Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Quyền sửa bản án, quyết định của hội đồng giám đốc thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
CHUNG THẾ HOÀNG CHÂU

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

CHUNG THẾ HỒNG CHÂU

QUYỀN SỬA BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

KHĨA 32

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

QUYỀN SỬA BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
Mã số: 8380104



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh.
Học viên: Chung Thế Hoàng Châu

Lớp: Cao học luật - Khóa 32
MSHV: 19320410212

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng
giám đốc thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu do
chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Huỳnh Bảo
Khánh. Các nội dung, thơng tin được trình bày trong luận văn là trung thực. Tơi xin
chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 11 năm 2022
Tác giả

Chung Thế Hoàng Châu


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT ĐẦY ĐỦ

TỪ VIẾT TẮT

01


Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS

02

Cơ quan tiến hành tố tụng

CQTHTT

03

Kiểm sát viên

KSV

04

Hình sự sơ thẩm

HSST

05

Người bào chữa

NBC

06


Người tham gia tố tụng

NTGTT

07

Người tiến hành tố tụng

NTHTT

08

Tiến hành tố tụng

THTT

09

Tố tụng hình sự

TTHS

10

Vụ án hình sự

VAHS

11


Xã hội chủ nghĩa

XHCN

12

Tịa án Nhân dân tối cao

13

Hiệu lực pháp luật

TANDTC
HLPL


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu ........................................................................... 5
7. Kết cấu của đề tài.............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA HỘI
ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng

giám đốc thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam ............................................... 6
1.1.1.

Khái niệm quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm 6

1.1.2.

Đặc điểm quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm . 9

1.1.3.

Ý nghĩa của quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm11

1.2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quyền sửa bản án, quyết định của Hội
đồng giám đốc thẩm theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam ................................... 13
1.2.1.

Cơ sở lý luận...................................................................................... 13

1.2.2.

Cơ sở thực tiễn................................................................................... 14

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về
quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm ................................ 16
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến năm 1988 ........................................................... 16
1.3.2. Giai đoạn từ 1988 đến năm 2003 ........................................................... 18
1.4. Quyền sửa bản án, quyết định trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới ........................................................................................................ 20
1.5. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền sửa bản án, quyết định của Hội

đồng giám đốc thẩm ........................................................................................... 24


1.5.1. Những căn cứ pháp lý sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc
thẩm theo luật tố tụng hình sự ......................................................................... 24
1.5.2. Trình tự, thủ tục thực hiện quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng
giám đốc thẩm theo luật tố tụng hình sự .......................................................... 28
1.5.3. Các trường hợp thuộc quyền sửa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Hội đồng giám đốc thẩm ........................................................................... 31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 43
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY, MỘT SỐ
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH QUYỀN SỬA
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM ........................ 45
2.1. Thực tiễn thi hành quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc
thẩm tại Việt Nam .............................................................................................. 45
2.1.1. Kết quả đạt được khi thực hiện quyền sửa bản án, quyết định của Hội
đồng Giám đốc thẩm ....................................................................................... 45
2.1.2. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng quy định quyền sửa
bản án, quyết định của Hội đồng Giám đốc thẩm ............................................ 60
2.2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng quy
định quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm..................... 66
2.2. Một số yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quyền sửa bản án, quyết định của
Hội đồng giám đốc thẩm .................................................................................... 71
2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về quyền sửa bản
án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm ....................................................... 74
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 82
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 86



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ
trương đổi mới toàn diện đất nước. Cải cách tư pháp theo đó cũng trở thành một đòi
hỏi khách quan và nhu cầu cấp thiết để nhằm đáp ứng với những đổi mới về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị là Nghị quyết
quan trọng, đề ra các chủ trương lớn, có tính đột phá nhằm tạo ra sự chuyển biến
mạnh mẽ trong cải cách tư pháp.
Đến năm 2003, sự ra đời của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 một lần nữa đánh
dấu một bước phát triển quan trọng trong cải cách tư pháp đặc biệt là trong lĩnh vực
tố tụng hình sự. Sau 12 năm áp dụng Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, năm 2015,
Quốc hội thơng qua Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 với những sửa đổi, bổ sung kịp
thời nhằm đáp ứng sự chuyển biến mạnh mẽ của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
nước ta. Trong đó, vấn đề về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự của Hội đồng
Giám đốc thẩm đã được các nhà lập pháp tập trung xem xét và có nhiều sự thay đổi
tích cực.
Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là một trong những
chế định hết sức quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự ở nước ra nói riêng và
tại rất nhiều nước trên thế giới nói chung. Trong thủ tục xét lại bản án, quyết định
của Hội đồng giám đốc thẩm, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã trao cho Hội
đồng giám đốc thẩm có quyền sửa lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực.
Đây là một quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 so với Bộ luật Tố tụng
hình sự 2013.
Sự bổ sung này của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã dẫn đến một số ý kiến
trái chiều về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm. Một số ý kiến cho rằng quy
định Hội đồng giám đốc thẩm có thẩm quyền sửa bản án, quyết định của Tịa án đã
có hiệu lực pháp luật là không hợp lý, không đúng với bản chất “phá án” của giám

đốc thẩm. Bởi vì, giám đốc thẩm khơng phải một cấp xét xử. Bên cạnh đó, cũng có
một số ý kiến cho rằng: “Việc quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản
án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật là trái với nguyên tắc không ai


