Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của các trường đại học công lập tự chủ tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CƠNG LẬP TỰ CHỦ TÀI CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Pgs.Ts. Nguyễn Thị Thủy
Học viên: Nguyễn Ngọc Hải
Lớp: Cao học Luật Kinh tế
Khóa: 32

Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài: “Chế độ pháp lý về
hoạt động tài chính của các trường đại học cơng lập tự chủ tài chính” là cơng trình
nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó giáo sư –
Tiến sĩ Nguyễn Thị Thủy – Trưởng khoa Khoa Quản trị Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh. Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
và kế thừa kết quả nghiên cứu của một số tác giả và nhà khoa học. Các thông tin và
số liệu sử dụng trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy, trung thực, có căn cứ, phù hợp
thực tế và được trích dẫn nguồn cụ thể. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Nguyễn Ngọc Hải



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Số thứ tự

Viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bộ GD & ĐT

2

Đại học công lập

ĐHCL

3

Đại học tư thục

ĐHTT

4

Giáo dục đại học

GDĐH


5

Ngân sách nhà nước

NSNN

6

Quy chế chi tiêu nội bộ

quy chế CTNB

7

Thuế giá trị gia tăng

Thuế GTGT

8

Thuế thu nhập cá nhân

Thuế TNCN

9

Thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế TNDN


10

Trang

tr.


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ HOẠT ĐỘNG
TÀI CHÍNH CỦA CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC CƠNG LẬP TỰ CHỦ TÀI
CHÍNH ....................................................................................................................... 8
1.1 Những vấn đề lý luận về trƣờng đại học công lập tự chủ tài chính .................... 8
1.1.1 Khái niệm trường đại học cơng lập tự chủ tài chính ............................... 8
1.1.2 Đặc điểm của trường đại học công lập tự chủ tài chính ....................... 13
1.1.3 Khái quát về hoạt động tài chính của các trường đại học cơng lập tự
chủ tài chính ............................................................................................. 15
1.2 Chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của các trƣờng đại học cơng lập tự chủ
tài chính ..................................................................................................................... 21
1.2.1 Khái niệm chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của các trường đại
học cơng lập tự chủ tài chính ................................................................... 21
1.2.2 Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động tài chính của các trường đại
học cơng lập tự chủ tài chính ................................................................... 23
1.2.3 Đặc điểm chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của các trường đại học
cơng lập tự chủ tài chính .......................................................................... 25
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ PHÁP
LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC CƠNG

LẬP TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ................................................................................... 29
2.1 Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý về hoạt động tạo lập tài
chính của các trƣờng đại học cơng lập tự chủ tài chính...................................... 29
2.1.1 Thực trạng chế độ pháp lý về hoạt động thu tài chính của các trường
đại học cơng lập tự chủ tài chính ............................................................. 29
2.1.2 Thực trạng chế độ pháp lý về hoạt động huy động các nguồn tài trợ,
viện trợ và các khoản đóng góp khác cho các trường đại học cơng lập tự
chủ tài chính ............................................................................................. 45
2.2 Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý về hoạt động sử dụng
nguồn tài chính của các trƣờng đại học công lập tự chủ tài chính.................... 50


2.2.1 Chi đầu tư và mua sắm ............................................................................. 50
2.2.2 Chi thường xuyên ..................................................................................... 51
2.2.3 Chi không thường xuyên .......................................................................... 52
2.3 Thực trạng chế độ pháp lý về phân phối nguồn tài chính của các trƣờng đại
học cơng lập tự chủ tài chính ................................................................................... 55
2.3.1 Trình tự và tỷ lệ trích lập các quỹ theo quy định..................................... 55
2.3.2 Mục đích sử dụng các quỹ ........................................................................ 56
2.4 Thực trạng chế độ pháp lý về nghĩa vụ thuế và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà
nƣớc của các trƣờng đại học công lập tự chủ tài chính ...................................... 58
2.4.1 Thực trạng chế độ pháp lý về nghĩa vụ thuế của các trường đại học
cơng lập tự chủ tài chính .......................................................................... 59
2.4.2 Thực trạng về nghĩa vụ tài chính của các trường đại học cơng lập tự
chủ tài chính trong việc sử dụng tài sản Nhà nước ................................ 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 70


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng, đặc
biệt nền kinh tế đã phát triển theo xu hướng là nền kinh tế tri thức. Để đáp ứng xu
thế này, ngoài các điều kiện chung, bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng có những
chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực để phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Giáo dục và đào tạo, đặc biệt là GDĐH được xem một trong những nguồn nhân lực
quan trọng và quyết định nền kinh tế tri thức. Việt Nam của chúng ta cũng khơng
nằm ngồi xu hướng đó.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới GDĐH là trao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội cho các trường ĐHCL trong hệ thống giáo
dục Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh nghiệm cải cách GDĐH của
các nước có nền GDĐH phát triển là Chính phủ tăng cường quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm tài chính cho các trường đại học, đặc biệt là các trường ĐHCL.
Trên cở sở chủ trương đó, Quốc hội đã ban hành Luật GDĐH năm 2012 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật GDĐH năm 2012 có hiệu lực ngày
01/07/2019 (sau đây gọi tắt là Luật GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018)). Luật
GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) đã có những nội dung mới mang tính đột
phá về tự chủ đại học của cơ sở GDĐH, đặc biệt là các cơ sở GDĐH công lập trên
cơ sở kế thừa và phát triển những ưu điểm sau thời gian thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính theo Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt
động đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014 – 2017 (sau đây gọi tắt là
Nghị quyết 77).
Theo quy định của Luật GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) và các văn
bản hướng dẫn thi hành thì tự chủ đại học bao gồm các khía cạnh là quyền tự chủ về
học thuật và hoạt động chuyên môn, quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự,
cuối cùng là quyền tự chủ về tài chính và tài sản1. Như vậy, tự chủ tài chính là một
trong những nội dung của tự chủ đại học, tự chủ tài chính là một trong những yếu tố

góp phần quan trọng để quyết định về chất lượng dạy và học ở các trường ĐHCL.
Trên cơ sở quy định chung của pháp luật, các trường ĐHCL tự chủ tài chính sẽ ban
hành các quy định (chế độ pháp lý) về tự chủ tài chính phù hợp với đặc điểm riêng
của mình. Sau khoảng thời gian áp dụng mơ hình ĐHCL tự chủ về tài chính, thực
1

Khoản 1, 2, 3 Điều 13 Nghị định 99/2019/NĐ-CP.


