giáo (implications of religious pluralism). Nhiing tác phẩm
kinh điển trong truyền thống triết học tôn giảo Tây Phương


8


Ton Gido nhin le viễn, sảnh Xa Hi

Hoc

bao gồm Luận văn về chính trị va than hoc (TheologicoPolitical Treatise, 1670) của Spinoza, Tính hợp lí của Thiên

Chúa Giáo (The Reasonableness oƒ Christianify, 1695)

của John Locke, Thần luận ứi heodiey, ]710) của Lẻibniz, nhưng theo quan điểm của nhiều học giả, triết học tôn giáo
hiện đại thực sự bắt đầu với David Hume, Kant, và Hegel,

đặc biệt là Hume, người đã đây dòng tư duy cắm rễ sâu
trong đức tin Ki Tơ Giáo sang thời kì phân tích triết học
thực sự. Tác phẩm nỗi tiếng của Hume, Lịch sử đích thật
của tôn giáo (The Natuwral History oƒ Religion), phê phán

quyết liệt tất cả mọi tơn giáo dựa trên mặc khải cịn hơn cá
- Marx. Hai tác phẩm khác, Khảo sát sự hiểu biết của con

người (An Enquiry

Concerning

Human

và Những Đối Thọai về Tơn Giáo Tự
Concerning Natural Religion), cũng là
điển trong dịng phát triển của triết học
sinh viên khoa triết nào cũng không thé


Understanding)

Nhiên (Dialogues
hai tác phẩm kinh
tơn giáo mà bất kì
bo qua. Tinh chat

duy nghiệm kiểu Tô Cách Lan (mà chúng ta chứng kiến rõ
nhất trong triết học kinh tế của Adam Smith) của Hume đã
thức tỉnh Kant, triết gia Khai Sáng lỗi lạc nhất của Đức,

khỏi cơn mê ngủ giáo điều thời Trung Cổ.

Có rất nhiều định nghĩa về tơn giáo. Tạm thời chúng ta
khoan bàn đến định nghĩa nỗi tiếng của Marx: “Tôn giáo là
thuốc phiện của quan ching” (Die Religion ist das Opium
des Volkes) ma rat nhiều người hiểu sai ý nghĩa. Trước khi
đưa ra một định nghĩa về tôn giáo được đại đa số mọi người
đồng ý, chúng ta hãy nêu ra những khó khăn trong việc đi
tìm một định nghĩa như thế.


Dương Ngọc Dũng
Khó

9

khăn thứ nhất liên quan đến vấn đề ngôn ngữ.

Ai cũng biết răng “tôn giáo” là một thuật ngữ dịch từ tiếng

Anh

1a “religion.” Nhung “religion” la cai gi thi ngay ca

các triết gia tôn giáo hàng đầu chưa chắc đã hiểu chính

c. “Tơn giáo” là một từ Hán Việt, nghĩa là gốc của nó là

tiếng Hán, nhưng bản thân tiếng Hán trước khi du nhập từ
này từ tiếng Nhật (s##yo), thì khơng hề có từ “tơn giao.”
Chỉ có “tôn” theo nghĩa là “miéu thờ tổ tiên” (Thuyết văn:
tôn, t6 miễu đã) và “giáo” theo nghĩa là “dùng đạo thờ thần
để giáo hóa, dạy dỗ” như trong câu “?hánh nhân dĩ thân

đạo thiết giáo” (thánh nhân dùng đạo thờ thần để giáo hóa
dân chúng).! Nhưng khơng học giả nào dám phủ nhận rằng

Trung Quốc từ xưa khơng có truyền thống tơn giáo đặc thù

của họ. Chí cần nghiên cứu bộ Kinh Dịch thì chúng ta có

thể thấy ngay Trung Quốc cơ đại là một khu vực hịan tịan

do các u tơ tơn giáo chỉ phối. Cịn đó có phải là “tơn giáo

chính thống” theo mẫu thức tư duy hiện đại hay khơng thì
chung ta sé ban sau.

Vay thi “religion” la cai gi?
Không hiểu căn cứ vào đâu, TS. Nguyễn Thị Hiển,

giải thích thuật ngữ này như sau: “Tw religio [sic] có nguồn
gốc từ tiếng La Tỉnh, nghĩa là quyền năng mà con người có
niềm tin và lịng mộ đạo hướng tới. Vào thời kì đầu (trước
thế kỉ thứ V) thuật ngữ religio mang nghĩa là “nhà thờ,”
bao gồm một cộng đồng với các con chiên theo Đức Chúa,
|

“Trác Tân Bình, Lý giải tơn giáo, bản dịch Trần Nghĩa Phương, Nhà Xuất Bản
Hà Nội, 2007, tr. 17.


10

Ton

Gido nhàn lừ viễn cảnh Xa Asi

Hoc

trong đó quan hệ thành viên của cộng đơng xác định tât cả
các khía cạnh đời sông của họ.”?