2

bị kết án hai lần vì một tội phạm của Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định về
bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tịa án”.
Với những tìm hiểu trên, tác giả nhận thấy cần có một cơng trình nghiên cứu
về quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm theo luật tố tụng hình
sự để phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật về vấn đề này cũng như chỉ ra
thực trạng áp dụng các quy định pháp luật đó. Thơng qua đó, có thể rút ra được
những ưu điểm cũng như những bất cập để có thể đưa ra giải pháp nhằm khắc phục.
Vì vậy, trong bài viết này, tác giả lựa chọn đề tài “Quyền sửa bản án, quyết định
của Hội đồng giám đốc thẩm theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” để tiến hành
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 ra đời và sau đó là Bộ luật Tố tụng hình
sự 2003 và gần đây nhất là Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được thơng qua, các quy
định về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm đã trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều tác giả. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy, đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm. Tuy nhiên, do quyền
được sửa bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực của Hội đồng giám đốc thẩm
mới được bổ sung gần đây, do đó, số lượng các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này
còn tương đối khiêm tốn. Các nghiên cứu về quyền sửa bản án, quyết định của Tịa
án đã có hiệu lực của Hội đồng giám đốc thẩm chủ yếu được nêu tại các nghiên cứu
chung về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu là báo về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc
thẩm cịn có: bài viết “Hồn thiện thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm theo

tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật năm 2013 của Nguyễn
Văn Trượng; bài viết “Kháng nghị giám đốc thẩm, tái phẩm trong Luật Tố tụng
hình sự một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học Kiểm sát số chuyên đề 03 – 2020 của tác giả Hoàng Bá Thọ;...
Một số luận văn, luận án nghiên cứu về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc
thẩm gồm có: luận văn “Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam” của Dương Thị Ánh, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2015; luận
văn “Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Tồ án nhân dân các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Xuân


3

Hùng, Học viện Khoa học xã hội, 2018; luận án “Giám đốc thẩm trong tố tụng hình
sự Việt Nam” của Tiến sĩ Phan Thị Thanh Mai năm 2002; luận án “Giám đốc thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Trung Kiên năm 2020….
Ngoài ra, vấn đề thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm còn được đề cập tới
trong một số tài liệu khác như: Giáo trình luật TTHS Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, Giáo trình luật TTHS của Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình luật TTHS Việt nam của Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật TTHS của
Viện đại học Mở,.… và các sách chuyên khảo về kĩ năng xét xử.
Như vậy, nội dung cụ thể về quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám
đốc thẩm chủ yếu là một phần trong các nội dung nghiên cứu về thẩm quyền của
Hội đồng giám đốc thẩm của luận án tiến sĩ hoặc luận văn thạc sĩ cũng như những
bài viết trên các báo, tạp chí. Các nghiên cứu riêng biệt hơn mới chỉ dừng lại ở cấp
độ là các nghiên cứu trao đổi trên các báo và tạp chí hoặc các bài viết trực tuyến,
chưa có cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Điều đó càng cho thấy
việc nghiên cứu toàn diện về quy định này là rất cần thiết, tạo sự thống nhất trong
nhận thức và chính xác trong thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của bài luận văn bao gồm:
- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quyền sửa bản án, quyết
định của Hội đồng giám đốc thẩm, tìm hiểu quy định này trong lịch sử luật TTHS
Việt Nam và pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới; giải thích rõ các quy
định của BLTTHS có liên quan đến quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng
giám đốc thẩm, những nội dung của bản án bản án, quyết định mà Hội đồnggGiám
đốc thẩm được quyền sửa; những lưu ý đối với từng nội dung đó.
- Phân tích làm rõ những điểm hạn chế, thiếu sót trong quy định về quyền sửa
bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, phân tích những tồn tại hạn chế
trong thực tiễn áp dụng quy định đó.
- Đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quyền sửa bản án, quyết định của Hội
đồng giám đốc thẩm.


4

3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu đã được đặt ra, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Góp phần làm rõ khái niệm chung về thẩm quyền sửa bản án, quyết định
của Hội đồng giám đốc thẩm, rút ra đặc điểm, lịch sử phát triển và so sánh với pháp
luật một số nước trên thế giới.
- Phân tích đánh giá từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền sửa bản án, quyết
định của Hội đồng giám đốc thẩm.
- Đánh giá một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng quy định về quyền
sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm thông qua việc tìm hiểu thực
tiễn thi hành quy định sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm.
- Đề ra những giải pháp sửa đổi bổ sung và hoàn thiện quy định pháp luật về
quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam về quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm; thực tiễn thi
hành các quy định của BLTTHS về quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng
giám đốc thẩm; các cơng trình, bài viết liên quan đến đề tài của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền. Các giải pháp luận
văn đưa ra được nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hướng chỉ đạo của Đảng
và nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai
đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như:
phân tích, đối chiếu, tổng hợp. Luận văn cũng tiến hành thu thập số liệu thống kê về
thực tiễn xét xử giám đốc thẩm của Tòa án Nhân dân tối cao (TANDTC) trong


5

những năm gần đây, đồng thời so sánh và giải thích những quan điểm khác nhau đối
với các vấn đề có liên quan tới đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Đây là luận văn nghiên cứu một cách chuyên sâu về quyền sửa bản án, quyết
định của Hội đồng giám đốc thẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa trong
việc góp phần nhận thức đúng đắn, thống nhất về nội dung của quyền sửa bản án,
quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm. Luận văn đưa ra các giải pháp có cơ sở lý
luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật TTHS của nước ta trong thời kì
hiện nay. Thơng qua nghiên cứu những thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, bài viết đưa
ra một số đánh giá về những vướng mắc, khó khăn trong q trình thực hiện quyền
sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả thi
hành quy định về quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm.