2
tiễn đã chứng minh, đây là một trong những xu hướng tất yếu mà các trường ĐHCL
cần phải thực hiện để tự khẳng định chất lượng dạy và học, đồng thời hòa nhập với
các cơ sở GDĐH ở trong khu vực và trên thế giới.
Với mong muốn nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động tài chính của các trường
ĐHCL tự chủ tài chính, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Chế độ pháp lý về hoạt
động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính” để làm đề tài luận văn
Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, trong những năm vừa qua và hiện nay, những nội dung liên quan
đến tự chủ đại học nói chung và tự chủ tài chính nói riêng đã thu hút sự quan tâm
của nhiều tác giả về những nội dung này. Liên quan đến tự chủ tài chính của các
trường ĐHCL có thể kể tên một số tác giả sau đây:
Trương Thị Hiền (2017), Quản lý tài chính tại các trường ĐHCL trực thuộc Bộ
Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện tự chủ,
luận án tiến sĩ kinh tế về quản lý hành chính cơng, Học viện Hành chính quốc gia.
Luận án đã nêu ra nêu những vấn đề lý luận và thực thực tiễn quản lý tài chính tại
bốn trường ĐHCL ở thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ GD & ĐT, tác giả
Trương Thị Hiền đã phân tích cơ chế tự chủ tài chính và quản lý tài chính trong điều
kiện tự chủ tại các trường ĐHCL. Từ đó, tác giả Trương Thị Hiền đã đề xuất các
giải pháp hồn thiện cơng tác quản lý tài chính tại các trường đã phân tích trong điều

kiện thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính. Mặc dù, phạm vi
nghiên cứu của luận án này vẫn là tồn bộ q trình quản lý hành chính đối với các
hoạt động thu chi tài chính của các trường ĐHCL nói chung, luận án chưa phân tích
sâu vào các quy định của pháp luật cụ thể về hoạt động tài chính của bốn trường
ĐHCL đã nêu trong luận án. Tuy nhiên, luận án là nguồn tham khảo của tác giả về
những nội dung liên quan đến cơ chế quản lý tài chính cũng như thực trạng về quản
lý tài chính của bốn trường ĐHCL tại thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trong luận án.
Nguyễn Trọng Tuấn (2018), Quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH công lập ở
nước ta hiện nay, luận án tiến sĩ chuyên ngành luật hiến pháp và hành chính, Học
viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Luận án đã
nghiên cứu tổng quan về tự chủ đại học của các trường ĐHCL tự chủ tài chính ở
khía cạnh về việc tuân thủ các quy định trong việc tổ chức và thực hiện các nguyên
tắc trong việc tự chủ của các trường ĐHCL. Luận án đã chỉ ra những bất cập trong
các quy định của pháp luật về quyền tự chủ của các trường ĐHCL, đặc biệt là trong


3
công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, công tác tuyển sinh và tự chủ tài chính.
Mặc dù, Luận án được nghiên cứu ở góc độ pháp luật về tự chủ đại học và thời điểm
nghiên cứu khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH năm 2012 chưa
có hiệu lực, luận án là nguồn tư liệu tham khảo quan trọng cho tác giả về những
nhận định, đánh giá liên quan đến nội dung tự chủ tài chính của các trường ĐHCL.
Nguyễn Tấn Lượng (2011), Hồn thiện quản lý tài chính tại các trường đại
học cơng lập tự chủ tài chính trên địa bàn TP.HCM, luận văn Thạc sĩ Kinh tế Trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tấn
Lượng đã làm sáng tỏ nội dung, cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định về quản lý
tài chính của các trường đại học cơng lập có tự chủ tài chính tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Tác giả Nguyễn Tấn Lượng chỉ ra những bất cập về cơ chế quản lý tài chính
và đề xuất phương hướng hồn thiện. Tuy nhiên, cơng trình này đã được thực hiện
khá lâu và chỉ nghiên cứu chuyên sâu về quản lý tài chính. Luận văn của tác giả
Nguyễn Tấn Lượng là nguồn tài liệu để tác giả tham khảo về các khái niệm trong

luận văn của mình.
Phan Thị Thành Dương – Ngơ Gia Hồng (2020), Nhận diện nghĩa vụ tài
chính của trường đại học cơng lập tự chủ tài chính, Tạp chí khoa học pháp lý Việt
Nam, số 2 (132)/2020, tr. 59-70. Bài viết của hai tác giả đã nêu cơ sở lý luận hình
thành nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước của trường ĐHCL tự chủ tài chính, đồng
thời bài viết của hai tác giả Phan Thị Thành Dương – Ngơ Gia Hồng đã đánh giá
những thực trạng và đề xuất kiến nghị về việc các trường ĐHCL tự chủ tài chính
phải có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ thuế để đảm bảo sự công bằng với các cơ sơ
giáo dục ĐHTT khác trong hệ thống giáo dục quốc dân. Bài viết là nguồn tư liệu
tham khảo đáng quý cho tác giả về những khái niệm, lập luận, nhận định, đánh giá
và thực trạng liên quan đến các nghĩa vụ tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài
chính.
Nguyễn Thị Ngọc Hảo (2022), Pháp luật về hoạt động tài chính của cơ sở
GDĐH tư thục, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, là
luận văn nghiên cứu về hoạt động tài chính của cơ sở giáo dục ĐHTT dưới góc độ
pháp luật. Tuy luận văn khơng nghiên cứu về hoạt động tài chính của các trường
ĐHCL nhưng luận văn là nguồn tham khảo quan trọng để tác giả tiến hành so sánh,
đối chiếu về hoạt động tài chính giữa mơ hình cơ sở giáo dục ĐHTT và cơ sở giáo
dục ĐHCL tự chủ tài chính.


4
Phạm Văn Trường (2020), Tài chính cho các trường ĐHCL khi thực hiện cơ
chế tự chủ đăng trên trang thông tin điện tử: www.tapchitaichinh.vn. Thông qua bài
viết này, tác giả Phạm Văn Trường đã tập trung nghiên cứu, phân tích những khó
khăn, thách thức khi thực hiện cơ chế tự chủ đối với các trường ĐHCL, đó là: nguồn
tài chính của các trường ĐHCL còn hạn hẹp, chưa được đa dạng hóa, điều này dẫn
đến khó khăn cho các trường ĐHCL trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính; do
có sự khác biệt trong việc phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL; việc vận dụng các
văn bản quy phạm pháp luật về sử dụng ngân sách, tài sản của ĐHCL còn nhiều

vướng mắc và chưa phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, tác giả Phạm Văn Trường đưa
ra một số đề xuất, kiến nghị về việc chi NSNN cho các trường ĐHCL; về học phí,
giá dịch vụ giáo dục đào tạo, giá dịch vụ đào tạo. Đây là nguồn tài liệu để tác giả
tham khảo trong các lập luận liên quan đến giá dịch vụ đào tạo.
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu được đề cập trên đây đã giải quyết một số
vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến tự chủ tài chính của các cơ sở GDĐH
công lập cụ thể và giới hạn bởi phạm vi vị trí địa lý nhất định hoặc ở khía cạnh tài
chính cơng. Tuy nhiên, hiện tại khi tác giả thực hiện đăng ký đề tài này thì chưa có
bất kỳ một cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu về chế độ
pháp lý về hoạt động tài chính tại các trường ĐHCL tự chủ tài chính ở Việt Nam. Do
đó, thiết nghĩ việc nghiên cứu đề tài trên là cần thiết và có tính mới.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề lý luận đối với chế độ pháp lý về
hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính. Bên cạnh đó, luận văn
nhằm tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng về chế độ pháp lý về hoạt động tài chính
của các trường ĐHCL tự chủ tài chính. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ chỉ ra những hạn
chế, bất cập, đồng thời tác giả đưa ra những giải pháp và kiến nghị hoàn thiện chế độ
pháp lý về hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, đối tượng nghiên cứu của đề tài là chế độ pháp lý về hoạt động tài
chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính. Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng qt và
đầy đủ của chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài
chính, đề tài cịn nghiên cứu các nội dung khác có liên quan như các quy định pháp
luật về đầu tư công, quy định pháp luật về thuế, quy định pháp luật về đất đai và các


5
quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động tài chính của mơ hình cơ sở
GDĐH tự chủ tài chính này.