Trước hệt, hãy bản về nguôn gôc của chữ reiieio mà
TS. Nguyén Thị Hiên vừa dẫn ra trong định nghĩa của mình.
Trước khi đời sống tơn giáo của người La Mã chịu ảnh

hưởng sâu sắc của văn hóa Hi Lạp thì danh từ tiếng La Tỉnh
religio có một ý nghĩa rất cụ thể. Theo một số học giả, religio
chỉ một lọai sức mạnh nằm bên ngòai con người và buộc họ
phải thực hiện một số hành vi nào đó nếu khơng muốn bị


báo óan. Nghĩa thứ hai: ze!jgio cũng dùng để chỉ một vật

kiêng kị.* Nghĩa thứ ba: rel/gio cũng dùng để chỉ cảm xúc
của một người khi gặp phải một sức mạnh như vậy.°
Bản thân ý nghĩa từ nguyên học của thuật ngữ zeligio
cũng đã gây tranh luận vào thời của Cicero khi triết gia

này dẫn lời Balbus, một triết gia theo phái Khắc Kỷ, có
đưa ra một hình dung từ bắt nguồn từ động từ relegere
(=cân thận gom lại) với ý nói răng một người “tôn giáo”

t2

phải cân thận chăm lo cúng tế thần linh. Một tác giả theo
“Nghiên cứu tơn giáo, tín ngưỡng, ở Việt Nam đương đại,” bài viết in trong
tuyển tập Sự biến đối tơn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay (NXB. Thé
Giới, Hà Nội, 2008) tr. 7.

3.

4_
5

W. Warde Fowler, “The Latin History of the Word Re/igio,” trong The Transactions of the Third International Congress for the History of Religions, Ox-ford, tập 2, 1908, tr.169-175.
'

M.Kobbert, De verborum religio atque religiosus usu apud Romanos quaestiones selectae, Koenigsberg, 1910.
Walter F. Otto, “Religio Versuch einer Worterklaerung” in trong 20. Jahresbericht des Bischoeflichen Gymnasiums Paulinum in Schwaz (1952-1953), tr. 2-18)



Dương Ngọc Dũng

|

1

Ki Tô Giáo là Lactantius phản đối quan điểm của Cicero
và lập luận răng sự mộ đạo không phải tùy thuộc vào việc
Con người cúng tế như thế nào, mà là cúng tế cho ai, nghĩa
vụ nào cần phải được thực hiện. Do đó Lactantius đưa ra
động từ religare (=buộc lại) và cho đây mới là nghĩa pốc

của từ religio. Lactantius viết: “Chúng ta được trói buộc

vào Thiên Chúa nhờ xiềng xích của đức tin, đó chính là
điểm phát xuất của từ tôn giáo, chứ không phải như Cicero

viết, là bắt nguồn từ động từ “cẩn thận gom nhặt lại”...”

[Hoc uinculo pietatis obstricti deo et religati sumus; unde
ipsa religio nomen accepit, non ut Cicero interpretatus est

a relegendo].° Bản thân Lactantius, vốn là một Ki Tô hữu,
phân biệt rõ sự thờ phượng Thiên Chúa mà ông gọi là vera
religio (=chính đạo) với sự thờ phượng các thần linh khác
la falsa religio (= ta dao).
|
Thánh


Jerome,

người

dịch

Kinh

Thánh

sang tiếng

La Tinh (ban Vulgata), ding chit religio dé dịch chữ Hi Lạp
thrèskeia (=nghì thức phụng vụ).

Thanh Augustine đã viết hăn một chuyên luận để giải
thích ý nghĩa của thuật ngữ religio, De

Vera Religione.

Theo quan điểm của thánh Augustine, religio là sự kết nối
vào tình yêu và sự vinh quang của Thiên Chúa. Hội Thánh
tổn tại với chức năng duy nhất là tạo điều kiện cho sự kết noi
nay xay ra. Thanh Augustine viết: “Tôi viết một cuốn sách
về Tơn giáo chân chính trong đó tơi lý giải rất dài và bằng
6

Divinae Institutiones, IV, 28.



12

Ton Gido nhàn

kx vién cảnh, Xa

Hi

Hoc

nhiều cách khác nhau rằng tơn giáo chân chính có nghĩa là
sự phụng thờ Thiên Chúa chân chính, đó là Chúa Ba Ngơi,
tức là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”? Thánh
Augustine dung hai từ reigio và culfu„s (=thờ phượng) gan
như hai từ đồng nghĩa. Động từ colere cũng dùng giống nhu religare. Co thé nói từ đây trong cấu hình tư duy

Thiên Chúa Giáo ý nghĩa của thuật ngữ “tôn giáo” (religion)

đã được xác định: đó là quan hệ kết nối giữa tín đồ và

Đắng Tịan Năng thơng qua việc phụng vụ Thiên Chúa.
Tuy

vậy

sau thánh Augustine

trong các cộng

địan


Ki Tơ Giáo thuật ngữ religio vẫn chưa thực sự phố biến.

Thời Trung Cổ thuật ngữ các Ki Tô Hữu ưa chuộng nhất
van la “duc tin” (fides). Trong thoi kỳ này thuật ngữ religio
dần dần khóac thêm ý nghĩa “đời sống tu hành trong tu
vién,” (vita monastiea) một ý nghĩa đã tồn tại trong các văn
bản thuộc thế kỉ thứ 5. Hình dung từ của reiigio dùng để
chỉ các tu sĩ thuộc các dòng tu khác nhau (religiosus ordo,
monasterium). Ngay nay tiéng Anh, “religious priest” cing :

dùng để chỉ “linh mục dòng” để phân biệt véi “secular

priest’ (linh muc triều). Cach noi “to enter religion” có
nghia 1a “vao dong tu,” “religious vows” 1a “khan dong,”

“religious habit” la ‘ao dong,”...v...v.

