Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của thư ký tòa án theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HỒNG YẾN

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THƯ KÝ TỊA ÁN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THƯ KÝ TỊA ÁN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên
: Lê Thị Hồng Yến
Lớp
: Cao học Luật, An Giang Khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn Thạc sĩ Luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của
Thư ký Tòa án theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu do
chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Võ Thị Kim Oanh. Các
nội dung, thông tin, số liệu và vụ án điển hình được trình bày trong luận văn là
trung thực, được dẫn nguồn đúng quy định. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về
lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn

Lê Thị Hồng Yến


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

TỪ ĐẦY ĐỦ

01

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

02

HĐXX

Hội đồng xét xử


03

TAND

Tịa án nhân dân

04

TKTA

Thư ký Tòa án

05

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

STT


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THƯ KÝ TÒA ÁN TRONG
VIỆC TIẾN HÀNH CÁC HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TÒA.............6
1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thư ký Tòa án trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng tại phiên tòa ........6
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ,
quyền hạn của Thư ký Tòa án trong việc tiến hành các hoạt động tại phiên

tòa .........................................................................................................................11
1.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án trong việc tiến
hành các hoạt động tố tụng tại phiên tòa ..........................................................23
Kết luận Chương 1 ..................................................................................................27
CHƯƠNG 2. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THƯ KÝ TÒA ÁN TRONG
VIỆC TIẾN HÀNH CÁC HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG KHÁC THUỘC THẨM
QUYỀN CỦA TÒA ÁN THEO SỰ PHÂN CƠNG CỦA CHÁNH ÁN TỊA ÁN
...................................................................................................................................29
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thư ký Tòa án trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm
quyền của Tòa án theo sự phân cơng của Chánh án Tịa án ..........................29
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ,
quyền hạn của Thư ký Tịa án trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng
khác thuộc thẩm quyền của Tịa án theo sự phân cơng của Chánh án Tòa án
...............................................................................................................................34
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án trong việc tiến
hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân
cơng của Chánh án Tịa án .................................................................................43
Kết luận Chương 2 ..................................................................................................47
KẾT LUẬN ..............................................................................................................48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xét xử vụ án hình sự được xem là trung tâm của quá trình giải quyết vụ án

hình sự. Trong giai đoạn xét xử, thông qua các hoạt động tố tụng mà pháp luật tố
tụng hình sự quy định, Tịa án sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá một cách khách quan,
toàn diện, đầy đủ các chứng cứ, dựa trên kết quả tranh tụng để xác định sự thật của
vụ án. Trên cơ sở đó, Tịa án sẽ ra bản án, quyết định để giải quyết vụ án. Trong giai
đoạn xét xử Tòa án phải tiến hành nhiều hoạt động tố tụng khác nhau, từ giai đoạn
chuẩn bị xét xử đến hoạt động xét xử tại phiên tòa và sau khi kết thúc phiên tòa.
Giai đoạn xét xử được thực hiện bởi nhiều chủ thể tiến hành tố tụng khác nhau như
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án. Mỗi chủ thể sẽ tiến hành các hoạt động tố
tụng khác nhau theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong những chủ thể
này, vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm là được xác định là quan trọng và mang
tính quyết định. Tuy nhiên, vị trí, vai trị của Thư ký Tịa án cũng khơng kém phần
quan trọng và khơng thể thiếu trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Thông qua việc
tiến hành các hoạt động tố tụng Thư ký Tịa án sẽ góp phần quan trọng trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án, hỗ trợ cho Thẩm phán trong việc thực
hiện các hoạt động chuyên mơn nghiệp vụ.
Nhận thức được vị trí và vai trị quan trọng của Thư ký Tòa án, pháp luật tố
tụng hình sự đã có các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án. Các
quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ cho việc thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án trên thực tế, góp phần vào việc giải quyết đúng
đắn vụ án, bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền con người trong giai đoạn xét xử nói
riêng và trong q trình tố tụng hình sự nói chung. Tuy nhiên, qua nghiên cứu tác
giả nhận thấy, một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền
hạn của Thư ký Tòa án vẫn cịn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót nhất định như: quy
định chưa thống nhất, đầy đủ và các hoạt động tố tụng của Thư ký Tòa án tại phiên
tòa, các hoạt động tố tụng khác chưa được quy định, hướng dẫn cụ thể… Thực tiễn
xét xử cho thấy việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ,
quyền hạn của Thư ký Tịa án trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng tại phiên
tòa, cũng như các hoạt động tố tụng khác theo sự phân cơng của Chánh án Tịa án
cịn tồn tại những vướng mắc, bất cập nhất định, điều này đã dẫn đến việc tồn đọng
án, việc giải quyết vụ án bị kéo dài trong giai đoạn xét xử, một số trường hợp Thư

ký Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc tiến hành các hoạt động


2
tố tụng dẫn đến án bị hủy để xét xử lại, một số trường hợp chậm trễ trong việc tống
đạt, giao các quyết định tố tụng của Tòa án cho các chủ thể khác, chậm giao bản án
sau khi kết thúc phiên tịa… Những vi phạm, thiếu sót của Thư ký Tòa án trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn như trên đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt
động xét xử, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố
tụng, ảnh hưởng đến hiệu quả của cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Từ những lý do trên, việc làm sáng tỏ nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa
án theo quy định luật tố tụng hình sự Việt Nam, xác định những hạn chế, bất cập
trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án là một yêu cầu cấp thiết. Đây cũng là
lý do mà tác giả chọn đề tài “Nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án trong tố tụng hình sự là vấn đề pháp
lý quan trọng trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Qua khảo sát, nghiên cứu về các cơng
trình khoa học pháp lý, tác giả nhận thấy có một số cơng trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài này như sau:
Về giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận: Giáo trình luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội; Võ Khánh Vinh
(chủ biên), (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Cơng
an nhân dân Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí, (2014), Giáo trình luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội; Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), (2018),
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí
Minh, Nxb Hồng Đức; Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, (2017), Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb Cơng an nhân dân; Chương trình đào tạo Thư ký Tòa án

(2015), Học viện Tòa án, Nxb Thanh Niên… Nhìn chung các sách, giáo trình này
chủ yếu đề cập đến các quy định chung của luật tố tụng hình sự, cũng như các quy
định về thủ tục giải quyết các vụ án hình sự. Trong đó, nhiệm vụ, quyền hạn của
Thư ký Tịa án được trình bày với dung lượng nhỏ trong nội dung của các giáo trình
và sách được liệt kê ở trên.
Về khóa luận, luận văn, luận án, bài viết tạp chí, có một số cơng trình có liên
quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án trong tố tụng hình sự như: Đỗ
Đoàn Thanh Trúc, (2018), Địa vị pháp lý của Thư ký Tòa án theo pháp luật tố tụng