Thứ hai, đề tài tiến hành nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về
hoạt động tài chính, các quan điểm khác nhau liên quan đến hoạt động tài chính của
các trường ĐHCL tự chủ tài chính.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề cụ thể như sau:
Đề tài chỉ nghiên cứu chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của trường ĐHCL
tự chủ tài chính ở mức độ tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư theo Nghị
quyết 77 và theo Luật GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018), đề tài không thực
hiện việc nghiên cứu khía cạnh tài chính – kế tốn – quản lý.
Đề tài chỉ nghiên cứu và đánh giá thực trạng của chế độ pháp lý hoạt động tài
chính tại một số trường ĐHCL tự chủ tài chính ở mức độ bảo đảm chi thường xuyên
và chi đầu tư theo Nghị quyết 77, Luật GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) và
nhóm 1 theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP.
Đề tài khơng nghiên cứu tất cả các chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của
các trường ĐHCL có mức độ tự chủ tài chính ở nhóm 2 và nhóm cịn lại theo quy
định tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP ngày 21/06/2021 của Chính phủ quy định cơ chế
tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập (sau đây gọi tắt là Nghị định
60/2021/NĐ-CP).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau đây để giải quyết các vấn đề của lý luận về các trường ĐHCL
tự chủ tài chính và thực trạng chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của các trường
ĐHCL tự chủ tài chính, cụ thể;
Thứ nhất, phương pháp phân tích – tổng hợp: Đây phương pháp chủ đạo, được
tác giả sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu của đề tài. Phương pháp được
sử dụng để khái quát, phân tích và đánh giá những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ
pháp lý hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính tại Chương 1. Tại
Chương 2 của luận văn, tác giả sử dụng phương pháp này trong việc phân tích, đánh
giá những khái niệm pháp lý, những quy định của pháp luật để điều chỉnh về hoạt
động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính. Ngồi ra, phương pháp này



6
tác giả sử dụng để tổng kết, phân tích và đánh giá về thực tiễn áp dụng chế độ pháp
lý về hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính.
Thứ hai, phương pháp so sánh luật học: Đây là phương pháp được sử dụng để
nhận diện và làm rõ các đặc trưng trong hoạt động tài chính của của các trường
ĐHCL tự chủ tài chính khi so sánh với các trường ĐHTT và các chủ thể khác. Đồng
thời, phương pháp này tác giả cũng sử dụng để so sánh đối với các quy định của
pháp luật hiện hành với các quy định pháp luật trước đó. Từ đó, nhận định xu thế
thay đổi của chế độ pháp lý về hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài
chính. Bên cạnh đó, phương pháp này cịn được tác giả sử dụng nhằm mục đích so
sánh pháp luật về trường ĐHCL tự chủ tài chính ở Việt Nam với một số quốc gia
trên thế giới. Qua đó, tham khảo một số kinh nghiệm và đề ra phương án hoàn thiện
cho pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp thống kê: Đây là phương pháp được tác giả sử dụng tại
Chương 2 của luận văn với mục đích nhằm thu thập, đưa ra các số liệu về mức học
phí, cơ cấu nguồn thu, chi và mức trích lập các loại quỹ của một số trường ĐHCL tự
chủ tài chính. Qua đó, đánh giá mức học phí, cơ cấu nguồn thu, chi và mức trích lập
các quỹ của các trường trên thực tế, đồng thời chỉ ra sự mất cân đối trong cơ cấu
nguồn thu của các trường ĐHCL tự chủ tài chính.
6. Những đóng góp của luận văn
Về lý luận, luận văn đã phân tích các khái niệm, đặc điểm, khái quát về hoạt
động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính, đồng thời luận văn đưa ra
khái niệm về trường ĐHCL tự chủ tài chính và đặc điểm chế độ pháp ý về hoạt động
tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra các
quan điểm, nhận xét về quy định của pháp luật về quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng nguồn tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính.
Về thực tiễn, luận văn đã phân tích thực trạng, nêu lên những bất cập về chế
độ pháp lý, liên hệ thực tiễn về quá trình tạo lập, sử dụng và phân phối nguồn lực tài

chính của các trường ĐHCL đang thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị quyết
77 của Chính phủ và quy định của pháp luât hiện hành.
Về kiến nghị, trên cơ sở phân tích thực trạng về chế độ pháp lý và liên hệ thực
tiễn, luận văn đã đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện việc trao quyền tự chủ cho các
trường ĐHCL tự chủ tài chính trong việc quyết định mức học phí, thay đổi “học phí”
thành “giá dịch vụ đào tạo”. Đồng thời, kiến nghị xây dựng chính sách để khuyến
khích phát triển nguồn tài trợ, viện trợ cho các trường ĐHCL tự chủ tài chính, hồn
thiện pháp luật đầu tư công, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.


7
Với những đóng góp nêu trên, tác giả hi vọng rằng luận văn có thể là tài liệu
tham khảo mang tính khoa học về chế độ pháp lý đối với hoạt động tài chính của các
trường ĐHCL tự chủ tài chính để các học viên, sinh viên tham khảo và học tập.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 2 chương
Chương 1: Khái quát chung về chế độ pháp lý hoạt động tài chính của các
trường ĐHCL tự chủ tài chính.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý về hoạt động tài
chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính.


8

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ HOẠT
ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG LẬP TỰ
CHỦ TÀI CHÍNH
1.1 Những vấn đề lý luận về trƣờng đại học cơng lập tự chủ tài chính
1.1.1 Khái niệm trường đại học cơng lập tự chủ tài chính
Cũng giống như hoạt động của các ngành nghề trong lĩnh vực công, hoạt

động giáo dục và đạo tạo là hoạt động mang tính phục vụ, hỗ trợ mà khơng nhằm
mục đích lợi nhuận. Để thực hiện hoạt động giáo dục và đào tạo, Nhà nước đã lập ra
hệ thống các trường ở các bậc học, trong đó có hệ thống các trường ĐHCL và
ĐHTT. Khác với ĐHTT, Nhà nước thành lập các ĐHCL nhằm cung cấp các dịch vụ
công và hoạt động phi lợi nhuận, cụ thể đó chính là dịch vụ giáo dục và đào tạo,
đồng thời trường ĐHCL thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Nhà nước giao.
Với chức năng chính là thực hiện dịch vụ cơng trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo, các trường ĐHCL được nhà nước cung cấp nguồn lực về tài chính, cơ sở vật
chất, nhân lực ban đầu, đồng thời nhà nước ban hành các văn bản pháp lý để các
trường ĐHCL thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước giao. Trên cơ sở các
nguồn lực quan trọng này, mục tiêu cuối cùng của các trường ĐHCL phải đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ chun mơn, kỹ năng để đáp ứng nhu cầu của xã hội và
đặc biệt đáp ứng sự kỳ vọng đơn vị sử dụng nguồn nhân lực.
Luật GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) đã đưa ra quy định
rằng“trường đại học, học viện (sau đây gọi chung là trường đại học) là cơ sở
GDĐH đào tạo, nghiên cứu nhiều ngành, được cơ cấu tổ chức theo quy định của
Luật này”2. Mặt khác, nếu xét theo tiêu chí về nguồn vốn đầu tư và mục tiêu hoạt
động để xếp loại thì cơ sở GDĐH sẽ bao gồm: (i) cơ sở giáo dục ĐHCL (ĐHCL và
trường ĐHCL), (ii) cơ sở giáo dục ĐHTT và (iii) cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước
ngồi hoạt động khơng vì lợi nhuận.
Luật GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) khơng đưa giải thích hay xác
định thế nào là trường ĐHCL, đồng thời tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP có nêu đơn
vị sự nghiệp cơng lập là“do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo
quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng theo quy
định của pháp luật, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc phục vụ quản lý nhà
2

Khoản 2 Điều 8 Luật GDĐH 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018).