7... multipliciter et copiosissime disputatur unum uerum deum, id.est trinitatem,
patrem et filium et spiritum sanctum, religione uera colendum, Retractationes,

quyén

I, chuong

12, trong C orpus Scriptorum

Ecclesiasticorum Latinorum,

tap 36, Sancti Aureli Augustini Retractationum libri duo, an ban Pius Knoll,

Vindobonae & Lipsiae, 1902, tr. 57.
+


Dương Ngọc Dũng

`

15

Ban than thanh Thomas Aquinas trong bd 7 ống luận
than hoc (Summa Theologica) cing ding thuat ngtt religio
với ba nghĩa khác nhau: sự thể hiện ra ngòai của đức tin,
động cơ nội tại bên trong tín đồ khi phụng vụ lời Chúa, và
chính việc phụng vụ.Š Thánh Thomas Aquinas viet: “Religio

không phải là đức tin nhưng là chứng tá cho đức tin bang

các dấu chỉ bên ngòai” (Religio non est fides, sed fides
protestatio per aliqua exteriora signa. Sdd, ban La Tinh,

tập 3, tr. 1911a, bản tiếng Anh, tập 11, tr. 182). Thánh nhân

còn dẫn ra thuật ngữ Hi Lạp esebia và cho rằng nó đồng
nghia voi religio (eusebia...ist idem quod religio). Eusebia
chi ra một thái độ sùng kính với những thực thể linh thánh.
Thánh Thomas Aquinas cting ding tir Hi Lap Jatria dé chi

religio. Latria là việc phụng tự Thiên Chúa bằng cách thể
hiện đức tin.°Như vậy cuối cùng thì thánh Thomas Aquinas


cũng quay lại với giải thích của thanh Augustine. Religio la
một bốn phận ràng buộc tín đồ phải phụng vụ Thiên Chúa
theo một cách riêng, như làm việc thiện và từ bỏ các lợi lạc

của thế gian.
8

Ban La Tinh: S. Thomas de Aquino ordinis praedicatorum Summa Theologiae,
cura et studio Instituti Stdiorum Medievalium Ottaviensis, Ottawa, 5 tap, 1941-

1945. Ban dich tiéng Anh The Summa Theologica of St. Thomas Aquinas. Ban

dịch của các linh mục

dòng Đa Minh

ở Anh, New

York, 2] tập,

1911-1922.

Bản La Tĩnh xin tham khảo tập 3, từ trang 1829-1836. Ban dich tiếng Anh,
tập l1, từ trang 7-22.

9

,


GS. Linh muc Tran Van Toan cén cho biét thém 1a /atria chi sy phung tho
déi voi Thién Chua, dudia là phung tho cac thanh, va Ayperdulia là phụng thờ
Đức Bà. Xem Trần Văn Tịan, bài *Văn hóa và tơn giáo,” in trong Kỷ yếu hội
tháo quốc tế Văn hóa tơn giáo trong bói cảnh tịan cáu hóa, NXB. Tơn giáo,
hà Nội, 2010, tr.453.


14

Ton Gido

nhàn lờ viễn cảnh Xa Hei

Hoc

Friedrich Max Mueller (1823-1900), nguoi cha khai
sinh của ngành tôn giáo học, cho rằng tôn giáo phát sinh
từ việc con người nhận thức ra Cái Vô Hạn (?erception

of the Infniie), đã định nghĩa tôn giáo là “sự nhận thức ra
Cái Vô Hạn trong những hịan cảnh có thể ảnh hưởng đến

nhân cách tỉnh thần của con người”'° (Infinite under such
circumstances as are able to influence the moral character
of man. Natural Religion,

Collected Works, tap

1, 1899,


tr. 188). Tôn giáo này Max Mueller gọi là “tự nhiên thần
giáo” (natural religion) là một tài sản chung của tòan nhân
lọai. Điều đáng ngạc nhiên là Max Mueller có vẻ khơng
ưa thích gì mẫu hình tơn giáo phổ biến ở phương Tây là
Thiên Chúa Giáo mặc dù ông là người Đức chính cống.
Cũng giống như Schopenhauer, ơng cho rằng tơn giáo Veda
của An D6 mới là mẫu hình của tơn giáo đích thực, tức là
Tự Nhiên Thần Giáo.

Nếu

so sánh định nghĩa truyền thống của triết học

tôn giáo Tây Phương, tôn giáo (religio), là niềm tin của tín
đồ vào Thiên Chúa được thể hiện trong việc phụng tự hay
cầu nguyện, và định nghĩa của Max Mueller, dù dựa trên

. mẫu hình tơn giáo Án Độ, xem tơn giáo đích thực là một
lọai “tự nhiên thần giáo,” chúng ta có thể khơng nhận ra
sự sai biệt lớn. “Thiên Chúa” trong định nghĩa của Thiên

Chúa Giáo có thể dễ dàng được đồng hóa với “Cái Vô Hạn”
10

‘Religion is the perception of the Infinite under such circumstances:as are able
to influence the moral character of man.” Natural Religion, Collected Works,
tap 1, 1899, tr. 188).