3
hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Viện hàn lâm khoa học Việt
Nam, Học viện khoa học xã hội; Tạ Thị Ngọc Điệp, (2015), Người tiến hành tố tụng
trong cơ quan Tòa án nhân dân (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đăk Lăk),
Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật; Trần Hồng Ca, (2014), Vai trò của thư ký
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự lý luận và thực tiễn, Khoa luật - Bộ
môn tư pháp, Đại học Cần Thơ; Nguyễn Thị Lệ Thu, (2013), Thư ký tịa án trong tố
tụng hình sự - Lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật
TP.HCM; Nguyễn Thị Bích Mai, (2006), Địa vị pháp lý của thư ký tịa án trong tố
tụng hình sự, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP.HCM; Nguyễn Anh
Thư, (2015), “Nâng cao trình độ nghiệp vụ của thư ký tịa án, góp phần thực hiện tốt
nhiệm vụ xét xử, đáp ứng yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp”, Tạp chí Tịa án
nhân dân, (22); Bùi Thị Thuỷ Tiên, Phan Lê Diệu Hiền, Lê Thanh Tuấn, (2020),
“Xây dựng kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên luật, qua thực tế hoạt động của thư
ký tịa án”, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, Đại học Luật, Đại học Huế, (44); Xuân
Anh, Hồ Thế Hoè, (2004), “Thư ký tòa án phải là một nghề”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, (5)… Bên cạnh các cơng trình kể trên, trên mạng internet cũng có một số
bài viết, báo cáo chuyên đề của các tác giả, các cơ quan có thẩm quyền liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án trong tố tụng hình sự, trong đó trình
bày quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án, cũng như

chỉ ra và đánh giá những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Nhìn chung, các cơng trình ở trên chỉ nghiên cứu một hoặc một số vấn đề liên
quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án trong tố tụng hình sự, chỉ có luận
văn của tác giả Đỗ Đồn Thanh Trúc, (2018), Địa vị pháp lý của Thư ký Tòa án
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Viện
hàn lâm khoa học Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, có nghiên cứu tương đối
đầy đủ về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan
đến địa vị pháp lý của Thư ký Tòa án trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đây là luận
văn thạc sĩ nghiên cứu nên các vấn đề được nghiên cứu cịn mang tính hàn lâm, học
thuật cao, vấn đề thực tiễn áp dụng pháp luật chưa được quan tâm nghiên cứu, đánh
giá toàn diện và đầy đủ trong luận văn này. Những cơng trình nghiên cứu ở trên sẽ
là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả trong việc thực hiện luận văn
này. Hiện nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu tồn diện, đầy đủ về nhiệm
vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án trong tố tụng hình sự dưới góc độ một luận văn
ứng dụng, vì vậy đây là một định hướng nghiên cứu mới và phù hợp của tác giả.


4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ,
quyền hạn của Thư ký Tịa án trong tố tụng hình sự Việt Nam;
Luận văn cũng xác định những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án và thực tiễn áp dụng;
Qua đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện các mục đích nghiên cứu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ sau:
Phân tích quy định của BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư
ký Tịa án;

Phân tích, khảo sát thực trạng áp dụng quy định của BLTTHS năm 2015 về
nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án. Trên cơ sở đó, xây dựng các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn này tập trung nghiên cứu những quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án và thực tiễn áp
dụng; xác định những hạn chế, vướng mắc; nghiên cứu để đề xuất một số giải
pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của Thư ký Tòa án.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Pháp luật tố tụng hình sự quy định việc xét xử trực tiếp
và xét xử trực tuyến, tuy nhiên trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư
ký Tòa án trong việc xét xử trực tiếp;
Phạm vi về không gian và thời gian: đề tài chủ yếu nghiên cứu, khảo sát,
đánh giá các số liệu và vụ việc điển hình trên phạm vi cả nước từ năm 2018 đến 6
tháng đầu năm 2022. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ sử dụng có
một số báo cáo, vụ việc điển hình xảy ra trước năm 2018 để minh chứng cho những
vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự (vì về cơ bản
các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thư ký Tòa án vẫn kế thừa các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003).


5
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước về chiến lược
cải cách tư pháp, nâng cao hiệu lực thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa
án, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử, tăng cường tranh tụng trong xét xử vụ án
hình sự. Ngồi ra, các phương pháp điển hình, đặc trưng trong nghiên cứu khoa học

pháp lý được sử dụng trong luận văn gồm:
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để làm sáng tỏ các nội dung,
vấn đề được nghiên cứu của luận văn;
Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh các quy định khác nhau của
BLTTHS năm 2015 và so sánh quy định của BLTTHS năm 2015 với các luật tố
tụng dân sự và tố tụng hành chính;
Phương pháp thống kê được luận văn sử dụng trong luận văn để tổng hợp các
số liệu thống kê, báo cáo và các vụ việc điển hình trên thực tế để đánh giá thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp phát phiếu khảo sát (điều tra xã
hội học) đối với những người làm công tác thực tiễn để đảm bảo tính khoa học và
thực tiễn trong nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Sau khi hồn thành cơng trình này có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
hoạt động lập pháp để góp phần vào việc hồn thiện quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án.
Đồng thời, những giải pháp được đề xuất trong luận văn có thể được các cơ
quan Tòa án nghiên cứu, áp dụng để góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án trong thực tiễn.
Luận văn cịn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên
cứu, các giảng viên và sinh viên, học viên có quan tâm đến đề tài này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm hai chương như sau :
Chương 1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án trong việc tiến hành các
hoạt động tố tụng tại phiên tòa;
Chương 2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án trong việc tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân cơng của Chánh
án Tịa án.



6
CHƯƠNG 1
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THƯ KÝ TÒA ÁN
TRONG VIỆC TIẾN HÀNH CÁC HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TỊA
1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn
của Thư ký Tòa án trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng tại phiên tòa
Tại Điều 47 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của
TKTA tại phiên tòa, theo đó TKTA sẽ thực hiện các hoạt động tố tụng như: “kiểm
tra sự có mặt của những người được Tịa án triệu tập; nếu có người vắng mặt thì
phải nêu lý do; phổ biến nội quy phiên tòa; Báo cáo HĐXX danh sách những người
được triệu tập đến phiên tòa và những người vắng mặt; ghi biên bản phiên tòa”.
Việc thực hiện các hoạt động tố tụng tại phiên tòa được pháp luật tố tụng hình sự
quy định cụ thể và chặt chẽ nhằm bảo đảm hiệu quả của hoạt động xét xử, hạn chế
việc hiểu và áp dụng không thống nhất pháp luật, cụ thể như sau:
Kiểm tra sự có mặt của những người được Tịa án triệu tập; nếu có người
vắng mặt thì phải nêu lý do. Đây là hoạt động tố tụng được TKTA thực hiện trong
phần thủ tục khai mạc phiên tòa. Để bảo đảm việc xác định sự thật của vụ án, đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét xử, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể tham gia tố tụng, Tòa án phải căn cứ vào quy định của
BLTTHS năm 2015 để xem xét, quyết định triệu tập những người tham gia tố tụng
đến tham gia phiên tòa. Những chủ thể được triệu tập cần phải tham gia phiên tòa
để bảo đảm hiệu quả của hoạt động xét xử. Nếu trong trường hợp những người được
triệu tập tham gia phiên tịa vắng mặt, thì tùy từng trường hợp Tịa án sẽ quyết định
hỗn phiên tịa hoặc tiếp tục xét xử. Như vậy, có thể thấy trước khi khai mạc phiên
tòa, TKTA được giao nhiệm vụ, quyền hạn tiến hành hoạt động kiểm tra sự có mặt,
vắng mặt của những người được triệu tập tham gia phiên tòa. Hoạt động tố tụng này
được thực hiện bằng cách TKTA sẽ thu lại giấy triệu tập của Tòa án đối chiếu với
danh sách triệu tập, đồng thời với việc kiểm tra giấy tờ tùy thân của những chủ thể
tham gia tố tụng được triệu tập. Trong trường hợp những người được Tịa án triệu

tập vắng mặt thì TKTA phải kiểm tra, xác định lý do vắng mặt. Thông thường nếu
những người được triệu tập vắng mặt mà không gửi trước đơn xin xét xử vắng mặt
hoặc là văn bản, tài liệu chứng minh lý do vắng mặt cho Tịa án thì được coi là vắng
mặt khơng vì bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Việc kiểm tra, xác minh lý
do vắng mặt của những người được triệu tập là hoạt động tố tụng mang tính “tiền


