BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
PHAN VĂN TĂNG
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NHÂN LỰC TẠI CÁC TRẠM Y
TẾ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TỈNH BẾN TRE NĂM 2012 VÀ
NHU CẦU CÁN BỘ ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA II
CẦN THƠ −2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
PHAN VĂN TĂNG
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NHÂN LỰC TẠI CÁC TRẠM Y
TẾ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TỈNH BẾN TRE NĂM 2012 VÀ
NHU CẦU CÁN BỘ ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA II
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THÀNH SUÔL
CẦN THƠ – 2013
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều cơ
bản để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong
việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và bảo vệ Tổ quốc [49]. Do đó, bảo vệ
và chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân là một trong những chính sách ưu
tiên của Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo quyền được bảo vệ sức khoẻ của
mỗi người dân và đảm bảo nguồn nhân lực phát triển xã hội [8],[3]. Để thực
hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nhân lực y tế là nguồn lực có vai
trị quan trọng nhất trong cơng tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng.
Quyết định 153 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt giai đoạn
phát triển tổng thể của hệ thống y tế Việt Nam năm 2010 và tầm nhìn năm
2020 [22]. Một trong những nhiệm vụ mà ngành y tế được quan tâm hàng đầu
là chiến lược đào tạo nhân viên y tế có đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý, đảm
bảo chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng cho các tuyến,
các vùng dân cư, đặc biệt là cho các tuyến y tế cơ sở, cho vùng sâu, vùng xa
[3]. Điều quan trọng là cần có giải pháp giải quyết các bất cập giữa nhu cầu
nhân lực y tế, khả năng đào tạo, chế độ đãi ngộ, để đáp ứng được nhiệm vụ
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới.
Qua nhiều năm xây dựng, tổ chức y tế của nước ta đã từng bước phát
triển và có tiến bộ [3]. Hệ thống tổ chức y tế nước ta được chia thành 2 tuyến
trung ương và địa phương. Tổ chức y tế địa phương bao gồm tuyến tỉnh,
tuyến huyện và tuyến xã [17] Trong đó, mạng lưới y tế cơ sở (gồm y tế thôn,
bản, xã, phường, quận, huyện, thị xã) là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo
đảm cho mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ cơ bản với chi phí thấp, góp
phần thực hiện cơng bằng xã hội, xố đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn
hố, trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ
2
nghĩa [2],[12]. Củng cố và hòan thiện mạng lưới y tế cơ sở là một chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân miền
núi, vùng sâu, vùng xa để thực hiện mục tiêu cơng bằng trong chăm sóc sức
khỏe.
Bến Tre là một trong 13 tỉnh thuộc đồng bằng Sơng Cửu Long có diện
tích tự nhiên là 2.357,7 km2, có 8 huyện, 1 thành phố trực thuộc tỉnh và 164
xã, phường [29]. Với dân số 1.258.500 dân sinh sống ở thành thị, nông thơn
các vùng sâu vùng xa, địa hình phức tạp; trình độ, thành phần dân cư đa dạng.
Nên việc đảm bảo chăm sóc sức khỏe là vấn đề hết sức khó khăn. Về nguồn
nhân lực theo tiêu chí đặt ra là: vừa có y đức, vừa có năng lực chun mơn.
Vấn đề này liên quan trực tiếp đến chiến lược phát triển của ngành đựơc thể
hiện trực tiếp từ khâu đào tạo cán bộ y tế đến vấn đề sử dụng lực lượng cán bộ
chuyên môn và các chế độ đãi ngộ. Trong đó, mạng lưới y tế cơ sở từng bước
được củng cố và phát triển cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc thiết yếu
cũng như về nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, xét theo nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân thì nguồn
nhân lực ngành Y tế ở tuyến cơ sở của tỉnh Bến Tre hiện nay, đặc biệt là đội
ngũ bác sỹ, dược sỹ đại học, Điều dưỡng đang ở tình trạng thiếu hụt. Điều này
tạo nên một sức ép lớn đối với cả thầy thuốc và người bệnh. Do đó, nhu cầu
về nhân lực y tế càng trở nên cấp thiết và càng cấp thiết hơn đối với Y tế cơ
sở. Xuất phát từ tình hình đó, chúng tơi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên
cứu tình hình nhân lực tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn tỉnh Bến
Tre năm 2012 và nhu cầu cán bộ đến năm 2015”. Đề tài được tiến hành với
các mục tiêu sau:
1. Xác định số lượng, trình độ và cơ cấu nguồn nhân lực y tế tại các trạm
y tế xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre năm 2012.
2. Xác định nhu cầu nguồn nhân lực y tế tại xã, phường, thị trấn tỉnh Bến
Tre từ năm 2012 đến 2015.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về củng cố và hoàn thiện
mạng lưới y tế cơ sở
1.1.1. Nhận thức đầy đủ về vai trò của y tế cơ sở và trách nhiệm lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền
Mạng lưới y tế cơ sở (gồm y tế thôn, bản, xã, phường, quận, huyện, thị
xã) là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người dân được
chăm sóc sức khỏe cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện cơng bằng xã
hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hóa, trật tự an tồn xã hội,
tạo niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa [2],[7],[48].
Các cấp ủy đảng và chính quyền cần quán triệt, nhận thức rõ tầm quan
trọng của mạng lưới y tế cơ sở; có kế hoạch thiết thực để tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo việc củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở tại địa phương [5].
1.1.2. Củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất
lượng và hiệu qủa của mạng lưới y tế cơ sở
Củng cố tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của ban chăm sóc
sức khỏe nhân dân ở cơ sở; tăng cường phối hợp liên ngành, lồng ghép các
chương trình, mục tiêu, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông - giáo dục sức
khỏe; huy động cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động vệ sinh phịng
bệnh, chăm sóc sức khỏe, rèn luyện thân thể, tạo ra phong trào tồn dân vì sức
khỏe [2].
Xây dựng và ban hành chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe nhân dân
miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới đồng bào các dân tộc thiểu
số, nhằm cải thiện rõ rệt chất lượng chăm sóc sức khỏe, góp phần nâng cao
đời sống nhân dân trong vùng [2].