9
nước”3, qua đó Nhà nước cũng xác định dịch vụ sự nghiệp cơng mà cơ sở GDĐH
cung cấp đó là dịch vụ giáo dục và đào tạo.
Từ quy định của Luật GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) và Nghị định
60/2021/NĐ-CP được dẫn chứng nêu trên, chúng ta có thể hiểu rằng ĐHCL và trường
ĐHCL do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập4 với mục đích là nhằm đào đạo
các trình độ của GDĐH (đại học và sau đại học), nơi cung cấp các dịch vụ liên quan
đến GDĐH. Quy định của pháp luật và thực tế cho thấy ĐHCL, trường ĐHCL được
Nhà nước đầu tư nguồn vốn hoạt động rất lớn từ NSNN hay nói cách khác đây là
nguồn tài chính cơng. Tùy thuộc vào đơn vị chủ quản của các trường ĐHCL là Bộ GD
& ĐT, Bộ chuyên ngành hay Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (gọi tắt là UBND tỉnh), các
trường ĐHCL sẽ nhận được phần lớn NSNN từ Chính phủ phân bổ hay UBND tỉnh
cấp để phục vụ cho hoạt động của mình. Ngồi nguồn tài chính cơng từ Nhà nước, các
trường ĐHCL cũng sẽ nhận được các khoản đóng góp mang tính chất phi lợi nhuận
khác từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong và ngồi nước.
Qua đây có thể thấy điều khác biệt về nguồn tài chính của ĐHCL và ĐHTT.
Nguồn tài chính cho hoạt động của đại học ngồi cơng lập từ sự đóng góp của người
học, khách hàng và khoản hiến tặng. Do đó, nguồn lực tài chính của các trường
ngồi cơng lập cịn hạn chế, học phí là nguồn thu chủ yếu của các trường, chiếm
90% tổng thu của toàn trường. Điều này phản ánh một thực tế là hoạt động của
các trường ĐHTT chủ yếu dựa vào hoạt động đào tạo, hàm chứa rủi ro về tài chính5.
Bất kỳ quốc gia nào trên giới, tùy vào tên gọi khác nhau thì hệ thống các trường
đại học sẽ bao gồm các trường ĐHCL và các ĐHTT hay nói cách khác hệ thống các
trường đại học sẽ bao gồm các trường đại học do nhà nước cấp nguồn tài chính cơng
để hoạt động và các ĐHTT sẽ “tự lo” nguồn tài chính để duy trì hoạt động của mình.
Theo số liệu thống kê năm 2018, tại Mỹ số lượng trường ĐHCL là 1628/4289
trường, cịn tại Nhật Bản thì số lượng đại học quốc gia là 86 và trường ĐHCL 95
trên tổng số 778 trường đại học trong cả nước6.
Ở Việt Nam chúng ta cũng không phải là ngoại lệ, bên cạnh cơ sở giáo dục
ĐHCL cịn có cơ sở giáo dục ĐHTT và cơ sở GDĐH có nguồn vốn đầu tư nước

ngồi hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận. Điều đặc biệt của các cơ sở giáo dục
3

Khoản 1 Điều 2 Nghị định 60/2021/NĐ-CP.
Khoản 2 Điều 27 Luật GDĐH 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018).
5
Lê Huyền, “Đại học ngồi cơng lập quyết liệt địi bình đẳng”, nguồn tại: truy cập ngày 01/09/2021.
6
Phan Thị Thành Dương (Chủ nhiệm đề tài), (2019) “Nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước của trường ĐHCL đươc tự chủ
tài chính” Báo cáo tổng kết Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường năm 2019, tr.15.
4


10
ĐHTT là hoạt động khơng vì lợi nhuận, khơng rút vốn, khơng hưởng lợi tức; phần
lợi tức tích lũy hàng năm thuộc sở hữu chung hợp nhất không phân chia để tiếp tục
dầu tư phát triển cơ sở GDĐH7. Vì vậy, đối với các cơ sở giáo dục ĐHTT này, phần
lợi nhuận có được do tích lũy hàng năm sẽ không được phân chia cho các cổ đông
hay các thành viên góp vốn mà sẽ được tái đầu tư và tiếp tục phát triển cơ sở giáo
dục ĐHTT theo đúng tơn chỉ, mục đích của nhà trường và theo quy định của pháp
luật.
Chủ trương về xã hội hóa giáo dục nói chung và giao quyền tự chủ cho cơ sở
giáo dục đặc biệt là cơ sở GDĐH đã được khẳng định tại các Văn kiện Đại hội toàn
quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 – 2020 đã xác định “giao quyền tự chủ cho các
cơ sở giáo dục, đào tạo, nhất là các trường đại học, trường dạy nghề”8. Kế thừa và
phát triển những thành quả đạt được, văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã tiếp tục khẳng định “thực hiện cơ chế tự chủ đối
với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới”9.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đang tích cực và đẩy mạnh việc
giao quyền tự chủ cho đơn vị nghiệp cơng lập nói chung và ĐHCL nói riêng. Nội
dung về tự chủ của ĐHCL được xác định rất cụ thể, đó là: (i) tự chủ về thực hiện
nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, (ii) tự chủ về bộ máy nhân sự, (iii) tự chủ
về tài chính và (iv) chính sách học bổng, học phí đối với đối tượng chính sách10. Bốn
nội dung này là trụ cột để ĐHCL thực hiện cơ chế tự chủ để giảm tải gánh nặng cho
NSNN, trong đó tự chủ về tài chính và tự chủ về tổ chức được xem là những nội
dung có yếu tố quyết định để ĐHCL có thể tự mình cạnh tranh bình đẳng với các cơ
sở giáo dục ngồi cơng lập và thoát khỏi “bầu sữa” từ NSNN.
Từ điển tiếng Việt đã đưa ra định nghĩa về “tự chủ” như sau: “tự chủ là tự
điều hành, quản lý mọi công việc của mình, khơng bị ai chi phối”11. Ở Châu Âu,
quan niệm về tự chủ đại học thể hiện ở hai khía cạnh: (i) Thốt ra khỏi sự kiểm sốt,
hạn chế của các cơ quan quản lý nhà nước, của thị trường lao động, nhà cung cấp
dịch vụ và các ảnh hưởng chính trị; (ii) Quyền tự do đưa ra các quyết định về cách
7

