Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Xu hướng FDI trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 53 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, việc đầu tư quốc tế là một hướng đi đầy tiềm năng
cho sự phát triển kinh tế của các nước. Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) chiếm một phần quan trọng trong hoạt động đầu tư. Sau khi đạt mức kỷ lục
vào năm 2007, FDI sụt giảm nặng nề trong năm 2008, năm khủng hoảng kinh tế
toàn cầu và hiện nay đang trong quá trình hồi phục. Việc tìm hiểu và nắm bắt được
xu hướng FDI sẽ là một lợi thế trong quá trình đầu tư ở giai đoạn mới đối với các tổ
chức trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, bằng phương
pháp phân tích và tổng hợp, nhóm chúng em tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu về xu
hướng FDI trên thế giới trong những năm từ 2008 đến nay và đưa ra những dự báo
cho xu hướng FDI trong tương lai. Bên cạnh đó, chúng em cũng sẽ đề cập đến xu
hướng FDI ở Việt Nam và đưa ra những biện pháp để thu hút FDI ở Việt Nam.
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
1.1 Khái niệm:
Ngày 12-11-1996, Quốc hội đã thông qua luật mới về đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Theo điều 2 của luật này, FDI là “việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của pháp luật Việt Nam”.
Theo định nghĩa của tổ chức thương mại thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) xảy ra khi công dân của một nước (nước đầu tư) nắm giữ quyền kiểm soát các
hoạt động kinh tế ở một nước khác (nước chủ nhà hay nước nhận đầu tư). Trong
khái niệm này, thật sự không có sự đầu tư gia tăng về kinh tế hay một sự chuyển
giao ròng giữa các quốc gia mà đơn thuần chỉ là một sự di chuyển tư bản từ quốc
gia này sang quốc gia khác. Các công ty nắm quyền kiểm soát hoạt động ở nhiều
quốc gia được xem như các công ty đa quốc gia, các công ty xuyên quốc gia hay
các công ty toàn cầu. Sự phát triền hoạt động của các công ty này chính là động lực
thúc đầy sự phát triển trong thương mại quốc tế thông qua hình thức đầu tư trực tiếp
vào các quốc gia khác trên thế giới.
1.2 Các nguồn hình thành vốn FDI


- Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước:
Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên của vốn giữa các
nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn một nước thiếu
vốn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi thửa sang nơi khan
hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận vì chi phí sản xuất của nước thừa vốn thường cao
hơn nước thiếu vốn.
- Chu kỳ sản phẩm:
3
Chu kỳ của sản phẩm bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu: xuất hiện, tăng trưởng (chin
muồi), chững lại (suy giảm). Ở giai đoạn 1, công ty phát minh bán sản phẩm ra thị
trường trong nước. Ban đầu quá trình sản xuất còn phức tạp mà doanh nghiệp muốn
tối đa hóa chi phí đầu tư nên chưa đưa ra thị trường nước ngoài. Trong giai đoạn
này, xuất khẩu không đáng kể, FDI chưa xuất hiện. Giai đoạn 2, sản phẩm chín
muồi, nhu cầu tăng, xuất khẩu tăng mạnh, các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài
nước xuất hiện. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường nước ngoài và
đương đầu với cạnh tranh thì công ty sẽ đầu tư trực tiếp sang các nước có nhu cầu
cao về sản phẩm, điều này dẫn đến sự xuất hiện FDI. Giai đoạn 3, sản phẩm và quy
trình sản xuất được chuẩn hóa, các doanh nghiệp chịu áp lực giảm chi phí. Để làm
được điều đó, doanh nghiệp mang vốn sang đầu tư trực tiếp ở các nước đang phát
triển, FDI tiếp tục phát triển.
- Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia:
Các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho
phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty này sẽ chọn nơi
nào có các điều kiện về lao động, đất đai, chính trị,… cho phép họ phát huy những
lợi thế đặc thù nói trên.
- Tiếp cận thị trường và xung đột thương mại:
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song
phương.
- Khai thác chuyển giao và công nghệ:

Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển
hơn. Chiều nước lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa nhằm mục đích khai thác đội
ngũ chuyên gia và kỹ thuật công nghệ.
- Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên:
4
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những
nước có nguồn tài nguyên phong phú.
1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
- Theo phương thức xâm nhập thị trường:
+ Đầu tư mới (Greenfield Investment): là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các
cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới ở nước ngoài, hoặc mở rộng một cơ sở sản
xuất kinh doand đã tồn tại.
+ Mua lại và sát nhập qua biên giới (M&A: Cross-border Merger &
Acquisition): chủ đầu tư nước ngoài mua lại một cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước
nhận đầu tư. M&A bao gồm: Đầu tư theo chiều ngang - Horizontal FDI: Đầu tư
trong cùng ngành công nghiệp. Đầu tư theo chiều dọc - Vertical FDI: Đầu tư vào
công ty nằm trong cùng một dây chuyền sản xuất ra sản phẩm cuối cùng.
- Theo quan hệ ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối tượng tiếp nhận đầu tư:
+ FDI theo chiều dọc: doanh nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp tiếp nhận
vốn đầu tư nằm trong cùng một dây chuyền sản xuất ra sản phẩm cuối cùng.
+ FDI theo chiều ngang: FDI được tiến hành nhằm sản xuất cùng một loại
sản phẩm hoặc các sản phẩm tương tự như chủ đầu tư đã sản xuất ở nước chủ đầu
tư.
+ FDI hỗn hợp: chủ đầu tư và doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư hoạt động trong
các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
- Theo định hướng của nước nhận đầu tư:
+ FDI thay thế nhập khẩu: hoạt động FDI được tiến hành nhằm sản xuất và
cung ứng cho thị trường nước nhận đầu tư các sản phẩm mà trước đây nước này
phải nhập khẩu.
+ FDI tăng cường xuất khẩu: thị trường mà hoạt động đầu tư này nhắm tới.

+ FDI theo các định hướng khác của chính phủ.
- Theo định hướng của chủ đầu tư:
5
+ FDI phát triển (Expansionary FDI): nhằm khai thác các lợi thế về quyền sở
hữu của doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư.
+ FDI phòng ngự (Defensive FDI): nhằm khai thác nguồn lao động rẻ ở các
nước nhận đầu tư với mục đích giảm chi phí sản xuất.
- Theo động cơ của nhà đầu tư:
+ FDI tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể
kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào.
Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở
nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng) và các tài sản trí tuệ của nước tiếp
nhận.
+ FDI tìm kiếm hiệu quả: nhà đầu tư phân bổ một số công đoạn sản xuất ở
nước ngoài để tận dụng chi phí rẻ nhằm tối ưu hóa quá trình sản xuất.
+ FDI tìm kiếm thị trường: là hình thức đầu tư sản xuất cùng loại sản phẩm
với nước đầu tư và tiêu thụ sản phẩm tại nước đầu tư.
+ FDI tìm kiếm tài sản chiến lược: đầu tư nhằm ngăn chặn việc bị mất nguồn
lực vào tay đối thủ cạnh tranh.
CHƯƠNG 2: XU HƯỚNG FDI TRÊN THẾ GIỚI
Nhìn chung FDI toàn cầu thường có xu hướng giảm nhanh và hồi phục
chậm. Trong quá khứ, FDI tăng trưởng mạnh trong những năm 1990-2000 rồi suy
giảm, sau đó giai đoạn 2004-2007 là khoảng thời gian quả bom FDI bùng nổ mạnh
mẽ hơn bao giờ hết. Dòng vốn FDI bắt đầu giảm từ đầu năm 2008 và đến 2010 thì
có dấu hiệu tăng trở lại. Dòng vốn FDI hầu hết chịu sự chi phối bởi các công ty
xuyên quốc gia (TNC) và có sự phân bổ không đều giữa các nhóm nước cũng như
các vùng lãnh thổ. Hình thức sáp nhập và mua lại (M&A) là hình thức chính trong
đầu tư, ngoài ra còn có hình thức đầu tư mới (Greenfield Investment). Các công ty
6

xuyên quốc qua thuộc sở hữu Nhà nước cũng bắt đầu cho thấy sức mạnh của mình.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy được có sự chuyển đổi trong nước nhận đầu tư và
nguồn đầu tư của dòng FDI trong thời gian gần đây.