Ngành y tế có trách nhiệm phối hợp với các ngành liên quan xây dựng
chuẩn quốc gia về y tế cơ sở; nâng cao năng lực chuyên môn và y đức của cán
4
bộ y tế; coi trọng phát huy và phát triển y – dược học cổ truyền; tăng cường
các hoạt động giám sát và hỗ trợ kỹ thuật của y tế tuyến trên đối với tuyến cơ
sở, bảo đảm cho trung tâm y tế huyện, trạm y tế xã, phường có đủ khả năng
phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh theo tuyến kỹ thuật, góp phần giảm tình
trạng q tải của các bệnh viện tuyến trên; phát huy khả năng của y tế các lực
lượng vũ trang trong việc kết hợp quân – dân y để chăm sóc sức khỏe nhân
dân ở cơ sở, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo; tổ chức
tốt việc quản lý và phát huy vai trò của lực lượng y tế ngồi cơng lập
[6],[18,[19],[20].
1.1.3. Tăng cường cán bộ và trang bị kỹ thuật cho mạng lưới y tế cơ sở
Mở rộng các hình thức đào tạo và bồi dưỡng để phát triển đội ngũ cán
bộ y tế cơ sở, ưu tiên đào tạo cán bộ người dân tộc tại chỗ. Bảo đảm đủ chức
danh cán bộ cho trạm y tế, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ y –
dược học cổ truyền. Phấn đấu đến năm 2010, 80% trạm y tế xã có bác sỹ,
100% thơn, bản có nhân viên y tế với trình độ sơ học trở lên. Có chính sách
đãi ngộ thích hợp để khuyến khích cán bộ y tế làm việc tại trạm y tế xã,
phường, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; tăng cường trang thiết bị
thích hợp cho y tế cơ sở [11][38].
1.1.4. Có chính sách đầu tư thích hợp để củng cố và hồn thiện mạng lưới
y tế cơ sở
Cần có kế hoạch điều chỉnh phân bổ ngân sách và huy động viện trợ
quốc tế để tăng đầu tư cho mạng lưới y tế cơ sở. Đảm bảo kinh phí cho hoạt
động thường xuyên của trạm y tế xã, phường. Ưu tiên dành ngân sách để nâng
cấp y tế cơ sở ở các vùng khó khăn, nhất là các vùng trước đây là căn cứ cách
mạng. Tiến hành tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để đề ra các chính sách hỗ
trợ tài chính nhằm phát triển bảo hiểm y tế ở nông thôn, đặc biệt là bảo hiểm
y tế cho người nghèo, những người thuộc diện chính sách trợ cấp xã hội và
nơng dân [2],[68].
5
1.1.5. Chỉ tiêu về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở giai đoạn
2001 – 2010 và tầm nhìn đến năm 2020
- 100% số xã, phường, thị trấn có trạm y tế.
- 80% số trạm y tế xã có bác sỹ, trong đó 100% các trạm y tế xã ở đồng
bằng và 60% các trạm xã miền núi có bác sỹ .
- 100% trạm y tế xã có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi, trong đó 80% là
nữ hộ sinh trung học.
- 80% trạm y tế xã có cán bộ làm cơng tác y dược học cổ truyền
[24],[27].
1.2. Một số khái niệm về quản lý nhân lực, quản lý nguồn nhân lực y tế
1.2.1. Nguồn nhân lực
Năm 2006, WHO đã đưa ra khái niệm: “Nhân lực y tế bao gồm tất cả
những người tham gia chủ yếu vào các hoạt động nhằm nâng cao sức khỏe”.
Do đó, nhân lực y tế bao gồm những người cung cấp dịch vụ y tế, người tham
gia công tác quản lý và cả nhân viên giúp việc mà không trực tiếp cung cấp
dịch vụ y tế. Nó bao gồm CBYT chính thức và cán bộ khơng chính thức như
tình nguyện viên xã hội, những người CSSK gia đình…); kể cả những người
làm việc trong ngành y tế và trong những ngành khác.
Nguồn nhân lực của một quốc gia hay một vùng, một khu vực, một địa
phương là tổng hợp các tiềm năng lao động của con người có được trong một
thời điểm xác định: tiềm năng bao gồm thể lực, trí lực, tâm lực (đạo đức, lối
sống, nhân cách, truyền thống, lịch sử, văn hóa…) của bộ phận dân số có thể
tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội[42],[49],[66].
1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển con người là gia tăng giá trị cho con người, bao gồm các giá
trị tinh thần, đạo đức, trí tuệ, thể chất…
Phát triển nguồn nhân lực là phát huy nhân tố con người, gia tăng toàn
diện giá trị của con người trên các mặt trí tuệ, đạo đức, thể lực, năng lực lao
6
động sáng tạo và bản lĩnh chính trị, năng lực làm chủ được những tiến bộ về
công nghệ và tri thức khoa học tiên tiến… để họ trở thành những người có
những năng lực, phẩm chất phù hợp với sự phát triển của xã hội và thúc đẩy
sự phát triển của xã hội [66].
Nghiên cứu nguồn nhân lực phải đặt trong q trình quản lý nguồn
nhân lực [43]. Do đó, không thể chỉ chăm chú vào phát triển nguồn nhân lực
bằng cách chăm lo đào tạo con người, mà không quan tâm đến việc tổ chức
quản lý, sắp xếp công việc phù hợp cho con người lao động và tạo mơi trường
làm việc.
Nguồn nhân lực y tế: Là tồn bộ những người lao động dưới dạng tích
cực và tiềm năng được đào tạo dưới các dạng khác nhau hoạt động trong lĩnh
vực y tế [55].
Nguồn nhân lực y tế là yếu tố thiết yếu nhất cho sự phát triển hệ thống
cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ trong đó bao gồm: Các dịch vụ khám
chữa bệnh, phịng bệnh, phục vụ chức năng, sản xuất và phân phối thuốc,
những người làm công tác đào tạo cán bộ trong lĩnh vực khoa học sức khoẻ và
người quản lý các dịch vụ y dược, cá nhân có thẩm quyền ra chính sách
[43],[55].
Phát triển nguồn nhân lực y tế vừa nằm trong tổng thể phát triển hệ
thống y tế, vừa nằm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người của
đất nước.
Phát triển nguồn nhân lực y tế phải đi trước nhu cầu của xã hội dựa trên
những dự báo về nhu cầu, cũng như các khả năng tài chính và kỹ thuật trong
cung ứng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng [64].
Muốn có nguồn nhân lực đủ về chất lượng và số lượng đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ cho xã hội, thì các cơ sở đào tạo đóng một vai trị quan
trọng. Chất lượng đào tạo nhân lực y tế ngày càng được chú ý và coi trọng.
7
Về mặt quản lý, Bộ Y tế đã đưa ra những chuẩn đào tạo và các điều kiện đảm
bảo chất lượng và từng bước được hoàn thiện [53],[54].
Ngành y tế Việt Nam được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ phải làm
tốt cơng tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nhiệm vụ chính của ngành là nhiệm
vụ chính trị của mỗi cơ quan y tế từ trung ương đến cơ sở [38], [57][58],.