Khoản 2 Điều 7 Luật GDĐH 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018).
Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.297.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H.2021,
tr.233-234.
10
Điều 1 Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở
GDĐH công lập giai đoạn 2014 – 2017.
11
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.1075.
8


11

thức tổ chức hoạt động cũng như mục tiêu sứ mạng của trường. Đồng thời, có rất
nhiều tác giả đưa ra quan điểm về tự chủ đại học, chẳng hạn như theo quan điểm của
Nybury (2003) cho rằng “tự chủ đại học là khả năng tổng thể của cơ sở hoạt động
theo các lựa chọn của mình để hồn thành sứ mệnh và được xác định bằng những
quyền hạn, nhiệm vụ và các nguồn lực khác”12. Hay tác giả Bùi Anh Thùy và Trần
Ngọc Diễn cho rằng “tự chủ đại học đồng nghĩa với việc khơng cịn khái niệm “cơ
quan chủ quản”, ở đó lao động sáng tạo và tự do học thuật được tơn trọng và vinh
danh, ở đó cơ sở giáo dục – trên cơ sở các nguồn lực và lợi thế so sánh – được tự
quyết định “thân phận”” của mình, được tự khẳng định vị thế và tầm vóc của mình,
thích ứng với cơ chế thị trường”13. Như vậy, qua khái niệm „tự chủ” và tình hình
thực tế về tự chủ đại học tại Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng “tự chủ” đại học đó
chính là khả năng tự quản lý điều hành mọi cơng việc của mình và ít chịu sự chi
phối từ phía cơ quan chủ quản. Nhìn chung, mức độ kiểm sốt của nhà nước càng
lớn thì mức độ tự chủ của trường đại học càng thấp và ngược lại. Tự chủ đại học
thường gắn liền với tự do trong các hoạt động của trường đại học, tuy nhiên “tự chủ”
và “tự do” là không đồng nghĩa với nhau.
Quyền tự chủ của cơ sở GDĐH đã được luật hóa tại Điều 32 Luật GDĐH
năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018) đó là: (i) Cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ và
trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm tơn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở GDĐH; (ii) Quyền tự chủ
trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện
tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh đào tạo, hoạt động khoa
học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp
luật; (iii) Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực
hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế
độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thơi việc đối với giảng viên,
viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở
GDĐH phù hợp với quy định của pháp luật và (iv) Quyền tự chủ trong tài chính và
tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản
lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính


12

Nguyễn Tấn Hưng (2017), “Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở GDĐH công lập Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Nghề luật, số 5, tr.9.
13
Bùi Anh Thùy, Trần Ngọc Diễn (2018), “Tự chủ: Hướng đi tất yếu của GDĐH Việt Nam”, Tạp chí Lao động và xã
hội, Số 568 + 569, tr.28.


12
sách học phí, học bổng cho sinh viên và chính sách khác phù hợp với quy định của
pháp luật.14
Mặt khác, ĐHCL là đơn vị sự nghiệp công lập nên liên quan đến vấn đề tự
chủ của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung
2019) đơn vị sự nghiệp công lập được phân thành hai nhóm: (i) Đơn vị sự nghiệp
cơng lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức
bộ máy, nhân sự (gọi là đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ); (ii) Đơn
vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm
vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (gọi là đơn vị sự nghiệp công lập chưa được
giao quyền tự chủ). Như vậy, theo quy định tại Luật Viên chức thì vấn đề tài chính
là một trong các tiêu chí quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao quyền
tự chủ. Đơn vị sự nghiệp công lập chỉ được coi là tự chủ khi đơn vị đó được giao
quyền tự chủ hồn tồn về tài chính.
Nghị định 16/2015/NĐ-CP thay thế Nghị định 43/2006/NĐ-CP cũng đã
khẳng định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp cơng đó là “các quy định
về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công”15. Nghị định này đã quy định về cơ
chế tự chủ tài chính với bốn mức độ khác nhau và tương ứng với bốn loại hình đơn
vị sự nghiệp cơng lập, đó là: (i) đơn vị sự nghiệp cơng lập tự bảo đảm chi thường

xuyên và chi đầu tư, (ii) đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên,
(iii) đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và (iv) đơn vị sự
nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Điểm giống nhau giữa Nghị định 16/2015/NĐ-CP và Nghị định 60/2021/NĐCP đều đưa ra định nghĩa về đơn vị sự nghiệp công nhưng Nghị định 60/2021/NĐCP lại không đưa ra một quy định hay định nghĩa thế nào là một đơn vị sự nghiệp
cơng tự chủ về tài chính. Trong khi đó, Nghị định 60/2021/NĐ-CP đưa ra tiêu chí để
xác định mức độ tự chủ về tài chính của đơn vị sự nghiệp cơng là dựa trên cơ sở đơn
vị đó đã bảo đảm nguồn kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư hay chưa.
Ngoài ra, về cách phân loại đơn vị sự nghiệp cơng lập tự chủ tài chính và đơn
vị sự nghiệp chưa tự chủ tài chính cịn được quy định tại Nghị định số
151/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản
công năm 2017 đã đưa ra quy định về đơn vị sự nghiệp cơng chưa tự chủ tài chính là
14
15

Khoản 1, 3, 4, 5 Điều 32 Luật GDĐH 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018)
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 16/2015/NĐ-CP


13
“đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp do
Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên”16. Vì vậy, Nghị định 151/2017/NĐ-CP dựa
vào tiêu chí đơn vị sự nghiệp cơng lập đó có bảo đảm chi thường xuyên hay không
để xác định đơn vị sự nghiệp cơng lập đó là có tự chủ về tài chính hay chưa tự chủ
về tài chính.
Như vậy, hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật chưa đưa ra một định
nghĩa về đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính cũng như định nghĩa về ĐHCL
hay trường ĐHCL tự chủ tài chính. Tuy nhiên, dựa vào các quy định của pháp luật
hiện hành được phân tích ở trên, hai tác giả Phan Thị Thành Dương – Ngơ Gia
Hồng đã đưa ra khái niệm về: “Trường ĐHCL tự chủ tài chính là những đơn vị sự
nghiệp có nguồn thu và tự bảo đảm tồn bộ chi phí cho hoạt động thường xuyên”17.

Từ những phân tích nêu trên, theo quan điểm của tác giả khái niệm: Trường
ĐHCL tự chủ tài chính là những đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo có nguồn thu và tự bảo đảm tồn bộ chi phí cho hoạt
động chi thường xuyên và chi đầu tư.
1.1.2 Đặc điểm của trường đại học công lập tự chủ tài chính
Theo quan điểm của tác giả, trường ĐHCL tự chủ tài chính có các đặc điểm
sau đây:
Thứ nhất, chủ thể quyết định thành lập trường.
Hầu hết các trường ĐHCL tự chủ tài chính đều xuất phát từ trường ĐHCL,
việc thực hiện theo cơ chế tự chủ tài chính của các trường ĐHCL đều có quyết định
cá biệt của Thủ tướng Chính phủ hoặc các trường ĐHCL đã thực hiện đầy đủ điều
kiện theo quy định18 và tự xác định đủ năng lực để thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
thì nhà trường sẽ trình hồ sơ xin Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định về việc
thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Như vậy, đối với trường ĐHCL tự chủ tài chính và
kể cả trường ĐHTT đều do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập19.
Thứ hai, chức năng chủ yếu và quan trọng của trường ĐHCL tự chủ tại
chính là cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo.