7.

Kết cấu của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 02
chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm theo Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thi hành tại Việt Nam hiện nay, một số yêu cầu và giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám
đốc thẩm.


6

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền sửa bản án, quyết định của Hội
đồng giám đốc thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm, quan trọng nhất của hoạt động
TTHS. Trong giai đoạn này, Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước, trên cơ sở pháp
luật, kiểm tra tính có căn cứ, hợp pháp của toàn bộ các quyết định đã được các cơ
quan tiến hành tố tụng ban hành trong q trình khởi tố, điều tra, truy tố; thơng qua
hoạt động điều tra trực tiếp tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa sẽ đánh giá
một cách khách quan, đầy đủ chứng cứ và các tình tiết trong vụ án với mục đích

cuối cùng là tuyên một bản án, quyết định cơng minh, có căn cứ, đúng pháp luật,
bảo đảm không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Toà án là cơ quan xét xử duy nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Toà án nhân danh Nhà nươc xem xét, đánh giá và đưa ra phán quyết một
người, pháp nhân có tội hay khơng. Bản án, quyết định của Tồ án (mà cụ thể là
Hội đồng xét xử) đã có hiệu lực pháp luật là kết quả của quá trình tố tụng, đánh dấu
sự kết thúc của quá trình điều tra, truy tố và xét xử, và phảu được thi hành án, phải
được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng.
Theo từ điển Tiếng Việt thì thẩm quyền được định nghĩa là “quyền xem xét
để kết luận và định đoạt một số vấn đề theo pháp luật”. Theo từ điển luật học thì
thẩm quyền là “quyền chính thức được xem xét để kết luận, quyết định một vấn đề”.
Trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự, khái niệm thẩm quyền của Tịa án
được đưa ra ở những góc độ khác nhau. Tiến sỹ Nguyễn Văn Hiện cho rằng thẩm
quyền là: “tập hợp các quy định pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến việc giao
vụ án … cho cấp Tòa án nào giải quyết, phạm vi các vấn đề cần giải quyết và đưa


7

ra các quyết định của Tịa án… trong q trình giải quyết vụ án”1. Tiến sỹ Nguyễn
Văn Huyên cho rằng: “Thẩm quyền của Tòa án là tổng hợp các quyền mà pháp luật
quy định cho Tòa án được xét xử những vụ án cụ thể và quyết định đối với những
vấn đề về nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xứt xử trong giới hạn hoặc phạm
vi nhất định”.2
Mặc dù các tác giả đưa ra khái niệm thẩm quyền của Tòa án được một cách
khác nhau, nhưng lại có thể hiểu “Thẩm quyền của tịa án là những quyền năng mà
pháp luật trao cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm
vụ phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm. Tuy nhiên, trên thực

tế không phải tất cả các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tồ án đều
được ban hành đúng trình tự, thủ tục, khách quan, công bằng, đúng người đúng tội,
đúng pháp luật mà có một số trường hợp vẫn cịn phát hiện sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng pháp luật. Việc có cơ chế để khắc phục những sai lầm, vi phạm
nghiêm trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án là
việc làm cần thiết để đảm bảo tính đúng đắn của bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Do đó, pháp luật tố tụng hình sự ở bất kỳ quốc gia nào hay ở Việt Nam
nói riêng cũng đều đặt ra chế định xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tồ án. Việc này được hiểu là hoạt động thẩm tra, xét xét lại tính hợp pháp
và tính có căn cứ của bản án, quyết định. Đây là một thủ tục đặc biệt của tố tụng
hình sự, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc
giải quyết vụ án, nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng đắn và thống nhất,
kịp thời khắc phục những sai lầm, vi phạm. Đây là thủ tục tố tụng quan trọng đảm
bảo tính chính xác, cơng minh của các bản án, quyết định của Tòa án, bảo đảm
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, bảo vệ công
lý, sự nghiêm minh của pháp luật và uy tín của Nhà nước. Tại thủ tục giám đốc
1

Nguyễn Văn Hiện (1999), Vấn đề giới hạn xét xử của Tịa án nhân dân, Tạp chí Tịa án nhân dân số 8, Hà
Nội.
2
Nguyễn Văn Huyên (2002), Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo Luật TTHS Việt Nam, Luận án tiến sỹ
luật học, Trường đại học Luật Hà Nội., Hà Nội.


