BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ...
BÀI KIỂM TRA
KẾT THÚC CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG THEO TIÊU
CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP
BÀI KIỂM TRA
GIÁO VIÊN MẦM NON
KẾT THÚC CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG THEO TIÊU
CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP
GIÁO VIÊN THPT
Họ và tên học viên: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Họ và tên học viên: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Giáo viên trường: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Giáo viên trường: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Lớp học: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Lớp học: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . .,
2023
. . . . . . . . . . . . ., 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ...
Độc lập -Tự do -Hạnh phúc
BÀI KIỂM TRA KẾT THÚC CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG
THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN MN
ĐỀ BÀI
Câu 1 (5 điểm): Nội dung quản lý Nhà nước về giáo dục mầm non là gì?
Câu 2 (5 điểm): Phân tích vai trò và nội dung của hoạt động tự đánh giá
năng lực nghề nghiệp của giáo viên mầm non.
BÀI LÀM
Câu 1: Nội dung quản lý Nhà nước về giáo dục mầm non
Bậc học Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
của Việt Nam, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ
em nói riêng và con người nói chung. Do vậy, trong những năm qua Nhà nước
đã tập trung đầu tư rất lớn cho giáo dục mầm non (GDMN).
Tuy nhiên, mức độ phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu ni dạy trẻ và
những địi hỏi mới của sự nghiệp phát triển đất nước, các thành tựu đã đạt được
chưa vững chắc, chưa mang tính hệ thống. Một trong những nguyên nhân làm
hạn chế thành quả của giáo dục phải kể đến công tác quản lý giáo dục. Những
yếu kém, bất cập trong quản lý GDMN cũng đang được các cấp quản lý quan
tâm tìm biện pháp khắc phục.
QLNN về GDMN là việc nhà nước thực hiện quyền lực cơng để điều
hành, điều chỉnh tồn bộ các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội để
tạo ra những điều kiện tối ưu cho các cơ sở GDMN thực hiện mục tiêu GD&ĐT,
có mạng lưới quản lý chuyên môn từ cấp Bộ xuống các trường, cơ sở giáo dục
mầm non theo ngành.
Sau đây là một số đặc điểm của QLNN về GDMN. Tính quyền lực nhà
nước trong hoạt động quản lý GDMN. Kết hợp quản lý hành chính và quản lý
chuyên môn trong 4 các hoạt động quản lý nhà nước về GDMN. Kết hợp Nhà
nước – xã hội trong quá trình triển khai quản lý nhà nước về GDMN.
Và từ đó ta thấy được ý nghĩa của QLNN về GDMN. Giáo dục và đào tạo
nói chung và GDMN nói riêng có vai trị rất lớn và có ảnh hưởng đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Cho nên Nhà nước thống nhất quản lí về giáo dục và
đào tạo. Thơng qua quản lí Nhà nước về GDMN, việc thực hiện các chủ trương
chính sách quốc gia nâng cao hiệu quả đầu tư cho GDMN, chú ý thực hiện các
mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục mới được triển khai, thực hiện
có hiệu quả. QLNN về GDMN có thể được coi là khâu nhằm đảm bảo thực hiên
thắng lợi của mọi hoạt động GDMN, tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách con người.
Ban hành và phổ biến văn bản về Quản lý GDMN Ban hành văn bản quy phạm
quản lý nhà nước về GDMN là những quyết định và thông tin quản lý thành văn
(được văn bản hóa) do các cơ quan quản lý Nhà nước ban hành theo thẩm
quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhất định và được Nhà nước đảm bảo thi hành
bằng những biện pháp khác nhau. Phải ban hành văn bản quản lý Nhà nước về
GDMN vì văn bản được ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ quản lý
hành chính Nhà nước giữa các cơ quan nhà nước với nhau và giữa các cơ quan
nhà nước với các tổ chức và công dân. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam đến nay được xây dựng theo quy trình dựa trên Luật số
80/2015/QH13 về 5 Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Nội dung của ban
hành văn bản GDMN là xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục mầm non; các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn và kiểm tra việc thực các quy định của nhà nước, của bộ GD&ĐT về hoạt
động chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non và cơng tác quản lý giáo dục mầm non.