16

Điểm a khoản 1 Điều 100 Nghị định 151/2017/NĐ-CP.
Phan Thị Thành Dương (Chủ nhiệm đề tài) – Ngơ Gia Hồng, (2019) “Nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước của trường
ĐHCL đươc tự chủ tài chính” Báo cáo tổng kết Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường năm 2019, tr.19.
18
Khoản 2 Điều 32 Luật GDĐH 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018).
19
Khoản 2 Điều 27 Luật GDĐH 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018).
17



14
Với chức năng này, trường ĐHCL tự chủ tài chính có nhiệm vụ đào tạo trình
độ đại học và sau đại học. Sản phẩm của quá trình đào tạo là nguồn nhân lực với
chất lượng cao có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trình độ đào tạo là đặc điểm cơ
bản nhất để phân biệt với các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đồng thời, trình độ đào tạo là đặc điểm cơ bản, xuyên suốt quyết định các nhiệm vụ
và hoạt động khác của trường ĐHCL tự chủ tài chính. Tất cả các hoạt động như
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế, tuyển dụng cán bộ,
giảng viên …của trường ĐHCL tự chủ tài chính đều nhằm mục đích phục vụ cho
cơng tác đào tạo trình độ đại học và sau đại học hiệu quả hơn. Qua đó, chất lượng
đào tạo cao sẽ góp phần thúc đầy các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao
công nghệ, hợp tác quốc tế và thu hút được đội ngũ nhân sự chất lượng cao.
Thứ ba, trường ĐHCL tự chủ tài chính do nhà nước đầu tư bằng nguồn
NSNN ban đầu, đồng thời nhà nước là chủ sở hữu duy nhất20.
Ngay từ khi thành lập, trường ĐHCL tự chủ tài chính được nhà nước đầu tư về
cơ sở vật chất, đó là được ưu đãi về đất đai, cơ sở hạ tầng và được đầu tư đầy đủ về
trang thiết bị dạy học. Hay nói cách khác, Nhà nước là chủ thể đầu tư tài chính để
thành lập các trường ĐHCL và chủ sở hữu duy nhất của trường ĐHCL. Khác với
trường ĐHCL, đối với trường ĐHTT không được nhận sự hỗ trợ về vốn từ nhà nước
mà trường ĐHTT được tạo lập bởi nhà đầu tư. Nguồn tài chính để hoạt động của
trường ĐHTT là từ học phí của người học, khách hàng và các khoản hiến tặng, do đó
chủ sở hữu của trường ĐHTT là của nhà đầu tư hay nói cách khác đó là nguồn vốn
ngồi NSNN. Như vậy, sự khác nhau cơ bản giữa trường ĐHCL tự chủ tài chính và
ĐHTT là nguồn vốn đầu tư ban đầu.
Thứ tư, do nguồn vốn hình thành khác nhau nên việc sử dụng và phân phối
nguồn tài chính của trường ĐHCL tự chủ tài chính và ĐHTT cũng khác nhau.
Trường ĐHCL tự chủ tài chính thực hiện những nhiệm vụ do Nhà nước giao
cho, tức là bổ sung những khiếm khuyết của cơ chế thị trường, nhằm điều chỉnh và
đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của tồn xã hội mặc dù trường ĐHCL tự
chủ tài chính và trường ĐHTT đều hoạt động theo cơ chế thị trường, chịu sự điều

chỉnh theo quy luật cung cầu của thị trường và tuân theo quy định của pháp luật, đặc
biệt là pháp luật về GDĐH. Vì nguồn vốn khác nhau nên việc sử dụng, phân phối
nguồn tài chính của trường ĐHCL tự chủ tài chính và việc phân phối lợi nhuận của
20

Điểm a, Khoản 2 Điều 7 Luật GDĐH 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018).


15
cơ sở ĐHTT là khác nhau. Kết quả hoạt động tài chính của trường ĐHCL tự chủ tài
chính được phân phối và sử dụng phải tuân theo quy định pháp luật về tài chính
trong lĩnh vực cơng. Ngược lại, lợi nhuận của trường ĐHTT được phân phối cho nhà
đầu tư, cổ đông theo quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về doanh nghiệp.
Thứ năm, chủ thể quản lý trường ĐHCL tự chủ tài chính phải đáp ứng theo
quy định pháp luật về viên chức nói chung và pháp luật GDĐH nói riêng.
Đây là điểm quan trọng trong việc tổ chức, quản lý và triển khai hoạt động
của trường ĐHCL tự chủ tài chính. Theo đó, đối với các chức danh quản lý, chẳng
hạn như chức danh Hiệu trưởng trường ĐHCL tự chủ tài chính phải đáp ứng về
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có trình độ tiến sĩ, có đủ sức khỏe để thực hiện
nhiệm vụ, có uy tín khoa học và kinh nghiệm quản lý GDĐH và đảm bảo độ tuổi đối
với chức danh Hiệu trưởng theo quy định của pháp luật21. Ngoài các tiêu chuẩn theo
định của Luật GDĐH thì tùy vào điều kiện cụ thể của từng trường ĐHCL tự chủ tài
chính sẽ có những tiêu chuẩn riêng và được quy định tại quy chế tổ chức và hoạt
động của trường.
1.1.3 Khái quát về hoạt động tài chính của các trường đại học cơng lập tự
chủ tài chính
1.1.3.1 Khái niệm hoạt động tài chính
Trường ĐHCL là đơn vị sự nghiệp cơng lập, thực hiện chức năng đạo tạo
trình độ đại học, sau đại học và hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận. Đồng thời,
hướng tới mục đích cuối cùng là vì cộng đồng xã hội, đây là nghĩa vụ quan trọng,

xuyên suốt quá trình hoạt động của mình, trường ĐHCL phải quán triệt và thực hiện
đầy đủ. Theo đó, các trường ĐHCL có nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, bồi
dưỡng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chun mơn đáp ứng
nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Các trường ĐHCL do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở ở vật chất và quản lý
về các mặt hoạt động. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ tài chính, trường ĐHCL tự chủ
tài chính sẽ hưởng những cơ chế đặc biệt so với các trường ĐHCL chưa tự chủ tài
chính. Đó là cơ chế tài chính cho phép trường ĐHCL được chủ động trong hoạt động
thu chi của mình theo những mức độ được Nhà nước cho phép. Tuy nhiên, quá trình
thu chi hay nói cách khác hoạt động tài chính của trường ĐHCL tự chủ tài chính phải

21

Khoản 2 Điều 20 Luật GDĐH năm 2012 (sửa đổi, bổ sung 2018).