8

thẩm thẩm quyền của Tòa án được trao cho Hội đồng xét xử trên cơ sở phân công

của Chánh án Tịa án nhân dân.
Tại Điều 382 BLTTHS 2015 thì thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án hình sự
được trao cho: 1. Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bằng
Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị. 2. Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp cao giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tịa án nhân dân quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có tính chất phức tạp
hoặc bản án, quyết định đã được Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám
đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán nhưng không thống nhất khi
biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án. 3. Ủy ban Thẩm phán Tòa
án quân sự trung ương giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực bị kháng nghị.
4. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét
xử gồm năm Thẩm phán đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương bị kháng nghị. 5. Hội đồng toàn
thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm đối với bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật quy định tại khoản 4 Điều này nhưng có tính chất
phức tạp hoặc bản án, quyết định đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán nhưng không thống
nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án. 6. Bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của
các cấp khác nhau thì Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm
toàn bộ vụ án.
Theo quy định tại Điều 388 BLTTHS 2015 thì thẩm quyền của Hội đồng
giám đốc thẩm bao gồm: “1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. 2. Hủy bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp
sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật. 3. Hủy bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại. 4. Hủy bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án. 5. Sửa bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật. 6. Đình chỉ xét xử giám đốc thẩm.”


9

Như vậy, có thể thấy sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là một
trong những thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm. Sửa đổi bản án là việc tòa án
khi xét xử giám đốc thẩm ra bản án trong đó quyết định thay đổi, thêm, bớt một
phần hoặc tồn bộ bản án của tịa án đã xét xử. Việc sửa đổi tiến hành theo thẩm
quyền, trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.3 Từ những vấn đề trên có thể hiểu:
“Quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm là một trong
những thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm được phát luật tố tụng hình sự quy
định. Hội đồng giám đốc thẩm sau khi nghiên cứu bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng xét thấy đủ
điều kiện sửa bản án, quyết định thì Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật và ra quyết định Giám đốc thẩm”.
1.1.2. Đặc điểm quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm
Nghiên cứu cho thấy Quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc
thẩm có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, Hội đồng giám đốc thẩm là chủ thể có thẩm quyền sửa bản án,
quyết định. Nếu như tại các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm thì tại phiên tịa
thẩm quyền quyết định của Tòa án do Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân thì tại thủ tục giám đốc thẩm thẩm quyền thuộc về Hội đồng xét xử
chỉ bao gồm các thẩm phán. Căn cứ vào thẩm quyền xét lại các loại bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật khác nhau nên tồn tại các Hội đồng giám đốc thẩm với
thành phần khác nhau.
Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng
xét xử gồm ba Thẩm phán đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tịa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền

theo lãnh thổ bị kháng nghị. Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc bản án,
quyết định đã được Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm
bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán nhưng không thống nhất khi biểu quyết
thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án thì được xem xét bằng Hội đồng tồn
thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm. Khi xét xử giám
đốc thẩm bằng Hội đồng tồn thể Ủy ban Thẩm phán Tịa án nhân dân cấp cao thì
3

Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp và Nxb Từ điển Bách Khoa,
Hà Nội Tr.441.


10

phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia, do Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao làm chủ tọa phiên tòa.
Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm đối với bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án
quân sự khu vực bị kháng nghị. Khi xét xử giám đốc thẩm thì phải có ít nhất hai
phần ba tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương tham
gia, do Chánh án Tòa án quân sự trung ương làm chủ tọa phiên tòa.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng
xét xử gồm năm Thẩm phán đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương bị kháng nghị. Trường hợp có
tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán nhưng
không thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án thì
được xem xét bằng Hội đồng tồn thể Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao giám đốc
thẩm đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Khi xét xử giám đốc
thẩm bằng Hội đồng tồn thể Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao thì phải có ít nhất

hai phần ba tổng số thành viên tham gia, do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm
chủ tọa phiên tòa.
Thứ hai, cơ sở phát sinh quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám
đốc thẩm. Giống như các quyền năng khác trong thẩm quyền của Hội đồng giám
đốc thẩm thì quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm phát sinh
trong nhiệm vụ xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án bị kháng
nghị do có vi phạm pháp luật nghiêm trong trong quá trình giải quyết vụ án. Và
những kháng nghị hợp pháp là căn cứ phát sinh thẩm quyền giám đốc thẩm.
Thứ ba, đối tượng của quyền sửa bán án, quyết định của Hội đồng giám đốc
thẩm. Việc sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm được tiến hành đối
với những bán án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị
vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Các bản
án, quyết định đó bao gồm bản án, quyết định của Tịa án xét xử sơ thẩm nhưng hết
thời hạn quy định mà khơng có kháng cáo, kháng nghị và bản án, quyết định của
Tòa án xét xử cấp phúc thẩm đối với bản án quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật ngay.


11

Thứ tư, điều kiện sửa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Hội đồng
giám đốc thẩm.
Hội đồng giám đốc thẩm chỉ được sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực khi
đáp ứng đủ hai điều kiện sau:
- Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã rõ ràng, đầy đủ.
- Việc sửa bản án, quyết định không làm thay đổi bản chất của vụ án, khơng
làm xấu đi tình trạng của người bị kết án, không gây bất lợi cho bị hại, đương sự.
Việc làm xấu đi tình trạng của người bị kết án có thể là xử phạt người bị kết
án thêm về tội phạm mới, xử phạt người bị kết án về tội phạm khác nặng hơn, quyết
định một hình phạt nặng hơn, áp dụng một tình tiết tăng nặng mới, khơng cho