Quản lý y tế là một khoa học thuộc phạm trù khoa học xã hội, cung cấp cho
cán bộ y tế những kiến thức tối thiểu để sử dụng hiệu quả các nguồn lực,
trong đó nguồn nhân lực là quan trọng nhất, quyết định toàn bộ số lượng và
chất lượng các hoạt động y tế [64],[66]. Trong thực tế nhiều cơ sở còn chưa
quan tâm đúng mức và đầy đủ về quy hoạch đội ngũ cán bộ y tế cho tương lai.
Nếu thiếu nguồn nhân lực thì các nguồn nhân lực khác không sử dụng được.
Mọi cơ sở y tế, mọi cấp đều cần có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực
thích hợp để phát huy cao nhất hiệu quả hoạt động.
Quản lý nhân lực quan trọng là sử dụng tốt nguồn nhân lực hiện có và
có kế hoạch bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp lý, để hoàn thành các chức năng
nhiệm vụ của cơ quan tổ chức và có thể đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ
hiện tại và tương lai [49],[57].
Quản lý nhân lực là một trong năm quản lý của cả ngành y tế: Quản lý
kế hoạch, quản lý cơ sở vật chất, quản lý tài chính, quản lý nhân lực và quản
lý về khoa học kỹ thuật. Quản lý nhân sự y tế là quản lý về số lượng, chất
lượng cán bộ y tế ở mỗi lĩnh vực: y, nha, dược, y tế dự phòng, với từng đối
tượng phục vụ: bác sỹ, dược sỹ, bác sỹ răng hàm mặt… Ứng với từng đối
tượng lại có đối tượng khác hỗ trợ về chăm sóc chun mơn tương ứng, đó
chính là lực lượng điều dưỡng, kỹ thuật viên các chuyên ngành và các đối
tượng này lại phù hợp với chuẩn quy định của nhà nước, của ngành như ứng
với một vạn dân có bao nhiêu bác sỹ, bao nhiêu dược sỹ…. Và cứ ứng với
một bác sỹ là có bao nhiều điều dưỡng phục vụ [12].
8
Mặt khác, quản lý nhân lực ngành y tế còn phụ thuộc vào đặc điểm của
từng điạ phương: Thành thị, nông thôn, vùng sâu, vùng xa, của tỉnh, huyện,
xã, thôn, ấp, mà có sự phân bổ một cách thích hợp và khi nói đến yếu tố con
người trong quản lý cịn phải nói đến vấn đề khả năng, tình cảm, tâm tư,
nguyện vọng của các đối tượng cần phải quản lý. Từ đó, có những kế hoạch,
chính sách hợp lý, đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả .
Ngồi ra, người ta cũng thấy rằng trong quản lý sức khoẻ cịn liên quan
đến q trình cung ứng các dịch vụ y tế tương ứng với nhu cầu của người cần
được phục vụ. Đời sống của xã hội càng cao, nhu cầu phục vụ chăm sóc sức
khoẻ càng tăng, địi hỏi đội ngũ phục vụ cũng phải được nâng cao ngang tầm
và do đó quản lý cũng phải nâng theo.
1.3. Tình hình nhân lực y tế ở một số nước
1.3.1. Quy mô và phân bố nhân lực y tế
Những nội dung cơ bản của cung ứng nhân lực y tế bao gồm: Qui mô,
phân bổ (theo địa lý, theo nghề nghiệp, theo các kỹ năng cơ bản, theo thể chế,
theo tuổi và giới), tuyển dụng, sử dụng và đào tạo. Mục đích là cung cấp nhân
lực trong lĩnh vực y tế và các lĩnh vực liên quan không chỉ đơn thuần về mặt
chăm sóc sức khoẻ, mà cịn thực hiện các chức năng của y tế cộng đồng và
các hoạt động bảo vệ sức khoẻ theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới[9] .
Trong đa phần các trường hợp vấn đề này liên quan đến cả các khu vực tư
nhân và khu vực y tế công.
1.3.1.1. Qui mô của nhân lực y tế
Nhân lực y tế khu vực Tây Thái Bình Dương về qui mơ từ tỷ lệ nhân
viên y tế/1000 dân là gần 11/1000 ở Australia và New Zealand đến chưa tới
1/1000 ở Paqua New Guinea và các đảo Solomon [9]. Các nước đều có sự
thiếu hụt nhân viên y tế ở mức độ nào đó, đặt biệt là thiếu nhân viên có kinh
nghiệm. Những nước có nguồn cung ứng thấp gặp những vấn đề về cung ứng
9
thuần tuý. Những nước có tỷ lệ cung ứng cao thì vấn đề gặp phải thường là về
mặt cơ cấu, chủ yếu là thiếu hụt nhân lực tại chỗ, cán bộ chuyên khoa.
1.3.1.2. Về phân bố nhân lực y tế
Phân bố nhân lực theo địa lý và phân bố theo chuyên môn. Tuy nhiên,
trong thực tế hai yếu tố này thường kết hợp chặt chẽ với nhau (ví dụ khu vực
nông thôn thiếu nhân viên y tế đồng nghĩa với thiếu bác sỹ). Những vấn đề
khác nhau bao gồm: Cơ cấu nhân lực y tế, dư thừa chuyên khoa, phân bố theo
thể chế hành chính, theo tuổi và theo giới.
Ở Châu Á, vấn đề tồn tại là mất cân bằng về địa lý, thường là thừa nhân
lực ở khu vực thành thị trong khi lại thiếu ở khu vực nông thôn. Mặt dù
Philippin thông báo cho thấy thừa bác sỹ và điều dưỡng thì cân bằng nhân lực
y tế thành thị/nơng thơn lại khơng cho thấy điều đó. Vấn đề thật sự có thể là
có nhiều sinh viên tốt nghiệp, song đa phần trong số họ không muốn làm việc
ở nông thôn và kết quả là tạo ra sự di chuyển nhân lực y tế. Về mặt cân đối
nhân lực y tế ở khu vực Tây Thái Bình Dương, Camphuchia có nguồn nhân
lực chưa đạt tiêu chuẩn, Philippin thiếu cán bộ trong lĩnh vực y tế công cộng
và cán bộ được đào tạo các kỹ năng dựa vào cộng đồng để đảm trách những
chương trình phịng dịch hiệu quả [9],[44].
Vấn đề cốt yếu vẫn là thiếu nhân lực nông thôn hoặc các vùng sâu,
vùng xa, thậm chí kể cả ở những khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội thấp
thuộc thành thị.