Tiêu chí đánh giá việc bao gồm:
(1) Số văn bản được ban hành,
(2) Tỷ lệ văn bản hợp lý.
Quy hoạch phát triển GDMN là bộ phận của quy hoạch phát triển
GD&ĐT. Nó phải đáp ứng tồn bộ mục đích, u cầu, ngun tắc của quy hoạch
nói chung. Đồng thời, phải tạo cơ sở khoa học để các nhà quản lý địa phương
hoạch định các chủ trương, chính sách về GD&ĐT, đưa ra các kế hoạch phát
triển tối ưu phù hợp với tiến trình phát triển của kinh tế - xã hội của địa phương.
Quy hoạch phát triển GDMN phải dựa trên những tiêu chuẩn mà nhà nước đã
quy định đó là phải phù hợp với điều lệ trường mầm non trong quyết định số 01/
VBHN- BGDĐT.
Nội dung của quy hoạch phát triển GDMN về cơ bản gồm những thành
phần sau:
(1) Quy hoạch mạng lưới trường lớp,
(2) Quy hoạch các điều kiện phục vụ yêu cầu phát triển trường lớp về
CSVC, trang thiết bị dạy học, chất lượng đội ngũ quản lý, giáo viên
(3) Đầu tư phát triển GDMN.
Tiêu chí đánh giá quy hoạch phát triển GDMN là:
(1) Mở rộng và mở mới diện tích; qui hoạch ổn định và phát triển hợp lý
mạng lưới trường lớp so với sự phát triển của từng khu vực dân cư.
(2) Kết quả đầu tư xây dựng mới, xây dựng bổ sung, nâng cấp hoàn thiện
cơ sở vật chất trường học, tỷ lệ đạt chuẩn đội ngũ cán bộ giáo viên so 6 với chỉ
tiêu, mục tiêu đề ra của kế hoạch.
(3) Kết quả đầu tư nguồn vốn cho công tác quy hoạch phát triển GDMN
so với kế hoạch để ra.
GDMN muốn vận hành hiệu quả cần có cơ chế quản lý phù hợp. Cơ chế
quản lý gáo dục bao gồm hệ thống các chính sách, nguyên tắc, quy chế, chế
độ… quy định các mối quan hệ, cách thức vận hành các hoạt động quản lý ở các
cấp giữa chủ thể và đối tượng quản lý trong hoạt động giáo dục. Cơ chế quản lý
các cơ sở giáo dục mầm non thể hiện rõ ở sự phân cấp và ủy quyền giữa các cấp
và chủ thể quản lý đối với đối tượng bị quản lý. Theo đó, các trường, cơ sở
GDMN chịu sự quản lý phụ thuộc vào nhiều cơ quan, đối tượng khác nhau:
UBND thị xã trực thuộc quản lý mọi loại hình nhà trường trẻ trên địa bàn; nhóm
trẻ độc lập tư thục chịu sự quản lý trực tiếp của UBND xã, phường; về chuyên
môn bậc học mầm non chịu sự quản lý của ngành giáo dục mà trực tiếp là phòng
GD&ĐT dưới sự chỉ đạo của UBND thị xã.
Tiêu chí đánh giá:
(1) Cơ cấu, số lượng đội ngũ CBCC trong tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước GDMN,
(2) Phân cấp quản lý về GDMN qua đó bố trí nhân sự để phân cơng giải
quyết cơng việc, thực hiện các chính sách giáo dục
(3) Phối hợp và liên kết các hoạt động giữa các cấp, các bộ phận có đảm
bảo hiệu quả.
Kiểm tra cơng tác GDMN đối với hoạt động QLNN về GDMN, kiểm tra
là chức năng thiết yếu, giữ vai trò liên hệ ngược để giúp cho công tác quản lý
đạt tối ưu, một biện pháp quan trọng trong việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý
những hành vi vi phạm pháp luật. Để hoạt động kiểm tra có hiệu quả, người
quản lí phải thiết lập được các tiêu chuẩn, kiểm tra tiến độ, đo lường và giải
thích các kết 7 quả và có hành động đúng. UBND cấp thị xã có trách nhiệm chỉ
đạo và thực hiện công tác “thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị và xử lý vi phạm về GD theo quy định của pháp luật”. Công tác thanh tra,
kiểm tra theo Luật Thanh tra 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày
22/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thanh tra.