hưởng án treo, khơng quyết định miễn trách nhiệm hình sự, lồi trừ trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt và các quyết định khơng có lợi khác cho người bị kết án.
Thứ năm, phạm vi quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc
thẩm. Đây là giới hạn mà pháp luật quy định Tòa án thực hiện thủ tục giám đốc
thẩm được làm đối với bản án, quyết định được đưa ra để xem xét lại. Khác với cấp
xét xử phúc thẩm, phạm vi xem xét quyết định chủ yếu giới hạn bởi phần nội dung
của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị hoặc phần không bị kháng cáo
kháng nghị nhưng xét thấy cần thiết. Thì Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét
toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung kháng nghị.
1.1.3. Ý nghĩa của quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm
1.1.3.1. Ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội
Nhà nước ta xây dựng một nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, với tinh thần thượng tôn pháp luật, cơ chế giám sát, kiểm tra pháp luật là một
đòi hỏi đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Và quyền sửa bản án, quyết định
của Hội đồng giám đốc thẩm nói riêng và thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm
nói chung góp phần đáp ứng được u cầu chính trị của Nhà nước.
Hơn nữa, việc thực hiện quyền sửa bán án, quyết định của Hội đồng giám đốc
thẩm đổi với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp dưới nhưng có
những vi phạm nghiêm trọng, có ý nghĩa trong việc khắc phục những sai lầm do cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã vi phạm trước đó. Đảm bảo bản án, quyết


12

định được áp dụng pháp luật một cách đúng đắn. Đồng thời thông qua hoạt động sửa
bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm còn giúp Tòa án, Thẩm phán, cơ
quan tiến hành tố tụng cấp dưới nhận thức được những sai lầm, thiếu xót của mình
trong việc xét xử trước đó. Do đó, với tính chất là xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tịa án bị kháng nghị vì có vi phạm nghiêm trọng, đảm bảo
việc giải thích và áp dụng pháp luật trong xét xử đúng và thống nhất.

Việc đảm bảo pháp luật được thi hành, áp dụng thống nhất đúng đắn cịn góp
phần đảm bảo cơng bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào cơ quan xét xử
của nhà nước. Đứng trên tinh thần mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện, khởi
tố, điều tra, truy tố xét xử, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, xét
xử đúng người đúng tội, người phạm tội sẽ khơng phải chịu những hình phạt, trách
nhiệm pháp lý hình sự nặng hơn so với tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của
mình gây ra do sự vi phạm của Tịa án. Do đó, việc thực hiện quyền sửa bản án,
đảm bảo mọi hành vi vi phạm đều được xử lý một cách đúng đắn, bảo vệ quyền và
lợi ích của tổ chức, cá nhân và cơng nhân góp phần làm đảm bảo cơng bằng xã hội.
Và tạo được sự tin tưởng của Nhân dân dành cho hệ thống cơ quan nhà nước, được
làm việc nguyên tắc, đúng quy định pháp luật.
1.1.3.2. Ý nghĩa pháp lý
Quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm là một thẩm
quyền được Hội đồng xét xử thực hiện trong giai đoạn thủ tục tố tụng. Đây là một
trong những chế định hoàn toàn mới được quy định trong BLTTHS 2015. Nếu như
trước đây, thì Hội đồng giám đốc thẩm mặc dù xem xét kiểm tra lại tính đúng đắn
của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng không trực tiếp khắc phục, sửa
chữa những vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Tòa án cấp dưới thì nay việc Hội
đồng giám đốc thẩm có thẩm quyền trực tiếp sửa những bản án, quyết định mà khi
có đủ những căn cứ và khơng làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
Quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm góp phần phát
hiện ra những thiếu xót, vi phạm khi áp dụng pháp luật của Tịa án. Giúp hồn thiện
hơn những quy định pháp luật. Việc quyết định sửa bản án, quyết định của Hội
đồng giám đốc thẩm cịn góp phần tạo nên hệ thống án lệ về lĩnh vực hình sự, nhằm
giải thích bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án có tình tiết tương tự, góp phần
hồn thiện hệ thống pháp luật nước ta.


13


1.2.

Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quyền sửa bản án, quyết định của

Hội đồng giám đốc thẩm theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Việc xác định quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm
trong tố tụng hình sự được hình thành trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
sau đây:
1.2.1. Cơ sở lý luận
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước là xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vi nhân dân. Nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
Việc đặt ra quy định về quyền sửa bản bán, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Hội đồng giám đốc thẩm trước hết được thể hiện thông qua Nghị quyết của Đảng,
văn bản pháp luật của nhà nước. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định nhiệm vụ hồn
thiện chính sách, pháp luật hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp. Từng bước hoàn thiện
thủ tục giám đốc thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và
quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu
căn cứ. Điều 104 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao giám đốc
việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định”.
Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc cơ bản của của pháp luật Tố tụng
hình sự Việt Nam là đảm bảo chế độ hai cấp xét xử, sơ thẩm và phúc thẩm được
quy định cụ thể tại Điều 27 BLTTHS như sau:
“Điều 27. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
1. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tịa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo
quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật.

Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét
xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tịa án có hiệu lực pháp luật.