Tất cả các nước khu vực Tây Thái Bình Dương đều có sự mất cân bằng
về cơ cấu trong và giữa các nhóm nghề nghiệp, thiếu các kỹ năng thích hợp
để đáp ứng các yêu cầu tại chỗ hoặc trong những hoàn cảnh thay đổi. Phạm vi
của những vấn đề này rất khác nhau giữa các nước. Ở Mông Cổ, vấn đề chủ
yếu là thừa bác sỹ, nhưng có rất nhiều bác sỹ có bằng cấp, lại đang làm việc
ngoài lĩnh vực y tế. Ở Australia, thiếu hụt nhân viên thường gặp ở những
10
chuyên khoa đặc biệt như sức khoẻ tâm thần, phẫu thuật chỉnh hình, hồi sức
cấp cứu và gây mê [45],[68],[69].
Cần phải nhận thức rằng nhân lực y tế không bao giờ có thể đủ đáp ứng
tất cả các nhu cầu và chăm sóc sức khoẻ ở mọi người. Do vậy, từng nước nên
đặt ra mục tiêu lý tưởng để tạo ra nguồn nhân lực y tế lớn nhất, dồi dào nhất
và được đào tạo tốt nhất có thể được, trong điều kiện hạn chế về nguồn lực.
Trong toàn bộ mục tiêu chung đó thì mục tiêu cụ thể của việc lập kế hoạch
nhân lực y tế khơng phải là có được nguồn nhân lực đủ lớn, để đáp ứng tất cả
các nhu cầu mà tạo ra một sự phù hợp nhất, giữa nhân lực sẵn có và các nhu
cầu về sức khoẻ đặc biệt, điều chỉnh qui mô, thành phần và kỹ năng của nhân
viên y tế nhằm đáp ứng những nhu cầu sức khoẻ ưu tiên.
1.3.2. Một số vấn đề về y tế và nhân lực y tế của các nước kém phát triển
và ở Việt Nam
1.3.2.1. Tình hình nguồn nhân lực y tế của các nước kém phát triển
Các nước kém phát triển (phần lớn là các nước thuộc địa cũ) đều nằm
trong vịng xoắn: đói nghèo, lạc hậu dẫn đến tình trạng kinh tế, chính trị, xã
hội khơng ổn định, từ đó có nhiều bệnh tật phát sinh và hậu quả là càng đói
nghèo, lạc hậu.
Hậu quả của quá trình thuộc địa là hệ thống y tế vốn đã kém phát triển,
lại mất cân đối giữa khu vực chữa bệnh tương đối phát triển, còn khu vực
phòng bệnh thì rất yếu kém, mặc dù các nhà lãnh đạo đều ý thức được rằng
cần phải dự phòng bệnh là chính. Điều này cần phải đầu tư rất lớn, trong khi
lại có nhiều ưu tiên cấp bách khác, tình hình an ninh chính trị khơng ổn định,
do điều kiện sống của đại đa số dân cư rất thấp, trình độ dân trí cịn lạc hậu…
Các cơ sở y tế chỉ tập trung ở các thành phố lớn. Rất nhiều vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa trắng về y tế, ở đây người ốm rất khó khăn trong tiếp
cận dịch vụ y tế. Các tập tục lạc hậu về chữa bệnh còn đè nặng lên người dân:
Thầy mo, thầy cúng làm cả chức năng “thầy thuốc”.
11
Các bác sỹ được đào tạo trong nước và nước ngồi chủ yếu tập trung ở
các đơ thị và làm tư. Điều dưỡng được đào tạo chính quy cũng vậy. Rất nhiều
bác sỹ, điều dưỡng có chun mơn cao sang các nước phát triển làm việc để
có thu nhập cao, có điều kiện làm việc, phát triển chun mơn, đồng thời đảm
bảo cuộc sống gia đình tốt hơn [9],[68],[69].
Một nguồn tài lực, vật lực và nhân lực y tế cho các nước này là các
chương trình trợ giúp từ cộng đồng quốc tế (Các tổ chức quốc tế, các tổ chức
phi chính phủ, các tổ chức nhân đạo).
1.3.2.2. Tình hình nguồn nhân lực y tế trong nước
Về số lượng và phân bố: Tình trạng thiếu CBYT xảy ra đối với tuyến
y tế cơ sở và vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa dẫn đến chênh lệch về số
lượng và chất lượng nhân lực y tế giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa
các chuyên ngành, giữa trung ương và địa phương. Thành thị chỉ chiếm
27,4% dân số cả nước, nhưng chiếm 82% dược sỹ đại học, 59% bác sỹ và
55% điều dưỡng [5].
Về chất lượng: Chất lượng nhân lực y tế trong thời gian qua đã được
nâng lên, nhưng vẫn cịn nhiều bất cập. Số cán bộ có trình độ cao, chun sâu
cịn ít và phân bổ chưa hợp lý. Số lượng cán bộ có trình độ sau đại học (thạc
sỹ, tiến sỹ) chiếm tỷ lệ rất thấp (2,1%) và tập trung chủ yếu ở trung ương. Cán
bộ quản lý các cơ sở y tế chủ yếu là bác sỹ có chun mơn giỏi (đặc biệt là ở
các bệnh viện), có tham gia vào KCB nên thời gian và kinh nghiệm cho cơng
tác quản lý cịn hạn chế. Trình độ CBYT dự phòng và tuyến y tế cơ sở còn
yếu [6].
Về quản lý và sử dụng nhân lực y tế: Công tác lập quy hoạch, kế
hoạch và quản lý nhân lực tại các tuyến cịn hạn chế. Cơng tác theo dõi, quản
lý nhân lực chưa được chuẩn hóa. Việc đánh giá kết quả công việc của NVYT
chưa được sử dụng như một công cụ quản lý nhân lực hữu hiệu, làm cơ sở
cho việc khen thưởng hay xử phạt. Ngoài ra, một hạn chế nữa là hiện rất
12
thiếu thơng tin đầy đủ, chính xác về nhân lực y tế nói chung, nhất là nhân lực
trong khu vực y tế tư nhân, trong khi khu vực này ngày càng phát triển và
đóng vai trị quan trọng trong hệ thống y tế. Đây là một khó khăn lớn cho
cơng tác quy hoạch, xây dựng chính sách chiến lược phát triển nhân lực y tế
nói chung. [ 11 ],[62].
1.4. Sự hình thành và nguồn nhân lực trạm y tế qua các thời kỳ
1.4.1. Sự hình thành trạm y tế qua các thời kỳ
- Trước 1975: tổ chức y tế nước ta còn phân tán, chưa thống nhất vào
ngành y tế trên phạm vi toàn quốc; sự phân bổ mạng lưới y tế chưa được hợp
lý, thuận tiện cho người dân; mạng lưới y tế xã chưa được ổn định [48].