7
đề” để TKTA thực hiện việc báo cáo HĐXX khi phiên tòa đã khai mạc. Đối với
trường hợp các chủ thể tham gia tố tụng cung cấp bổ sung các tài liệu, chứng cứ
khác thì TKTA sẽ tiếp nhận các tài liệu, chứng cứ này và sau đó trình cho HĐXX
xem xét, giải quyết.
- Phổ biến nội quy phiên tòa. Sau khi kiểm tra danh sách những người được
Tòa án triệu tập và lý do vắng mặt (nếu có người vắng mặt), TKTA sẽ ổn định chỗ
ngồi cho những người tham gia phiên tòa, đồng thời thực hiện việc phổ biến nội quy
phiên tòa (nội quy phiên tòa được quy định cụ thể tại Điều 256 BLTTHS năm
2015). Những chủ thể tham gia, tham dự phiên tòa bao gồm nhiều đối tượng với
trình độ hiểu biết và nhận thức khác nhau. Vì vậy, việc phổ biến nội quy phiên tịa
có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp cho những chủ thể tham gia, tham dự
phiên tòa các quy định của pháp luật về nội quy phiên tòa để các chủ thể này biết và
nghiêm chỉnh chấp hành nội quy. Việc những người tham gia tố tụng và những
người tham dự phiên tòa chấp hành đầy đủ, nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa là tiền
đề quan trọng để bảo đảm cho hoạt động xét xử diễn ra thuận lợi, hiệu quả, đồng
thời thể hiện sự tôn trọng pháp luật, tôn trọng HĐXX - chủ thể nhân danh nhà nước
trong việc bảo vệ công bằng, công lý, lẽ phải và bảo vệ quyền con người. BLTTHS
năm 2015 không quy định về cách thức và mức độ mà TKTA phải thực hiện đối với
hoạt động phổ biến nội quy phiên tòa. Tuy nhiên, để bảo đảm cho những chủ thể
tham gia, tham dự phiên tòa biết và chấp hành tốt nội quy phiên tịa thì địi hỏi
TKTA phải phổ biến nội quy phiên tòa một cách đầy đủ, cụ thể và rõ ràng. Trong
trường hợp, người vi phạm nội quy phiên tòa nói riêng và nội quy phịng xử án nói

chung thì tùy từng trường hợp có thể bị Chủ tọa phiên tòa buộc rời khỏi phòng xử
án hoặc khu vực xét xử, xử phạt vi phạm hành chính, tạm giữ hành chính. Trường
hợp hành vi của người vi phạm nội quy phiên tịa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự thì HĐXX có quyền khởi tố vụ án hình sự1. Khi HĐXX vào phịng
xử án thì TKTA u cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy để Chủ tọa phiên
tòa tuyên bố khai mạc phiên tòa và đọc Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc yêu
cầu mọi người đứng dậy nhằm thể hiện sự tôn trọng đối với chủ thể nhân danh
quyền lực nhà nước.
Báo cáo HĐXX danh sách những người được triệu tập đến phiên tòa và
những người vắng mặt. Đây là hoạt động tố tụng được TKTA thực hiện sau khi
Khoản 2 Điều 3 Quy chế tổ chức phiên tịa, ban hành kèm theo Thơng tư số 02/2017/TT-TANDTC về ban
hành Quy chế tổ chức phiên tòa.
1


8
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét
xử. Tại điểm c khoản 1 Điều 47 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định TKTA “Báo cáo
HĐXX danh sách những người được triệu tập đến phiên tòa và những người vắng
mặt” mà không quy định việc TKTA báo cáo HĐXX về lý do vắng mặt của những
người được triệu tập nếu có người vắng mặt. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 301
BLTTHS năm 2015 thì quy định “TKTA báo cáo HĐXX về sự có mặt, vắng mặt
của những người được Tịa án triệu tập và lý do vắng mặt”. Như vậy, ngoài việc báo
cáo cho HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những người được Tòa án triệu tập,
TKTA cũng phải thông báo, nêu lý do vắng mặt của các chủ thể được triệu tập. Rõ
ràng, cùng một hoạt động tố tụng nhưng ở hai điều luật trên đã có sự chưa thống
nhất, chặt chẽ trong việc quy định.
Ghi biên bản phiên tòa. Đây được xem là một trong những hoạt động tố tụng
quan trọng nhất mà TKTA sẽ thực hiện tại phiên tòa. Theo quy định tại Điều 87
BLTTHS năm 2015 biên bản phiên tòa là một nguồn chứng cứ trong tố tụng hình

sự. Đây là văn bản tố tụng ghi nhận lại toàn bộ những diễn biến tại phiên tòa từ lúc
bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa. Biên bản phiên tòa là văn bản tố tụng do
TKTA thiết lập, được thể hiện bằng tiếng Việt và được lưu trong hồ sơ vụ án. Biên
bản phiên tòa cũng là một trong những văn bản tố tụng quan trọng mà Viện kiểm sát
dựa vào để xem xét kháng nghị và Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
xem xét khi giải quyết lại vụ án theo các thủ tục trên. Theo quy định tại Điều 258
BLTTHS năm 2015, biên bản phiên tòa phải ghi chép đầy đủ các nội dung sau:
“biên bản phiên tòa phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa và mọi
diễn biến tại phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa. Cùng với việc
ghi biên bản, có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh về diễn biến phiên tòa; Các
câu hỏi, câu trả lời, lời trình bày và quyết định tại phiên tòa đều được ghi vào biên
bản; Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải kiểm tra biên bản và
cùng với TKTA ký vào biên bản đó”2.
BLTTHS năm 2015 khơng quy định cụ thể về hình thức ghi biên bản phiên
tịa, vì vậy “hiện nay biên bản phiên tịa có thể được ghi lại dưới dạng viết tay hoặc
đánh máy. Nhưng thơng thường là viết tay, vì hầu hết tại phòng xử các Tòa án đều
chưa trang bị máy vi tính và chỉ một số cá nhân TKTA có máy tính cá nhân thì họ
mới sử dụng cách thức ghi biên bản phiên tịa bằng hình thức đánh máy. Nhưng cho
2