Hình 2.1: Dòng vốn FDI toàn cầu phân theo nền kinh tế từ 1995 đến 2012 (đơn
vị: tỷ USD)
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2012 (www.unctad.org/fdistatistics)
7
2.1 Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010
2.1.1 Tổng quan về FDI trên thế giới giai đoạn 2008-2010
FDI toàn cầu có xu hướng giảm mạnh từ đầu năm 2008 và chỉ có dấu hiệu
khởi sắc từ năm 2010. Cuộc khủng hoảng năm 2008 đã kết thúc chu kì bốn năm
tăng trưởng liên tục của vốn FDI toàn cầu. FDI thế giới giảm từ 2000 tỷ USD trong
năm 2007 xuống còn 1700 tỷ USD vào năm 2008. Dưới sự ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu, các tập đoàn vừa phải đối mặt với sự suy giảm
nguồn tài chính vừa phải gánh chịu những tác động nặng nề do rủi ro tăng cao và sự
thất bại trong dự đoán tăng trưởng kinh tế gây ra. Những biến đổi trên đã làm sức
đầu tư của các tập đoàn yếu đi trông thấy.
Cụ thể, dòng FDI chảy vào nhóm các nước phát triển giảm 29% còn 962 tỷ
USD, nhóm các nước đang phát triển vẫn còn ở mức dương, tăng 17% lên đến 621
tỷ USD, những nước có nền kinh tế chuyển đổi lại đạt được kỉ lục mới thời gian này
với tổng giá trị đầu tư là 114 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2007.
Những nước phát triển chịu ảnh hưởng nhiều nhất thời gian này là Anh,
Pháp, Bỉ, Canada và Đức. Bên cạnh đó, ta thấy được một thực tế rằng, chiếm một
nửa số nước thu hút vốn FDI nhiều nhất là các nước đang phát triển, đây chính là
tượng trưng cho sự biến đổi về quang cảnh FDI năm 2008. Dòng vốn FDI chảy vào
các nước đang phát triển vẫn tăng lên bất chấp cuộc khủng hoàng tài chính.
Năm 2009, tình hình vẫn chưa có chiều hướng khả quan khi FDI lại liên tục
giảm mạnh. Sau khi giảm 16% trong năm 2008, dòng vốn vào của FDI năm 2009
tiếp tục giảm 37% xuống còn 1114 tỷ USD trong khi dòng vốn ra giảm khoảng 43%
và chỉ đạt mức 1101 tỷ USD. Sự sụt giảm này diễn ra trên cả ba nhóm nước: nhóm

nước phát triển, nhóm nước đang phát triển và nhóm nước có nền kinh tế chuyển
đổi. Những quốc gia đang phát triển và quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi cho đến
năm 2009 mới thực sự chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng. Sau sáu năm liên tục
tăng trưởng, FDI các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi
Hình 2.2: Dòng vốn FDI của 20 quốc gia đứng
đầu giai đoạn 2007-2008 (đơn vị: tỷ USD)
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2009
(www.unctad.org/fdistatistics)
8
giảm 27%, đạt 548 tỷ USD. Tuy nhiên, sự suy giảm của các nước phát triển có phần
nặng nề hơn với 44%. Có một sự thay đổi lớn trong xu hướng FDI vào khoảng cuối
năm 2009 làm sáng lên những dấu hiệu phục hồi trong năm 2010 và 2011: Nhóm
các quốc gia phát triển và quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi thu hút một nửa FDI
toàn cầu trong năm 2009 và tỉ trọng tương đối của hai nhóm quốc gia này cho thấy
điểm đến cũng như nguồn vốn của dòng FDI sẽ còn tăng hơn nữa. Trong số 6 nước
thu hút FDI nhiều nhất, có 3 nước thuộc nhóm các nước đang phát triển và có nền
kinh tế chuyển đổi. Mỹ vẫn là quốc gia thu hút vốn FDI nhiều nhất trong năm 2009
với 130 tỷ USD cho dù con số này đã giảm 59% so với năm 2008. Vị trí thứ hai
thuộc về Trung Quốc với 95 tỷ USD với mức FDI giảm 12% và tiếp theo là Pháp
với số vốn FDI giảm 3% và đạt 60 tỷ USD.
