BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
NĂM 2013
SỰ PHÂN TÁCH GIỮA
QUYỀN SỞ HỮU VÀ QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG
Chủ nhiệm đề tài: TS. Hà Thị Thanh Bình
TP. HCM, 11/2013
0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
NĂM 2013
SỰ PHÂN TÁCH GIỮA
QUYỀN SỞ HỮU VÀ QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG
Chủ nhiệm đề tài
TS. Hà Thị Thanh Bình
TP. HCM, 11/2013
1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA
1. TS. Hà Thị Thanh Bình
2. ThS. Bùi Thị Thanh Thảo
3. ThS. Từ Thanh Thảo
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BKS
CTCP
CTĐC
ĐHĐCĐ
GĐ
HĐGS
HĐQT
HOSE
HNX
IFC
LDN 2005
LSE
NYSE
TGĐ
TTLKCK
SGDCK
UBCKNN
WB
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
Ban kiểm sốt
Cơng ty cổ phần
Công ty đại chúng
Đại hội đồng cổ đông
Giám đốc
Hội đồng giám sát
Hội đồng quản trị
Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh
Sở Giao dịch Chứng khốn Hà Nội
Tổ chức Tài chính Quốc tế (International Finance Corporation)
Luật doanh nghiệp 2005
Thị trường Chứng khốn Ln Đơn
Thị trường Chứng khốn New York
Tổng giám đốc
Trung tâm lưu ký chứng khoán
Sở Giao dịch Chứng khoán
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Ngân hàng Thế Giới (World Bank)
3
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG VÀ
SỰ TÁCH BẠCH GIỮA QUYỀN SỞ HỮU VÀ QUYỀN QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CÔNG TY
CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG ......................................................................................................................... 7
1.1
Khái quát về CTĐC ............................................................................................... ……….7
1.1.1
Khái niệm và đặc trưng của CTĐC ..................................................................................... 7
1.1.2
Lịch sử hình thành CTĐC và pháp luật về CTĐC............................................................ 12
1.2
Cơ cấu quyền lực trong CTĐC và các mơ hình tổ chức quản lý CTĐC phổ biến....... 14
1.2.1. Cơ cấu quyền lực trong CTĐC ............................................................................................. 14
1.2.2. Các mơ hình tổ chức, quản lý CTĐC phổ biến.................................................................... 18
1.3
Vấn đề tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong CTĐC và vai trò
của pháp luật trong việc điều hịa lợi ích của cổ đơng và người quản lý trong CTĐC ............ 23
1.3.1 Lịch sử vấn đề tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành CTĐC trên
thế giới ............................................................................................................................................. 24
1.3.2 Tác động của việc tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành đối với
CTĐC ............................................................................................................................................. 29
1.3.3 Các nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và vấn đề quản lý, điều hành
trong tổ chức quản lý CTĐC .......................................................................................................... 31
1.3.4 Vai trò của pháp luật trong việc điều hịa lợi ích của cổ đơng và người quản lý trong
CTĐC ............................................................................................................................................. 36
CHƯƠNG 2. SỰ PHÂN TÁCH GIỮA QUYỀN SỞ HỮU VÀ QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CTĐC
TRONG PHÁP LUẬT VỀ CƠNG TY Ở MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH VÀ KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM ................................................................................................................................... 39
2.1
Sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong các CTĐC theo pháp
luật công ty của một số quốc gia điển hình .................................................................................. 39
2.1.1 Sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành thông qua các quy định về quản
trị công ty và trách nhiệm của những người quản lý công ty ....................................................... 39
2.1.2 Sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành thông qua các quy định về công
bố thông tin và giám sát giao dịch nội gián ................................................................................... 64
2.2
Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam................................................................ 71
4
2.2.1 Liên quan đến các quy định về quản trị công ty và trách nhiệm của những người quản lý
công ty ............................................................................................................................................. 71
2.2.2 Liên quan đến các quy định về công bố thông tin và giám sát giao dịch nội gián.............. 73
CHƯƠNG 3: SỰ PHÂN TÁCH GIỮA QUYỀN SỞ HỮU VÀ QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH VÀ VẤN
ĐỀ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH CỦA CỔ ĐÔNG VÀ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY
ĐẠI CHÚNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .................................. 75
3.1
Sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành và vấn đề điều hịa lợi ích của
cổ đơng và của người quản lý công ty đại chúng qua các quy định về quản trị công ty đại
chúng ............................................................................................................................................. 75
3.1.1 Khái quát về cơ sở pháp lý đối với vấn đề quản trị CTĐC ................................................... 76
3.1.2 Chức năng và thẩm quyền của ĐHĐCĐ .............................................................................. 78
3.1.3 Chức năng và thẩm quyền của HĐQT ................................................................................. 88
3.1.4 Chức năng và thẩm quyền của Ban Kiểm Soát .................................................................... 92
3.1.5
Trách nhiệm của những người quản lý công ty ............................................................... 96
3.2
Sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành và vấn đề điều hịa lợi ích giữa
cổ đông và người quản lý công ty đại chúng qua các quy định về công bố thông tin và giám
sát giao dịch nội gián ................................................................................................................... 102
3.2.1
Liên quan đến nghĩa vụ công bố thông tin ..................................................................... 102
3.2.2
Liên quan đến vấn đề giám sát các giao dịch nội gián (giao dịch nội bộ) ..................... 106
3.3
Đánh giá tổng quan về các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến sự
phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong quản trị CTĐC ........................... 109
3.4
Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam nhằm điều hịa lợi ích
của cổ đơng và người quản lý trong CTĐC có sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý,
điều hành ...................................................................................................................................... 114
3.4.1
Các nguyên tắc hoàn thiện .............................................................................................. 114
3.4.2
Một số kiến nghị cụ thể .................................................................................................... 115
KẾT LUẬN........................................................................................................................................... 124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 1
5
LỜI NĨI ĐẦU
1. Mục tiêu, tính cấp thiết của đề tài
Do cơ cấu sở hữu phân tán, chỉ một số lượng rất nhỏ cổ đông của các công ty
đại chúng (CTĐC) có thể tham gia vào bộ máy quản lý điều hành cơng ty. Ngay cả
khi có cổ đơng tham gia vào việc quản lý, điều hành thì tỷ lệ sở hữu của họ cũng
không đủ lớn để những người này đặt lợi ích chung của cổ đơng cơng ty lên trên lợi
ích của cá nhân họ với tư cách người quản lý cơng ty. Nói cách khác, khi người
quản lý công ty không phải là cổ đông lớn trong công ty hoặc không đại diện cho
phần lớn các cổ đông trong công ty (phổ biến ở các CTĐC), những người quản lý
cơng ty thường có xu thế lợi dụng quyền lực của mình để theo đuổi những lợi ích cá
nhân mà khơng phải là lợi ích của đa số cổ đơng trong cơng ty. Trong các cơng ty
có sự tách bạch giữa quyền sở hữu với quyền quản lý, điều hành công ty như vậy,
việc làm thế nào để hài hịa lợi ích của chủ sở hữu cơng ty (đặc biệt là các cổ đơng
đại chúng) và lợi ích của những người quản lý công ty là một vấn đề mà pháp luật
cần giải quyết. Các quy định của pháp luật góp phần hài hịa mối quan hệ này chủ
yếu là các quy định về quản trị công ty và các quy định về thị trường chứng khốn
vì các cơng ty có sự tách bạch giữa sở hữu và quản lý thường là các cơng ty niêm
yết hoặc có cổ phần ra công chúng (trong báo cáo này được gọi là các CTĐC).
Ở nước ta, chế định công ty cổ phần (CTCP) đặc biệt là CTĐC còn khá non
trẻ nếu so sánh với chế định này ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Đặc biệt, các quy định pháp luật hiện hành khơng có sự khác biệt rõ ràng trong các
quy định về tổ chức quản lý giữa CTCP chưa phải là CTĐC và CTĐC trong khi
thực tiễn yêu cầu các quy định về quản lý nội bộ giữa hai loại cơng ty này phải có
sự khác nhau. Trong thực tế vấn đề quản trị công ty mà đặc biệt là vấn đề thẩm
quyền của cổ đông với tư cách là chủ sở hữu trong công ty và việc tham gia quản trị
công ty của họ có sự khác nhau rất lớn giữa CTĐC và CTCP không phải là CTĐC.
Luật Doanh nghiệp số 60/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 (LDN 2005) (phần quy
định về CTCP) áp dụng cho tất cả các CTCP (dù có phải là CTĐC hay khơng). Mặc
dù Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 15/2007/QĐ-BTC ngày 19/3/2007 ban
hành điều lệ mẫu của CTCP niêm yết (được thay thế bởi Thông tư số 121/2012/TTBTC ngày 26 tháng 7 năm 2012 quy định về quản trị công ty áp dụng cho các
CTĐC (Thông tư 121/2012/TT-BTC), những quy định trong thông tư này chưa thể
coi là những quy phạm pháp luật điều chỉnh cơ chế quản lý CTĐC và trong thực tế
vẫn chưa giải quyết được các vấn đề pháp lý cơ bản làm sáng tỏ các đặc trưng cơ
bản hay bản chất của sự phân tách giữa quyền sở hữu và việc quản lý, điều hành
trong CTĐC nói chung. Vì vậy, có thể nhận xét rằng các quy định của pháp luật
hiện hành ở nước ta chưa có sự phân biệt rõ ràng về cơ cấu tổ chức quản lý giữa
CTCP thông thường và CTCP niêm yết. Ngoài ra, các quy định hiện hành chưa thể
hiện rõ sự phân tách giữa quyền sở hữu và vấn đề quản lý, điều hành trong CTCP
nói chung và CTĐC nói riêng.