14

2. Bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật này
thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”.
Ngồi ra điều này cũng được quy định tại Điều 6 Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014. Theo nguyên tắc này thì bản án, quyết định của Tịa án sơ thẩm có
thể bị kháng cáo, kháng nghị. Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
thì vụ án được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tịa án có hiệu
lực pháp luật. Đối với những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án
phải được cá nhân, cơ quan, tổ chức tơn trọng và phải được đưa ra thi hành ngay.
Tuy nhiên, việc thi hành bản án, quyết định hình sự sẽ có những ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền và lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, nó có thể chỉ
là hạn chế một số quyền cơ bản của cơng dân nhưng cũng có thể ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền con người đặc biệt là quyền sống. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy ngay
cả khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhưng vẫn có sai xót xảy
ra. Do đó pháp luật đã dự liệu về trường hợp nếu có vi phạm thì vẫn có thể xem xét
lại bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Thủ tục Giám đốc thẩm tồn
tại là yêu cầu tất yếu, khách quan.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Việc thể chế hóa quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm
dựa trên cơ sở thực tiễn sau:
Một là, sự tồn tại của quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc
thẩm trong BLTTHS là sự tồn tại khách quan phù hợp với quy luật phát triển chung
của thế giới và xu hướng phát triển của mơ hình TTHS hiện đại, thể hiện sự gắn kết
với Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, có mối quan hệ với đường lối,

quan điểm của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Chúng ta phải thừa nhận rằng, pháp luật TTHS Việt Nam nói chung bị chi
phối và chịu ảnh hưởng của nhiều luồng quan điểm pháp luật trên thế giới. Xuất
phát từ nhu cầu phát triển, hội nhập quốc tế sâu rộng nên trong lĩnh vực TTHS đã có
sự học hỏi tiếp thu lẫn nhau trong TTHS của các nước. Có thể nói, đa phần các
nước đã có sự “trộn lẫn” vào mơ hình TTHS của quốc gia mình mà khơng cịn
ngun bản của một mơ hình TTHS duy nhất. Chế định về quyền sửa bản án, quyết
định của Hội đồng Giám đốc thẩm cũng khơng là ngoại lệ. Xét về bản chất, mơ hình


15

TTHS Việt Nam là mơ hình TTHS hỗn hợp thiên về thẩm vấn cho nên pháp luật
TTHS Việt Nam nói chung đã có sự tiếp thu quy định về quyền sửa bản án, quyết
định cho Hội đồng giám đốc thẩm. Việc xây dựng và áp dụng có hiệu quả quyền
hạn này của Hội đồng giám đốc thẩm là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt
Nam. Như đã phân tích, Hiến pháp 2013 quy định chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
được bảo đảm thay vì Tồ án thực hiện chế độ hai cấp xét xử có nghĩa là vụ án phải
được trải qua trình tự nếu đáp ứng đủ căn cứ phát sinh và không chỉ hiểu cơ học là
chỉ được hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm mới có quyền xét xử.
Hai là, trong những năm qua, tình hình án bị hủy để điều tra lại, xét xử lại
còn chiếm tỉ lệ cao, với việc quy định quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng
Giám đốc thẩm nhằm giảm thiểu tình trạng án xử đi xử lại nhiều lần, bảo vệ quyền
lợi tối đa cho người bị kết án cũng như đương sự.
Nhận thấy nhiều vụ án hình sự trên thực tế trong những năm vừa qua bị xét
xử nhiều lần ở các cấp trong một khoảng thời gian dài khiến án bị sa lầy, khơng lối
thốt. Và tác hại của việc án hủy đem lại là vô cùng to lớn, không chỉ ảnh hưởng
đến uy tín của Tịa án, của các Bộ Tư pháp đối với Nhân dân, gây ra tình trạng gánh
nặng án cho các cơ quan tư pháp mà quan trọng hơn cả là ảnh hưởng đến quyền lợi
của người bị kết án, của các đương sự. Trong khoảng thời gian thi hành BLTTHS

2003 đã bộc lộ nhiều khuyết điểm. Đơn cử, pháp luật TTHS quy định Hội đồng
giám đốc thẩm chỉ có thẩm quyền hủy bản án, quyết định dẫn đến có những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị Giám đốc thẩm chỉ sai về hình
thức (thủ tục tố tụng), khơng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền là lợi ích hợp
pháp của các đương sự nhưng vì Hội đồng giám đốc thẩm khơng có thẩm quyền sửa
án cho nên phải hủy bản án. Trong trường hợp đó, Hội đồng giám đốc thẩm được
quyền sửa bản án, quyết định vừa góp phần giải quyết nhanh chóng, triệt để quyền
lợi cho người bị kết án, cho đương sự, tiết kiệm thời gian, cơng sức cho chính bản
thân họ cũng như những người có liên quan. Đồng thời đối với Thẩm phán, sửa bản
án, quyết định thì không bị ảnh hưởng đến việc tái bổ nhiệm Thẩm phán. Như vậy,
nhận thấy đòi hỏi của thực tiễn về quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám
đốc thẩm là vô cùng hợp lý, phù hợp với những yêu cầu cải cách tư pháp liên quan
đến nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Với vai trò quan trọng
như vậy, việc quy định quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm
ln ln là một nhu cầu, một địi hỏi cấp thiết khách quan.