Dương Ngọc Dũng


|

15

(the Infinite) vì đây cũng là một phẩm chất của chính Thiên

Chúa: Ngài vượt qua tất cả mọi sự hình dung hay nhận thức
thường nghiệm của con người vì Ngài là “tất ca va ton tai

trong tat cA” (omnia et in omnibus Christus). Chi cd diéu
Max

Mueller khéng hề nhắc đến vai trò của đức tin hay

hành vi phụng vụ như hai đặc điểm quan trọng của tôn giáo
trong khi đây là hai cột trụ quan trọng trong đời sông tu đức
của một Ki Tô hữu.
Paul Tillich (1886-1965), một nhà thần học Tin Lành

lừng danh, đã định nghĩa tôn giáo là

“sự quan tâm tối hậu”

(ultimate concern=Trung Quéc dich la ‘ ‘chung cue quan
hịai”). “Tối hậu” có nghĩa là “quan trọng nhất, có ý nghĩa
nhất.” Khi con người khơng cịn quan tâm đến tiền bạc,
thành công, danh vọng, hạnh phúc, những mối quan tâm
hàng đầu của thế gian, mà chỉ quan tâm đến ý nghĩa chung
cuộc của sinh mệnh, đến thực tại siêu việt, lúc bấy giờ

con người thực sự có mối quan tâm tối hậu. Ý tưởng này
được Tillich trình bày trong tác phâm Động thái của đức

tin (Dynamics of Faith, 1957). “Duc tin” được Paul Tillich
sử dụng gần như hịan tịan đồng nghĩa với khái niệm
“tơn giáo.” Đương

nhiên, trong quan điểm của thần học

Tin Lành và Công Giáo, đức tin là tâm điểm của mọi họat

động tôn giáo, thê hiện trong thái dé dan than triét dé (radical
engagemeni), với tòan bộ nhân cách (total personality),

của cá nhân vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, hữu thể
đối tượng của sự quan tâm tối hau. Paul Tillich cũng nhấn

mạnh răng tôn giáo là nên tảng quan trọng nhất của văn hóa

nhân loại.


16

Ten Gido

nhàn be vién cảnh Xa Hi

Hoc


Frederick J. Streng (1933-1993), trong luận án tiến sĩ
trình tại đại học Chicago ( về sau được xuất bản thành sách có
tua dé Emptiness: A Study in Religious Meaning, Nashville:

Abingdon Press, 1967, "nghiên cứu triết lý Tánh Không

của Nagarjuna) thay vi str dung cum từ “quan tâm tối hậu”
(ultimate concern) đã sử dụng thuật ngữ “sự chuyển hóa tối
hau” (ultimate transformation) dé chi mot kinh nghiém tén
giáo. Streng cho rang kinh nghiém ton giao không phải là
một kinh nghiệm nhận thức mà chủ yếu là một kinh nghiệm
chuyền hóa bản thân. Dựa trên sự nghiên cứu sâu tư tưởng
Nagarjuna (Long Thụ) và giáo lý Đại Thừa, Streng khang
dinh rang muc tiêu của Najar juna không phải là triết học tư
biện nhằm đưa ra một quan điểm hay học thuyết mới. Tâm
điểm của triết học Tánh Khơng nói riêng và Phật Giáo nói
chung là giải thóat luận (soteriology) với cứu cánh là giải

thóat con người ra khỏi vô minh và chấp trước vào những
thực tại vô thứờng của thế gian.
Không

thể không

nhắc

đến quan

điểm


của Rudolf

Otto (1869-1937) về tôn giáo mà tác phẩm của ông luôn

luôn là tài liệu đọc bắt buộc dành cho các sinh viên chuyên
ngành về tơn giáo học tại Mỹ. Tác phâm đó có tựa đề tiếng

Anh la The Idea of the Holy (Y niém Linh Thé)."? Linh thé
l]
12

Frederick

J. Streng,

Abingdon

Press, 1967.

Emptiness:

A Study in Religious Meaning,

Nashville:

Rudolf Otto, The Idea of the Holy (Y niém Linh Thé) nhung nguyén tac tiéng
me la Das Heilige - Uber das Irrationale in der Idee des Géttlichen und sein
verhdlinis zum Rationalen (Linh Thé - Ban ve yếu 10 phi iy trong quan niệm vẻ

Linh Thể và mỗi quan hệ của nó với cái hap hy xuất ban lần đầu năm 1917.



Dương Ngọc Dũng

|

17

(das Heilige) theo Otto la mét thuc thể siêu khả giác, có
tính chất huyền nhiém (mysterium), dang so (tremendum),
nhung co sure thu hut manh liét (fascinans), chinh ]a numen
(than tinh). Quan điểm của Otto, vốn là một nhà thần học
Tìn Lành, được sự tán đồng của nhiều học giả và trở thành
chuẩn thức cho việc nghiên cứu tôn giáo: nghiên cứu tơn

giáo là nghiên cứu các chiều kích tương quan giữa con

người và Linh Thể. Mircea Eliade (1907-1986), giáo sư
môn Tôn Giáo Đối Chiếu tại đại học Chicago, một trong
những người thầy của Frederick J. Streng, chịu ảnh hưởng
sâu sắc tác phẩm của Otto và là tác giả cuốn Cái Thiêng
và Cái Phàm, '*cũng là một tác phẩm kinh điển trong lãnh
vực triết ly tôn giáo. Trong tác phẩm này Eliade đưa ra học
thuyết về #ierophany (=Linh Hiện=sự thể hiện của thực tại
Thiéng Liéng=manifestation of the Sacred) ma 6ng cho là
nền tảng của tôn giáo, phân tách kinh nghiệm của con người .
về thực tại ra thành hai lãnh vực thiêng liêng và phàm tục

(không gian thiêng, thời gian thiêng). Khái niệm Linh Hiện


tương tự như khái niệm “mặc khái” (revelafion) trong thần
học Công Giáo: sự mặc khải về một thực tại siêu nhiên và tuyệt đối có cơng năng chuyển hóa cuộc sống của một cá
nhân sang một định hướng hòan tòan mới mẻ.
Những người nghiên cứu tôn giáo thường phân biệt hai
lọai định nghĩa: định nghĩa mang tính bản thê (subsfanfive)

và định nghĩa mang tính chức nang (functional). Vi du khi
l3

Mircea Eliade, The
New York, 1961.