Điều 258 BLTTHS năm 2015


9
dù bằng hình thức nào thì việc ghi lại biên bản phiên tịa ln u cầu tính trung
thực, chính xác diễn biến, nội dung phiên tòa” 3.
Biên bản phiên tòa phải được ghi đầy đủ, trung thực, chính xác mọi diễn biến
xảy ra tại phiên tòa, để bảo đảm cho biên bản phiên tịa được TKTA ghi chính xác,
đầy đủ, trung thực, tại khoản 4 Điều 258 BLTTHS năm 2015 đã quy định về quyền
được xem biên bản phiên tòa của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng,

cụ thể như sau: “Sau khi chủ tọa phiên tòa và TKTA ký vào biên bản phiên tòa,
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại, đương sự hoặc đại diện của những người đó được xem
biên bản phiên tịa. Nếu có người u cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản
phiên tịa thì TKTA phải ghi sửa đổi, bổ sung đó vào biên bản phiên tịa. Khơng
được tẩy xóa, sửa chữa trực tiếp mà phải ghi sửa đổi, bổ sung tiếp vào cuối biên
bản phiên tòa và cùng chủ tọa phiên tòa ký xác nhận; nếu chủ tọa phiên tịa khơng
chấp nhận u cầu thì phải nêu rõ lý do và ghi vào biên bản phiên tòa”4. Như vậy,
sau khi ghi biên bản phiên tòa, TKTA phải cùng với Thẩm phán chủ tọa ký tên vào
biên bản phiên tòa và cho các chủ thể khác xem biên bản phiên tịa. Trường hợp có
người yêu cầu sửa đổi, bổ sung các nội dung vào biên bản phiên tịa để bảo đảm tính
xác thực, đầy đủ của biên bản này thì TKTA phải ghi những sửa đổi, bổ sung vào
biên bản phiên tòa nếu chủ tọa phiên tịa chấp nhận.
Qua phân tích ở trên có thể nhận thấy, các quy định của BLTTHS năm 2015
về nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng tại
phiên tòa đã tương đối đầy đủ và hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng và chặt chẽ
để TKTA có thể thực hiện có hiệu quả các hoạt động tố tụng tại phiên tịa, góp phần
bảo đảm chất lượng hoạt động xét xử. Tuy nhiên, tác giả cho rằng quy định của
BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA trong việc tiến hành các
hoạt động tố tụng tại phiên tòa vẫn cịn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót sau đây:
Thứ nhất, tác giả cho rằng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA trong
việc tiến hành hoạt động “kiểm tra sự có mặt của những người được Tịa án triệu
tập; nếu có người vắng mặt tại phiên tịa thì phải nêu lý do” tại điểm a khoản 1
Điều 47 BLTTHS năm 2015 và hoạt động “Báo cáo HĐXX danh sách những người
được triệu tập đến phiên tòa và những người vắng mặt” tại điểm c khoản 1 Điều 47
BLTTHS năm 2015 chưa hồn thiện vì những lý do sau đây:
Đỗ Đoàn Thanh Trúc (2018), Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, tr.42.
4
Khoản 4 Điều 258 BLTTHS năm 2015.

3


10
Đối với hoạt động “kiểm tra sự có mặt của những người được Tịa án triệu
tập; nếu có người vắng mặt tại phiên tịa thì phải nêu lý do” được quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 47 BLTTHS năm 2015, sau đó được quy định tượng tự tại khoản 1
Điều 300 BLTTHS năm 2015. Theo quy định của luật, hoạt động này được TKTA
thực hiện trước khi khai mạc phiên tịa. Vì vậy, việc quy định TKTA phải “kiểm tra
sự có mặt của những người được Tịa án triệu tập” thì khơng có vướng mắc, nhưng
quy định “nếu có người vắng mặt tại phiên tịa thì phải nêu lý do” là chưa phù hợp.
Bởi vì việc “nêu lý do vắng mặt của những người được triệu tập” phải được thực
hiện trong thủ tục khai mạc phiên tòa, khi TKTA “báo cáo HĐXX về sự có mặt,
vắng mặt của những người được Tòa án triệu tập và lý do vắng mặt” (khoản 2 Điều
301 BLTTHS năm 2015). Rõ ràng, trước khi khai mạc phiên tịa thì TKTA chỉ kiểm
tra sự có mặt, vắng mặt của những người được Tịa án triệu tập và nếu có người
vắng mặt thì TKTA kiểm tra lý do vắng mặt của họ để báo cáo HĐXX trong phần
thủ tục khai mặc phiên Tịa. Do đó, điểm a khoản 1 Điều 47 và khoản 1 Điều 300
BLTTHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ pháp lý “nêu lý do” những người vắng mặt
là chưa chính xác về kỹ thuật lập pháp và về trình tự tố tụng tại phiên tòa.
Đối với hoạt động “Báo cáo HĐXX danh sách những người được triệu tập
đến phiên tòa và những người vắng mặt” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47
BLTTHS năm 2015, sau đó được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 301 BLTTHS
năm 2015 như sau: “TKTA báo cáo HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những
người được Tòa án triệu tập và lý do vắng mặt”. Như vậy, cùng một hoạt động tố
tụng của TKTA, nhưng lại có sự chưa thống nhất trong các quy định của luật. Tác
giả cho rằng, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 là chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện
khi chưa quy định việc Thư ký phải “báo cáo HĐXX lý do vắng mặt của những
người được triệu tập”.
Thứ hai, tác giả cho rằng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 47 BLTTHS năm

2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA trong việc “Ghi biên bản phiên tịa” cũng
chưa đầy đủ hồn thiện. Bởi vì, theo khoản 3, 4 Điều 258 BLTTHS năm 2015, bên
cạnh việc ghi biên bản phiên tịa thì TKTA phải ký tên vào biên bản phiên tòa, ghi
những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận (nếu có).
Tác giả cho rằng Điều 47 BLTTHS năm 2015 là quy định chung về nhiệm
vụ, quyền hạn của TKTA, vì vậy quy định này phải mang tính khái qt, đầy đủ về
những hoạt động tố tụng của TKTA nói chung và hoạt động tố tụng của TKTA tại
phiên tòa nói riêng. Đặc biệt, đối với hoạt động ghi biên bản phiên tòa là một hoạt


11
động tố tụng rất quan trọng, nếu quy định không đầy đủ, chặt chẽ có thể dẫn đến
việc TKTA thực hiện không đầy đủ các hoạt động này, dẫn đến vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động này.
Thứ ba, liên quan đến hoạt động ghi biên bản phiên tòa của TKTA và quyền
xem biên bản phiên tòa của các chủ thể tham gia tố tụng đang có vướng mắc trong
quy định của BLTTHS năm 2015. Cụ thể: tại Điều 258 BLTTHS chưa có quy định
cụ thể là trong khoảng thời gian bao lâu sau khi chủ tọa phiên tòa và TKTA ký vào
biên bản phiên tịa thì chưa có quy định về thời hạn Kiểm sát viên và người tham
gia tố tụng có quyền được xem biên bản phiên tịa điều này có thể dẫn đến việc hiểu
và áp dụng không thống nhất quy định này trên thực tiễn, gây khó khăn cho việc
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA5.
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm
vụ, quyền hạn của Thư ký Tịa án trong việc tiến hành các hoạt động tại
phiên tòa
- Những kết quả đạt được trong việc thực hiện quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA khi tiến hành các hoạt động tố
tụng tại phiên tịa
TKTA là chủ thể có vị trí và trò quan trọng trong việc tiến hành các hoạt
động tố tụng hình sự theo quy định của pháp làm để góp phần giải quyết đúng đắn,

khách quan, tồn diện các vụ án. Qua tìm hiểu, nghiên cứu các thống kê, báo cáo
của cơ quan có thẩm quyền tác giả nhận thấy rằng: hiện nay chưa có số liệu, thống
kê, báo cáo của các cơ quan về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA
tại phiên tòa. Mặc dù chưa có số liệu thống kê chi tiết cụ thể để đánh giá tổng thể,
toàn diện về thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vấn đề
này nhưng qua nghiên cứu báo cáo tổng kết chung của ngành Tòa và qua khảo sát
những người làm công tác thực tiễn các chuyên gia liên quan đến hoạt động xét xử
của Tịa án có thể khẳng định: thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng tại
phiên tòa thời gian qua đã được đảm bảo đúng quy định của pháp luật, góp phần có
hiệu quả trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử, góp phần
bảo quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự. Điều này được thể hiện qua
bảng số liệu sau đây:
5

Nội dung này sẽ được tác giả phân tích và đánh giá cụ thể trong mục 1.2 của luận văn này.