Như đã trình bày ở trên, các quy định của thị trường chứng khoán cũng góp
phần khơng nhỏ trong việc làm hài hịa lợi ích của cổ đông (đặc biệt là các cổ đông
công chúng) và lợi ích của những người quản lý điều hành cơng ty trong mơ hình
1
cơng ty có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành. Nội dung
này thể hiện chủ yếu thông qua các quy định về nghĩa vụ công bố thông tin của
người quản lý công ty và việc giám sát việc sử dụng các thông tin nội bộ trong các
giao dịch có liên quan đến người quản lý cơng ty. Thị trường chứng khốn nước ta
có lịch sử rất non trẻ. Mặc dù các quy định nhằm kiểm sốt thị trường cũng đang
dần hồn thiện, các quy định của pháp luật hiện hành về công bố thông tin và kiểm
soát các giao dịch nội gián cũng chưa thực sự phát huy được hiệu quả trong thực
tiễn thực thi.
Đến nay, mặc dù có tương đối nhiều các cơng trình nghiên cứu về cơ cấu tổ
chức quyền lực và vấn đề quản trị CTCP, ở nước ta chưa có cơng trình nào nghiên
cứu chun sâu về vấn đề tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong
CTCP đặc biệt là trong CTĐC nơi mà sự đông đảo của số lượng cổ đơng dẫn đến
tính kém hiệu quả và phi thực tế trong khả năng tham gia của các cổ đông vào việc
quản lý, điều hành công ty.
Xuất phát từ các lý do trên, mục tiêu của cơng trình này là thực hiện việc
nghiên cứu chun sâu về cơ sở lý luận và thực trạng pháp lý của vấn đề điều chỉnh
sự tách bạch giữa quyền sở hữu của cổ đơng trong CTCP nói chung và đặc biệt là
CTCP có số lượng cổ đơng nhiều (đại chúng) và quyền quản lý, điều hành trong mơ
hình cơng ty này theo quy định của pháp luật một số nước điển hình trên thế giới
(Anh, Pháp và Trung Quốc) và pháp luật hiện hành của Việt Nam, từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật của nước ta và góp phần
điều hịa hai nhóm lợi ích trong CTĐC - lợi ích của cổ đơng công ty (đặc biệt là các
cổ đông công chúng) và lợi ích của những người quản lý cơng ty. Nhóm tác giả
cũng mong muốn rằng kết quả của cơng trình nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo có
chất lượng cho cơng tác giảng dạy và nghiên cứu của chính các tác giả cũng như
của những người có quan tâm khác trong các cơ sở đào tạo luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về quản trị cơng ty (corporate governance) nói chung đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu, trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Ở nước ngoài, việc nghiên cứu về quản trị cơng ty nói chung và vấn đề tách
bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành công ty cũng đã được nhiều
tác giả thực hiện, tiêu biểu có các cơng trình sau đây: cuốn The Mordern
Corporation and private property của tác giả A. Berle and G. Means (1968); cuốn
Business Leadership in the Large Corporation của tác giả Robert Aaron Gordon
(1966), cuốn Corporate Control, Corporate Power của tác giả E. Herman (1981);
bài báo “The Rise of dispersed ownership: The role of law in the separation of
ownership and control” của tác giả John C. Coffee Jr. (2001) đăng trên tạp chí Yale
Law Journal; bài báo “Corporate Governance in China: Then and Now” của các tác
giả Cindy A. Schipani and Junhai Liu (2002) đăng trên tạp chí Columbia Business
Law Review; bài báo “The Usefuless of the Suprvisory Board Report in China” của
Dahya, Jay et al (2003) đăng trên tạp chí Corporate Governance; bài báo
“Corporate Governance in China: An Overview” của tác giả Donald C Clarke
2
(2003) đăng trên tạp chí China Economic Review; bài báo “The Ultimate
Ownership of Western European Corporations” của tác giả Faccio, Mara and Lang,
Larry (2002), đăng trên tạp chí Journal of Financial Economics; bài báo “China
Making Significant Process in adopting Stricter Corporate Governance Standards”
của tác giả Thomas W Lin đăng trên USC Marshall Press Release; bài báo “The
Seperation of Ownership and Control under a Happiness-based Theory of the
Corporation” đăng trên tạp chí Company Lawyer của tác giả James McConvill
(2005), bài báo “Corporate Governance Issues in France” của tác giả Michel
Menjucq (2004-2005) đăng trên Studies Series in International Financial,
Economic, and Technology Law; bài báo “French Corporate Governance in the New
Millenium: Who Watches the Board in Corporate France?” của tác giả Benjamin
Mojuýe (2000) đăng trên tạp chí Columbia Journal of European Law; bài báo “The
birth of corporate governance” của tác giả Harwell Wells (2010) đăng trên Seatle
University Law Review và một số công trình khác được trích dẫn trong báo cáo tổng
kết này và được liệt kê ở phần Danh mục tài liệu tham khảo.
Ở trong nước, các cơng trình nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp nói chung
và quản trị CTCP nói riêng tương đối phong phú, tiêu biểu các có nghiên cứu sau:
tác giả Nguyễn Ngọc Bích (2003) với cuốn sách LDN 2005: Vốn và quản lý trong
CTCP; tác giả Nguyễn Đình Cung (2008) với cuốn Quản trị CTCP ở Việt Nam:
Quy định của pháp luật, hiệu lực thực tế và vấn đề; tác giả Bùi Xuân Hải (2011) với
các công trình: cuốn Luật Doanh nghiệp – Bảo vệ cổ đơng: Pháp luật và thực tiễn,
bài báo “So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của CTCP Việt Nam với các mơ hình điển
hình trên thế giới” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý, bài báo “Học thuyết về đại
diện và mấy vấn đề trong pháp luật công ty Việt Nam” đăng trên Tạp chí Khoa học
Pháp Lý, bài báo “Người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ
góc độ Luật so sánh” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý; tác giả Võ Thị Hồng
Nhi (2013) với bài báo “Giải pháp nhằm hạn chế tình trạng giao dịch nội gián trên
thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí Ngân hàng; tác giả
Tơn Tích Q (2006) với cuốn sách Nâng cao tính minh bạch của công ty đại
chúng trên thị trường chứng khốn Việt Nam; tác giả Lê Hồng Tùng (2009) với bài
báo “Thành viên hội đồng quản trị độc lập: Qui định và thực tiễn” trên Tạp chí quản
lý; và một số cơng trình khác được trích dẫn trong báo cáo tổng kết này và được liệt
kê ở phần Danh mục tài liệu tham khảo.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu được liệt kê trên đây cũng đã đề cập
trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhiều nội dung khác nhau về vấn đề quản trị công ty, kể
cả vấn đề tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong CTCP. Tuy
nhiên, các nghiên cứu này hầu hết đều là các nghiên của của các học giả nước ngoài
về pháp luật nước ngoài. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu có hệ thống và tương đối
đầy đủ về cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ này vẫn chưa có cơng trình
nghiên cứu chun sâu nào, đặc biệt là nghiên cứu trên cơ sở so sánh giữa các quy
định được coi là đã phát triển ở mức độ được thực tiễn kiểm nghiệm của một số
nước trên thế giới với các quy định của hiện hành của pháp luật Việt Nam, làm cơ
sở đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Mặc dù các cơng
trình nghiên cứu của tác giả Bùi Xn Hải về quản trị CTCP và vấn đề bảo vệ cổ
3
đơng có liên quan mật thiết đến đề tài nghiên cứu này và là các tài liệu tham khảo
có giá trị cho nhóm tác giả, đối tượng nghiên cứu của tác giả Bùi Xn Hải là CTCP
nói chung mà khơng chuyên biệt vào CTĐC với những đặc trưng riêng. Như vậy, có
thể kết luận rằng, cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu pháp lý chun sâu
nào về vấn đề quản lý CTĐC nói chung và vấn đề tách bạch giữa giữa quyền sở hữu
và quản lý, điều hành trong CTĐC nói riêng.
Mặc dù các cơng trình nêu trên cũng đưa ra được một số cơ sở lý luận và
thực tiễn quan trọng giúp cho các tác giả có thể kế thừa, nhóm tác giả của đề tài
nghiên cứu khoa học này mong muốn được thực hiện một đề tài mang tính chuyên
sâu hơn nhằm đưa ra các luận cứ khoa học cho các kiến nghị hoàn thiện các quy
định pháp luật liên quan đến vần đề hài hòa lợi ích của các cổ đơng, đặc biệt là các
cổ đơng cơng chúng với lợi ích của những người quản lý cơng ty theo pháp luật
nước ta.