Sacred

and

the

Profane.

NXB.

Harper

Torchbooks,


18

Ton


Cáo nhin

lờ uiễn cảnh Xa Hei

Hoc

E.B. Tylor định nghĩa tôn giáo là “niêm tin vào các hữu
thé than linh” (belief in spiritual beings) 6ng da dua ra mot
định nghĩa mang tính bản thể. '' Khi Milton Yinger định
nghĩa tơn giáo là “một hệ thống các niềm tin và thực hành
nhờ đó một nhóm người có thể đương đầu với các vẫn đề
tối hậu của cuộc sdng” (a system of beliefs and practices
by means of which a group of people struggles with the
ultimate problems of the human life)'* thì đó là một định
nghĩa mang tính chức năng.
Một nhà nhân học chịu ảnh hưởng quan điểm của
Weber, Clifford Geertz, da dinh nghia tơn giáo từ góc độ

chức năng như sau:
“Tơn giáo là một hệ thơng các biểu tượng có cơng
năng xác lập những trạng thái tâm lí và động cơ hành động
mạnh

mẽ, xuyên

suốt, và kéo đài nơi bản thân con người

bằng cách kiến lập những quan niệm về một trật tự hiện sinh
tơng qt và bao bọc các quan niệm đó trong một luồng hào

quang kién tinh (aura of factuality) đến mức dường như chỉ

có các trạng thải tâm lí và động cơ hành động đó là có tính
hiện thực”!”
14

James C. Livingston, Anatomy of the Sacred, New York, 1993. tr.9.

15
16

Milton Yinger, The Scientific Study of Religion, New York, 1970, tr.7.
The Interpretation of Cultures. BasicBooks, A Division of HarperCollins
Publishers. 1973. tr.90. Xem thém bài "Tên giáo như một hệ thống văn hóa”
của Cliford Geertz do Trương Huyền Chỉ dịch, ín trong tuyên tập Mhững ván
đề nhân học tôn giáo. Hội Khoa Học Lich Su va tap chi Xưa và Nay chủ biên.

NXB. Da Nang, 2006. tr.308-355.


Duong Ngoc Diing

19

Cách tiếp cận các định nghĩa tôn giáo theo phong cách
chiến lược thì có lợi hơn cách tiếp cận theo kiểu các định
nghĩa được xem như “các chân lý” về tôn giáo. Một định
nghĩa theo phong cách chiến lược là phân tích một vẫn để
trong một khn khổ nào đó và đề xuất các cách nhìn nhận
về nó. Các định nghĩa có thể được đánh giá theo tính hiệu

quả của nhiệm vụ cụ thể mà nó được giao phó.
Hai chiến lược chủ yếu được các nhà xã hội học sử
dụng là định nghĩa tìm cách nhân mạnh bản chất của tơn

giáo (substantive defđnition) và định nghĩa về phương diện

chức năng. (functional deñnition). Định nghĩa về phương
diện bản thất cho biết tơn giáo là gì, cịn định nghĩa về
phương diện chức năng cho biết tôn giáo thực hiện chức
năng gì (tâm lý hay xã hội) trong đời sống cá nhân hay cộng
đồng. Chúng ta có thể lây ví dụ về một cái ghế để minh họa
cho điều này. Định nghĩa về phương diện bản chất cho thấy
cái ghế là một vật băng gỏ có 4 chân và 1 lưng dựa phía
sau, cộng thêm một vải chì tiết vật lý khác để phân biệt với

cái sofa hay cái tủ lạnh. Định nghĩa về phương diện chức
năng chỉ ra rằng cái ghế là một chỗ ngồi cho một người.
Định nghĩa về phương diện chức năng có phần rộng hơn.
Định nghĩa về cái ghế thì dễ dàng hơn nhiều so với định
nghĩa tôn giáo. Người ta dễ dàng thấy những đặc điểm vật
lý hình thành cái ghế và chỉ ra những điểm khác biệt để phân
biết cái ghế với những vật thể khác. Tơn giáo thì khơng có
những đặc trưng vật lý rõ ràng cũng như những đặc điểm có
thể xác định được ngay. Ngay bản thân các nhóm tơn giáo


20

Ten Gido


nhàn lờ uiễn cảnh Xa Asi

Hoc

cũng khơng hồn tồn nhất trí về bản chất thiết yếu của tơn
giáo, một phân có thê là do sự đa dạng trong hệ thơng đức
tin của tín đơ.
Định nghĩa về phương diện bản chất cho biết tơn giáo
là gì. Cách định nghĩa này đưa ra các tiêu chí cụ thể để xác
định những hiện tượng nào được xem là tôn giáo và những
hiện tượng nào khơng mang tính chất tơn giáo. Melford E.
Spiro, nhà nhân học văn hóa người Mỹ đưa ra định nghĩa

tôn giáo về phương diện bản chất khá dễ hiểu như sau:

“[Tôn giáo là] một định chế bao gồm sự tương tác giữa
các tín đồ được xác lập bởi văn hóa với những hữu thể siêu

nhiên được xác lập về mặt văn hóa.” Hay nói cách khác,

cách thờ phượng của tín đồ được văn hóa xác lập và cách

tương tác với hữu thế thần linh cũng được văn hóa xác lập.