12
Năm

2018

2019

2020

2021

6 tháng 2022


Tỷ lệ (%) án Tòa án đã giải
quyết trong giai đoạn XXST

92.1

91.6

82.1

80.5

85.2

Tỷ lệ (%) án Tòa án đã giải
quyết trong giai đoạn XXPT

67

66

56.6

54.4

60.3

(Bảng số liệu thống kê (từ năm 2018 đến 6 tháng đầu năm 2022) về tỷ lệ giải
quyết án hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Nguồn: Tòa án nhân
dân tối cao).

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao cho thấy do ảnh hưởng
của tình hình dịch bệnh covid 19 nên tỷ lệ giải quyết án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm
và phúc thẩm trong một số năm (2020, 2021) chưa đạt được theo chỉ tiêu của Quốc
hội. Tuy nhiên, việc xét xử các vụ án hình sự bảo đảm nghiêm minh, đúng pháp
luật, hạn chế tối đa các trường hợp kết án oan người không có tội. Chất lượng tranh
tụng được bảo đảm; các Tịa án đã phối hợp với Viện kiệm sát nhân dân tổ chức
nhiều phiên tòa rút kinh nghiệm. Đã xử lý nghiêm các vụ án kinh tế, tham nhũng
gây ra những thiệt hại đặc biệt lớn, được dư luận xã hội rất quan tâm, do những
người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Về cơ bản, các vụ án được đưa ra xét xử
đúng thời hạn luật định6. Điều này đã góp phần khơng nhỏ vào cơng tác đấu tranh,
phịng chống tội phạm. Để đạt được chất lượng giải quyết án trong giai đoạn xét xử
như trên xuất phát từ nhiều ngun nhân khác nhau, trong đó khơng thể phủ nhận
vai trò quan trọng của TKTA trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng tại phiên
tịa. Thơng qua việc TKTA thực hiện đúng quy định của pháp luật trong việc tiến
hành các hoạt động tố tụng tại phiên tòa như kiểm tra sự có mặt, vắng mặt của
những người được triệu tập và báo cáo HĐXX, phổ biến nội quy phiên tịa, ghi biên
bản phiên tịa đã góp phần giúp cho HĐXX nói riêng và Tịa án nói chung ra bản án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chúng ta đều thừa nhận rằng, chất lượng xét
xử vụ án hình sự phụ thuộc vào nhiêu yếu tố khác nhau, với sự đóng góp cơng sức
của nhiều chủ thể khác nhau như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào
chữa, trong đó có cả vai trị của TKTA. Mỗi chủ thể có các chức năng, nhiệm vụ
khác nhau khi tiến hành tố tụng tại phiên tòa. Việc TKTA thực hiện tốt các hoạt
động tố tụng tại phiên tòa sẽ bảo đảm cho tính hợp pháp của thủ tục tố tụng tại
Hồ Hương & Nghĩa Đức, UBTVQH cho ý kiến về cơng tác phịng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật,
cơng tác của ngành tòa án, kiểm sát năm 2022, nguồn: truy cập 24/11/2022.
6


13
phiên tòa, tạo cơ sở, tiền đề quan trọng để các chủ thế khác ra bản án, quyết định để

giải quyết đúng đắn nội dung của vụ án.
Ngoài báo cáo chung của hệ thống Tòa án mà tác giả đã trình bày ở trên, để
đánh giá kết quả đạt được về việc áp dụng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
TKTA trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng tại phiên tòa, tác giả đã xây dựng
bảng câu hỏi khảo sát đối với những người làm công tác thực tiễn. Thông qua kết quả
xử lý bảng câu hỏi khảo sát đối với 50 phiếu khảo sát thu được7, kết quả cho thấy:
Đối với câu hỏi chung về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA hiện
nay như thế nào? kết quả khảo sát thể hiện ở mức độ Rất tốt: 12 phiếu (24%); mức
độ Tốt: 30 phiếu (60%); mức độ Trung Bình: 8 phiếu (16%); mức độ Kém (0%).
Như vậy, nhìn chung 50 người được khảo sát đánh giá chung việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của TKTA trong các hoạt động tố tụng nói chung và tại phiên tịa nói
riêng ở mức độ tốt trở lên chiếm tỷ lệ cao (84%). Còn đối với mức độ trung bình
chiếm tỷ lệ nhỏ 16% và đặc biệt ở mức độ kém khơng có8.
Đối với các câu hỏi ở mức độ cụ thể về việc thực hiện các hoạt động tố tụng
của TKTA tại phiên tòa cũng cho các kết quả như sau:
Đối với việc thực hiện “hoạt động kiểm tra sự có mặt vắng mặt của những
người được triệu tập tham gia phiên tòa và báo cáo HĐXX của TKTA” thì theo
quan điểm của những người được khảo sát đều cho rằng: việc tiến hành các hoạt
động này của TKTA được thực hiện đúng luật và khơng có phát sinh những vi
phạm, thiếu sót hoặc vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Những người được hỏi
đều khẳng định rằng họ chưa từng biết đến bản án nào của Tòa án bị Tòa án cấp
trên hủy án để xét xử lại liên quan đến vi phạm của Thư ký trong việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn này9.
Đối với câu hỏi về việc tiến hành hoạt động phổ biến nội quy phiên tịa của
TKTA, kết quả cho thấy nhìn chung trong các phiên tịa hình sự các TKTA đều thực
hiện đầy đủ, đúng luật. Những người được khảo sát đều trả lời rằng họ chưa từng
biết vụ án nào mà TKTA “quên” phổ biến nội quy phiên tòa. Đồng thời về mức độ
phổ biến nội quy phiên tòa tuy luật không quy định cụ thể, nhưng 84% ý kiến khảo
sát cho rằng hiện nay TKTA đã phổ biến nội quy phiên tòa đầy đủ và cụ thể để giúp
cho những người tham gia phiên tòa tuân thủ, chấp hành tốt nội quy phiên tòa10.