3. Mục đích, đối tượng và các mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là nhằm đánh giá được về mặt lý luận các ưu điểm cũng như
hệ quả của sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý điều hành trong các
cơng ty có cơ cấu cổ đơng phân tán (nơi mà cổ đơng khơng đồng thời nắm giữ vai
trị quản lý, điều hành trong công ty), đánh giá được mức độ phù hợp của các quy
định của pháp luật Việt Nam liên quan đến việc điều hịa lợi ích của cổ đông và của
người quản lý công ty trong CTĐC (mơ hình cơng ty có phân tán trong cơ cấu cổ
đông). Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của một số nước điển
hình (Anh, Pháp và Trung Quốc), nhóm nghiên cứu rút ra các bài học kinh nghiệm,
từ đó đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta để đưa ra những kiến nghị
góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan của Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề pháp lý liên quan đến quản trị CTĐC (chú trọng
vào các quy định có mục đích tạo sự cân bằng trong bảo vệ quyền lợi của cổ động
và của người quản lý công ty) và giám sát các giao dịch mang tính chất tư lợi của
người quản lý CTĐC theo pháp luật của một số nước điển hình (Anh, Pháp và
Trung Quốc) và pháp luật Việt Nam.
Đề tài được thực hiện nhằm những mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tách bạch giữa quyền sở
hữu và quản lý, điều hành CTĐC.
Thứ hai, tìm hiểu pháp luật của một số nước điển hình (Anh, Pháp và Trung Quốc)
về quản trị cơng ty và một số nội dung có liên quan của thị trường chứng khốn
trong việc điều hịa lợi ích giữa người quản lý công ty và các cổ đông trong CTĐC
– nơi mà xuất phát từ cơ cấu cổ đông, có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền
quản lý, điều hành cơng ty, từ đó rút ra bài học kinh nghiêm cho Việt Nam.
4
Thứ ba, tìm hiểu các quy định của pháp luật thực định hiện hành của Việt Nam về
quản trị CTĐC và giám sát hoat động của người quản lý công ty trên thị trường
chứng khoán và đánh giá những bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Thứ tư, trên và trên cơ sở học hỏi một số kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài, đề
xuất các kiến nghị nhằm điều hịa lợi ích của cổ đơng và người quản lý CTĐC.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm tác giả sẽ sử dụng phối kết hợp các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng trong khoa học xã hội để thực hiện công trình nghiên cứu. Trong đó, phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp so sánh luật. Nhóm nghiên cứu sẽ thực
hiện việc nghiên cứu các quy định pháp luật về quản trị cơng ty của một số quốc gia
điển hình như Anh, Pháp và một số nước lân cận có một số quan điểm xây dựng
pháp luật cũng như đặc điểm lịch sử và văn hóa tương đối tương đồng với Việt Nam
như Trung Quốc, cũng như một số nguyên tắc quản trị công ty đã được các chuyên
gia hàng đầu trên thế giới thu thập, hệ thống hóa và phát triển (như các nguyên tác
quản trị công ty của OECD), sau đó đối chiếu với các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam để rút ra những luận cứ khoa học, làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn
thiện các quy định pháp luật liên quan đến chế định pháp lý về tổ chức, quản lý
CTCP, đặc biệt là CTĐC.
Ngồi phương pháp so sánh luật, nhóm nghiên cứu cũng sẽ sử dụng các
phương pháp khác như phân tích, chứng minh, diễn giải, nghiên cứu thực tiễn áp
dụng pháp luật để bình luận và làm sáng tỏ các nội dung thuộc nhiệm vụ nghiên
cứu. Đây là những phương pháp nghiên cứu truyền thống thường được sử dụng để
nghiên cứu các vấn đề khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng.
Nhóm nghiên cứu sẽ nỗ lực để có thể nghiên cứu các tình huống thực tiễn cụ thể để
có thể xây dựng các kiến nghị có khả năng thực thi, nhằm góp phần hồn thiện các
quy định pháp luật liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Nhóm tác giả sẽ sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử để thực hiện đề tài nghiên cứu. Các bình luận phân tích liên quan đến quy định
của các nước được nghiên cứu trong đề tài này sẽ được đánh giá trên cơ sở có tính
đến hồn cảnh lịch sử và cơ sở thực tiễn của các quy định cụ thể đó.
5. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
Khi thực hiện được mục tiêu đặt ra, cơng trình nghiên cứu sẽ góp phần làm
phong phú tài liệu giảng dạy, nghiên cứu khoa học pháp lý và đóng góp các luận cứ
khoa học cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề quản trị
CTĐC và góp phần vào mục tiêu minh bạch hóa thị trường chuyển nhượng cổ phần
của CTĐC ở nước ta, với mục địch cuối cùng là bảo vệ các cổ đông công chúng đầu
tư vào CTĐC.
5
6. Bố cục của báo cáo tổng hợp
Ngồi lời nói đầu và phần kết luận, báo cáo tổng hợp công trình nghiên cứu
này được trình bày thành 3 chương, bao gồm
Chương 1 : Những vấn đề lý luận cơ bản về công ty đại chúng và sự tách
bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành trong công ty đại chúng
Chương 2 : Vấn đề điều hòa lợi ích của cổ đông và của người quản lý trong
pháp luật về công ty của một số quốc gia điển hình và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam
Chương 3 : Vấn đề điều hịa lợi ích của cổ đơng và của người quản lý công
ty đại chúng theo pháp luật Việt Nam và một số kiến nghị
6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ
PHẦN ĐẠI CHÚNG VÀ SỰ TÁCH BẠCH GIỮA QUYỀN SỞ HỮU VÀ
QUYỀN QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG
1.1 Khái quát về CTĐC
1.1.1 Khái niệm và đặc trưng của CTĐC
1.1.1.1 Khái niệm
CTĐC là một hình thức doanh nghiệp mở, có nhiều thuận lợi trong việc thu
hút vốn đầu tư do tính chất dễ dàng của việc chuyển nhượng cổ phần. CTĐC hình
thành là kết quả của sự phát triển thị trường vốn, khi có nhiều cổ đông công chúng
tham gia đầu tư vào CTCP. Định nghĩa thế nào là CTĐC có thể được diễn đạt
khơng hoàn toàn giống nhau trong các tài liệu khác nhau cũng như trong pháp luật
của các quốc gia khác nhau.
Theo Từ điển The Oxford Modern English thì “CTĐC là cơng ty bán cổ
phiếu của mình cho tất cả những người mua trên thị trường mở”1. Khoản 9 Điều 4
của Luật Chứng khoán Ba Lan quy định “CTĐC được hiểu là nói đến một cơng ty
có cổ phiếu của ít nhất một lần phát hành được chấp thuận cho giao dịch nơi cơng
chúng”. Khoản 1 Điều 10 Luật Chứng khốn Bungary năm 1999 định nghĩa “CTĐC
là công ty: (i) đã phát hành cổ phiếu của công ty theo các điều kiện của việc phát
hành ra công chúng lần đầu: hoặc (ii) đã đăng ký với UBCKNN về việc phát hành
chứng khoán với mục đích tham gia giao dịch tại TTCK được quản lý”. Các khái
niệm này dựa trên hai tiêu chí là cổ phiếu được chào bán rộng rãi ra công chúng và
được phép giao dịch trên thị trường chứng khoán. Như vậy các khái niệm này chủ
yếu tiếp cận CTĐC từ khả năng và cách thức phát hành và chuyển nhượng cổ phần
mà không phụ thuộc vào quy mô vốn.
Ở Anh, CTĐC được gọi là Public Limited Company, viết tắt là Plc. Plc cần
có số vốn tối thiểu là 50.000 bảng Anh, được huy động vốn và giao dịch cổ phần
rộng rãi, số cổ đông tham gia không giới hạn và có tối thiểu hai thành viên quản trị
thường trực2. Ở Úc, Điều 112 Luật Công ty của Úc (Coporations Act 2001) quy
định điểm khác biệt giữa công ty nội bộ (proprietary company) và công ty công
cộng hay CTĐC (public company) ở bộ máy quản lý điều hành. Công ty nội bộ chỉ
cần phải có ít nhất một giám đốc (GĐ) và khơng bắt buộc phải có thư ký cơng ty,
cịn các cơng ty cơng cộng phải có ít nhất ba GĐ và ít nhất một thư ký cơng ty.
Đồng thời chỉ có cơng ty cơng cộng mới có quyền huy động vốn bằng việc phát
hành cổ phiếu ra công chúng3.
Như vậy, dù có sự khác nhau trong cách định nghĩa nhưng có thể thấy CTĐC
khơng phải là một loại hình doanh nghiệp riêng biệt mà là tình trạng pháp lý mà
doanh nghiệp “chạm đến hay rơi vào theo ước lệ sau khi tiến hành một bước đi nào
1
Theo tác giả Tơn Tích Q (2006), Nâng cao tính minh bạch của CTĐC trên thị trường chứng khoán Việt
Nam, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Hà Nội, tr.7
2
Theo Huy Nam (2010), “Thế nào là CTĐC”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 22 (27/5/2010)
3
Bùi Xuân Hải, “Vài nét về các loại hình cơng ty theo Luật cơng ty của Úc”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số
6/2004
7
đó”4. Đây cũng khơng phải là loại hình doanh nghiệp mà nhà đầu tư bắt buộc phải
lựa chọn từ trước. Ví dụ ở Mỹ có hai loại cơng ty là cơng ty đóng (closely held
corporation) là cơng ty khơng bán cổ phiếu ra công chúng và công ty mở (public
held copration) là công ty niêm yết trên thị trường chứng khốn. Như vậy, căn cứ
vào việc cơng ty có đăng ký chứng khốn để bán ra cơng chúng hay khơng thì
“cơng ty đóng” sẽ thành “cơng ty mở”5 . Tình trạng pháp lý mà CTĐC đạt đến để
tạo ra sự khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp thơng thường khác là ở các
khả năng huy động vốn rộng rãi trên các sàn giao dịch chứng khoán, số lượng cô
đông, quy mô vốn và những quy chế riêng về quản lý, điều hành…
Theo quy định của pháp luật Việt Nam6, CTĐC là CTCP thuộc một trong ba
loại hình sau đây:
a)
b)
Công ty đã thực hiện việc chào bán cổ phiếu ra cơng chúng. Để có thể thực
hiện được việc chào bán cổ phiếu ra công chúng, CTCP phải thỏa mãn các
điều kiện sau: (i) có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán
từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán; (ii)
hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi,
đồng thời khơng có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán; và (iii) có
phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán
được Đại hội đồng cổ đông (“ĐHĐCĐ”) thông qua7.
Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung
tâm giao dịch chứng khoán. Để được niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán
hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán, CTCP phải đáp ứng các điều kiện
quy định tại điều 53 Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 7 năm 2012
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán 2006 (“Nghị định
58/2012/NĐ-CP”) (khi niêm yết trên Sở giao dịch chứng khốn Tp. Hồ Chí
Minh - HOSE) hoặc điều 54 Nghị định 58/2012/NĐ-CP (khi niêm yết trên
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội - HNX). Về cơ bản, các điều kiện quan
trọng cần đáp ứng để có thể niêm yết chứng khốn trên các sở giao dịch
chứng khoán là các điều kiện liên quan tới (i) yêu cầu tối thiểu về vốn điều lệ
đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết; (ii) đáp ứng yêu cầu về thời hạn hoạt
động tối thiểu dưới hình thức CTCP, về tỷ lệ lợi nhuận sau thuế tối thiểu;
(iii) đáp ứng u cầu về tính cơng khai đối với khoản nợ của công ty với
những người quản lý cơng ty, cổ đơng và những người có liên quan của
những người này; và (iv) có số lượng cổ đơng lớn; có cam kết của cổ đơng
lớn là người có liên quan của thành viên các cơ quan quản lý, điều hành cơng
ty, cam kết của cổ đơng có đại diện tham gia quản lý, kiểm sốt hoặc điều
hành cơng ty về việc khơng chuyển nhượng cổ phần mà mình nắm giữ trong
thời hạn luật định.
4
Theo Huy Nam (2010), tlđd, tr.24
Hoàng Thị Thu Hằng (2010), Cơ chế giám sát hoạt động quản lý trong CTCP theo pháp LDN 2005 ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, TP.HCM.
6
Quy định tại Điều 27 Luật Chứng khoán số 70/2006/QH 11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 được sửa đổi bổ
sung bởi Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán số 62/2010/QH12 (sau đây gọi chung là
“Luật Chứng khoán 2006”).
7
Khoản 1 Điều 12 Luật Chứng khoán 2006.
5
8
c)
Cơng ty có cổ phiếu được nắm giữ bởi ít nhất 100 nhà đầu tư sở hữu, không
kể nhà đầu tư chứng khốn chun nghiệp và cơng ty phải có vốn điều lệ đã
góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên. Ngày CTCP trở thành CTĐC được
tính từ ngày cổ đơng đã hồn thành việc góp vốn đầy đủ và có đủ từ 100 cổ
đơng trở lên được ghi nhận trong sổ cổ đông8.
Như vậy, để được trở thành CTĐC, một công ty phải đáp ứng các điều kiện
sau đây: (i) phải là CTCP; (ii) có vốn điều lệ đã góp lớn (từ 10 tỉ đồng trở lên) và
(iii) có số lượng cổ đơng lớn (ít nhất là 100 cổ đông). Trong trường hợp CTCP đã
niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khốn thì
khơng đặt ra u cầu phải có ít nhất 100 cổ đơng.9
1.1.1.2 Đặc trưng pháp lý
Như đã trình bày ở trên, bản thân CTĐC không phải là một doanh nghiệp có
hình thức pháp lý riêng biệt. Một cơng ty sẽ trở thành CTĐC khi nó đạt đến các tiêu
chí mà pháp luật đặt ra. Vì vậy, các CTĐC trước hết mang đầy đủ các đặc điểm
pháp lý của một CTCP. Mặc dù pháp luật của các nước khác nhau đưa ra các tiêu
chí khác nhau để xác định thế nào là một CTĐC, CTĐC nói chung có các đặc điểm
sau:
Thứ nhất, CTĐC là những CTCP có phát hành cổ phần ra công chúng
CTĐC theo quy định của hầu hết các quốc gia đều có quyền phát hành cổ
phần ra cơng chúng. Chính đặc điểm này làm cho CTĐC có số lượng cổ đơng lớn
và có nhiều nhà đầu tư không chuyên (các nhà đầu tư công chúng).
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định CTĐC phải có tối thiểu là 100 nhà
đầu tư (khơng tính các nhà đầu tư chứng khốn chun nghiệp). Khi CTĐC khơng
cịn đủ số lượng tối thiểu 100 nhà đầu tư thì phải hủy đăng ký CTĐC (có nghĩa là
khơng cịn đáp ứng quy định về số lượng cổ đông tối thiểu để là CTĐC nữa)10. Đối
với các công ty niêm yết, khi số lượng các cổ đông (không phải là cổ đông lớn) sở
hữu số cổ phần có quyền biểu quyết tối thiểu là 20% (đối với các công ty niêm yết
tại HOSE) hoặc tối thiểu là 15% (đối với các công ty niên yết trên HNX) giảm
xuống dưới 300 (đối với các công ty niêm yết tại HOSE) và dưới 100 (đối với các
cơng ty niêm yết tại HNX) thì cũng phải hủy niêm yết11. Tuy nhiên khi CTCP bị
hủy niêm yết do không đủ số lượng cổ đông nắm giữ tỷ lệ cổ phần tối thiểu theo
quy định trình bày ở trên nhưng vẫn đủ số lượng cổ đông tối thiểu là 100 thì vẫn là
CTĐC.
8
Khoản 3 Điều 34 Nghị định 58/2012/NĐ-CP.
Theo quy định tại điểm d, Khoản 1 Điều 53 Nghị định 58/2012/NĐ-CP để có thể được niêm yết trên HOSE,
tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của cơng ty phải do ít nhất ba trăm (300) cổ đơng không phải cổ
đông lớn nắm giữ. Theo quy định tại điểm c, Khoản 1 Điều 54 Nghị định 58/2012/NĐ-CP để có thể được
niêm yết trên HNX, tối thiểu 15% cổ phiếu có quyền biểu quyết của cơng ty phải do ít nhất một trăm (100) cổ
đông không phải cổ đông lớn nắm giữ.
10
Khoản 1 Điều 36 Nghị định 58/2012/NĐ-CP.
11
Điểm a, khoản 1 Điều 60 Nghị định 58/2012/NĐ-CP.
9
9
Thứ hai, CTĐC có khả năng huy động vốn rộng rãi và có khả năng chuyển
nhượng vốn dễ dàng.
Huy động vốn bằng cách phát hành các loại chứng khoán và khả năng
chuyển nhượng vốn tự do là những đặc trưng pháp lý của CTCP so với các loại hình
doanh nghiệp khác. Song, điểm khác biệt giữa các CTCP thông thường và CTĐC
chính là ở phạm vi phát hành chứng khốn mà cơng ty có thể thực hiện. Nếu ở các
CTCP thông thường, việc phát hành cổ phần được thực hiện một cách trực tiếp,
không công khai rộng rãi, với các đối tượng được xác định cụ thể và có giới hạn về
đối tượng được mua cổ phiếu (việc phát hành cổ phần phổ thông bắt buộc phải chào
bán cho các cổ đông hiện hữu tương ứng với số cổ phần đang nắm giữ của các cổ
đơng), thì với CTĐC, cổ phần có thể được phát hành rộng rãi trên thị trường mở (thị
trường chứng khốn), cho các đối tượng khơng giới hạn. Ngoài ra, các cổ phần của
các CTĐC, đặc biệt là các công ty niêm yết là các cổ phần được chuyển nhượng tự
do. Đặc điểm này làm gia tăng số lượng cổ đông của CTĐC và sự thay đổi cổ đơng
có thể diễn ra nhanh chóng, liên tục. Điều này có thể dẫn đến hai hệ quả, một là số
lượng cổ đơng lớn có thể dẫn đến sự phân hóa lợi ích giữa các nhóm cổ đơng, làm
cho việc thống nhất các vấn đề trong công ty trở nên khó khăn hơn, hai là sự thay
đổi cổ đơng liên tục sẽ ảnh hưởng lớn đến cơ cấu quyền lực, vấn đề tổ chức, quản lý
của CTĐC.
Thứ ba, xuất phát từ tính chất phân tán của cơ cấu cổ đơng, trong CTĐC
thường có sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành công ty.
Ở các cơng ty đóng (các cơng ty quản trị theo kiểu gia đình), người sáng lập
thường đồng thời là người điều hành, hoặc phân chia công việc điều hành cho
những người thân tín trong gia đình12. Với số lượng cổ đơng ít, mọi cổ đơng đều có
thể gây ảnh hưởng và quan tâm ở nhiều mức độ đến việc quản lý cơng ty hoặc do
các cổ đơng thường có mối quan hệ gia đình, nên các thành viên khơng tham gia
quản lý hoàn toàn tin tưởng vào các thành viên tham gia quản lý là người trong
cùng gia đình hoặc có mối quan hệ thân thiết đại diện cho mình. Ở các cơng ty như
vậy, hầu như khơng có sự tách bạch đáng kể giữa những người sở hữu vốn và người
quản lý, điều hành công ty.