Là “một định chế”, cách định nghĩa này đề cập đến các mô

thức hành vi và niềm tin tôn giáo mang tính xã hội. Tất cả
định chế bao gồm các niềm tin, mô thức hành động và các
hệ thống giá trị; đặc trưng thiết yếu của tơn giáo đó là các
niềm tin, mô thức hành động và các giá trị viện dẫn đến


“các hữu thể thần linh”.

Định nghĩa của Spiro là ví dụ điển hình trong việc
định nghĩa chiến lược về mặt xã hội học vì tất cả phạm
trù trong định nghĩa trên - “một định chế”, “được xác lập
bởi văn hóa”, đều có liên quan đến xã hội học. Khái niệm
“hữu thể thần linh” của Spiro cũng mang ý nghĩa xã hội
học vì nó nhấn mạnh đến ý nghĩa của quyền năng. “Hữu
thể thần linh” là những gì quyền năng hơn con người,


Dương Ngọc Dũng

21

có thể giúp đỡ hay làm tốn thương con người nhưng có
thể bị hành động của con người ảnh hưởng ngược lại.
Quyền năng là một trong những ý niệm quan trọng nhất
trong việc nghiên cứu tôn giáo về mặt xã hội học, vì vậy,
chúng ta cần đặc biệt quan tâm định nghĩa chú trọng đến
quyền năng. Các định nghĩa về mặt bản chất khác của tôn

giáo sử dụng các khái niệm tương tự như “những tác nhân
không phải con người”, “lĩnh vực siêu nhiên”, “thực tại siêu
thực nghiệm”, “thực tại siêu nghiệm” và “vũ trụ thiêng”.

Bên cạnh những cách tiếp cận mang tính lý thuyết,
nhiều nghiên cứu thực nghiệm về tôn giáo cũng sử dụng chủ


yêu định nghĩa về phương diện bản chất vì một lý do nữa
là: Cách định nghĩa này thích hợp hơn để khảo sát nghiên

cứu. Một ví dụ đơn giản mà chúng ta dễ dàng tìm thấy là
trong bảng câu hỏi khảo sát tơn giáo của những người được

hỏi với những sự lựa chọn câu trả lời “Tin Lành”, “Ki-tô

|

Giáo”, “Hồi Giáo”, “Khác”, “Không tôn giáo”. Giả định ẩn
sau một câu hỏi là định nghĩa tôn giáo về phương diện bản chất như một tô chức tôn giáo cụ thê.
Định nghĩa về phương diện bản chất có lợi thế chủ
yếu là cụ thê hơn định nghĩa về phương diện chức năng.

vì nó rõ ràng hơn về nội dung của tôn giáo. Định nghĩa về

phương diện bản chất chặt chẽ và rõ ràng
vê phương diện chức năng vì chúng ta có
thê một hiện tượng là tôn giáo hay không
Định nghĩa về phương diện bản chất gần
niệm chung của tôn giáo hơn định nghĩa

hơn định nghĩa
thể xác định cụ
phải là tôn giáo..
gũi với các khái
về phương diện



22

Ten

Cáo

nhin tie vién cảnh Xa Hi

Hoc

chức nang vi chung dua trén tu tưởng phương Tây, chủ yếu
là Ki-tô Giáo.
Định nghĩa về phương diện bản chất thích hop dé
nghiên cứu tơn giáo trong một xã hội tương đối ồn định.
Định nghĩa về phương diện bản chất trở nên mơ hồ vì bị
giới hạn về mặt lịch sử và văn hóa, và khi nghiên cứu tôn
giáo trong một thời gian và địa điểm cụ thể. Vì cơ bản trong

cách định nghĩa này bắt nguồn từ lịch sử phương Tây, nên

định nghĩa về phương diện bản chất không đủ luận cứ để lý
giải hiện tượng tơn giáo khơng bắt nguồn từ phương Tây.
Ví dụ, nếu không xác định cụ thể được các chức năng của,
các lực lượng siêu nhiên thì khơng thể phân biệt giữa thượng.
để và ma quỷ, ông giả Nô-en và các thần tiên..
Một số nhà xã hội học đồng nhất tơn giáo với tín
ngưỡng quy hướng vào giáo hội; các xã hội khơng bắt
ngn từ phương lây; nhưng có cách tổ chức chính thức
giống giáo hội. Điều này có ý nghĩa khơng, đối với các
xã hội khơng có tơn giáo? Nếu các thực thể siêu nhiên,

thực thể phi thực nghiệm, thực thể phi lý tính khơng được
xem là quan trọng trong một xã hội, vậy xã hội đó có thiếu
tơn giáo khơng? Nho Giáo (hệ tư tưởng chính thống của
Trung Quốc trong hơn 2.000 năm, từ năm 200 trước công
nguyên đến đầu thế kỷ 20 sau công nguyên) là hệ thống các
nguyên tắc trật tự, chủ yếu liên quan đến các mối quan hệ
xã hội xung quanh chính trị và gia đình. Nho Giáo khơng
có thờ phượng bất kỳ Đắng Tối Cao nào, dù vậy các bậc tổ