- Giai đoạn 1975 – 1994: chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức hoạt
động của trạm y tế được thực hiện theo Nghị quyết số 15/CP ngày 14 tháng
01 năm 1975 của Hội đồng Chính phủ về việc cải tiến tổ chức y tế địa
phương. Theo đó, tổ chức y tế cơ sở ở xã, ở tiểu khu (thành phố, thị xã), ở các
xí nghiệp, cơ quan, trường học lấy tên thống nhất là trạm y tế. Mỗi xã có một
trạm y tế. Trạm y tế xã có một số giường bệnh để cấp cứu, cách ly bệnh lây,
lao, đỡ đẻ thường và tiếp tục điều trị các bệnh nhân do bệnh viện huyện gửi
về. Trạm y tế chịu sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính của cơ sở, địa phương và
thủ trưởng cơ quan về mọi mặt, chịu sự chỉ đạo của phòng y tế huyện, thị xã
về chuyên môn, nghiệp vụ. Về cán bộ: tùy theo xã lớn hay nhỏ mà bố trí số
lượng cán bộ và nhân viên y tế cần thiết [4].
- Giai đoạn 1995 - 2002: hoạt động của trạm y tế theo quan điểm của
Đảng: củng cố y tế cơ sở là nhiệm vụ cấp bách. Thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của trạm y tế theo quy định tại các văn bản pháp quy sau đây: Quyết định
số 58/TTg [18], Quyết định số 131/TTg [20], Quyết định số 35/2001/QĐTTg[19] , Nghị định số 01/1998/NĐ-CP , Thông tư Liên bộ số 08/TT-LB
[12], Thông tư Liên tịch số 02/1998/TTLT – BYT – BTCCBCP, Thông tư số
07/BYT-TT.
13
- Từ năm 2003 đến nay: củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở
theo tinh thần Chỉ thị số 06-CT/TW [2], Nghị quyết số 46-NQ/TW [3], Kết
luận số 43-KL/TW [8], Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg [22]; hoạt động
trạm y tế theo Chuẩn Quốc gia theo quyết định 370/CP của Chính phủ.
1.4.2. Quy định nhân lực trạm y tế qua các thời kỳ
- Giai đoạn 1975 – 1994: không có quy định cụ thể. Tùy theo xã lớn
hay nhỏ mà bố trí số lượng cán bộ và nhân viên y tế cần thiết. Ở mỗi hợp tác
xã, có y tá, nữ hộ sinh và vệ sinh viên .
- Giai đoạn 1995 – 2002: số lượng, trình độ và cơ cấu cán bộ trạm y tế
được quy định cụ thể tại Thông tư số 08/TT – LB [12]:
Cán bộ y tế phải có trình độ theo tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch viên chức
ngành y tế của Nhà nước quy định. Cán bộ phụ trách y tế cơ sở phải có kiến
thức về y tế cộng đồng và năng lực quản lý để chỉ đạo thống nhất các mặt
hoạt động y tế đạt chất lượng và hiệu quả.
Số lượng cán bộ y tế cơ sở được xác định theo nhu cầu chăm sóc sức
khỏe tại cộng đồng, số dân và địa bàn hoạt động của từng khu vực mà bố trí
như sau:
+ Khu vực đồng bằng, trung du:
Những xã từ 8000 dân trở xuống được bố trí 3 đến 4 cán bộ y tế gồm:
01 – 02 bác sỹ hoặc y sỹ đa khoa (Cán bộ chuyên sâu về y tế cộng đồng làm
trưởng trạm và 01 biết về y học dân tộc); 01 y sỹ đa khoa (biết thêm về sản
nhi) hoặc nữ hộ sinh trung học, khi chưa có điều kiện thì bố trí nữ hộ sinh sơ
học; 01 y tá trung học hoặc sơ học.
Những xã trên 8000 dân đến 12000 dân bố trí từ 4 đến 5 cán bộ y tế
gồm: 01 – 02 bác sỹ hoặc y sỹ đa khoa (01 cán bộ chuyên sâu về y tế cộng
đồng làm trưởng trạm và 01 biết về y học dân tộc); 01 y sỹ đa khoa (biết thêm
về sản nhi) hoặc nữ hộ sinh trung học; 01 nữ hộ sinh trung học hoặc sơ học;
01 y tá trung học hoặc sơ học.
14
Những xã trên 12000 dân được bố trí tối đa 06 cán bộ y tế: 02 – 03 bác
sỹ hoặc y sỹ đa khoa (01 cán bộ sâu về y tế cộng đồng làm trưởng trạm và 01
biết về y học dân tộc); 01 y sỹ đa khoa (biết thêm về sản nhi) hoặc nữ hộ sinh
trung học; 01 nữ hộ sinh trung học hoặc sơ học; 01 - 02 y tá trung học hoặc sơ
học.
+ Khu vực miền núi, Tây Nguyên , biên giới, hải đảo:
Xã dưới 3000 dân được bố trí 04 cán bộ y tế gồm: 01 bác sỹ hoặc y sỹ
đa khoa sâu về y tế cộng đồng làm trưởng trạm; 01 y sỹ đa khoa (biết về sản
nhi) hoặc nữ hộ sinh trung học hay sơ học; 02 y tá trung học hoặc sơ học biết
về nữ hộ sinh.
Xã có 3000 dân trở lên được bố trí 05 - 06 cán bộ y tế gồm: 01 – 02 bác
sỹ hoặc y sỹ đa khoa (01 sâu về y tế cộng đồng làm trưởng trạm); 01 y sỹ đa
khoa (biết thêm về sản nhi) hoặc nữ hộ sinh trung học hay sơ học; 02 – 03 y tá
trung học hoặc sơ học biết về nữ hộ sinh.
Ở vùng cao, vùng sâu, vùng núi, nơi xa sôi, hẻo lánh chỉ cần bố trí 01
hoặc 02 bác sỹ hay y sỹ thường xuyên có mặt tại trạm y tế để làm nhiệm vụ
theo dõi, tổng hợp tình hình công tác y tế trong xã, thực hiện các dịch vụ y tế
cho nhân dân tại các bản, buôn, làng gần cơ sở y tế và nhu cầu của nhân dân
trong xã; cán bộ y tế còn lại được phân công về công tác tại các bản, buôn,
làng, ấp và định kỳ tổ chức giao ban tại trạm.
+ Khu vực thành phố, thị xã, thị trấn:
Các phường, thị trấn và những xã có phịng khám khu vực đóng, số
lượng cán bộ y tế được bố trí 02 - 03 người.