16

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
về quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến năm 1988
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 các quy định về tố tụng hình sự
nói chung chưa được thống nhất cụ thể trong một văn bản nhất định mà chủ yếu là
thông qua các sắc lệnh đơn lẻ quy định thành lập hệ thống cơ quan tố tụng và cách
thức tổ chức của cơ quan tố tụng như: Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 về thiết lập
các Tòa án quân sự, Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các toà án và
các ngạch thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,.. Đến Sắc lệnh số 51
ngày 17/4/1946 quy định về việc ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân cơng
giữa các nhân viên trong Tịa án mới phần nào thể hiện những nội dung liên quan

đến thẩm quyền của các Tịa án trong hình sự, dân sự và thương sự. Tuy nhiên,
những quy định chỉ dừng lại ở mức khái quát và chung chung quyền của Tòa án sơ
cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa Thượng thẩm. Đơn cử, quy định tại Điều 13 “Toà
Thượng thẩm có quyền xét xử: những việc kháng cáo án sơ thẩm của các tồ đệ nhị
cấp”. Có thể lý giải quy định trên dựa vào hoàn cảnh lịch sử và điều kiện nước ta
lúc bấy giờ. Trong thời kì chiến tranh loạn lạc chủ trương “diệt giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm” cho nên chủ trương hoàn thiện ngay hệ thống tư pháp là chưa thể
đáp ứng mà phần nào các quy định đang hướng đến xây dựng, hoàn thiện. Do hoàn
cảnh lịch sử và điều kiện thời chiến như đã đề cập, nên quyền hạn cụ thể là quyền
sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm chưa được xem xét và coi
trọng, ngay cả các văn bản pháp luật trong thời kỳ này cũng không để cập việc xét
lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Sau khi hịa bình được tạo lập lại trên miền Bắc, từ năm 1954, đất nước ta
tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc bắt đầu thực hiện quá độ lên chủ nghĩa
xã hội cho nên bước đầu Đảng và Nhà nước ta tập trung chủ yếu củng cố, hoàn
thiện tổ chức các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Theo đó, một
loạt các sắc lệnh, nghị định về thiết lập lại hệ thống Tòa án ra đời như Sắc lệnh số
156 ngày 17/11/1950 về thiết lập Tòa án quân khu; Nghị định 300-TTg ngày
14/8/1959 về tổ chức lại Tòa án nhân dân Phúc thẩm, Sắc lệnh số 151 ngày
12/4/1953 về thành lập Tòa án đặc biệt nhằm trừng trị những địa chủ chống pháp
luật trong khi và ở những nơi phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất,..


17

Bên cạnh đó, trong giai đoạn này, xuất hiện các đơn khiếu nại và yêu cầu đến Đảng,
Chính phủ, cơ quan nhà nước xét xử lại các bản án đã tuyên ảnh hưởng đến quyền
lợi của cá nhân, tổ chức về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Để kịp thời
khắc phục tình trạng trên, Bộ Tư pháp đã kịp thời ban hành các Thông tư số 312
ngày 12/2/1958 yêu cầu các cấp toà án phải xem xét giải quyết các khiếu nại và có

kế hoạch khắc phục sai lầm trong bản án đã xét xử, Thông tư số 002-TT ngày
13/1/1959 về thủ tục xử lại và Thông tư số 04-TT ngày 3/2/1959 về thủ tục xét lại
những vụ án hình sự đã có hiệu lực pháp luật, nay thấy là xử không đúng. Tuy
nhiên, các văn bản này cũng chỉ dừng lại ở mức quy định chung chung về việc xét
lại án mà chưa có các cụ thể liên quan đến quyền sửa bản án, quyết định của Hội
đồng giám đốc thẩm.
Tựu chung lại, có thể đánh giá khái quát về các quy định thời kì từ năm 1945
đến năm 1960 cịn mang tính chất xây dựng, thiết lập mới, ưu tiên tính kịp thời mà
chưa quy định rõ ràng và đầy đủ các chế định pháp lý. Mặc dù manh nha hình thành
cơ chế xử lại các bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa quy định chính thức
về thủ tục giám đốc thẩm và theo đó thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm nói
chung, quyền sửa lại bản án, quyết định cũng chưa được thiết lập trong các quy định
pháp luật tố tụng hình sự trong thời kì này.
Thời kì từ năm 1960 đến năm 1988 hệ thống cơ quan tư pháp gồm chức
năng xét xử, chức năng công tố, chức năng điều tra dường như hoàn thiện hơn và
được quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật nhất định dựa trên nền tảng Hiến
pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980, đặc biệt là với sự ra đời của Luật tổ chức
TAND năm 1960 và Pháp lệnh ngày 23/6/1961 quy định cụ thể về tổ chức của
TANDTC và tổ chức của các TAND địa phương. Những văn bản pháp luật này
đánh dấu cho bước phát triển về mặt nội dung và hình thức của pháp luật TTHS
nói chung. Liên quan đến quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc
thẩm, TANDTC đã ban hành Thông tư số 6-TC ngày 23/7/1964 của TANDTC
giải thích thêm về trình tự giám đốc xét xử có quy định liên quan đến quyền của
Hội đồng giám đốc thẩm, cụ thể: Bác kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết
định của các cơ quan xét xử cũ; hủy bỏ bản án hoặc quyết định sơ thẩm và mọi
bản án và quyết định sơ thẩm tiếp theo, đình chi vụ án hoặc chuyển vụ án về để
điều tra lại hoặc xét xử lại theo trình tự sơ thẩm; hùy bỏ bản án hoặc quyết định
phúc thẩm và mọi bản án, quyết định đưa ra xét theo trình tự phúc thẩm một lần