Ngược lại, ở các CTĐC, việc quản lý công ty được xây dựng dựa trên mơ
hình liên quan trực tiếp đến bản chất của quyền sở hữu của số đơng. Vì có q nhiều
cổ đơng, ít có cổ đơng sở hữu vốn lớn đến mức có thể chi phối được cơng ty. Ngồi
ra, do tính chất chuyển nhượng cổ phần dễ dàng và với sự hỗ trợ của thị trường
niêm yết, cổ đông của CTĐC thay đổi thường xuyên, cổ đông của CTĐC thường
quan tâm nhiều đến lợi ích ngắn hạn (cổ tức) mà ít quan tâm đến việc chi phối, quản
lý công ty thông qua đồng vốn của mình. Việc quản lý cơng ty được cổ đơng giao
phó hồn tồn cho những người quản lý công ty với tin tưởng rằng những người này
sẽ làm cho đồng vốn của họ sinh sôi, nảy nở nhiều hơn. Sự tách biệt giữa người sở
hữu công ty và người quản lý, điều hành dẫn đến hai hệ quả tất yếu : (i) Một là,
xuất phát từ vấn đề lợi ích, những người được chủ sở hữu trao quyền quản lý công
12
Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội , Hà Nội, tr. 367
10
ty thực hiện việc quản lý tài sản, đồng vốn của người khác chứ khơng phải của
chính mình nên có xu hướng trục lợi, đặt lợi ích bản thân lên trên lợi ích của người
mà minh đại diện (cổ đơng) (ii) hai là, vì khơng trực tiếp quản lý cơng ty và cũng
không quan tâm nhiều đến việc quản lý cơng ty nên các chủ sở hữu thường có xu
hướng “bỏ phiếu bằng cả hai chân” (ý nói cao chạy xa bay) tức là bán cổ phiếu của
họ khi hoạt động của công ty không được như mong đợi. Cá nhân các cổ đơng của
các cơng ty có cơ cấu cổ đơng phân tán ít có khả năng ảnh hưởng đến những quyết
định của hội đồng quản trị.Việc quản lý các CTCP phản ánh mơ hình các cổ đơng
thụ động nhưng lại biến đổi nhanh khi tạo ra áp lực thị trường đối với hoạt động
kinh doanh13 và mối liên lệ giữa cổ đơng với cơng ty vì vậy mà khá lỏng lẻo. Như
vậy, sự tách biệt giữa những người sở hữu và người quản lý, điều hành trong
CTĐC luôn có xu hướng tạo ra sự mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và
người quản lý, từ đó đặt ra những nhiệm vụ quan trọng cho quản trị công ty như
một công cụ thiết yếu để bảo vệ quyền lợi của những người chủ thực sự (cổ đơng),
đảm bảo sự làm việc hiệu quả và hết mình của người quản lý, cũng như điều hòa
mối quan hệ về lợi ích giữa hai chủ thể này.
Tóm lại, trong CTĐC, việc tham gia quản lý công ty của các cổ đông thường
bị hạn chế xuất phát từ các lý do sau (i) phần lớn cổ đông công ty không đủ khả
năng và điều kiện tham gia quản lý, điều hành cơng ty vì số lượng cổ đơng đơng
đảo hoặc cổ đơng khơng đủ năng lực và trình độ quản lý; (ii) các cổ đơng CTĐC
thường được nhìn nhận như những nhà đầu tư tài chính thuần túy. Vì vậy, họ
thường khơng mong muốn hoặc khơng có khả năng tham gia vào công việc kinh
doanh của công ty; và (iii) tính phức tạp của thị trường và mục tiêu phát triển của
cơng ty địi hỏi một đội ngũ quản lý và điều hành cơng ty ổn định và có tính chun
nghiệp.
Thứ tư, ngồi các quy định về quản trị cơng ty, CTĐC còn chịu sự giám sát
của các quy định của pháp luật về thị trường chứng khoán.
CTĐC là thường đồng thời là các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Ngay cả khi CTĐC chưa niêm yết trên thị trường chứng khốn thì các quy
định như việc phát hành chứng khốn ra cơng chúng, các quy định về cơng bố thơng
tin của các cơng ty này, kiểm sốt giao dịch nội gián… cũng thường được pháp luật
về chứng khoán quy định14. Nhằm đảm bảo quyền lợi của các cổ đông công chúng,
các quy định của pháp luật về nghĩa vụ công bố thông tin của các CTĐC thường rất
nghiêm ngặt.
Khi một công ty chỉ của một số cổ đơng nhất định, với việc quản lý mang
tính chất nội bộ thì những người quản lý cơng ty cũng thường là các cổ đơng lớn và
họ có xu hướng thâu tóm tất cả các thơng tin. Vì các cơng ty này thuộc tài sản tư
của một số người, các quyết định kinh doanh mang tính nội bộ, tình hình tài chính
doanh nghiệp cũng khơng thể được tiết lộ ra bên ngồi. Minh bạch tài chính trở nên
John L. Ward (2005), “Quản lý doanh nghiệp gia đình”, Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng
2/2005 (Nguồn: />14
Theo pháp luật về chứng khoán hiện hàng của Việt Nam phần lớn các quy định về công ty niêm yết được
áp dụng với CTĐC chưa niêm yết, đặc biệt là các quy định về công bố thông tin.
13
11
khó khăn và giao dịch nội gián là tất yếu và thường xuyên15. Tuy vậy, điều này cũng
không làm ảnh hưởng nhiều đến thị trường và cơng chúng vì các cơng ty nội bộ
khơng có sự tham gia nhiều của cổ đông công chúng.
Do các CTĐC đều phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng hoặc niêm yết
trên thị trường chứng khốn nên những cơng ty này chịu sự giám sát cao của xã hội,
của công chúng. Sự giám sát này địi hỏi cơng ty phải có một chế độ công khai
thông tin một cách rõ ràng và minh bạch. Các nghĩa vụ công bố thông tin về báo cáo
tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, các giao dịch của người quản lý công
ty… trên các phương tiện thông tin một cách công khai để các chủ thể có nhu cầu
đều có thể biết là nghĩa vụ riêng chỉ có ở CTĐC mà khơng có ở các CTCP khác.
1.1.2 Lịch sử hình thành CTĐC và pháp luật về CTĐC
CTĐC (CTĐC) trước hết là một loại hình CTCP (CTCP), vì vậy nó có lịch
sử hình thành gắn liền với sự hình thành của loại hình cơng ty đối vốn mà cụ thể là
CTCP16.
CTCP với chế độ trách nhiệm hữu hạn được hình thành từ thế kỷ14, khi mà
các đơ thị và các phường hội bắt đầu phát triển. Những CTCP đầu tiên hình thành từ
những đạo luật riêng biệt của quốc hội hoặc những sắc lệnh của Hoàng gia. Công ty
Anh Đông Ấn (British East India Company) được xem là CTCP đầu tiên trên thế
giới được hình thành trên cơ sở một sắc lệnh của Nữ hoàng Elizabeth I17. Thời kỳ
đầu, khi các CTCP được hình thành, các cơng ty này chủ yếu được hình thành bởi
các nhà nước thực dân nhằm khai thác các thuộc địa mới ở Châu Mỹ và Ấn Độ. Đến
thế kỷ 18, khi quyền tự do kinh doanh bắt đầu được thừa nhận rộng rãi, ngày càng
xuất hiện nhiều CTCP trong lĩnh vực tư nhân, chủ yếu trong các lĩnh vực đòi hỏi
vốn đầu tư lớn và có nhiều rủi ro như hàng hải, ngân hàng…. Với đặc điểm nổi bật
là khả năng chuyển nhượng cổ phần dễ dàng và chế độ trách nhiệm hữu hạn, trách
nhiệm của cổ đông và việc bảo vệ quyền lợi của cổ đơng địi hỏi sự quan tâm điều
chỉnh của pháp luật. CTCP là loại hình cơng ty đối vốn được điều chỉnh sớm của
pháp luật. Luật Công ty Cổ phần năm 1844 của Anh (Joint Stock Company Act
1844) được coi là luật riêng biệt đầu tiên điều chỉnh CTCP. Ngoài ra, Bộ luật
Thương mại năm 1807 của Pháp (Code de Commence 1807) hay Bộ luật Thương
mại chung của Đức năm 1861 (Allgemeines Deutsches Handelsgesetzbuch) đều có
các quy định điều chỉnh CTCP. Luật Công ty Cổ phần 1844 của Anh lần đầu tiên
cho phép việc thành lập công ty thông qua việc đăng ký.
Tuy nhiên các nước khác nhau có các quy định khác nhau trong việc điều
chỉnh CTCP và ngay cả trong cách gọi tên. Đa số nước dùng khái niệm “public
company” để chỉ CTCP – có nghĩa là cơng ty có quyền phát hành cổ phần ra công
chúng, và khái niệm “private company” để chỉ công ty mang tính chất nội bộ
15
Phạm Duy Nghĩa (2004), tlđd, tr. 367
Về lịch sử hình thành của CTCP và pháp luật về CTCP, xem thêm Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
(2013), Giáo trình pháp luật về Chủ thể kinh doanh, Nxb. Hồng Đức, tr. 224-227.