Tiêu chí đánh giá công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động ĐTBD CBCC:
(1) Số lần tổ chức kiểm tra;
(2) Tần suất kiểm tra
(3) Số vụ phát hiện vi phạm.
Xử lý vi phạm về GDMN Dựa vào kết quả kiểm tra, đánh giá sẽ có
những biện pháp phát huy những thế mạnh đã đạt được hoặc điều chỉnh những
vấn đề phát sinh kịp thời, xử lý vi phạm nhanh chóng giúp việc quản lý - thực
hiện công tác GDMN thành công. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GDĐT được thực hiện theo Nghi định số40/2011/NĐ-CP ngày 08/6/2011 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung môt số điều của Nghi đinh số 49/2005/NĐ-CP ngày
11/4/2005 của Chính phủ quy đinh về xử phạt hành chính trong linh vưc giáo
duc. Tiêu chí để đánh giá công tác xử lý vi phạm:
(1) Số vụ phát hiện vi phạm,
(2) Số vụ xử lý vi phạm,
(3) Quá trình thực hiện khắc phục hậu quả.
Các nhân tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về GDMN. Điều kiện tự
nhiên Mạng lưới GDMN thường phân bố không đồng đều, chủ yếu trập trung ở
những nơi có điều kiện thuận lợi và lợi ích nhiều, những 8 nơi vùng sâu vùng xa
khó có thể thu hút phát triển mở rộng các cơ sở GDMN. Điều kiện kinh tế- xã
hội Tình hình kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến nhu cầu phát triển sự nghiệp
GD&ĐT nói chung và GDMN nói riêng cụ thể là quy mô, mạng lưới, chất lượng
GDMN của địa phương và năng lực đầu tư cho GDMN của các lực lượng xã hội
nên việc quản lý nhà nước về GDMN cũng một phần nào bị ảnh hưởng. Chính
sách quản lý GDMN chịu tác động bởi nhiều nhân tố chủ quan và khách quan.
Song các nhân tố trên là các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quản lý GDMN. Hệ
thống chính sách, pháp luật của nhà nước càng rõ ràng, chi tiết thì việc thực hiện
cơng tác quản lý GDMN càng chặt chẽ hơn.
Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực
quan trọng phát triển nguồn lực cho sự nghiệp CNH - HĐH. Để thực hiện quốc
sách này thì QLNN về GDMN có vai trị cực kỳ to lớn và việc thường xun
hồn thiện QLNN có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Câu 2: Phân tích vai trị và nội dung của hoạt động tự đánh giá năng lực
nghề nghiệp của giáo viên mầm non.
Để hoạt động giáo dục trẻ mầm non đi theo một quy chuẩn chung và có
thê giám sát được chất lượng chăm sóc và giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
áp dụng Chương trình Giáo dục mầm non, trong đó xác định rõ mục tiêu của
chương trình là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ;
hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách; chuẩn bị cho trẻ em vào lóp
một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và
phẩm chất mang tính nền tảng, những kỳ năng sống cần thiết, phù họp với lứa
tuổi; khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn; đặt nền tảng cho việc
học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời (Thông tư số
17/2009/TT-BGDĐT).
Chỉ thị số 40/CT-TW về xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục của Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành ngày
15/6/2004 cũng đã nêu ra những mặt hạn chế trong công tác giáo dục: Đội ngũ
nhà giảo và cán bộ quản lý giáo dục có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo
viên còn thiếu nhiều... Cơ cấu giáo viên đang mất cân đối giữa các môn học, bậc
học, các vùng, miên. Chât lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo
có mặt chưa đáp ứng yêu cầu và truyền đạt lý thuyết, ít chủ ỷ đến phát triên tư
duy, năng lực sảng tạo, kỹ năng thực hành của người học; một bộ phận nhà giáo
thiếu gương mẫu trong đạo đức, lối sổng, nhân cách...
Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân
chính đó là các yếu tố thuộc về chất lượng giáo viên và các lực lượng giám sát
chuyên nghiệp của tổ chức. Thực tế cho thấy hiện tượng khơng ít trẻ mầm non
còn bị giáo viên bạo hành. Chỉ cần một cái nhấn chuột trên các trang báo hàng
ngày cũng có thể dễ dàng tìm thấy các vụ bạo hành trẻ em bởi các giáo viên,
nhân viên mầm non. Điều này cho thấy việc trẻ mầm non đang bị bạo hành tại
các cơ sở giáo dục, trong đó chủ yếu xảy ra ở các trường mầm non tư thục tại
các thành phố lớn là đáng báo động. Hiện tượng lạm dụng trẻ mầu giáo tại các
cơ sở chăm sóc và giáo dục trẻ em địi hỏi cần có nhiều nghiên cứu cụ thể về
phẩm chất đạo đức và năng lực nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên mầm non.
Phương pháp nghiên cứu để đánh giá thực trạng các phẩm chất chính trị,
đạo đức và năng lực chun mơn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên mầm non,
chúng tôi tiến hành khảo sát ý kiến của các giáo viên và cán bộ quản lý là hiệu
trưởng và hiệu phó của 8 trường mầm non tư thục (tại Thành phố Hồ Chí Minh).
Với sự trợ giúp từ các trường, chúng tôi phát ra 129 phiếu khảo sát (18 phiếu
cho cán bộ quản lý và 111 phiếu cho giáo viên mầm non theo danh sách tất cả
các giáo viên và cán bộ quản lý hiện có). Sau khi thu phiếu về, kiểm tra độ tin
cậy, tính đầy đủ của các câu trả lời, tổng số mẫu dùng để phân tích là 125 phiếu,
trong đó có 109 phiếu khảo sát dành cho giáo viên (chiếm 84,5% tổng số giáo
viên) và 16 phiếu dành cho cán bộ quản lý (chiếm 88,9% tổng số cán bộ quản
lý) của các trường được khảo sát
Phẩm chất đạo đức của giáo viên mầm non có ý nghĩa nền tảng, quyết
định đến chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Kết quả tự báo cáo về năng lực sư phạm của các nhóm giáo viên có trình
độ khác nhau là rất khác nhau. Kết quả đánh giá này cho thấy có sự phù hợp với
thực trạng mà họ được đào tạo ở các trường sư phạm và phù hợp với các ý kiến
phỏng vấn sâu của một số cán bộ quản lý.
Trong số các ý kiến tương đồng, ý kiến của một phó hiệu trưởng có trình
độ thạc sỹ cho thấy khá rõ ràng như sau: “Thực tế năng lực sư phạm của người
học được đào tạo là khác nhau giữa 3 loại bằng cấp. Hệ trung cấp so với đại học
yếu về mọi mặt: từ lý thuyết đến thực hành kỹ năng nghề nghiệp, bởi thời gian
đào tạo rất ít nên cải gì họ cũng chỉ đảo qua lại một chút. Hệ cao đắng so với đại
học được trang bị ít hơn về kiến thức tâm sinh lý lứa tuổi, về cách xây dựng bài
giảng, mơn học, thời gian thực tập cũng ít hom nên sinh viên ít được hướng dẫn
về khả năng truyền đạt kiến thức và phưomg pháp trình bày. Khỉ ra trường,
người tốt nghiệp đại học nếu chấp nhận dạy mầm non họ cũng thường tự tin hơn
và thường được dạy ở các lớp trẻ lớn tuổi hơn. Nhiều giáo viên rất nỗ lực tự học
và năng động trong quá trình cọ sát thực tế dạy trẻ, vì họ khơng muốn thua đồng
nghiệp và quan trọng là muổn được nâng lương” (nữ, phó hiệu trưởng, 12 năm
kinh nghiệm).