18

nữa; hùy bỏ bản án hoặc quyết định của toà chuyên trách trước đây để xét xử lại
theo trình tự giám đốc thẩm và y án hoặc sửa đổi bản án và quyết định sơ thẩm
hoặc phúc thẩm; sửa chữa bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (trừ
trường hợp cần phải xử lý theo hướng nặng hơn)4.
Như vậy, có thể thấy thời kì này hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật
liên quan đến chế định giám đốc thẩm nói riêng đã dần hồn thiện hơn. Với sự ra
đời của Luật tổ chức TAND không chỉ đánh dấu mốc cho sự phát triển mới của
ngành tư pháp đồng thời là bước đệm cho sự ra đời của hàng loạt các văn bản dưới
luật để hướng dẫn thi hành cụ thể các chế định liên quan đến thẩm quyền xét xử của
Tịa án. Trong đó, liên quan đến thẩm quyền sửa bản án của Hội đồng giám đốc
thẩm đã được quy định trong văn bản pháp luật tố tụng hình sự thể hiện bước phát
triển mạnh mẽ của hệ thống pháp luật thời kì này và đồng thời là cơ sở pháp lý để
từng bước phát triển và hoàn thiện chế định thẩm quyền của Hội đồng giám đốc
thẩm trong BLTTHS.
1.3.2. Giai đoạn từ 1988 đến năm 2003
Nhìn chung trong giai đoạn này, dựa trên nền tảng là các quy định thời kì
trước, quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm đã được quy định
cụ thể hơn về phạm vi sửa bản án, quyết định. Đồng thời, thay vì nằm rải rác ở các
văn bản dưới luật thì quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm đã
được ghi nhận một cách cụ thể tại phần thứ sáu về xét lại bản án và quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của BLTTHS năm 1988. Sự ra đời của BLTTHS 1988 nói chung
được nhiều học giả cho rằng “Đây là thành tựu khoa học lớn, là kết quả của quá
trình kế thừa và phát triển các kinh nghiệm và kiến thức trong quá trình xây dựng
và phát triển khoa học luật tố tụng hình sự”5. Theo đó, quyền sửa bản án, quyết
định vẫn được quy định là một trong các quyền của Hội đồng Giám đốc thẩm cùng
với quyền không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật; quyền hùy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
đình chỉ vụ án; quyền hùy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều

tra lại hoặc xét xử lại được quy định tại Điều 254 BLTTHS 1988. Tại Điều 257
BLTTHS 1988 quy định rõ hơn về phạm vi của Hội đồng Giám đốc thẩm khi tiến
4

Tòa án nhân dân tối cao (1965), “Luật lệ về tư pháp”, Hà Nội, Tr.12.
Th.s Phan Thị Thanh Mai (2005), Khái quát về chế định giám đốc thẩm trong Luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, Tạp chí Luật học số 3/2005, Hà Nội.
5


19

hành sửa bản án quyết định là: “Hội đồng giám đốc thẩm khơng được tăng hình
phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn, nhưng có quyền sửa
hình phạt và áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn đối với những
người bị kháng nghị và cả những người không bị kháng nghị theo hướng đó”. Như
vậy, BLTTHS 1988 quy định rất chi tiết nội dung quyền sửa bản án, quyết định của
Hội đồng Giám đốc thẩm, từ đó góp phần hồn thiện quy phạm pháp luật về nội
dung này.
3.3. Giai đoạn từ 2003 đến năm 2015
Trong hơn mười lăm năm thực hiện BLTTHS 1988, mặc dù đã qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn bộc lộ một số vướng mắc, bất cập nhật định, không
kịp thời đáp ứng những yêu cầu đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội và đặc biệt là
yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới của Đảng và Nhà nước ta. Nên để đáp
ứng kịp thời thực tiễn đồng thời nhằm đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ với các
quy định của Hiến pháp 1992 nói chung và hệ thống các văn bản pháp luật mới
được ban hành liên quan đến nội dung TTHS, Quốc hội nước Cộng hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam khố XI đã thơng qua BLTTHS 2003. Nhìn chung, BLTTHS 2003
đã có những quy định mới, bổ sung và hoàn thiện hơn so với BLTTHS 1988. Liên
quan đến nội dung quyền sửa bản án, quyết định của Hội đồng Giám đốc thẩm,

BLTTHS 2003 đã quy định cụ thể tại Điều 285 như sau: “Hội đồng giám đốc thẩm
có quyền ra quyết định: (i) Khơng chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; (ii) Hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án ; (iii) Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại”. Như vậy, BLTTHS 2003 đã không
xem xét “sửa bản án, quyết định” là một quyền năng của Hội đồng giám đốc thẩm
nữa. Theo tác giả có thể xuất phát từ nhu cầu đồng bộ hệ thống lý luận nói chung
nên đến BLTTHS 2003 đã khơng quy định quyền sửa bản án, quyết định của Hội
đồng Giám đốc thẩm. Hay nói cách khác, tại Điều 11 Luật tổ chức TAND 2002,
Điều 20 BLTTHS 2003 quy định “Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Đứng
từ góc độ của các nhà làm luật, quy định trên có nghĩa là, hệ thống TAND chỉ tồn
tại hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm, còn giám đốc thẩm chỉ là thủ tục xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Nếu quy định Hội đồng giám đốc
thẩm có quyền sửa bản án, quyết định là đã liên quan đến việc đưa ra phán quyết


×