17
/>16
12
(khơng có quyền phát hành cổ phần ra cơng chúng)18. Tuy vậy cả hai loại “public
company” và “private company” đều có thể có chế độ trách nhiệm hữu hạn và đều
có thể phát hành cổ phần (“share”). Theo các Luật Cơng ty của Anh, Úc, Mỹ… thì
các loại cơng ty này đều có thể được thành lập dưới hình thức “company limited by
shares”. Điểm khác nhau giữa hai loại công ty này là khả năng và cách thức huy
động vốn trong công chúng. Như vậy, nếu so sánh với các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành, thì CTCP của Việt Nam khá tương đồng với loại “company
limited by shares” theo pháp luật các nước Anh – Mỹ, trong khi CTĐC lại tương
đồng với khái niệm “public company” hay “public limited company”.
Như đã trình bày trong phần khái niệm và đặc điểm, CTĐC trước hết phải là
CTCP hay nói cách khác là cơng ty có vốn điều lệ được chia thành các phần bằng
nhau và các cổ đông (những người sở hữu cổ phần) có chế độ trách nhiệm hữu hạn,
có nghĩa là họ chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ khác của công
ty trong phạm vi phần vốn góp của mình. Mặc dù một số nước có thể khơng có sự
phân biệt giữa CTCP và CTĐC như Việt Nam, sự khác biệt có thể thấy rõ giữa
CTĐC và các cơng ty có phát hành cổ phần khác là CTĐC có quyền phát hành cổ
phần ra cơng chúng và có quyền niêm yết cổ phần của mình trên thị trường chứng
khốn (mặc dù tất nhiên việc niêm yết chứng khốn cịn phụ thuộc vào quy mô của
công ty và pháp luật về thị trường chứng khốn).
Như vậy, so với với CTCP truyền thống (có phát hành cổ phần và có chế độ
trách nhiệm hữu hạn) nói chung, CTĐC xuất hiện muộn hơn do sự hình thành và
phát triển của CTĐC gắn liền với sự ra đời và phát triển của thị trường chứng
khoán, tức là khi mà hoạt động đầu tư vào cổ phần đã trở thành một cách thức kinh
doanh – một bước phát triển mới của hoạt động đầu tư. Như vậy sự pháp triển của
pháp luật điều chỉnh CTĐC còn gắn liền với các quy định của pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán19. Như vậy, khác với CTCP nói chung, CTĐC cịn
phải chịu sự điều chỉnh của các quy định về chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
Như đã trình bày trong phần trên, theo quy định tại Điều 27 Luật Chứng
khoán 2006, CTĐC ở Việt Nam là CTCP đáp ứng một số điều kiện nhất định. Lịch
sử hình thành CTĐC ở nước ta gắn liền với lịch sử hình thành CTCP. Có thể sơ
lược lịch sử hình thành CTCP ở nước ta như sau :
CTCP đã được tồn tại dưới hình thức “hội vơ danh” theo quy định tại Bộ
Dân luật thi hành tại các tòa Nam án Bắc kỳ năm 193120. Bộ luật Thương mại
Trung phần năm 1942 cũng quy định về loại công ty này dưới tên gọi “công ty vô
danh”21. Bộ luật Thương mại năm 1972 của chính quyền Việt Nam Cộng hịa cũng
18
Xem Điều 755 Luật Công ty 2006 (Anh quốc).
Lịch sử phát triển của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khốn được trình bày cụ thể hơn trong
phần 1.3.1 Lịch sử vấn đề tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành CTĐC trên thế giới bên
dưới.
20
Xem Chương IX, Tiết thứ 5 Bộ Dân luật thi hành tại các tòa Nam án Bắc kỳ.
21
Xem Điều 102-142, 159-171 Bộ luật Thương mại Trung kỳ.
19
13
có quy định về CTCP dưới tên gọi “hội nặc danh”22. “Hội vô danh”, “công ty vô
danh” hay “hội nặc danh” trong các bộ luật này đều là sự sao chép mơ hình cơng ty
“société anonyme” từ Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807 hoặc tiếp nhận mơ hình
cơng ty này từ Luật số 66-537 ngày 24/7/1966 về các công ty thương mại.
Trong pháp luật Việt Nam thống nhất, CTCP được quy định lần đầu tiên một
cách tương đối sơ lược trong Luật Công ty 1990 với 14 điều. LDN 1999 kế thừa và
phát triển một cách đáng kể loại hình cơng ty này với 44 điều. Luật nghiệp 2005 là
một bước tiến lớn trong các quy định của pháp luật điều chỉnh các loại hình doanh
nghiệp của nước ta, trong đó có CTCP (số lượng các điều khoản quy định về CTCP
đã tăng lên 53 điều). Lần đầu tiên ở nước Việt Nam thống nhất có một luật để quy
định về tất cả các loại hình doanh nghiệp, khơng phụ thuộc vào hình thức sở hữu.
Cơ sở pháp lý cho việc hình thành thị trường chứng khốn ở nước ta
là Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/71998 của Chính phủ về chứng khoán và
thị trường chứng khoán và Quyết định số 127/1998/QĐ-Ttg về việc thành lập hai
trung tâm giao dịch chứng khốn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 20/7/2000, Trung tâm giao dịch chứng khốn TP. Hồ Chí Minh chính
thức ra đời đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các CTĐC. Đồng thời,
cùng với chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, việc cho phép thí điểm
chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi sang hoạt động dưới hình thức
CTCP23 đã tạo tiền đề pháp lý cho việc hình thành ngày càng nhiều các CTĐC ở
Việt Nam.
Như vậy, ở nước ta, mặc dù khái niệm CTĐC mới chỉ được pháp điển hóa
lần đầu tiên trong Luật chứng khốn 2006 nhưng thực tế đã xuất hiện mơ hình
CTĐC từ trước đó và được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp lý khác nhau.
1.2 Cơ cấu quyền lực trong CTĐC và các mơ hình tổ chức quản lý CTĐC phổ
biến
1.2.1. Cơ cấu quyền lực trong CTĐC
Cơ cấu quyền lực trong CTCP nói chung và CTĐC nói riêng có thể được
chia thành hai nhóm cơ bản: Quyền lực của các cơ quan trong cơ cấu tổ chức quản
lý CTCP thông qua việc thực hiện quyền quản lý công ty, và quyền lực của các cổ
đông trong việc thực hiện quyền sở hữu đối với CTCP. Hai nhóm quyền lực này,
một mặt duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển của CTCP, mặt khác nhằm bảo
vệ tối đa quyền lợi của các cổ đông, đặc biệt là cổ đông thiểu số.
Xuất phát từ các đặc trưng của CTĐC đã được phân tích ở trên, quyền quản
lý trong CTĐC khơng và khơng thể phân bổ cho tất cả các cổ đông mà tập trung vào
bộ máy quản lý có tính chun nghiệp. Các cổ đông với tư cách là chủ sở hữu công
22
Xem Điều 236-278, 295-314 Bộ luật Thương mại năm 1972 của Việt Nam Cộng hòa.
Xem Nghị định 38/2003/NĐ-CP về việc thí điểm chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi sang hoạt động dưới hình thức CTCP.
23
14
ty có quyền bầu ra bộ máy quản lý cơng ty nhưng bản thân mỗi cổ đông không phải
là người quản lý công ty. Về mặt lý luận, mối quan hệ giữa người quản lý công ty
với các cổ đông có thể được xem như quan hệ ủy quyền. Người quản lý cơng ty
thực hiện quyền lực vì lợi ích chung của cơng ty và cổ đơng. Các nhóm quyền quản
lý công ty được trao cho các cơ quan khác nhau, một mặt đảm bảo sự phân công,
phân nhiệm và chế ngự lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực
của mình; mặt khác có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của các nhà
đầu tư thiểu số, bảo vệ lợi ích của các chủ thể có quan hệ với cơng ty, đồng thời
ngăn chặn tính tư lợi, cơ hội của các nhà đầu tư đa số và người quản lý công ty.
Cơ cấu quyền lực trong CTCP chịu sự chi phối của cấu trúc sở hữu. Về mặt
lý luận, có hai loại cấu trúc sở hữu trong CTCP, đó là cấu trúc cổ đông phân tán và
cấu trúc tập trung. Trong cấu trúc sở hữu tập trung, cả quyền sở hữu lẫn quyền kiểm
sốt cơng ty tập trung vào tay một số cổ đơng của cơng ty, họ thường kiểm sốt và
chi phối lớn đến cách thức công ty vận hành. Trong cấu trúc này, những cổ đơng
lớn kiểm sốt doanh nghiệp trực tiếp bằng cách tham gia Hội đồng quản trị và ban
điều hành. Cổ đơng lớn có thể khơng sở hữu vốn tồn bộ nhưng có quyền biểu
quyết đáng kể, nên vẫn có thể kiểm sốt được cơng ty. Trong cấu trúc sở hữu phân
tán thì có nhiều cổ đơng, mỗi cổ đông sở hữu một số cổ phần doanh nghiệp, quyền
kiểm sốt hoạt động cơng ty trong thực tế sẽ do thành viên HĐQT (một số quốc gia
gọi là ban GĐ (Board of Directors) nắm giữ. Các cổ đông nhỏ/thiểu số ít có động
lực để kiểm tra chặt chẽ hoạt động và không muốn tham gia điều hành công ty.