9
Hơn 2/3 hoạt động sáp nhập và mua lại quốc tế vẫn diễn ra giữa các nước
phát triển nhưng đóng góp của các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế
chuyển đổi đã tăng từ 26% trong năm 2007 lên 31% trong năm 2009. Thị phần của
10
các nền kinh tế đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi trong dòng FDI toàn cầu
có xu hướng tăng trong thời kỳ suy thoái chủ yếu vì việc mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp giảm mạnh ở các nước phát triển. Sự sụt giảm của hoạt động sáp nhập
và mua lại xuyên biên giới chiếm phần lớn sự sụt giảm của FDI trong năm 2009.
Mặc dù việc mua bán và sáp nhập doanh nghiệp xuyên biên giới ở các nước đang

nổi tăng đều trong những năm gần đây, nhưng hoạt động này vẫn chủ yếu diễn ra ở
các nước phát triển.
Sự sụt giảm của dòng FDI đã chạm đến mức thấp nhất vào nửa cuối năm
2009, nối tiếp sau đó là sự phục hồi nhẹ vào năm 2010 với số vốn FDI tăng và đạt
1420 tỷ USD, đây là một dấu hiệu khả quan trong ngắn hạn và cho những năm sau
đó. Lần đầu tiên, các nước có nền kinh tế đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi
cùng nhau thu hút hơn một nửa dòng vốn FDI toàn cầu. Dòng vốn ra từ các nền
kinh tế này cũng đạt mức cao kỷ lục, hầu hết các khoản đầu tư của họ hướng về các
quốc gia khác ở miền Nam. Ngược lại, dòng vốn FDI vào các nước phát triển tiếp
tục giảm. Một số khu vực nghèo nhất tiếp tục đối mặt với sự suy giảm dòng vốn
FDI. Dòng vốn chảy vào châu Phi, các nước kém phát triển nhất, các nước đang
phát triển tên đất liền và ở các đảo nhỏ đều giảm. Tình trạng tương tư cũng xảy ra
đối với dòng chảy vào Nam Á. Đồng thời, các khu vực mới nổi lớn, chẳng hạn như
Đông Á, Đông Nam Á và Mỹ Latinh tăng trưởng mạnh mẽ trong việc thu hút FDI.
Sản xuất quốc tế đang mở rộng, với doanh số bán hàng nước ngoài , việc làm và tài
sản của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) tất cả đều tăng. Việc sản xuất của các
TNC trên toàn thế giới đã tạo ra giá trị gia tăng khoảng 16 nghìn tỷ USD trong năm
2010, chiếm một phần tư GDP toàn cầu. Chi nhánh nước ngoài của các TNC chiếm
hơn 10% GDP toàn cầu và một phần ba kim ngạch xuất khẩu trên thế giới. Các
công ty xuyên quốc gia thuộc sở hữu Nhà nước là một nguồn mới nổi quan trọng
của FDI. Có ít nhất 650 công ty xuyên quốc gia thuộc Nhà nước, với 8.500 chi
nhánh nước ngoài trên toàn cầu. Mặc dù các công ty này chỉ chiếm 1% trong hệ
thống TNC, đầu tư ra nước ngoài của các công ty này chiếm 11% vốn FDI toàn cầu
trong năm 2010. Quyền sở hữu và quản lý của công ty xuyên quốc gia thuộc Nhà
11
nước đã dấy lên lo ngại ở một số nước chủ nhà về sân chơi bình đẳng trong kinh
doanh, về an ninh quốc gia và những tác động pháp lý cho việc mở rộng thị trường
quốc tế của các công ty này. Trong năm tháng đầu năm 2010, giá trị các vụ sáp nhập
và mua lại trên thế giới đã tăng 36% so với cùng kỳ năm trước
2.1.2 Dòng vốn FDI một số khu vực trên thế giới giai đoạn 2008- 2010

2.1.2.1 Nhóm các nước đang phát triển
a. Châu Phi
Hình 2.4: Dòng vốn FDI chảy vào châu Phi năm 2000-2010
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011 (www.unctad.org/fdistatistics)
12
Sau một thập kỉ tăng trưởng, dòng vốn FDI vào châu Phi đạt đỉnh điểm vào
năm 2008 với 72 tỷ USD. Sau đó giảm còn 59 tỷ USD năm 2009 do sự sụt giảm của
nhu cầu thế giới cũng như giá của các mặt hàng. Năm 2010, FDI đạt 55 tỷ USD,
giảm 9% so với năm 2009.