+ Những nơi có bác sỹ thì bố trí vào vị trí chủ chốt, nơi chưa có thì phải
xây dựng kế hoạch đào tạo bác sỹ đa khoa có kiến thức y tế cộng đồng để
đưa về xã cơng tác.
+ Ngồi số cán bộ chuyên trách nói trên, ở những nơi có nhu cầu, có
thể hợp đồng với cán bộ y, dược, lương y có kinh nghiệm để làm việc.
15
1.4.3. Số lượng, trình độ và cơ cấu cán bộ trạm y tế theo Chuẩn Quốc gia
1.4.3.1. Số lượng cán bộ
Đảm bảo định biên cán bộ theo quy định tại Quyết định 58/TTg [18],
Quyết định 131/TTg [20] và Thông tư Liên bộ số 08/TTLB [12]như sau:
- Đồng bằng và trung du: với xã dưới 8000 dân có từ 3 - 4 cán bộ y tế,
xã từ 8000 dân đến 12000 dân có từ 4 - 5 CBYT và xã trên 12.000 dân có 6
CBYT .
- Miền núi, Tây Nguyên, biên giới, hải đảo: xã dưới 3000 dân có 4 cán
bộ y tế và xã trên 3000 dân có 5 – 6 cán bộ y tế.
- Thành phố, thị xã, thị trấn: 3 cán bộ y tế.
1.4.3.2. Cơ cấu cán bộ
Bảng 1.1. Cơ cấu cán bộ trạm y tế theo Chuẩn Quốc gia theo QĐ 370/CP
Chức danh
Tổng số cán bộ y tế xã, phường,
thị trấn
Bác sỹ
trung du
3
4
5
6
1
1
1
1
1
1
1
1
Y sỹ đa khoa
1
Y sỹ y học cổ truyền
Y sỹ sản nhi
1
1
1
Cán bộ kiêm nhiệm dược
Cán bộ kiêm nhiệm YHCT
Nữ hộ sinh trung học
Miền núi, Tây Thành phố,
Đồng bằng,
Nguyên, biên
thị xã,
giới, hải đảo
thị trấn
4
2
5
6
3
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
*
*
*
*
*
*
1
1
1
1
1
*
*
1
1
Nữ hộ sinh sơ học
Y tá trung học
Y tá sơ học
1
1
*
*
*
(*) Cán bộ kiêm nhiệm là cán bộ được bổ túc về y học cổ truyền, dược.
*
16
1.5. Chức năng, vai trò và nhiệm vụ của y tế cơ sở trong hệ thống y tế
Quốc gia
Hệ thống tổ chức y tế ở nước ta được chia làm 4 tuyến, đó là: tuyến
trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện và tuyến xã. Tuyến y tế cơ sở bao gồm
tuyến huyện và y tế xã (trong đó có y tế thơn bản).
1.5.1. Vai trị, vị trí
Y tế cơ sở có một vị trí chiến lược rất quan trọng trong cơng tác chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, vì đó là tuyến y tế gần dân nhất; phát hiện
ra những vấn đề sức khỏe sớm nhất; giải quyết 80% khối lượpng phục vụ y tế
tại chỗ. Là nơi thể hiện sự cơng bằng trong chăm sóc sức khỏe rõ nhất; nơi
trực tiếp thực hiện và kiểm nghiệm các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về y tế; là bộ phận quan trọng nhất của ngành y tế tham gia phát
triển kinh tế và góp phần ổn định chính trị, xã hội. Vì vậy, cũng cố y tế cơ sở
mang ý nghĩa nhân văn to lớn là đưa các dịch vụ y tế có chất lượng đến với
mọi người dân, trong đó có người nghèo và các chính sách xã hội. Một trong
những ưu thế nổi bật của hệ thống chăm sóc sức khẻo so với nhiều quốc gia
đang phát triển, là Việt nam có một mạng lưới y tế cơ sở được phủ trên khắp
cả nước và được Chính phủ cấp ngân sách để họat động.
Trong hệ thống y tế cơ sở, trạm y tế xã chịu sự quản lý, chỉ đạo và
hướng dẫn, kiểm tra của Trung tâm y tế huyện về chuyên môn nghiệp vụ,
kinh phí và nhân lực; chịu sự lãnh đạo, quản lý trực tiếp của ủy ban Nhân dân
xã trong việc xây dựng kế họach phát triển y tế, tổ chức thực hiện kế họach
sau khi đã được phê duyệt; phối hợp các ban ngành, đòan thể tại địa phương
tham gia vào họat động CSBVSKND. Trang thiết bị y tế và họat động của y
tế xã được chuẩn hóa theo 10 chuẩn quốc gia về y tế xã giai đọan 2001 – 2010
của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành ngày 07/02/2002 [17].
Mạng lưới y tế cơ sở chínmh là nền tảng của hệ thống y tế quốc gia.
Mọi chủ trương, chính sách, mọi họat động về CSBVSKND sẽ không thể
17
thực hiện có kết quả nếu khơng có mạng lưới y tế cơ sở vững mạnh. Cho đến
nay, nhiệm vụ cũng cố y tế cơ sở vẫn đang được tiếp tục đẩy mạnh, vì đây là
điều kiện để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược chăm sóc và bảo vệ
sức khẻo nhân dân ở nước ta trong thập niên đầu thế kỷ 21, đó là; ”Phấn đấu
để cho mọi người dân đều hưởng dịch vụ CSSKBĐ, có điều kiện tiếp cận và
sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống trong cộng
đồng an tòan, phát btriển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh,
nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi” [ 8 ]
1.5.2. Chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế xã, phường, thị trấn
Trạm y tế xã có 4 chức năng họat động và 10 nhiệm vụ được tiến hành
theo 10 nội dung của chăm sóc sức khẻo ban đầu. Cụ thể là:
1.5.2.1. Chức năng
- Tại trạm y tế: khám chữa bệnh thơng thường cho nhân dân; quản lý
sức khẻo tịan dân; quản lý thai, sinh đẻ và kế họach hóa gia đình; tiêm chủng
mở rộng; kết hợp khám chữa bệnh bằng đông y, chăm cứu, thuốc nam; giáo
dục truyền thông dân số - kế họach hóa gia đình; cung ứng thuốc thiết yếu.
- Tại cộng đồng: thực hiện các chương trình y tế tại địa phương.
- Tại hộ gia đình: thu thập thông tin y tế; thăm khám sức khẻo tại hộ gia
đình, lập sổ quản lý sức khẻo; chữa bệnh tại nhà theo chương trình; hướng
dẫn kiểm tra vườn thuốc, tủ thuốc gia đình.