Mỗi hệ thống cấu trúc sở hữu có những điểm thuận lợi và bất lợi cũng như
tiềm ẩn những thách thức về quản trị doanh nghiệp. Cấu trúc sở hữu tập trung dễ
dẫn doanh nghiệp đến những thất bại trong quản trị vì các cổ đơng lớn, những người
đồng thời nắm quyền quản lý, điều hành cơng ty có thể không phải là những người
quản lý chuyên nghiệp. Đồng thời, khi những người quản lý điều hành là các cổ
đông lớn, họ sẽ ra các quyết định có lợi cho mình nhưng lại khơng có lợi cho các cổ
đơng nhỏ/thiểu số trong cơng ty.
Đối với các cơng ty có cấu trúc sở hữu phân tán (các CTĐC phần lớn có
hoặc sẽ dẫn đến việc có cấu trúc sở hữu này), quyền quản lý công ty thường được
trao cho bộ máy quản lý chuyên nghiệp bao gồm những người có thể không phải là
cổ đông công ty hoặc nếu là cổ đơng thì cũng khơng phải là cổ đơng có sổ lượng cổ
phần đủ lớn để kiểm sốt cơng ty và càng khơng thể đại diện cho lợi ích của tất cả
hay phần lớn các cổ đông của công ty như những người quản lý cơng ty trong mơ
hình cơng ty có cơ cấu cổ đơng tập trung. Vì vậy mà ở các cơng ty này có sự phân
tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý điều hành trong công ty. Quản lý và điều
hành (control) được hiểu là một quá trình nhằm đảm bảo các hoạt động được diễn ra
theo một mục tiêu đã được xác định. Quản lý điều hành bao gồm việc giám sát việc
thực hiện và điều chỉnh các hoạt động là đối tượng quản lý khi cần thiết. Quản lý và
điều hành được coi là một bộ phận trung tâm của hoạt động quản lý nói chung24.
Theo Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung (2009), quản lý điều hành trong
cơng ty là q trình đạt được các mục tiêu của tổ chức kinh doanh bằng cách kếp
24
Xem Christopher Pass et al (1994), Collins Dictionary of Business, Harper Collins Publishers.
15
hợp tối ưu các nguồn lực con người, vật chất, tài chính.25 Như vậy quản lý và điều
hành một cơng ty là việc điều khiển và giám sát công ty nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của công ty, mang về lợi ích cho chủ sở hữu cơng ty và các chủ thể khác
liên quan. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu và hoàn thành các kế hoạch hoạt
động của CTCP, việc quản lý và điều hành công ty phải được thực hiện bằng quyền
lực. Quyền lực này cho phép chủ thể nắm giữ quyền đó đưa ra các quyết định liên
quan đến sự tồn tại, phát triển của công ty trong các vấn đề quản lý hàng ngày và
trong từng giai đoạn cụ thể. Như vậy nghiên cứu vấn đề quản lý điều hành cơng ty
nói chung là nghiên cứu cơ chế ra quyết định trong công ty.
Quyền quản lý điều hành CTĐC tương đối đặc biệt so với các mơ hình cơng
ty khác. Nếu như trong cơng ty trách nhiệm hữu hạn hay trong công ty hợp danh,
quyền quản lý và điều hành công ty thuộc về tập thể các thành viên của công ty.
Mỗi thành viên cơng ty đều có quyền đưa ra các quyết định của mình để quản lý
cơng ty và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Trong CTĐC, quyền quản lý cơng ty
được tập trung vào một cơ quan chuyên nghiệp và riêng biệt, đó là HĐQT và GĐ
điều hành – những cơ quan quản lý chuyên nghiệp xuất phát từ tính chất phân tán
của cổ đông khiến cho các cổ đông phần lớn không muốn và không thể tham gia
vào bộ máy quản lý công ty. Như vậy, khác với mô hình quản lý các cơng ty có cơ
cấu cổ đơng tập trung, quyền lực quản lý CTĐC được trao cho các chủ thể quản lý
riêng biệt mà không trao cho tất cả các chủ sở hữu theo tỷ lệ sở hữu. Cũng chính từ
đặc trưng này, quyền quản lý, điều hành CTĐC được hình thành trên cơ sở ủy
quyền, hay nói cách khác, trong CTCP nói chung và CTĐC nói riêng, HĐQT và
ban GĐ điều hành là hai cơ quan được sự ủy quyền của các cổ đông. Họ được bầu
chọn từ các cổ đông hoặc được thuê theo sự quyết định của ĐHĐCĐ. Điều này khác
với các công ty nội bộ, nơi mà chủ sở hữu là người trực tiếp nắm quyền quản lý
điều hành như một thành tố của quyền sở hữu.
Như vậy, so với các mơ hình cơng ty nội bộ, quyền quản lý điều hành CTĐC
có sự khác biệt và tương đối độc đáo. Đó là tính tập trung quyền lực vào các chủ thể
chuyên nghiệp và tách biệt với chủ sở hữu và tính chất được xác lập trên cơ sở ủy
quyền của các cổ đơng cơng ty.
Cấu trúc quyền lực trong CTCP nói chung và CTĐC nói riêng ở Hoa Kỳ thể
hiện đặc trưng của cấu trúc quyền lực trong một cơ chế quản trị công ty hiện đại.
Trong CTĐC ở Hoa Kỳ, cổ đông là người bỏ tiền, hội đồng quản trị là người quản
lý tiền và TGĐ là người dùng tiền để kinh doanh. Cổ đông khi đầu tư vào công ty
luôn ln theo đuổi một mục đích nhất định, từ đó họ đặt ra giới hạn cho người sử
dụng tiền: người này có những quyền gì và trách nhiệm ra sao. Như vậy, cấu trúc
25
Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty cổ phần: vốn, quản lý và tranh chấp theo LDN
2005 2005, NXP Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh, tr.277.
16
quyền lực trong cơng ty có phản ánh sự chia sẻ quyền lực giữa các thành viên là nhà
đầu tư và người sử dụng tiền là Hội đồng quản trị cùng vai trị của TGĐ26.
Các cổ đơng ở Hoa Kỳ giao tiền cùng với quyền định đoạt số tiền ấy cho
những người quản lý, coi họ là những người đại diện cho mình để tiến hành kinh
doanh. Họ giữ lại một số quyền tối thiểu để bảo vệ mình, đồng thời ràng buộc trách
nhiệm đối với người đại diện của mình27. Quyền của cổ đơng chủ yếu được thực
hiện thơng qua cuộc họp ĐHĐCĐ và thể hiện ở hai nhóm quyền chính: (i) bầu, bãi
nhiệm HĐQT và (ii) phê chuẩn một số hoạt động bất thường của công ty. Bầu ra
HĐQT là quyền quan trọng nhất của cơng ty, vì thông qua hoạt động này họ chọn ra
người đại diện cho mình. Bầu HĐQT theo nhiệm kỳ cũng như bãi nhiệm thành viên
HĐQT tạo ra một áp lực lớn để buộc các thành viên HĐQT làm tốt cơng việc của
mình28.
Cổ đông CTĐC hầu như không thể tham gia vào việc quản lý điều hành công
ty, mà họ chỉ được cung cấp công cụ để bảo vệ vốn đầu tư của mình. Quyền lực hạn
chế như vậy phù hợp với các công ty quy mô lớn và tạo ra điều kiện mở rộng kinh
doanh. Cổ đông không trực tiếp quản lý cơng ty mà giao việc đó cho những đội ngũ
chun nghiệp. Thực chất của mơ hình cơng ty ở Hoa Kỳ là việc tiền của một nhóm
người với số lượng rất lớn được giao cho một nhóm nhỏ những người quản lý để tạo
ra giá trị mới cho các cổ phiếu29. Nhóm giao tiền là các cổ đơng, nhóm được dùng
tiền để kinh doanh là các nhà quản trị mà đứng đầu là TGĐ. Cổ đông rất cần cầu nối
với TGĐ để chắc chắn rằng vốn đầu tư của mình được dùng đúng với mục tiêu của
công ty. Cầu nối đó chính là HĐQT. Muốn như thế HĐQT phải là người đại diện
cho cổ đông, được giao quyền lực và bị ràng buộc bằng cơ chế chịu trách nhiệm,
HĐQT là trung tâm quyền lực của công ty. Tổng GĐ và các nhà quản trị cấp dưới
tiến hành công việc theo sự chỉ đạo từ HĐQT và chịu trách nhiệm trước HĐQT.
Nếu như quyền quan trọng nhất của cổ đông là bầu ra HĐQT thì nhiệm vụ hàng đầu
của HĐQT là lựa chọn TGĐ, theo dõi hoạt động của TGĐ để có những hướng dẫn
kịp thời và khi cần thiết có thể sa thải TGĐ30.
Nhận thức mới về cấu trúc quyền lực hiện đại chủ yếu xoay quanh sự chủ
động của cổ đông và HĐQT tham gia vào quản lý công ty mà vẫn không can thiệp
vào hoạt động điều hành của TGĐ. Một trong những vấn đề nổi bật nhất của điều
hành công ty là tăng sức mạnh cho HĐQT, với vị trí độc lập để giám sát hoạt động
của công ty và những nhà quản trị cao cấp. Bên cạnh đó cấu trúc quản trị hiện đại
cũng địi hỏi sự tách rời chức danh TGĐ với chức danh chủ tịch HĐQT. Bởi vì sẽ
rất khó cho HĐQT giám sát TGĐ và buộc người này phải chịu trách nhiệm nếu
TGĐ cũng đồng thời là chủ tịch HĐQT.