Năm 2008: 4 trong 5 tiểu vùng của châu Phi có dòng vốn FDI chảy vào tăng.
Bắc Phi thu hút 27% dòng vốn FDI, tương đương 24 tỷ USD, giảm so với 36% năm
2007. 47 quốc gia trong Châu Phi hạ Sahara thu hút tới 73% FDI trong năm 2008,
tăng so với 64% trong năm 2007. Dòng vốn FDI vào Tây Phi tăng một cách đáng kể
từ 16 tỷ USD vào năm 2007 lên 26 tỷ USD vào năm 2008. Điều này là do sự tăng
các dự án mới vào ngành công nghiệp dầu khí của Nigeria và tăng đầu tư vào nâng
cấp các dự án, đặc biệt là ngành công nghiệp mỏ bởi các công ty xuyên quốc gia ở
Burkina Faso, Mali and Nigeria. Đông Phi là tiểu vùng thu hút ít nhất dòng vốn vào
FDI, chỉ đạt 4 tỷ USD. Trung Phi thu hút 6 tỷ USD, chiếm 7% FDI chảy vào châu
Phi, xếp thứ 4 trong các tiểu vùng trong châu lục. Nam Phi là tiểu vùng thu hút FDI
nhất với 27 tỷ USD, tăng so với 19 tỷ USD vào năm 2007, chiếm 31% FDI vào
châu Phi.
Hình 2.5: Dòng vốn FDI chảy ra châu Phi năm 2000-2010
13
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011 (www.unctad.org/fdistatistics)
Dòng vốn FDI chảy ra từ châu Phi giảm còn 12%, tương ứng 9 tỷ USD. Nguyên
nhân là do sự thoái vốn của các công ty xuyên quốc gia Nam Phi. Dòng vốn này tập
trung chủ yếu vào các ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ.
Năm 2009: Mức độ suy giảm của dòng vốn FDI khác nhau giữa các tiểu
vùng. Tây Phi và Đông Phi có lợi nhiều nhất từ việc bùng nổ các dự án đầu tư liên
quan đến hàng hóa trước đó, nay dòng vốn FDI vào cũng giảm. Dòng vốn chảy vào

Bắc Phi cũng giảm mặc dù có sự đa dạng về FDI và các chương trình tư nhân hóa
bền vững. Trung Phi là tiểu vùng duy nhất có FDI tăng do có nhiều dự án đầu tư lớn
ở Equatorial Guinea. Trong khi dòng vốn FDI giảm thì Nam Phi vẫn duy trì là tiểu
vùng tiếp nhận FDI lớn nhất.
Năm 2010: Dòng vốn chảy vào Bắc Phi chiếm 1/3 tổng lượng vốn của châu
Phi. Ở Tây Phi, hai nước tiếp nhận vốn lớn nhất có sự trái ngược, trong khi dòng
vốn chảy vào Ghana tăng đáng kể, thì sự tăng này không đủ bồi đắp cho sự suy
giảm mạnh ở Nigeria, làm cho dòng vốn FDI ở tiểu vùng này cũng giảm. Ở Nam
Phi, FDI chảy vào giảm 24%, trong đó nước Nam Phi giảm hợn 70%, còn 1,6 tỷ
14
USD và Angola giảm 15%. Ở Trung Phi và Đông Phi, dòng vốn vào FDI tăng trong
năm 2010, đạt tương ứng 8 tỷ USD và 3,7 tỷ USD. Dòng vốn vào các nước trung
Phi hầu hết là do các dự án đầu tư về dầu mỏ.