tiên cũng được các thế hệ đời sau tỏ lịng sùng kính qua các


Dương Ngọc Dũng

25

nghỉ thức. Nếu chủ nghĩa siêu nhiên là chuẩn mực chính
trong định nghĩa về phương diện bản chất, thì Nho Giáo và
một vài nhánh của Phật Giáo (khơng có ý niệm Thượng Dé)
sẽ khơng được xem là tơn giáo. Một quan niệm khác cũng

tồn tại trong hệ tư tướng Ki-tơ Giáo đương thời là sao cho

khơng cịn sự phân biệt giữa thế giới này và thế giới khác.
Liệu răng Ki-tơ Giáo khơng có chủ nghĩa siêu nhiên có trở

thành một tôn giáo không?

Định nghĩa về phương diện bản chất khó lý giải sự
thay đổi tơn giáo. Nếu tơn giáo được nhận biết qua các


biểu hiện trong một giai đoạn lịch sử nào đó, thì bất kỳ

thay đổi nào ngồi cách thể hiện đó được xem là khơng
ton giao. Chang han, nhiều luận thuyết về sự thay đổi tôn
giáo bắt đầu từ một ý niệm về thời gian khi mà con người
“sùng đạo thật sự”. Trong lịch sử Ki-tô Giáo, thé ky 13 la
thời kỳ Ki-tô Giáo phát triển hết sức mạnh mẽ, rất có quyền
lực trong toản bộ xã hội, ảnh hướng đến mọi mặt đời sống
con người như việc làm, gia đình, giáo dục, chính trị...
Nếu đánh đồng hình ảnh tơn giáo là “tơn giáo that”, thi bat
kỳ sự thay đổi nào ngồi khn mẫu đó được xem là khơng

tơn giáo. Để dễ hình dung, chúng ta lấy hình ảnh về gia
đình. Nếu gia đình được định nghĩa là những con người có

quan hệ máu mủ hoặc có sự ràng buộc về mặt pháp luật qua
việc kết hơn, thì nhiều mối quan hệ khác cùng tổn tại khơng
được xem là gia đình như: Liệu hai người chưa kết hơn và
con cái riêng của họ có thê tạo thành một gia đình khơng?
Liệu một người phụ nữ độc thân và các con ni của mình


24

Tn Gido

nhàn lờ diễn cảnh X2 Hei Hoc

có phải là gia đình khơng? Vì các nên văn hóa ln thay đổi


nhanh chóng, nên khó để hình thành định nghĩa tơn giáo về

phương diện bản chất trong ngữ cảnh thời gian. Ngược lại,
cũng không dễ chứng minh những thay đổi lịch sử về vị trí
của tơn giáo trong xã hội nếu chúng ta thiếu một định nghĩa

cụ thể và đầy đủ hơn về tôn giáo.

Định nghĩa tôn giáo về phương diện bản chất có lợi thế
là cụ thể hơn và phù hợp với các nghiên cứu thực nghiệm
về tôn giáo. Mặt khác, định nghĩa về phương diện bản chất
giới hạn về văn hóa và lịch sử hơn định nghĩa về phương
diện chức năng. Tóm lại, định nghĩa về phương diện bản

chất đưa ra cách lý giải khác rõ rệt về sự thay đổi xã hội so
với định nghĩa về phương diện chức năng. Các định nghĩa

về tôn giáo là đề tài tranh luận rất nghiêm túc trong xã hội
học. Những cách định nghĩa khác nhau định hình cách lý

giai (interpretation) vé vai tro của tôn giáo trong xã hội.
Những định nghĩa này đến phiên chúng lại bắt nguồn từ
những giả định (zssmptions) khác nhau về những vấn đề
quan trọng như sự thay đổi của xã hội, tác động của xã hội
hiện đại đối với tôn giáo, sự xuất hiện của các loại hình tơn
giáo phi giáo hội, v...v... Việc đưa ra quyết định về định
nghĩa tôn giáo nhăm thỏa mãn mục tiêu nghiên cứu của các
nhà xã hội học là vấn dé luôn gây tranh cãi trong các xã hội


hiện đại. Ví dụ, trong những năm gần đây, tịa án cũng xem

xét một vài vụ án mà bản án đưa ra phụ thuộc hoản tồn vào

quyết định liệu sự việc có hay không liên quan đến yếu tố
tôn giáo. Nếu ranh giới cuối cùng của tôn giáo không thật.


Dương Ngọc Dũng

25

sự rõ ràng trong đời sống xã hội và luật pháp, thì việc cho ra
đời một định nghĩa tơn giáo về mặt xã hội học có thé mang
lại những tác dụng tiêu cực.
Định

nghĩa

tôn

giáo

về

phương

diện

chức


năng

nhắn mạng tôn giáo làm được gì cho cá nhân và xã hội.
Theo đó, tơn giáo được định nghĩa bởi các chức năng xã hội
mà nó đáp ứng. Trong cách định nghĩa này nội dung của
giao ly va cach thực hành tơn giáo đóng một vai trò kém
quan trọng hơn so với chiến lược định nghĩa tơn giáo từ góc
độ bản chất.
Định nghĩa tơn giáo của nhà nhân học người Mỹ,
Cliford Geertz, như đã nêu trên, là một điển hình của
_ định nghĩa về phương diện chức năng Cách định nghĩa của
Geerzt nhân mạnh một số khái niệm quan trọng về mặt xã
hội học. Yếu tổ quan trọng nhất là mang lại ý nghĩa vì việc
xác lập các ý nghĩa chung, chăng hạn các biểu tượng, về
bản chất là mang tính xã hội. Định nghĩa cũng lý giải các
chức năng về tâm lý và cấu trúc xã hội qua các khái niệm
về (âm thái, động cơ hành động, và thực tại tính. Điểm
phân biệt của định nghĩa này là “các khái niệm về trật tự

hiện sinh phé quar” va tính hiện thực của các khái niệm đó.