26
Nguyễn Thanh Bình (2012), “Tìm hiểu cấu trúc quyền lực trong các CTCP ở Hoa Kỳ và những kinh
nghiệm cho Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Pháp luật về quản trị công ty – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Trường ĐH Kinh tế Luật, tr. 31
27
Nguyễn Thanh Bình (2012), tlđd, tr 31.
28
Nguyễn Thanh Bình (2012), tlđd, tr 32.
29
Nguyễn Thanh Bình (2012), tlđd, tr 33.
30
Nguyễn Thanh Bình (2012), tlđd, tr 33.
17
Ở Việt Nam, mặc dù cấu trúc sở hữu chủ yếu của các CTĐC, kể cả các công
ty niêm yết là cấu trúc sở hữu tập trung do lịch sử hình thành các CTĐC của Việt
Nam đều từ các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa hoặc các cơng ty gia đình,31
nhu cầu cần có những quy định về quản trị công ty hiện đại để bảo vệ các cổ đơng
cơng chúng trong các CTĐC là có thật và cần thiết để tạo điều kiện cho việc phát
triển một thị trường vốn minh bạch và phát triển ổn định, bền vững. Nếu như ở các
nước mà các CTĐC có cơ cấu phân tán thì các ngun tắc quản trị cơng ty hiện đại
sẽ giúp cổ đơng nói chung bảo vệ quyền lợi của mình trước những người quản lý
cơng ty thì ở các nước mà CTĐC vẫn có cơ cấu cổ đông tương đối tập trung như
nước ta, việc xây dựng các quy định quản trị công ty hiện đại và minh bạch sẽ giúp
bảo vệ các cổ đông công chúng, các cổ đông nhỏ khỏi sự lạm quyền của các cổ
đông lớn, các cổ đông mà xuất phát từ tỷ lệ sở hữu cổ phần của mình có quyền trực
tiếp hoặc cử đại diện của mình tham gia quản lý, điều hành cơng ty.
1.2.2. Các mơ hình tổ chức, quản lý CTĐC phổ biến
Như đã trình bày ở phần trên, CTĐC trước hết là một CTCP vì vậy nhìn
chung pháp luật các quốc gia đều áp dụng quy định về tổ chức, quản lý CTCP đối
với CTĐC. Dưới góc độ lý luận, có thể hiểu tổ chức và quản lý cơng ty là hệ thống
các thiết chế, theo đó việc tổ chức quản lý công ty được thực hiện trên cơ sở phân
định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu, người quản lý, những người có
lợi ích liên quan, và các phương pháp áp dụng theo một trình tự thủ tục nhằm đảm
bảo tổ chức và hoạt động công ty một cách hiệu quả nhất. Quản lý và tổ chức trong
CTCP là một bộ phận của quản lý tổ chức của công ty. Như vậy, quản lý và tổ chức
CTCP là một hệ thống các cơ chế mà các chủ sở hữu đặt ra trên cơ sở các quy định
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận trong bộ máy quản lý, nguyên
tắc hoạt động và thủ tục thông qua các quyết định. Tổ chức quản lý CTCP là việc
xác định rõ sự phân bổ các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia khác nhau
trong cơng ty. Nói tóm lại, việc quản lý và tổ chức CTCP bao gồm rất nhiều nội
dung, trong đó có thể kể đến các nội dung cơ bản sau: Cơ cấu bộ máy quản lý nội
bộ CTCP, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy quản lý
nội bộ CTCP, nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông qua các quyết định của công
ty.
Các học giả về pháp luật công ty hiện đại quan tâm đến sự phân tách giữa sở
hữu và quản trị, đặc biệt trong các CTCP có cơ cấu cổ đông đa dạng, nhất là các
công ty niêm yết, nơi mà các cổ đông chỉ quan tâm đến giá trị cổ phiếu trên thị
trường, cùng với một quyền rất quan trọng là lựa chọn các nhà quản trị mang lại giá
trị cao nhất có thể cho cổ phần của họ. Cũng từ đó, các lý thuyết về đại diện (agency
theory) đã xuất hiện để lý giải mối quan hệ giữa các cổ đông và các nhà quản trị,
người ta bàn nhiều về bản chất mối quan hệ giữa cổ đông với người quản lý công ty,
31
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thu Hiền và Trần Duy Thanh, cấu trúc sở hữu của 100 doanh nghiệp có giá
trị vốn hóa lớn nhất trên hai sàn chứng khốn Hà Nội và TP.HCM vào năm 2010 cho thấy, tỉ lệ nắm giữ cổ
phần bình qn của 10 cổ đơng lớn nhất trong các công ty là 70% và của 5 cổ đông lớn nhất là 61%. Xem
Nguyễn Thanh Hiền và Trần Duy Thanh, “Cấu trúc sở hữu và khả năng thao túng doanh nghiệp”, Nguồn:
/>Truy cập ngày 15/7/2013
18
việc làm thế nào để hạn chế các hành vi tư lợi của người quản lý và bảo vệ lợi ích
cho nhà đầu tư. Những lý thuyết về quản trị công ty gắn liền với các ý niệm về
phân chia quyền lực, về đại diện, và mục đích của quản trị cơng ty tốt32.
Xuất phát từ tính chất phân tán của cơ cấu cổ đơng, thơng thường CTCP có
cơ cấu quản lý phân cấp và thường gồm 3 cấp: ĐHĐCĐ (cơ quan chủ sở hữu),
HĐQT (cơ quan quản lý), Ban GĐ (cơ quan điều hành). Mỗi cấp quản lí có một
nhiệm vụ, chức năng riêng biệt hoàn thiện bộ máy quản trị cơng ty. CTĐC là loại
hình cơng ty có cơ cấu tổ chức phức tạp do tính chất đối vốn, số lượng cổ đông và
quy mô hoạt động lớn. Chính điều này quyết định đến cơ cấu tổ chức của công ty.
Tuy CTCP được thành lập bởi các sáng lập viên, song sau khi cổ phần được phát
hành, các sáng lập viên đó phải chia sẻ quyền lực với các cổ đơng khác. Luật sư
Nguyễn Ngọc Bích cho rằng Luật công ty ấn định cơ cấu quyền lực trong cơng ty.
Đó là trách nhiệm và quyền hạn của ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ và ban kiểm sốt (BKS).
Dựa theo đó các công ty lập ra bản điều lệ cho công ty mình33.
Luật cơng ty của mỗi nước sẽ làm cho các điểm đặc thù về quản trị công ty
khác nhau. Tuy nhiên, tất cả có một khuynh hướng là quy tập về những tiêu chuẩn
chung dựa trên các nguyên tắc tổng quát sau: (i) sự độc lập của các thành viên
HĐQT và chức năng giám sát của HĐQT với hoạt động của công ty; (ii) trách
nhiệm của người quản lý với các cổ đơng; (iii) u cầu về tính minh bạch và việc
công bố thông tin; và (iv) bảo vệ quyền lợi của cổ đơng nắm vốn ít34.
Cấu trúc quản trị nội bộ của các CTCP trên thế giới, đặc biệt là các công ty
niêm yết, thường theo một trong hai mơ hình sau đây: (i) mơ hình hội đồng đơn –
hay còn gọi là hội đồng một tầng (unitary board hay one-tier board model), và (ii)
mơ hình hội đồng kép – hay còn gọi là hội đồng hai tầng (dual board hay two-tier
board model). Nói đến cấu trúc hội đồng đơn hay kép là nói đến cấu trúc của bộ
máy quản lý – điều hành của công ty, chứ không phải của tồn bộ cấu trúc quản trị
cơng ty35.
Theo luật công ty Anh, Mỹ, cấu trúc quản trị nội bộ của một CTCP gồm có:
ĐHĐCĐ và HĐQT hay hội đồng GĐ- (board of directors) (HĐQT). Bộ phận quản
trị - điều hành của CTCP chỉ do một cơ quan đảm nhiệm là HĐQT - cấu trúc hội
đồng đơn. ĐHĐCĐ sẽ bầu chọn các thành viên của HĐQT (thường có từ ba đến hai
chục thành viên), đươc gọi là các directors. Mọi quyền lực và các vấn đề của công
ty được pháp luật đặt vào tay của HĐQT, trừ những vấn đề mà pháp luật hoặc điều
lệ công ty qui định phải thuộc về ĐHĐCĐ36. Sự phân chia quyền lực này khác với
việc phân chia quyền lực giữa các cơ quan của bộ máy quản trị CTCP vẫn thường
thấy trong luật công ty của các nước châu Âu lục địa, Trung Quốc và Việt Nam.
32
Bùi Xuân Hải (2006), “So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của CTCP Việt Nam với các mơ hình điển hình
trên thế giới”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, (6), tr. 14.
33
Nguyễn Ngọc Bích (2007), “Mơ hình quản trị trong CTĐC”, Hội thảo “Mơ hình quản trị trong CTĐC” do
ACB và Thời báo kinh tế Sài gòn phối hợp tổ chức ngày 6/3/2007.
34
Nguyễn Ngọc Bích, (2007), tlđd.
35
Bùi Xuân Hải (2006), tlđd, tr 15.
36
Bùi Xuân Hải (2006), tlđd, tr. 15.
19