Xem phần phụ lục của luận văn này.
Xem kết quả trả lời câu hỏi 2 trong bảng khảo sát kèm theo luận văn này.
9
Xem kết quả trả lời câu hỏi 6 và 7 trong bảng khảo sát kèm theo luận văn này.
10
Xem kết quả trả lời câu hỏi 3, 4 và 5 trong bảng khảo sát kèm theo luận văn này.
7
8


14
Đối với hoạt động ghi biên bản phiên tịa nhìn chung 62% các quan điểm
khảo sát cho rằng việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về ghi biên bản phiên tịa của
TKTA hiện nay khơng có vướng mắc trên thực tiễn và 96% số người được hỏi cho
biết rằng họ chưa từng biết đến bản án nào bị hủy để xử lại vì vi phạm liên quan đến
ghi biên bản phiên tòa. Những ý kiến cho rằng hoạt động ghi biên bản phiên tịa của
TKTA có vướng mắc, vi phạm chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số những người được
khảo sát11. Qua đó cũng có thể nhận định rằng, nhìn chung hoạt động ghi biên bản
phiên tịa của TKTA vẫn đang được thực hiện đúng luật, những thiếu sót, vi phạm
chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong thực tiễn.
Như vậy, qua khảo sát ý kiến những người làm công tác thực tiễn và kết quả
giải quyết án trong giai đoạn xét xử ở trên có thể khẳng định việc thực hiện các hoạt
động tố tụng của TKTA tại phiên tòa trong thời gian qua đã bảo đúng đắn, đầy đủ
theo quy định của pháp luật. Điều này góp phần vào sự thành công chung của hoạt
động xét xử vụ án hình sự, góp phần có hiệu quả vào cơng tác đấu tranh, phịng
chống tội phạm, góp phần bảo vệ cơng bằng, công lý, bảo vệ quyền con người trong
tố tụng hình sự.
- Những vướng mắc trong việc thực hiện quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA khi tiến hành các hoạt động tố tụng
tại phiên tòa

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong thực tiễn thực hiện quy định của
pháp luật tố tụng hình sự như đã trình bày ở trên, thì thực tiễn áp dụng quy định của
pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của TKTA tại phiên tòa vẫn cịn tồn tại một số
khó khăn, vướng mắc như sau:
Ở phạm vi chung, những vướng mắc, bất cập liên quan đến việc tiến hành các
hoạt động tố tụng tại phiên tòa của TKTA đã được chỉ ra trong một số báo cáo, tài
liệu của các cơ quan có thẩm quyền. Chẳng hạn như: “thông qua công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự tại khu vực Miền Trung Tây Nguyên, Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà
Nẵng đã phát hiện một số vi phạm và đã ban hành 60 kiến nghị đối với TAND các
tỉnh, thành phố trong khu vực để yêu cầu khắc phục vi phạm trong việc áp dụng
pháp luật về hình sự trong q trình tiến hành tố tụng, trong đó kiến nghị các vi
phạm chủ yếu liên quan đến việc thực hiện các hoạt động tố tụng tại phiên tòa của
TKTA như sau:
11

Xem kết quả trả lời câu hỏi 8 và 9 trong bảng khảo sát kèm theo luận văn này.


15
Việc ghi chép Biên bản phiên tịa khơng đầy đủ, ghi sai họ tên Hội thẩm nhân
dân tham gia xét xử, không ghi những người tham gia tố tụng, ghi sai ngày tháng
năm mở phiên tòa, ghi người tham gia tố tụng thành người tiến hành tố tụng.
Phần tranh luận không ghi lời luận tội của Kiểm sát viên, mà chỉ ghi nội
dung đề nghị áp dụng điều luật BLHS và mức hình phạt đối với bị cáo.
Ghi sai tên bị cáo, sai tội danh xét xử đối với bị cáo.
Khơng thể hiện việc HĐXX cho bị cáo nói lời sau cùng.
Thư ký Tịa án khơng ký vào biên bản phiên tòa”12.
Ở phạm vi cụ thể, những vướng mắc, bất cập trong việc tiến hành từng hoạt
động tố tụng cụ thể tại phiên tòa của TKTA được thể hiện qua các minh chứng sau:
Vướng mắc, khó khăn trong hoạt động phổ biến nội quy phiên tòa của

TKTA, như tác giả đã trình bày ở trên cho thấy trong các phiên tịa hình sự các
TKTA đều thực hiện đầy đủ, đúng luật. Tuy nhiên, vẫn có 16% ý kiến khảo sát cho
rằng hiện nay TKTA phổ biến nội quy phiên tòa chưa đầy đủ và cụ thể. Các ý kiến
này chỉ ra một số thiếu sót của TKTA trong việc thực hiện hoạt động phổ biến nội
quy phiên tòa như: một số trường hợp TKTA phổ biến nội quy phiên tòa mang tính
hình thức, qua loa, chưa phổ biến đầy đủ các nội dung theo quy định của BLTTHS;
một số Thư ký chỉ phổ biến những nội dung mà Thư ký cho là quan trọng và bỏ qua
những nội dung khác; thông thường TKTA chỉ đọc quy định của luật mà chưa có
điểm nhấn, chưa có giải thích thêm để những người tham gia tố tụng của thể hiểu
và chấp hành tốt các nội quy tại phiên tòa13… Tất nhiên những vi phạm, thiếu sót
này chưa đến mức nghiêm trọng, khơng dẫn đến việc bản án bị hủy để xét xử lại.
Tuy nhiên, việc phổ biến nội quy phiên tòa lại có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
đảm sự tuân thủ nội quy phiên tịa, bảo đảm sự tơn nghiêm nơi “công đường”, ảnh
hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử. Vì vậy, việc phổ biến đầy đủ, cụ thể để
giúp những người tham gia phiên tòa biết và chấp hành nội quy phiên tòa cần được
tiếp tục quan tâm, cải thiện trong thời gian tới.
Vướng mắc, khó khăn trong hoạt động kiểm tra sự có mặt, vắng mặt của
những người tham gia phiên tòa và báo cáo HĐXX. Như đã trình bày ở trên, nhìn
chung hoạt động tố tụng này được các Thư ký thực hiện đúng đắn, đầy đủ trong

Hương Nhung, Viện phúc thẩm 2 thông báo rút kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử hình sự, nguồn truy cập 25/11/2022.
13
Xem kết quả trả lời câu hỏi 4 trong bảng khảo sát kèm theo luận văn này.
12


16
thực tiễn tố tụng, tuy nhiên trong một số phiên tịa vì những ngun nhân khác nhau
TKTA đã “qn” báo cáo HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những người được