Có thể nói, hầu hết tất cả các chỉ báo tự đánh giá về các phẩm chất đạo
đức và năng lực nghề nghiệp của giáo viên tại 8 trường mầm non tư thục, đều
được các giáo viên tự đánh giá ở mức “tốt” và mức “khá”. Kết quả tự báo cáo cụ
thể cho thấy: Trong 9 mặt biểu hiện của phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, các
giáo viên mầm non tư thục ln có điểm tự đánh giá đạt ở ngưỡng cao gần tối đa
- toàn kết quả tốt, trong khi các kết quả tự đánh giá của họ về năng lực chuyên
môn (10 chỉ báo) nhìn chung đạt mức tốt và khá.
Các kết quả này có thể luận giải theo các khía cạnh khác nhau: về cơ bản,
các cơ giáo mầm non ln là người có phẩm chất đạo đức tốt và được xã hội tơn
trọng, trong vai trị như những người “mẹ hiền”. Chính đặc điểm của nghề mầm
non là yêu thương và nuôi dạy tốt trẻ nhỏ cũng “chuyển hóa” giáo viên theo năm
tháng để trở thành những người có phẩm chất đạo đức tốt. Vì vậy, cả 9 phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp đưa ra sẽ dề dàng được nhiều giáo viên tự báo cáo là
tốt.
Xét theo các yêu cầu về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đối với chuẩn
giáo viên mầm non mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra, như: Chấp hành chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có ý thức kỷ
luật, chấp hành tốt nội quy, quy định của ngành, nhà trường và địa phương; có
tinh thần trách nhiệm, trung thực, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; yêu
nghề, tận tụy với nghề và có ý thức học hỏi chun mơn; có lối sống lành mạnh,
tác phong mẫu mực, khoa học, phù hợp với môi trường giáo dục.
Thực tế, các chỉ báo về phẩm chất đạo đức mà Bộ Giáo dục và Đào tạo
đưa ra còn mang tính chất chung chung, gần như phù họp với mọi loại hình giáo
dục và mọi giáo viên. Nó khơng phải là một thước đo cụ thê về phâm chất đạo
đức cho riêng giáo viên mầm non. Việc các giáo viên tự đánh giá cao những
phấm chất đạo đức nhà giáo của mình có thể coi như “một thước đo an tồn”
cho chính họ. Vì vậy, các giáo viên trong nghiên cứu này họ có xu hướng tự
đánh giá cao bản thân ở tất cả các khía cạnh về phẩm chất đạo đức của người
giáo viên.
Ngược lại, đối với các chỉ báo về năng lực chuyên môn nghiệp vụ (như
năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, năng lực tin học, ngoại ngữ và những
năng lực khác) theo các tiêu chí do Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra, các giáo viên
khi tự báo cáo, họ có thể liên hệ tới năng lực thực tế cũng như trình độ chuyên
môn ban đầu của bản thân (như tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng hay đại học), nên
việc tự đánh giá có phần thực tế hơn. Vì thế các kết quả dải đều từ mức khá (cả
điểm tiệm cận trung bình) tới mức tốt. Mặt khác, theo đánh giá của cán bộ lãnh
đạo các trường, nghiệp vụ chuyên môn và sư phạm của giáo viên mầm non
khơng hồn tồn phản ánh năng lực của giáo viên, nếu chỉ xét theo bằng cấp họ
đạt được ban đầu. vấn đề quan trọng là các giáo viên đó được tiếp tục đào tạo về
kỹ năng nghề như the nào và các phấm chất cá nhân của họ ra sao. Vì vậy, các
giáo viên có bằng cấp khác nhau trong nghiên cứu này vẫn có thể tự tin đánh giá
cao năng lực chuyên môn của bản thân.
Mặt khác, kết quả phân tích tương quan lại cho thấy, tất cả các khách thể
nghiên cứu đều tin rằng, TẠP CHÍ TÂM LÝ HỌC, số 7 (268), 7-2021 95 giáo
viên mầm non có trình độ học vấn càng cao thì năng lực sư phạm, khả năng sử
dụng công nghệ thông tin và phương tiện, kỹ thuật dạy học mới, cũng như khả
năng sử dụng ngoại ngữ để hồ trợ chuyên môn của họ càng tốt. Kết quả khảo sát
về thực trạng những yếu tố có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của giáo viên
mầm non cho thấy một thực tế là: nếu các giáo viên mầm non tư thục không cảm
thấy hài lịng về thu nhập, họ khơng cảm thấy phù hợp hay u thích cơng việc
mình đang làm và họ khơng cảm thấy gắn bó, hài lịng với nơi họ làm việc thì
nguy cơ giáo viên bỏ việc hoặc làm hủy hoại đến thanh danh nghề nghiệp là
điều có thể xảy ra.