b. Châu Á
b.1 Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á
Hình 2.6: Dòng vốn FDI chảy vào Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á
năm 2000-2010
15
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011 (www.unctad.org/fdistatistics)
Năm 2008: Mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính
toàn cầu, nhưng tổng lượng vốn FDI chảy vào 3 khu vực này vẫn tăng 17%, đạt 300
tỷ USD. Trong đó, FDI vào Đông Á đạt 187 tỷ USD, Đông Nam Á đạt 60 tỷ USD
và Nam Á là 51 tỷ USD. Năm 2007, tốc độ tăng trong 3 khu vực này khá tương
đồng, nhưng trong năm 2008, tốc độ tăng thay đổi đáng kể: 49% ở Nam Á, 24% ở
Đông Á và -14% ở Đông Nam Á. Việc thu hút FDI của các nền kinh tế chính của
khu vực này cũng thay đổi đáng kể. Dòng vốn FDI chảy vào Trung Quốc và Ấn Độ
tiếp tục tăng trong năm 2008, tương ứng vói 108 tỷ USD và 42 tỷ USD. Trong 4
quốc gia trong nhóm NIEs, dòng vốn vào Hàn Quốc và Hong Kong tăng, nhưng lại
giảm ở Singapore và Đài Loan. Ở Malaysia và Thái Lan, FDI vào giảm nhẹ, giảm
tương ứng là 4% và 10%. Mặc dù chịu cuộc khủng hoảng nhưng FDI vào Indonesia

và Việt Nam vẫn tăng, cụ thể, Indonesia tăng 14%, đạt 8 tỷ USD và Việt Nam đạt kỉ
lục là 8 tỷ USD, tăng gần 20%.
16
Hình 2.7: Top 10 nước tiếp nhận dòng vốn FDI chảy vào Đông Á, Nam Á và
Đông Nam Á giai đoạn 2007-2008 (đơn vị: tỷ USD)
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2009 (www.unctad.org/fdistatistics)
Hình 2.8: Dòng vốn FDI chảy ra Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á năm 2000-
2010 (đơn vị: tỷ USD)
17
Nguồn:
UNCTAD, Báo cáo
đầu tư thế giới 2009
(www.unctad.org /fdistat
istics)
Dòng vốn FDI chảy ra
từ 3 khu vực này tăng
7%, đạt 186 tỷ USD.
Dòng vốn FDI ra từ
Trung Quốc và Ấn Độ
tăng 37% vào năm 2008. Ngược lại, dòng vốn chảy ra từ nhóm 4 nước NIEs giảm
như sau: Hong Kong với 2%, Đài Loan với 7%, Hàn Quốc với 18% và Singapore
với 63%, tương ứng với 60 tỷ USD, 10 tỷ USD , 13 tỷ USD và 9 tỷ USD.
Năm 2009: Dòng vốn chảy vào các khu vực này giảm 17%, đạt 233 tỷ USD,
chủ yếu là do sự suy giảm của hoạt động mua bán và sáp nhập qua biên giới, đặc
biệt là trong ngành dịch vụ với -51%. Tuy nhiên, sự suy giảm này ít hơn so với các
khu vực khác trên thế giới. Hơn nữa, Đông, Nam và Đông Nam Á là khu vực đầu
tiên hồi phục vào giữa và cuối năm 2009.
Dòng vốn FDI chảy ra từ các khu vực này cũng giảm 8%, còn 153 tỷ USD,
với hoạt động mua lại M&A qua biên giới giảm 44%. FDI từ Trung Quốc vẫn tiếp
tục tăng 7% với 43 tỷ USD. Lượng vốn chảy ra từ Hồng Kong tăng nhẹ với 52 tỷ

USD, trong khi đó 3 nước còn lại trong nhóm NIEs lại giảm một cách đáng kể. FDI
ở Đông, Nam, và Đông Nam Á đã thật sự bắt đầu hồi phục , đặc biệt là Trung Quốc
và Ấn Độ bắt đầu phục hồi từ giữa năm 2009. FDI vào và ra của 4 nước nhóm NIEs
là Hong Kong, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore cũng phục hồi, nhưng còn khá
chậm và khiêm tốn.