triệu tập tham gia phiên tịa. Thơng thường đối với trường hợp này, nếu Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa hoặc Kiểm sát viên phát hiện thì sẽ yêu cầu Thư ký thực hiện hoạt
động này để đảm bảo đúng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, có những trường hợp Thư ký
“quên” báo cáo HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập
tham gia phiên tòa, nhưng Thẩm phán chủ tọa và Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tịa đã khơng phát hiện và u
cầu TKTA khắc phục thiếu sót, vi phạm này. Cụ thể: “Thực hiện Chỉ thị của Viện
trưởng VKSND tối cao về công tác của Ngành kiểm sát nhân dân năm 2017; Kế
hoạch số 103/KH-VKSTC ngày 11/9/2017 của VKSND tối cao về “Tổ chức phiên
tịa hình sự rút kinh nghiệm trực tuyến tồn quốc năm 2017”; VKSND tối cao phối
hợp với VKSND và TAND tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức phiên tịa hình sự rút kinh
nghiệm xét xử sơ thẩm vụ án Nguyễn Mạnh Hưng và đồng phạm, bị truy tố về tội
“Giết người”. Phiên tòa khai mạc hồi 08 giờ ngày 30/10/2017 tại trụ sở TAND tỉnh
Quảng Ninh. Phiên tòa đã được ghi âm, ghi hình và đưa tồn bộ nội dung lên trang
tin điện tử của Ngành để các đơn vị trong toàn quốc tải về theo dõi, họp đánh giá rút
kinh nghiệm. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 7)
VKSND tối cao đã nhận được 68 biên bản góp ý kiến, trong đó có 62 biên bản góp
ý kiến của VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, VKSND cấp cao tại
Hà Nội và Đà Nẵng, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát quân sự thủ
đô, Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh, Vụ
thực hành quyền cơng tố và kiểm sát điều tra án trật tự xã hội (Vụ 2). Trong số các
nội dung rút kinh nghiệm có chỉ rõ những vi phạm, thiếu sót trong hoạt động của
Kiểm sát viên và Thẩm phán chủ tọa như: Phần thủ tục phiên tịa cịn nhiều thiếu sót
như: Thư ký khơng báo cáo danh sách những người được triệu tập nhưng Thẩm
phán không yêu cầu thư ký báo cáo; không kiểm tra căn cước của người đại diện
hợp pháp của bị cáo, những người làm chứng đến sau và các luật sư; không giải
thích quyền, nghĩa vụ cho những người làm chứng đến sau và u cầu cam đoan;
khơng giải thích quyền và nghĩa vụ của luật sư; không hỏi các bị cáo đã nhận được
Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa? Nhận ngày nào? không công bố
Quyết định thay đổi người tham gia tiến hành tố tụng; không hỏi ý kiến của Kiểm

sát viên về việc thay đổi người tiến hành tố tụng; vụ án có bị cáo là người chưa
thành niên nhưng Chủ tọa phiên tòa không giới thiệu nghề nghiệp của các Hội


17
thẩm”14. Như vậy, trong phiên tòa này, TKTA đã chưa thực hiện đúng quy định của
luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc kiểm tra sự có mặt,
vắng mặt của những người được triệu tập và báo cáo HĐXX.
Vướng mắc, khó khăn trong hoạt động ghi biên bản phiên tòa của TKTA.
Qua kết quả khảo sát về việc thực hiện hoạt động ghi biên bản phiên tòa cho thấy
38% các ý kiến cho rằng việc thực hiện hoạt động này của TKTA vẫn còn vướng
mắc, thiếu sót trên thực tiễn như: “một số trường hợp TKTA xem nhẹ việc ghi biên
bản phiên tòa, dẫn đến việc ghi chép sơ sài, cẩu thả, thiếu nội dung; có trường hợp
Thư ký phản ánh thiếu khách quan, chỉ ghi nội dung câu hỏi và câu trả lời mà
không phản ánh thái độ, tâm lý của bị cáo; có trường hợp người tham gia tố tụng
có mặt hay khơng có mặt khơng được phản ánh trong biên bản phiên tòa và bản
án”15… Một số vụ án việc thiếu sót, vi phạm của Thư ký khi tiến hành hoạt động
này đã ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử, dẫn đến việc bản án bị Tòa
án cấp trên hủy để xét xử lại. Đồng thời, Viện kiểm sát phải ban hành các kiến nghị
yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm sai sót. Trong phạm vi những người được khảo
sát có 04% ý kiến được hỏi cho rằng họ đã từng biết đến các trường hợp bản án bị
hủy để xét xử lại liên quan đến vi phạm của Thư ký trong việc ghi biên bản phiên
tòa16. Bên cạnh việc khảo sát ý kiến của những người làm công tác thực tiễn như
trên, để chứng minh cho những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng pháp luật về
hoạt động ghi biên bản phiên tòa của TKTA, tác giả đã tiếp cận được một số vụ án
điển hình ở một số địa phương như sau:
Theo báo cáo của cơ quan có thẩm quyền tỉnh Lạng Sơn, “thời gian qua tỉ lệ
các vụ án hình sự có vi phạm dẫn đến cấp phúc thẩm sửa, hủy bản án sơ thẩm hình
sự có chiều hướng giảm nhưng vẫn cịn xảy ra ở một số đơn vị, có nhiều dạng vi
phạm tố tụng dẫn đến án bị hủy như: lập bản vẽ sơ đồ hiện trường vụ án khơng

chính xác; vi phạm trong việc khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường mâu
thuẫn với lời khai bị cáo, nhân chứng, khơng có Kiểm sát viên tham gia; Việc định
tội hành vi vi phạm pháp luật có sự thiếu chính xác; Tống đạt giấy triệu tập những
người tham gia tố tụng không đúng quy định (chậm so với thời hạn luật định ít nhất
là 10 ngày trước khi đưa vụ án ra xét xử); Biên bản phiên tòa sơ thẩm bị chỉnh sửa
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2018), Thông báo số:07/TB-VKSTC, Về phiên tịa hình sự rút kinh
nghiệm trực tuyến toàn quốc năm 2017, nguồn truy cập 25/11/2022.
15
Xem kết quả trả lời câu hỏi 8 và 14 trong bảng khảo sát kèm theo luận văn này
16
Xem kết quả trả lời câu hỏi 9 trong bảng khảo sát kèm theo luận văn này.
14


18
(gạch, xố) khơng có xác nhận hợp lệ”17... mặc dù tác giả không tiếp cận được đối
với vụ án cụ thể, tuy nhiên qua báo cáo ở trên có thể khẳng định trên thực tiễn xét
xử ở tỉnh Lạnh Sơn thời gian qua đã tồn tại vi phạm của TKTA trong việc ghi biên
bản phiên tòa, vi phạm này được xác định là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
dẫn đến bản án sơ thẩm bị Tòa án cấp trên hủy để xét xử lại.
Ở tỉnh Gia Lai, qua kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong tháng 5 năm 2021, “Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Gia Lai
đã ban hành 41 kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm đối với các cơ quan chức năng
trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự, các vụ, việc dân sự; tạm giữ tạm giam
và thi hành án; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. Trong đó có 01
kiến nghị u cầu Tịa án khắc phục vi phạm trong công tác xét xử các vụ án hình sự, cụ
thể: Viện kiểm sát nhân dân huyện Krơng Pa ban hành kiến nghị đối với Tòa án
nhân dân huyện, yêu cầu khắc phục một số vi phạm: Biên bản phiên tịa khơng ghi
đúng mọi diễn biến tại phiên tòa theo quy định tại Điều 258 BLTTHS; việc ghi nhận
trong bản án về quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên không đúng với thực tế theo

quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLTTHS”18…
Tại thị xã Duy Tiên (tỉnh Hà Nam), qua báo cáo của TAND thị xã cho thấy:
“thời gian qua, việc xét xử của Tòa án dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai
tại phiên tịa, bảo đảm đúng người, đúng tội, khơng làm oan, sai hoặc bỏ lọt tội
phạm. Một số vụ án nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm đã được
TAND thị xã Duy Tiên phối hợp với các Cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời giải
quyết, qua đó phát huy tốt tác dụng tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật trong nhân dân, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị và trật
tự an tồn xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được,
TAND thị xã Duy Tiên cịn có những vi phạm, thiếu sót trong hoạt động xét xử các
vụ án hình sự như: biên bản phiên tịa khơng ghi chép đầy đủ theo quy định của
luật, cụ thể không ghi ý kiến của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong
biên bản phiên tòa và trong bản án; Giao bản án chậm cho Viện kiểm sát; Bản án
Nông Ngọc Hưng, Nhận diện một số dạng vi phạm của cấp sơ thẩm dẫn đến cấp phúc thẩm sửa, hủy bán án
sơ thẩm hình sự - Giải pháp, khắc phục, truy cập 25/11/2022.
18
Phạm Hoàng Tân, Viện KSND tỉnh Gia Lai ban hành 43 kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm trong hoạt
động tư pháp và phòng ngừa tội phạm, nguồn: truy cập 25/11/2022.
17