Lý giải cho câu hỏi nghiên cứu ban đầu rằng: Liệu các giáo viên mầm non
một số trường tư thục được nghiên cứu ngẫu nhiên có đáp ứng được những yêu
cầu về phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn trong khi các hiện tượng xao
nhãng và bạo lực với trẻ em vẫn thỉnh thoảng xảy ra? Kết quả phân tích tài liệu,
điều tra và phỏng vấn sâu của chúng tôi cho thấy, hầu hết các sự vụ bị phơi bày
trên mặt báo đều xảy ra ở các cơ sở chăm sóc trẻ mầm non tư thục tự phát, nơi
không được cho phép từ ngành quản lý giáo dục hoặc ở các cơ sở chăm sóc trẻ
có giấy phép với quy mô quá nhỏ, lẻ với vài trẻ nhỏ; nơi cung cấp sự chăm sóc
và giáo dục trẻ thiếu giám sát về phẩm chất, năng lực của giáo viên.
Các kết quả phỏng vấn sâu cán bộ quản lý, giáo viên các trường được
nghiên cứu cho thấy một quy trình lựa chọn giáo viên chặt chẽ (bất kể bằng cấp
nào), sự đầu tư chuyên môn sâu sau tuyển chọn và giám sát chặt chẽ quy trình
chăm sóc và giáo dục theo 5 tiêu chuẩn giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ và hình thành những yếu tố đầu tiên
của nhân cách để chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một và đặt nền tảng cho việc học
các cấp học tiếp theo, thì các hiện tượng như bạo hành trẻ em... sẽ hầu như
khơng xảy ra, ví dụ như các trường đã được nghiên cứu trong bài viết này.
Tóm lại, những kết quả rút ra từ nghiên cứu này gợi ý cho các trường về
công tác tuyến dụng và bồi dưỡng chun mơn cho giáo viên mầm non có các
trình độ đào tạo khác nhau; giúp các trường hoạch định rõ ràng hơn mục tiêu
phát triển đội ngũ giáo viên mầm non phù hợp với điều kiện cụ thề của các
trường. Việc làm này đáp ứng được các tiêu chuẩn về phát triển trẻ mầm non và
yêu cầu về chuẩn giáo viên mầm non của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trỉến vọng nghiên cứu: Việc lý giải kết quả của nghiên cứu này nên cần
được tiếp tục xem xét trong các nghiên cứu tương lai ở bình diện bao quát hơn
về mẫu nghiên cứu và cần sự chặt chẽ hơn về công cụ đánh giá, để các nhà
nghiên cứu có thể vận dụng các lý thuyết so sánh và đánh giá xã hội để có thể
giải thích xu hướng tự đánh giá của giáo viên mầm non tư thục về các phẩm chất
đạo đức và năng lực nghề nghiệp của họ một cách thực chứng hơn.
Những phẩm chất cần có của người giáo viên mầm non
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, ngành giáo dục cũng ngày
càng được chú trọng đẩy mạnh, nâng cao hơn. Theo đó yêu cầu về năng lực của
giáo viên mầm non cũng ngày một tăng cao. Để tạo được lòng tin đối với quý
phụ huynh và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, giáo viên cần có những phẩm
chất tốt đẹp sau:
Yêu nghề, mến trẻ
Để trở thành một giáo viên mầm non tốt, trước hết bạn cần phải yêu nghề,
yêu trẻ bởi đây là tấm gương hàng ngày của trẻ em. Nhờ có sự yêu mến trẻ nhỏ
mà các giáo viên mầm non mới có động lực để gắn bó và thực hiện các cơng
việc chăm sóc trẻ nhỏ hàng ngày.