18
Năm 2010: FDI chảy vào các khu vực này tăng 24%, đạt 300 tỷ USD. Tuy
nhiên, mức độ thay đổi của các nền kinh tế chính trong 3 khu vực có sự khác nhau:
10 nước ASEAN tăng hơn gấp đôi, Đông Ávới mức tăng 17%, trong khi Ấn Độ,
Hàn Quốc và Đài Loan lại giảm ¼.
Dòng vốn chảy ra từ 3 khu vực này tăng 20%, đạt khoảng 232 tỷ USD vào năm
2010. Dòng vốn chảy ra từ Hong Kong và Trung Quốc đạt kỉ lục tương ứng 76 tỷ
USD và 68 tỷ USD.
b.2 Tây Á
Hình 2.9: Dòng vốn FDI chảy vào của Tây Á, 2000-2010
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011(www.unctad.org/fdistatistics)
Hình 2.10: Dòng vốn FDI chảy ra của Tây Á, 2000-2010
19
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011(www.unctad.org/fdistatistics)
Năm 2008: FDI chảy vào Tây Á tăng trong 6 năm liên tiếp, đạt tổng 90 tỷ
USD với mức tăng 16 %. Nguyên nhân là sự gia tăng đáng kể của dòng vốn chảy
vào Ả-rập Xê-út, đặc biệt là bất động sản, hóa dầu và lọc dầu. Tuy nhiên, có sự suy
giảm ở 2 quốc gia thu hút FDI lớn thứ 2 khu vực là Thổ Nhĩ Kì và các tiểu vương
quốc Ả-rập Thống nhất.
FDI chảy ra từ khu vực này giảm 30%, còn 34 tỷ USD. Nguyên nhân là do
sự suy giảm đáng kể các giá trị ròng từ việc mua lại M&A qua biên giới của các
công ty xuyên quốc gia.
Năm 2009: Việc thắt chặt thị trường tín dụng quốc tế và sự suy giảm của
thương mại quốc tế đã tác động tới dòng vốn chảy vào Tây Á với sự giảm 24%, còn
68 tỷ USD. Ngoại trừ Cô-oét, Liban và Quatar, FDI chảy vào các nước trong khu

vực này đều giảm. 87% dòng vốn chảy ra từ khu vực này được tạo ra từ các nước
của GCC, giảm 39%, còn 23 tỷ USD.
20
Năm 2010: FDI chảy vào Tây Á năm 2010 tiếp tục chịu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giảm 12%. FDI chảy ra từ khu vực này cũng giảm
51% năm 2010.
c. Châu Mỹ La-tinh và các nước Caribe
Hình 2.11: Dòng vốn FDI chảy vào của châu Mỹ La-tinh và các nước Caribe,
2000-2010
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011(www.unctad.org/fdistatistics)
21
Hình 2.12: Dòng vốn FDI chảy ra của châu Mỹ La-tinh và các nước Caribe,
2000-2010
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011(www.unctad.org/fdistatistics)
Năm 2008: FDI chảy vào tăng 13%, đạt 144 tỷ USD. Tốc độ tăng không
đồng đều giữa các tiểu vùng: tăng 29% ở Nam Mỹ, giảm 6% ở Trung Mỹ và các
nước Caribe. Các hoạt động liên quan đến tài nguyên thiên nhiên tiếp tục thu hút
FDI chính ở Nam Mỹ, và đang trở thành mục tiêu chính trong việc thu hút FDI ở
Trung Mỹ và các nước Caribe. Ngược lại, FDI vào các ngành sản xuất lại giảm.
Dòng vốn FDI chảy ra từ khu vực này tăng 22 %, đạt 63 tỷ USD, tăng ở Nam Mỹ
nhưng giảm ở Trung Mỹ và các nước Caribe.
Năm 2009: Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã làm
giảm FDI của khu vực này còn 117 tỷ USD, tương ứng giảm 36%. FDI chảy ra từ
khu vực này nhảy vọt trung bình từ 15 tỷ USD một năm trong giai đoạn 1991-2000
lên 48 tỷ USD hàng năm trong 2003-2009.