16
tuân theo quy định của pháp luật về tài chính công với tư cách là đơn vị sự nghiệp
công lập tự chủ tài chính.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì khái niệm về tài chính “là tiền nong và sự thu
chi”, là “việc quản lý của cải xã hội tính bằng tiền, theo những mục đích nhất
định”22. Ở góc độ kinh tế thì tài chính được hiểu “là hệ thống các quan hệ kinh tế
phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính bằng việc tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể
trong xã hội”23. Đồng thời, theo Từ điển tiếng Việt thì hoạt động là “vận động, vận
hành để thực hiện chức năng nào hoặc gây tác động nào đó…”24.
Tài chính ở các trường ĐHCL là phản ánh các khoản thu và khoản chi bằng
tiền của các quỹ tiền tệ trong các trường ĐHCL. Nếu xét về bản chất thì nó là những
mối quan hệ tài chính của các trường ĐHCL biểu hiện dưới hình thức giá trị phát
sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ bằng tiền nhằm phục vụ cho sự

nghiệp đào tạo đại học và sau đại học. Nếu xét về hình thức, nó phản ánh sự vận
động chuyển hóa của các nguồn tài chính trong q trình sử dụng các quỹ bằng tiền.
Như vậy, các quan hệ tài chính của trường ĐHCL sẽ bao gồm các nhóm, đó là: (i)
quan hệ tài chính giữa trường đại học với nhà nước; (ii) quan hệ tài chính giữa nhà
trường với người học, tổ chức, doanh nghiệp; (iii) quan hệ tài chính trong nội bộ nhà
trường và (iv) quan hệ tài chính giữa ĐHCL với nước ngồi.
Hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính là hoạt động huy
động nguồn lực tài chính. Đó chính là các hoạt động thu, chi và phân phối các nguồn
lực tài chính. Vì vậy, hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính là
sự phản ánh hoạt động về quá trình huy động nguồn thu, phân phối và sử dụng
nguồn lực tài chính như các chủ thể khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trường
ĐHCL là một tổ chức sự nghiệp cơng lập có tính đặc thù về quy mơ, tổ chức và
nguồn tài chính hình thành nên hoạt động tài chính của trường ĐHCL tự chủ tài
chính có những khác biệt so với các chủ thể khác, thậm chí có sự khác biệt so với
các đơn vị sự nghiệp cơng lập.
Nguồn tài chính của ĐHCL tự chủ tài chính sẽ bao gồm: học phí, thu từ sản
xuất kinh doanh dịch vụ và NSNN (nếu có). Đồng thời, trường ĐHCL tự chủ tài
chính được quyền thu học phí theo quy định của pháp luật về GDĐH nhưng phải
22

Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.884.
Nguyễn Tấn Lượng (2011), “Hoàn thiện quản lý tài chính tại các trường ĐHCL tự chủ tài chính trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh”, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, tr.7
24
Viện ngôn ngữ học (2006), ttđd (22), tr.468.
23


17
tuân thủ theo quy định về mức học phí do Chính phủ quy định. Bên cạnh đó, trường

ĐHCL tự chủ tài chính được thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ, chẳng
hạn như: thu dịch vụ giáo dục đào tạo theo phương thức giáo dục thường xuyên, thu
dịch vụ đào tạo, bòi dưỡng ngắn hạn…Tuy nhiên, các khoản thu dịch vụ này phải
được quy định cụ thể và cơng khai.
Ngồi ra, trường ĐHCL tự chủ tài chính được sử dụng nguồn tài chính và
phân phối kết quả tài chính trong năm cũng phải tuân thủ theo quy định. Trường
ĐHCL tự chủ tài chính được quyền sử dụng nguồn tài chính của đơn vị để chi cho
các hoạt động thường xuyên nhưng đảm bảo chất lượng đầu ra theo đúng cam kết.
Các khoản chi này sẽ bao gồm: (i) Chi học bổng khuyến khích học tập, miễn, giảm
học phí; hỗ trợ chi phí học tập cho sinh viên; các khoản chi hỗ trợ khác cho sinh
viên; (ii) chi đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và cơng
nghệ (nhưng phải hạch tốn vào chi phí hợp lý). Ngồi các khoản chi này, trường
ĐHCL tự chủ tài chính sẽ phải thực hiện việc phân phối kết quả tài chính trong năm
của đơn vị theo quy định của pháp luật25.
Từ những quy định nêu trên có thể kết luận rằng: Hoạt động tài chính của
các trường ĐHCL tự chủ tài chính là q trình tạo lập, phân phối và sử dụng
nguồn lực tài chính và phải tuân theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tựu chung lại sẽ có ba
hoạt động chính đó là: hoạt động tạo lập nguồn tài chính, hoạt động sử dụng (chi)
nguồn tài chính và hoạt động phân phối nguồn tài chính. Ba hoạt động này gắn liền,
liên tục và hỗ trợ cho nhau, q trình hoạt động tài chính của trường ĐHCL tự chủ
tài chính gắn liền với năm ngân sách26.
1.1.3.2 Nội dung hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính
Hoạt động tài chính của trường ĐHCL tự chủ tài chính là hoạt động được
thực hiện trong qua trình tạo lập, sử dụng và phân phối nguồn các quỹ của nhà
trường. Xét trên phương diện tài chính, hoạt động tài chính của trường ĐHCL tự chủ
tài chính có thể chia thành các nhóm hoạt động sau:
(i) Hoạt động tạo lập và xây dựng nguồn tài chính
25
26


Điều 30 Nghị định 60/2021/NĐ-CP.

Điều 14 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 “Năm ngân sách bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31
tháng 12 năm dương lịch”.


18
Tạo lập nguồn tài chính là hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ
tài chính nhằm xây dựng nguồn vốn khi mới thành lập trường hoặc mở rộng thêm
nguồn vốn trong quá trình hoạt động. Nguồn vốn của trường ĐHCL tự chủ tài chính
được hình thành từ hai nguồn khác nhau, đó là: (1) Nguồn vốn do Nhà nước trực
tiếp đầu tư ban đầu khi thành lập trường theo quy định của pháp luật về đầu tư công,
pháp luật về NSNN và (2) nguồn vốn được tạo ra trong q trình hoạt động của
trường thơng qua các giao dịch, hợp đồng với các tổ chức, cá nhân trong và ngồi
nước.
Đối với hoạt động xây dựng nguồn tài chính, cũng giống như cơ sở giáo dục
ĐHTT, các trường ĐHCL tự chủ tài chính thực hiện chức năng chính là giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng người học thông qua hoạt động cung cấp các dịch vụ giáo dục và
đào tạo. Hoạt động này đem lại nguồn thu chủ yếu cho các trường ĐHCL tự chủ tài
chính, đặc biệt là nguồn thu từ học phí. Các trường có thể tìm kiếm nguồn thu từ các
hoạt động khắc, chẳng hạn như hoạt động cung ứng dịch vụ đào tạo, dịch vụ hỗ trợ
hoạt động đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ,…Bên cạnh đó, trường ĐHCL
tự chủ tài chính có thể bổ sung nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh, cho thuê,
liên doanh, liên kết, đầu tư thành lập doanh nghiệp trực thuộc, hoạt động đầu tư tài
chính, gửi tiền tại các ngân hàng thương mại và hoạt động huy động tài trợ, đóng
góp từ xã hội.
(ii) Hoạt động sử dụng nguồn tài chính
Hoạt động sử dụng nguồn tài chính (đó là hoạt động chi) của các trường
ĐHCL tự chủ tài chính bao gồm việc quản lý hoạt động chi tài chính, quản lý và sử