- Tham mưu cho Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân xã: các biện
pháp lồng ghép các hoạt động y tế, phòng chống các tệ nạn xã hội; đưa hoạt
động ty tế vào kế hoạch hoạt động địa phương; tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về y tế; xã hội hóa cơng tác chăm sóc sức khẻo nhân dân.
1.5.2.2. Nhiệm vụ
❖ Nhiệm vụ của trạm y tế giai đoạn 1975 - 2010
- Giai đoạn 1975 – 1994
18
- Phát hiện và báo cáo kịp thời tình hình dịch, bệnh trong địa phương,
thực hiện tốt cơng tác phịng bệnh, phịng và chống dịch, cơng tác vệ sinh lao
động; tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ sức khỏe, vận động nhân dân xây
dựng và quản lý tốt các cơng trình vệ sinh, chủ yếu là ba cơng trình vệ sinh
(hố xí, nhà tắm, giếng nước); coi đó là nhiệm vụ hàng đầu theo Nghị định
15/CP của Chính phủ.
- Thực hiện tốt cơng tác sinh đẻ có kế hoạch; bảo đảm đỡ đẻ thường
cho sản phụ; quản lý sức khỏe, bệnh tật của nhân dân, công nhân, viên chức,
học sinh; khám và chữa bệnh thông thường, cấp cứu ban đầu; tham gia khám
tuyển nghĩa vụ quân sự, khám sức khỏe cho công nhân, học sinh, trẻ em trong
các nhà trẻ, mẫu giáo.
- Quản lý tủ thuốc của trạm y tế, trồng cây thuốc, vận động nhân dân
trồng cây thuốc và chữa bệnh bằng thuốc nam, thực hiện châm cứu; giúp đỡ
các lương y phục vụ sức khỏe nhân dân.
- Bồi dưỡng chuyên môn cho các vệ sinh viên ở các tổ, đội sản xuất
hoặc đường phố.
- Thực hiện chế độ, chính sách về y tế trong địa phương và cơ sở mình.
Mười nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu:
- Giáo dục sức khỏe.
- Cải thiện điều kiện ăn uống, dinh dưỡng.
- Cung cấp nước sạch, thanh khiết môi trường.
- Bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình.
- Tiêm chủng mở rộng.
- Phịng chống bệnh dịch lưu hành ở địa phương.
- Chữa bệnh thơng thường và chăm sóc vết thương.
- Cung cấp thuốc thiết yếu.
- Quản lý sức khỏe.
19
- Củng cố mạng lưới y tế cơ sở.
- Giai đoạn 1995 – 2010
- Lập kế hoạch các mặt hoạt động và lựa chọn chương trình ưu tiên về
y tế và tổ chức triển khai thực hiện sau khi kế hoạch đã được phê duyệt .
- Phát hiện, báo cáo kịp thời các bệnh dịch, thực hiện các biện pháp về
cơng tác vệ sinh phịng bệnh, phịng chống dịch, giữ vệ sinh những nơi công
cộng và đường làng, xã; tuyên truyền ý thức bảo vệ sức khỏe cho mọi đối
tượng tại cộng đồng [49].
- Tuyên truyền vận động, triển khai thực hiện các biện pháp chuyên
môn về bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình, bảo đảm
việc quản lý thai, khám thai và đỡ đẻ thường cho sản phụ [35].
- Tổ chức sơ cứu ban đầu, khám, chữa bệnh thông thường cho nhân dân
tại trạm y tế và mở rộng dần việc quản lý sức khỏe tại hộ gia đình.
- Tổ chức khám sức khỏe và quản lý sức khỏe cho các đối tượng trong
khu vực mình phụ trách, tham gia khám tuyển nghĩa vụ quân sự.
- Xây dựng vốn tủ thuốc, hướng dẫn sử dụng thuốc an tồn và hợp lý,
có kế hoạch quản lý các nguồn thuốc. Xây dựng, phát triển thuốc nam, kết
hợp ứng dụng y học dân tộc trong phòng và chữa bệnh.
- Quản lý các chỉ số sức khỏe và tổng hợp báo cáo, cung cấp thông tin
kịp thời, chính xác lên tuyến trên theo quy định thuộc đơn vị mình phụ trách.
- Bồi dưỡng kiến thức chun mơn kỹ thuật cho cán bộ y tế thôn, làng,
ấp, bản và nhân viên y tế cộng đồng.
- Tham mưu cho chính quyền xã, phường, thị trấn và Giám đốc Trung
tâm y tế huyện, quận, thị xã chỉ đạo thực hiện các nội dung chăm sóc sức
khỏe ban đầu và tổ chức thực hiện những nội dung chuyên môn thuộc các
chương trình trọng điểm về y tế tại địa phương [19][36].
20
- Phát hiện, báo cáo Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan y
tế cấp trên các hành vi hoạt động y tế phạm pháp trên địa bàn để kịp thời ngăn
chặn và xử lý.
- Kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể quần chúng, các ngành trong xã,
phường, thị trấn để tuyên truyền và cùng tổ chức thực hiện các nội dung cơng
tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Mười Chuẩn Quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001 - 2010
- Chuẩn I: Xã hội hóa chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân và công
tác truyền thông giáo dục sức khỏe.
- Chuẩn II: Vệ sinh phòng bệnh.
- Chuẩn III: Khám chữa bệnh và phục hồi chức năng.
- Chuẩn IV: Y học cổ truyền.
- Chuẩn V: Chăm sóc sức khỏe trẻ em.
- Chuẩn VI: Chăm sóc sức khỏe sinh sản.
- Chuẩn VII: Cơ sở hạ tầng và trang thiết bị.
- Chuẩn VIII: Nhân lực và chế độ chính sách.
- Chuẩn IX: Kế hoạch và tài chính cho trạm y tế.
- Chuẩn X: Thuốc thiết yếu và sử dụng thuốc an toàn hợp lý.
1.5.3. Củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở theo Quyết định số
153/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010
và tầm nhìn đến năm 2020
- Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở cả về cơ sở vật
chất, trang thiết bị và cán bộ y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tuyến cơ
sở, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cơ bản của toàn dân, đồng thời thực
hiện được một số kỹ thuật đơn giản trong khám, điều trị một số bệnh chuyên
khoa về mắt, răng, tai - mũi - họng, sức khỏe sinh sản và sức khỏe trẻ em.
21
- Củng cố tổ chức, mạng lưới và hoạt động chuyên môn của y tế xã.
Đến năm 2010, hầu hết các xã, phường có trạm y tế kiên cố phù hợp với điều
kiện kinh tế, địa lý, môi trường sinh thái và nhu cầu khám, chữa bệnh của
nhân dân trên địa bàn.