Có thể nói yêu nghề, mến trẻ là một trong những yếu tố quyết định đến
hoạt động trong lĩnh vực sư phạm của giáo viên. Bởi sư phạm mầm non là
ngành mang tính chất đặc thù, có rất nhiều khó khăn, vất vả, nếu như không thực
sự yêu nghề, bạn sẽ rất khó có thể vượt qua được thử thách.Biết kiên trì nhẫn lại
Giáo viên mầm non cần có những năng lực gì? Đó chính là sự kiên trì,
nhẫn nại. Sự kiềm chế nhẫn nại sẽ giúp cho giáo viên dễ dàng gần gũi với các
bạn nhỏ hơn, giúp trẻ khơng cịn thấy sợ mà sẽ có cảm giác mỗi ngày đến trường
là một ngày vui.
Đặc biệt ở giai đoạn mầm non, mọi cư xử của trẻ đều theo bản năng, thích
làm những gì bản thân muốn, thích khám phá nhưng lại chưa có được suy nghĩ
logic. Do đó, nếu bạn là một giáo viên mầm non kiên nhẫn, bạn sẽ biết cách
kiềm chế trước những hành động của trẻ và hướng trẻ dần dần có suy nghĩ đúng
đắn hơn.
Có tinh thần trách nhiệm cao
Một trong những năng lực của giáo viên mầm non phải kể đến tinh thần
trách nhiệm cao. Là một giáo viên tốt, bạn cần phải làm gì để trẻ cảm thấy được
u q, chăm sóc tận tình, chu đáo. Đặc biệt giáo viên mầm non rất cần phải
phối hợp tốt với các bộ phận liên quan để có thể tổ chức các chương trình phịng
chống suy dinh dưỡng hoặc các bệnh tật với tinh thần trách nhiệm cao.
Bên cạnh đó, giáo viên mầm non cịn đóng vai trị là những chuyên gia
tâm lý của trẻ, mỗi trẻ sẽ có một đặc điểm tâm lý khác nhau, điều đó buộc giáo
viên phải nắm bắt được tâm lý của trẻ.
Có khả năng xử lý tình huống sư phạm
Nói đến năng lực cần có của giáo viên mầm non khơng thể bỏ qua khả
năng xử lý tình huống sư phạm.
Trong một mơi trường sư phạm mầm non, mỗi ngày trôi qua đều xảy ra
rất nhiều tình huống sư phạm khác nhau. Chính vì vậy, là một giáo viên mầm
non tốt, bạn cần có khả năng xử lý, giải quyết các tình huống đó một cách khéo
léo nhất để mọi vấn đề trở nên nhẹ nhàng hơn.
Giáo viên mầm non cần có những năng lực gì?
Năng lực xây dựng chương trình giáo dục. Năng lực lập kế hoạch giáo
dục dài hạn. Năng lực xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho trẻ. Năng
lực tổ chức hoạt động giáo dục. Năng lực thái độ ứng xử. Năng lực truyền đạt,
hướng dẫn trẻ thực hiện các yêu cầu. Năng lực tổ chức thực hiện chăm sóc bảo
vệ sức khỏe cho trẻ. Năng lực sư phạm bao gồm: Nhân cách, dạy học, tổ chức,
giao tiếp… Năng lực chuyên biệt: Hát hay, múa dẻo, đàn giỏi, vẽ đẹp, làm đồ
chơi khéo léo, kể chuyện hấp dẫn…
Các biện pháp nâng cao năng lực nghề nghiệp của giáo viên mầm
nonKhông ngừng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng sư phạm với nhiều hình thức
khác nhau. Thành lập câu lạc bộ để giao lưu học hỏi cũng như thỏa mãn nhu cầu
khám phá của bản thân. Tổ chức các hội thi theo nhu cầu phù hợp với khả năng
của giáo viên mầm non. Đa dạng hóa các hình thức đánh giá giáo viên. Giáo
viên mầm non được hưởng đầy đủ các chế độ theo năng lực.
Tuyển dụng giáo viên mầm non nên thực hiện một cách khách quan nhất.
Xây dựng một tập thể sư phạm lành mạnh, đoàn kết. Giáo viên mầm non cần
biết tự làm đẹp cho bản thân.