BỘ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
NGUYỄN VĂN TIẾN
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN TRÒN
VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TẨY GIUN TẠI CÁC
TRƯỜNG TIỂU HỌC HUYỆN THẠNH PHÚ,
TỈNH BẾN TRE, NĂM 2012
LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP II
Cần Thơ – 2013
BỘ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
NGUYỄN VĂN TIẾN
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN TRÒN
VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TẨY GIUN TẠI CÁC
TRƯỜNG TIỂU HỌC HUYỆN THẠNH PHÚ,
TỈNH BẾN TRE, NĂM 2012
Chuyên ngành: QUẢN LÝ Y TẾ
Mã số: 62 72 76 05.CK
LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP II
Người hướng dẫn khoa học:
TS.BS NGUYỄN VĂN LÂM
Cần Thơ - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Tiến
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Y
Dược Cần Thơ cùng q Thầy Cơ trong khoa Y tế cơng cộng đã tạo rất nhiều
điều kiện để tơi học tập và hồn thành tốt khóa học.
Đặc biệt tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
TS.BS Nguyễn Văn Lâm, người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi về kiến thức và
phương pháp để tơi hồn thành được luận án này.
Xin trân trọng cảm ơn:
- UBND Tỉnh, Sở Y tế tỉnh Bến Tre đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tơi có cơ hội học tập.
- Tập thể cán bộ bệnh viện đa khoa huyện Thạnh Phú đã phối hợp, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi tiến hành nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn những người thân trong gia đình và
bạn bè đã ln quan tâm, động viên, khích lệ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi
có thời gian học tập và hồn thành luận án này.
Cần Thơ, tháng 8 năm 2013
Người thực hiện luận án
Nguyễn Văn Tiến
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... ...1
Chương 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................ ...3
1.1. Lịch sử nghiên cứu nhiễm giun ở người..………………….…………….3
1.2. Những yếu tố liên quan đến nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc.…........5
1.3. Những đặc điểm cơ bản của giun đũa, giun tóc, giun móc ……...…........7
1.4. Tác hại của giun đũa, giun tóc và giun móc………....………………....10
1.5. Tình hình nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc…………………………13
1,6. Điều trị nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc……………………...……19
1.7. Phịng chống bệnh giun đũa, giun tóc, giun móc…………………….....22
1.8. Vài nét về tỉnh Bến Tre, huyện Thạnh Phú và địa điểm nghiên cứu…...26
Chương 2 - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........... 28
2.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 28
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................... 28
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu ........................................................................... 28
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ ............................................................................... 28
2.1.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu........................................................ 29
2.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 29
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu .............................................................................. 29
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu .............................................................................. 29
2.2.3. Cách chọn mẫu ..................................................................................... 30
2.3. Nội dung nghiên cứu cắt ngang .............................................................. 31
2.3.1. Thông tin chung của học sinh .............................................................. 31
2.3.2. Tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc và giun móc....................................... 31
2.3.3. Các yếu tố liên quan đến nhiễm giun truyền qua đất ........................... 32
2.3.4. Nội dung can thiệp ............................................................................... 36
2.3.5. Đánh giá sau can thiệp ......................................................................... 37
2.4. Phương tiện và kỹ thuật thu thập thơng tin ............................................. 37