- Bảo đảm 80% số trạm y tế xã có bác sỹ, trong đó 100% các trạm y tế
xã ở đồng bằng và 60% các trạm y tế xã miền núi có bác sỹ; 100% trạm y tế
xã có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản, nhi, trong đó 80% là nữ hộ sinh trung học;
80% trạm y tế xã có cán bộ làm cơng tác y dược học cổ truyền; trung bình
mỗi cán bộ trạm y tế xã phục vụ từ 1.000 đến 1.200 dân. Bảo đảm tối thiểu có
5 cán bộ y tế theo chức danh do Bộ Y tế quy định cho 1 trạm y tế xã. Ở các
thành phố lớn, số lượng cán bộ trạm y tế được cân đối theo tỷ lệ cứ 1.400 đến
1.500 dân có một cán bộ trạm y tế phường phục vụ. Phấn đấu đến hết năm
2010 có 80% số xã trong cả nước đạt chuẩn quốc gia về y tế xã [21].
1.5.4. Quy định định mức biên chế y tế xã, phường, thị trấn theo hướng
dẫn tại Thông tư 08/2007/TTLT-BYT-BNV
Căn cứ vào nhiệm vụ và nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ nhân dân, định
mức biên chế của Trạm y tế xã, phường, thị trấn được xác định theo đặc điểm
địa lý, kinh tế - xã hội, quy mô dân số như sau:
- Biên chế tối thiểu: 5 biên chế cho 1 trạm y tế xã, phường, thị trấn.
- Đối với xã miền núi, hải đảo trên 5000 dân: tăng 1000 dân thì tăng
thêm 01 biên chế cho trạm; tối đa không quá 10 biên chế/1 trạm.
- Đối với xã đồng bằng, trung du trên 6000 dân: tăng 1.500 đến 2000
dân thì tăng thêm 01 biên chế cho trạm; tối đa không quá 10 biên chế/1 trạm.
- Đối với trạm y tế phường, thị trấn trên 8000 dân: tăng 2000 - 3000
dân thì tăng thêm 01 biên chế cho trạm; tối đa không quá 10 biên chế/1 trạm.
- Các phường, thị trấn và những xã có các cơ sở khám chữa bệnh đóng
trên địa bàn: bố trí tối đa 5 biên chế/trạm.
22
1.6. Thực trạng và nhu cầu nhân lực ở các trạm y tế
1.6.1. Thực trạng và nhu cầu cán bộ y tế trong cả nước
Theo Thông tư Liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV [12].
Số lượng cán bộ y tế phục vụ 10.000 dân hiện đang tăng dần từ sau năm 1990:
26,5 cán bộ y tế / 10.000 dân vào năm 1990 tăng lên 32 / 10.000 dân vào năm
2006 [13],[14] và 34,7/10.000 vào năm 2008. Số BS /10.000 dân từ năm 2001
đến 2006 có xu hướng tăng dần đều (4,1 – 6,2 BS/ 10.000 dân) [9],[13],[14],
6,5 BS/10.000 năm 2008, 6,59 BS/ 10.000 dân năm 2009 và năm 2012 trên 7
BS/ 10.000 dân.
Từ 2005 đến 2009, thực trạng nhân lực y dược được tóm tắt như sau:
Bảng 1.2. Thực trạng cán bộ y 5 năm 2005 – 2009
Năm
2005
2006
Bác sỹ
50.106
52.413 54.910
56.208 60.800
Y sỹ
49.674
48.519 48.738
49.213 51.800
Y tá
52.115
57.003 61.158
67.081 71.500
Nữ hộ sinh
18.313
19.242 20.920
22.943 25.000
Bác sỹ /1 vạn dân (Người)
6,2
6,3
6,5
6,59
2007
6,5
2008
2009
* Nguồn: Thống kê Bộ Y tế (2009) [9],[52].
Bảng 1.3. Thực trạng cán bộ dược 5 năm 2005 - 2009
Cán bộ ngành dược
Dược sỹ cao cấp
10.669
10.700
10.270
10.524
10.600
Dược sỹ trung cấp
11.154
12.620
13.324
12.533
15.900
Dược tá
8.100
7.900
8.000
8.600
8.100
* Nguồn: Thống kê Bộ Y tế(2009) [9]
23
Ở tuyến xã, tổng số cán bộ hiện có là 52.644 cán bộ. Theo Thông tư 08,
số cán bộ y tế ở trạm y tế xã, phường, thị trấn tối thiểu là 5 và tối đa là 10.
Nếu tính theo số biên chế trung bình 7 cán bộ / trạm thì cần tổng số 83. 521
cán bộ. Như vậy, số cán bộ y tế xã cần bổ sung ngay lên tới 30.877. Nếu tính
theo biên chế 10 cán bộ / trạm thì con số này sẽ cao hơn rất nhiều [23].
Bảng 1.4. Thực trạng và nhu cầu nhân lực trạm y tế
Tổng số
cán
5 biên chế / trạm
7 biên chế / trạm
10 biên chế / trạm
bộ
hiện có
52.644
Nhu cầu Bổ sung Nhu cầu
54.695
2.051
83.521
Bổ sung
Nhu cầu
Bổ sung
30.877
109.390
47.374
* Nguồn: Thống kê Bộ Y tế (2009) [9],[10].
1.6.2. Thực trạng, nhu cầu cán bộ y tế vùng Đồng bằng Sông Cửu Long:
1.6.2.1. Về số lượng cán bộ y tế
Phần lớn các tỉnh, thành phố có trên 50% số xã có bác sỹ và trên 90%
số huyện có dược sỹ đại học.
Tỷ lệ bác sỹ trên 10.000 dân là 4,65.
Dược sỹ đại học trên 10.000 dân là 0,24.
Tỷ lệ bác sỹ, dược sỹ đại học trên 10.000 dân vùng Đồng bằng Sơng
Cửu Long cịn khá thấp so với một số vùng miền trong cả nước: Miền Trung
Tây Nguyên bác sỹ là 5,2; dược sỹ là 0,98; tương đương với bốn tỉnh Miền
Đông (bác sỹ là 4,65; dược sỹ đại học là 0,24). Số lượng bác sỹ, dược sỹ hiện
nay của vùng Đồng bằng Sơng Cửu Long cịn quá thấp, thấp hơn cả nước ở
thời điểm năm 2003 (bác sỹ là 5,2; dược sỹ là 0,36). Số bác sỹ, dược sỹ, điều
dưỡng, kỹ thuật viên y học còn quá thấp so với yêu cầu và Quyết định 153
của Thủ tướng Chính phủ năm 2006 [30],[44].