22
Năm 2010: FDI chảy vào khu vực này tăng 13% trong năm 2010, chủ yếu là
ở Nam Mỹ với tỉ lệ tăng 56%, cụ thể là Brazil. FDI chảy ra từ khu vực này cũng
tăng 67% năm 2010, hầu hết là do hoạt động mua lại M&A qua biên giới của các
công ty xuyên quốc gia ở Mexico và Brazil.

2.1.2.2 Đông Nam châu Âu và cộng đồng các quốc gia độc lập
Hình 2.13: Dòng vốn FDI chảy vào của Đông Nam châu Âu và cộng đồng
các quốc gia độc lập, 2000-2010
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011(www.unctad.org/fdistatistics)
23
Hình 2.14: Dòng vốn FDI chảy ra của Đông Nam châu Âu và cộng đồng các
quốc gia độc lập, 2000-2010
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011(www.unctad.org/fdistatistics)
Năm 2008: FDI chảy vào khu vực này tăng liên tiếp trong 8 năm, đạt mức kỉ
lục114 tỷ USD vào năm 2008, mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính và xung đột đang
xảy ra ở một số vùng trong khu vực. FDI vào phân phối không đồng đều giữa 3
nước Liên bang Nga, Ca-dắc-xtan và Ucraina chiếm 84% trong tổng FDI khu vực.
Dòng vốn đi ra bị chi phối bởi các công ty xuyên quốc gia Nga thì vẫn có xu hướng
tăng.
Năm 2009: Sau 8 năm tăng, FDI chảy vào khu vực này giảm còn 69,9 tỷ
USD, tương ứng giảm 43%. Dòng vốn chảy ra từ khu vực này không nghiêm trọng
như sự suy giảm của FDI chảy vào ( giảm 16%). Liên bang Nga là chủ đầu tư lớn
nhất khu vực
24
Năm 2010: FDI chảy vào Cộng đồng các quốc gia độc lập tăng 0,4%. Các
chủ đầu tư nước ngoài tiếp tục bị thu hút bởi thị trường tiêu dùng nội địa phát triển
nhanh chóng, đặc biệt là Liên bang Nga với mức tăng 13%, đạt 41 tỷ USD. Ngược
lại, dòng vốn chảy vào Đông Nam Châu Âu giảm mạnh trong 3 năm liên tiếp, một
phần do sự đầu tư chậm chạp từ EU.
2.1.2.3 Nhóm các nước phát triển
Hình 2.15: Dòng vốn FDI chảy vào của các nước phát triển, 2000-2010
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011(www.unctad.org/fdistatistics)
25
Hình 2.16: Dòng vốn FDI chảy ra của các nước phát triển, 2000-2010
Nguồn: UNCTAD, Báo cáo đầu tư thế giới 2011(www.unctad.org/fdistatistics)

Năm 2008: Do chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn
cầu nên dòng vốn FDI chảy vào và ra của các quốc gia phát triển đều suy giảm
mạnh vào năm 2008, sau khi đạt đỉnh điểm vào năm 2007. FDI vào khoảng 962 tỷ
USD, giảm 29% so với năm 2007, và sự suy giảm này xảy ra ở tất cả các nước tiếp
nhận đầu tư chính ngoại trừ Mỹ. Sự suy giảm của lợi nhuận tái đầu tư dọ lợi nhuận
giảm và việc tái kênh của các khoản vay từ các chi nhánh nước ngoài đến trụ sở các
TNCs đã đẩy FDI chảy ra từ các nước phát triển xuống 17%, còn 1,5 ngàn tỷ USD.
Năm 2009: FDI chảy vào các quốc gia phát triển năm 2009 giảm 44%, còn
566 tỷ USD. Dòng vốn chảy ra giảm 48%.
Năm 2010: FDI chảy vào các quốc gia phát triển giảm nhẹ và không đồng
đều giữa các tiểu vùng. Châu Âu giảm mạnh, trong khi FDI chảy vào Mỹ tăng hơn
40%. Dòng vốn chảy ra từ các quốc gia phát triển năm 2010 tăng 10%.

×