19
khơng đánh giá, phân tích lý do HĐXX xử lý vật chứng… Để khắc phục những vi
phạm, thiếu sót nêu trên nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất, Viện trưởng VKSND thị xã Duy Tiên đã có văn bản số 01/KN-VKS
ngày 10/10/2022 kiến nghị đối với Chánh án TAND thị xã Duy Tiên chỉ đạo thư ký,
Thẩm phán khắc phục những vi phạm, thiếu sót nêu trên, kiểm điểm, rút kinh
nghiệm và có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật
và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử trong thời gian tới”19.
Tại TP.HCM, ngày 26/22/2020, “TAND cấp cao tại TP. HCM mở lại phiên

xử phúc thẩm vụ Trần Hữu Kiển (sinh năm 1981, từng là luật sư Đoàn Luật sư tỉnh
Bến Tre) bị truy tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Phiên tòa được mở
do bị cáo kháng cáo kêu oan.
Ngay trong phần thủ tục, HĐXX thông báo Thẩm phán, Thư ký phiên tòa sơ
thẩm được triệu tập tham gia tố tụng có đơn xin vắng mặt. Các Điều tra viên thuộc
Cơng an tỉnh Bến Tre điều tra vụ án có mặt tại phiên xử muộn. Cạnh đó, việc dẫn
giải một người làm chứng đến phiên tòa này cũng được cơ quan cơng an thơng báo
khơng tiến hành được vì khơng rõ người này đi đâu, cư ngụ tại đâu. Bị cáo Kiển có
ý kiến mong tịa ngưng phiên xử để tiếp tục triệu tập Thẩm phán, Thư ký phiên sơ
thẩm đến tòa làm sáng tỏ nhiều vấn đề. HĐXX cho biết tùy diễn biến phiên xử sẽ
xem xét yêu cầu này thêm và vẫn tiến hành phiên tòa.
Tại lần mở phiên xử trước, bị cáo có đơn gửi HĐXX yêu cầu tòa triệu tập
HĐXX cấp sơ thẩm (chủ tọa phiên tòa, thư ký và kiểm sát viên) tới tham gia phiên
tòa. Lý do biên bản phiên tòa sơ thẩm và bản án sơ thẩm không phản ánh đúng diễn
biến tại phiên tịa. Cạnh đó, bị cáo cịn u cầu thu thập tồn bộ băng ghi âm, ghi
hình q trình xét xử”20. Đây là vụ án gây ra nhiều tranh luận khác nhau trong việc
HĐXX phúc thẩm có quyền được triệu tập Thẩm phán, Thư ký phiên tòa ở cấp sơ
thẩm để làm rõ việc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ở phiên tịa sơ thẩm,
trong đó có việc bị cáo kháng cáo xin hủy án vì cho rằng biên bản phiên tịa và bản
án khơng phản ánh đúng diễn biến tại phiên tòa; bị cáo còn yêu cầu thu thập tồn bộ
băng ghi âm, ghi hình q trình xét xử. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này,
tác giả khơng bình luận về thẩm quyền của Tịa án cấp phúc thẩm trong việc triệu
Phan Thị Hoa, VKSND thị xã Duy Tiên kiến nghị khắc phục vi phạm trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự, truy cập 28/11/2022.
20
Hoàng Yến, Thẩm phán, thư ký cấp sơ thẩm được triệu tập xin vắng mặt, nguồn: ( truy cập 28/11/2022.
19


20

tập Thẩm phán, TKTA cấp sơ thẩm. Nhưng rõ ràng trong vụ án trên việc ghi biên
bản phiên tòa của TKTA có thể chứa đựng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,
dẫn đến việc bị cáo kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét, và lần đầu tiên trong
lịch xử tố tụng Việt Nam, Tòa án cấp phúc thẩm đã triệu tập Thẩm phán, Thư ký ghi
biên bản phiên tòa ở cấp sơ thẩm tham gia phiên tòa để làm rõ nội dung trên.
Bên cạnh vướng mắc đối với hoạt động ghi biên bản phiên tịa, thì theo quy
định tại khoản 4, Điều 258 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Sau khi chủ tọa phiên tịa và
TKTA ký vào biên bản phiên tòa, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại,
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hoặc đại
diện của những người đó được xem biên bản phiên tịa. Nếu có người u cầu ghi
những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tịa thì TKTA phải ghi sửa đổi, bổ sung
đó vào biên bản phiên tịa. Khơng được tẩy xóa, sửa chữa trực tiếp mà phải ghi sửa
đổi, bổ sung tiếp vào cuối biên bản phiên tòa và cùng chủ tọa phiên tòa ký xác
nhận; nếu chủ tọa phiên tịa khơng chấp nhận u cầu thì phải nêu rõ lý do và ghi
vào biên bản phiên tòa”. Tuy nhiên, tác giả cho rằng việc ký vào biên bản phiên tòa
và ghi sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa theo yêu cầu của Kiểm sát viên và
những chủ thể tham gia tố tụng (nếu có) chưa được quy định tại Điều 47 BLTTHS
năm 2015. Mặt khác, việc thực hiện quyền yêu cầu được xem biên bản phiên tịa
hình sự sơ thẩm của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng trên thực tế vẫn
còn nhiều vướng mắc ở chỗ: Tại Điều 258 Bộ luật Tố tụng hình sự khơng có quy
định cụ thể là trong khoảng thời gian bao lâu sau khi chủ tọa phiên tòa và TKTA ký
vào biên bản phiên tòa thì Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng có quyền được
xem biên bản phiên tịa nên trên thực tế có thể dẫn đến những quan điểm khác nhau.
“Quan điểm thứ nhất cho rằng “không giới hạn thời gian xem biên bản phiên
tòa”. Nhưng nếu hiểu theo quan điểm này sẽ dẫn đến nhiều trường hợp bị cáo,
người bào chữa, bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự hoặc đại diện của những người đó sau một thời gian dài kể từ khi kết
thúc phiên tòa mới đến Tòa án yêu cầu Thẩm phán chủ tọa phiên hoặc Thư ký cho
xem biên phiên tòa, nếu Thẩm phán chủ tọa phiên tịa hoặc thư ký khơng cho xem
biên bản phiên tịa thì dẫn đến khiếu nại. Đồng thời chủ tọa phiên tịa và Thư ký

phiên tịa cịn nhiều cơng việc khác phải làm không thể lúc nào cũng đáp ứng được
những yêu cầu đối với bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hoặc đại diện muốn xem biên bản phiên
tòa lúc nào cũng được.


×