Theo Geertz, con người lý giải các sự việc và trải nghiệm

là có ý nghĩa bang cách liên kết chúng với ý thức về mét
trật tự lớn hơn. Ý thức về một trật tự lớn hơn này được lĩnh

hội từ quan điểm tơn giáo là hồn tồn thật, thậm chì còn

thật hơn các sự việc và trải nghiệm trần tục. Về mặt thực

nghiệm, sự đặc biệt này có nghĩa là nội dung của niềm tin


26

Ton Gido

nhàn tie diễn cảnh Xa Asi

Hoc

và cách thực hành tơn giáo khơng là vân đề miền là nó có
thể tượng trưng cho một sô trật tự siêu việt nào đó đơi với
các tín đơ.
Các chức năng được đồng nhất theo các định nghĩa
tôn giáo khác nhau về mặt xã hội học bao gồm việc mang

lại ý nghĩa cơ bản, nỗ lực để lý giải những điều không biết

và kiểm sốt những điều khơng thể kiểm sốt, nhân cách

hóa các hình mẫu lý tưởng của con người, hịa nhập với
nên văn hóa và hợp thức hệ thống xã hội, hình thành cácý
nghĩa con người và mô thức xã hội trên một thực thể cao
hơn và nỗ lực để đối phó với những vấn đề cơ bản về sự tồn
Lại con người.
Một nét đặc trưng được dùng trong nhiều định nghĩa

về phương diện chức năng là sự quy kết về mặt xã hội học


của sự linh thiêng. Trong khi sự phân biệt tự nhiên/siêu
nhiên của một số định nghĩa về phương diện bản chất ám
chỉ đến bản chất bên trong của đổi tượng được thờ phượng,
sự phân biệt linh thiéng/tran tục ám chỉ đến /hái độ của
người thờ phượng. Sự linh thiêng là những gì các tín đồ
xem như thần thánh và được bảo vệ tránh khỏi những yếu
tố “trần tục” thông qua các nghỉ thức và quy tắc đặc biệt.
Sự linh thiêng có quyển năng đặc biệt và rất được xem

trọng. Ví dụ, đối với những người ngoại đạo, bánh thánh

đơn thuần chỉ là một miếng bánh nhỏ, nhưng đổi với tín
hữu Cơng Giáo thì bánh thánh được xem là “Mình Chúa”
nên rất được trân trọng. Các vật thể tự nhiên như đèn cay,
bánh, sách, nước, dầu... cũng được xem là linh thiêng.


Duong Ngoc Ding
Vi vay,

cac nén

27
van hoa không sùng bái các thế lực siêu

nhiên (như chủ nghĩa dân tộc chăng hạn) cũng có thể được
xem là linh thiêng do thái độ của người tin theo. Những

người theo chủ nghĩa dân tộc thì xem quốc gia và các biểu
tượng như cờ tơ quốc, các ngày quốc lễ.... là linh thiêng.

Các định nghĩa tôn giáo về phương điện chức năng bao
gồm tất cả các định nghĩa về phương diện bản chất nhưng
chúng mở rộng hơn. Cả hai cách tiếp cận về phương diện
bản chất và chức năng đều định nghĩa các hiện tượng như
thuyết Calvin, Giáo Hội Công Giáo La Mã, Giám

Lý Hội,

Giao phai Mormon (một nhánh đạo Cơ Đốc, có tên chính
thức là “The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints”

- Giáo Hội Thánh Hữu Ngày Sau Của Chúa Giê-su KiI-tô)

và Do Thái Giáo Cải Cách là “tôn giáo.” Cách tiếp cận theo

chức năng luận mớ rộng thêm các hiện tượng mà cách tiếp
cận theo bản chất luận cho là phi tôn giáo như: các ý thức
hệ, các biểu trưng của một tập thê, các hệ thống giá trị, thế
giới quan, các môi quan hệ giữa cá nhân với nhau, các hoạt
động giải trí, các tơ chức thiện nguyện... Geertz chỉ ra rằng
cách định nghĩa tơn giáo của ơng có thể bao gồm, ví dụ,
mơn đánh gơn, nếu đơn thuần chỉ là trị tiêu khiển thì khơng
có gì đáng bàn, nhưng nếu được xem là tượng trưng cho
mội trật tự siêu việt nào đó thì sao? Các định nghĩa về mặt
chức năng bao gồm các hiện tượng được xem là tôn giáo

như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cộng sản của Mao Trạch

Đông, chủ nghĩa Marx, thuyết tâm lý học, thuyết duy linh,
và thậm chí thuyết vơ thần. Các đặc trưng mang tính tơn

giáo của các hoạt động con người Ít tồn diện hơn như thể


×