dụng tài sản của trường ĐHCL tự chủ tài chính theo chức năng, nhiệm vụ của mình
và tuân thủ các quy định của pháp luật về NSNN và đầu tư công. Bên cạnh các
khoản chi thường xuyên, chi không thường xuyên và chi đầu tư, hàng năm trường
phải trích một phần chênh lệch thu lớn hơn chi để trích lập các quỹ theo quy định
của pháp luật. Ngoài ra, cũng giống như các trường ĐHTT, các trường ĐHCL tự chủ
tài chính cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước.
Đối với nội dung quản lý hoạt động tài chính, các trường ĐHCL tự chủ tài
chính phải thực hiện ghi chép, xử lý và cung cấp các thông tin về các giao dịch tài
chính của nhà trường thơng qua hoạt động kế tốn. Nhằm đảm bảo thực hiện hiệu
quả, tiết kiệm nguồn tài chính cũng như đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong q
trình thực hiện hoạt động tài chính, các trường ĐHCL tự chủ tài chính phải định kỳ
thực hiện các hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính thông qua tổ chức


19
thanh tra, thanh tra nhân dân và giám sát nội bộ. Đồng thời, hoạt động tài chính của
các trường ĐHCL tự chủ tài chính cịn phải chịu thanh tra, kiểm toán của Nhà nước
nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong quá trình hoạt động của nhà trường.
(iii) Hoạt động phân phối nguồn tài chính
Hoạt động phân phối nguồn tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính là
q trình trích lập các loại quỹ theo quy định của pháp luật, hoạt động này được các
trường thực hiện hàng năm sau khi nhà trường hạch toán đầy đủ các khoản chi phí,
nộp thuế và nộp NSNN theo quy định. Hoạt động này bao gồm việc trích lập các loại
quỹ như: quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, quỹ bổ sung thu nhập, quỹ khen thưởng,
quỹ phúc lợi, quỹ học bổng và hỗ trợ sinh viên theo quy định của pháp luật.
Mức trích lập và mục đích sử dụng của các loại quỹ nêu trên phải đảm bảo
tuân thủ theo quy định của pháp luật của từng loại quỹ và được quy định cụ thể tại
quy chế CTNB của trường. Khác với cơ sở giáo dục ĐHTT, việc thành lập và mức
trích lập các quỹ như quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, quỹ bổ sung thu nhập là
yêu cầu bắt buộc tại các trường ĐHCL tự chủ tài chính.

Trên thực tế, hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính được
thực hiện thơng qua cơng cụ pháp lý là quy chế tài chính và quy chế CTNB của
trường. Các quy chế này, đặc biệt là quy chế CTNB quy định cụ thể về các hoạt
động tạo lập, sử dụng và phân phối nguồn tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài
chính, đồng thời các quy chế này là căn cứ và tiêu chí để đảm bảo việc quản lý, sử
dụng tính hiệu quả, tiết kiệm và tuân thủ pháp luật tại các trường ĐHCL tự chủ tài
chính.
1.1.3.3 Vai trị hoạt động tài chính của các trường ĐHCL tự chủ tài chính
Trong q trình hình thành và phát triển, để đảm bảo thực hiện chức năng cung
cấp các dịch vụ giáo dục và đào tạo, các trường ĐHCL tự chủ tài chính phải thực hiện
các nhiệm vụ khác như: đầu tư các trang thiết bị, phát triển đội ngũ giảng viên, ứng
dụng khoa học và công nghệ vào hoạt động nghiên cứu và giảng dạy…Các hoạt động
này địi hỏi phải có nguồn tài chính của nhà trường. Vì vậy, hoạt động tài chính đóng
vai trị quan trọng và quyết định sự vận hành ổn định và phát triển của các trường
ĐHCL tự chủ tài chính. Mặt khác, hoạt động tài chính ổn định sẽ tạo nguồn thu để
trường đầu tư, tăng thu nhập cho giảng viên, người lao động, thu hút nhân lực có chất
lượng cao và nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản, cụ thể:


20
Thứ nhất, hoạt động tài chính giúp cho các trường ĐHCL tự chủ tài chính
tăng nguồn thu để đầu tư.
Thực tế hiện nay các cơ sở GDĐH ở các nước đều nhận hỗ trợ tài chính từ
nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: kinh phí nhà nước phân bổ cho hoạt động, đặc biệt
là cho việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học; kinh phí phân bổ cho nghiên cứu hoặc
hỗ trợ các dự án nghiên cứu từ các nguồn khác nhau; học phí và các loại phí khác
nhau thu được từ sinh viên trong nước và nước ngoài; nguồn thu từ các hợp đồng
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, hợp đồng đào tạo, dịch vụ tư vấn,
bản quyền… hay là nguồn thu từ các hoạt động trong khuôn viên nhà trường phục vụ
giảng viên, sinh viên và cộng đồng. Nguồn thu từ hiến tặng, tài trợ, quà biếu và đầu

tư.
Ở Việt Nam, các trường ĐHCL tự chủ tài chính với việc trao quyền tự chủ về
nguồn các thu sẽ góp phần nâng cao tính năng động, sáng tạo của các trường trong
việc tìm kiếm các nguồn thu, giảm bớt sự bao cấp từ nhà nước. Với nguồn thu tăng
lên, các trường ĐHCL tự chủ tài chính có nguồn lực tài chính mạnh để tăng đầu tư
cho cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và tuyển nguồn lực có chất lượng cao từ đó
nâng cao chất lượng giảng dạy. Đồng thời, các trường ĐHCL tự chủ tài chính triển
khai các hoạt động dịch vụ, hỗ trợ đào tạo gia tăng để nâng cao chất lượng đào tạo
và phục vụ người học. Khoản thu từ các hoạt động này được công khai trên cơ sở
lấy thu bù đắp chi phí và tích lũy hợp lý. Đây chính là việc đa dạng hóa nguồn thu,
đảm bảo hoạt động, tăng tích lũy và bớt gánh nặng cho NSNN và có nguồn tài chính
để đầu tư.
Thứ hai, hoạt động tài chính giúp cho các trường ĐHCL tự chủ tài chính thu
hút được nhân sự có trình độ cao, đồng thời tăng thu nhập cho cán bộ, giảng viên.
Các trường ĐHCL tự chủ tài chính được quyết định thu nhập tăng thêm của
giảng viên, người lao động theo quy chế CTNB ngồi ngạch, bậc theo quy định của
Nhà nước. Có thể nói rằng đây là một động lực để các trường ĐHCL tự chủ tài chính
phát huy tốt nội lực, tận dụng được tối đa nguồn lực sẵn có của trường, bên cạnh đó
khai thác tốt và triệt để các nguồn thu hợp pháp để từng bước cải thiện thu nhập chính
đáng cho giảng viên, người lao động đồng thời tăng tích lũy cơ sở vật chất và tái đầu tư.
Các trường ĐHCL tự chủ tài chính đã chủ động tìm kiếm, thu hút giảng viên có
trình độ cao bằng các chính sách ưu đãi về điều kiện và mơi trường làm việc, lương,
thưởng và các chính sách hỗ trợ khác cho nghiên cứu khoa học, đào tạo và bồi dưỡng.


×