2.5. Kiểm sốt sai lệch thông tin và kết quả .................................................. 39
2.6. Phương pháp xử lý số liệu....................................................................... 40
2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ……………………………………..40
Chương 3 - KẾT QUẢ ................................................................................. 41
3.1. Đặc điểm chung của học sinh tham gia nghiên cứu ................................ 41
3.2. Tỷ lệ nhiễm giun ..................................................................................... 43
3.3. Các yếu tố liên quan đến nhiễm giun ...................................................... 49
3.4. Tỷ lệ tẩy giun thành công và tái nhiễm giun sau 3 tháng, 6 tháng ......... 58
Chương 4 - BÀN LUẬN ............................................................................... 61
4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu ..................................................... 61
4.2. Tình trạng nhiễm giun ở học sinh tiểu học ............................................. 61
4.3. Các yếu tố liên quan đến nhiễm giun ...................................................... 73
4.4. Tỷ lệ tẩy giun thành công và tái nhiễm giun sau 3 tháng, sau 6 tháng ... 82
KẾT LUẬN ................................................................................................... 85
KIẾN NGHỊ .................................................................................................. 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVSKNMTE
: Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em
CS
: Cộng sự
CT
: Côn trùng
GDSK
: Giáo dục sức khỏe
GTQĐ
: Giun truyền qua đất
Hb
: Hemoglobine
KCM
: Khoảng cách mẫu
KST
: Ký sinh trùng
SR
: Sốt rét
THPT
: Trung học phổ thông
THCS
: Trung học cơ sở
TTGDSK
: Trung tâm giáo dục sức khỏe
VSMT
: Vệ sinh môi trường
XN
: Xét nghiệm
UNICEF
: United Nations Children's Fund
Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
WHO
: World Health Organization
Tổ chức Y tế Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Đặc điểm về tuổi của mẫu nghiên cứu
41
Bảng 3.2. Đặc điểm về giới tính của mẫu nghiên cứu
41
Bảng 3.3. Đặc điểm về tỷ lệ học sinh theo trường của mẫu nghiên cứu
42
Bảng 3.4. Tỷ lệ đơn nhiễm và đa nhiễm
43
Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm từng loại giun
44
Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm giun của học sinh theo trường
45
Bảng 3.7. Tỷ lệ nhiễm giun của học sinh theo tuổi
46
Bảng 3.8. Tỷ lệ nhiễm giun đũa theo tuổi
46
Bảng 3.9. Tỷ lệ nhiễm giun móc theo tuổi
47
Bảng 3.10. Tỷ lệ nhiễm giun của học sinh theo giới
47
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm giun đũa theo giới
48
Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm giun móc theo giới
48
Bảng 3.13. Mối liên hệ giữa trình độ học vấn của cha mẹ và tình trạng nhiễm
giun của học sinh
49
Bảng 3.14. Mối liên hệ giữa nghề nghiệp của cha mẹ và tình trạng nhiễm giun
của học sinh
50
Bảng 3.15. Mối liên hệ giữa kinh tế gia đình và tình trạng nhiễm giun
50
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa nhiễm giun với yếu tố nền nhà
51
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa nhiễm giun với yếu tố môi trường xung quanh 51
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa nhiễm giun với yếu tố trồng rau
52
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa nhiễm giun với yếu tố bón phân cho rau
52
Bảng 3.20. Mối liên quan giữa nhiễm giun với kiến thức chung của học sinh
53
Bảng 3.21. Mối liên quan giữa nhiễm giun với nghe bài giảng “vệ sinh
ăn uống”
53
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa nhiễm giun với đi chân đất
54
Bảng 3.23. Mối liên quan giữa nhiễm giun với ăn rau sống
54
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa nhiễm giun với thực hành chung của học sinh 55
Bảng 3.25. Mối liên quan giữa nhiễm giun với thực hành mang giầy dép thường
xuyên
55
Bảng 3.26. Mối liên quan giữa nhiễm giun với thực hành rửa tay hợp vệ sinh
trước khi ăn
56
Bảng 3.27. Mối liên quan giữa nhiễm giun với thực hành rửa tay hợp vệ sinh sau
khi đi vệ sinh
56
Bảng 3.28. Mối liên quan giữa nhiễm giun với cắt móng tay của học sinh
57
Bảng 3.29. Mối liên quan giữa nhiễm giun với vệ sinh thân thể của học sinh
57
Bảng 3.30. Mối liên quan giữa nhiễm giun với quần áo của học sinh
58
Bảng 3.31. Tỷ lệ tái nhiễm từng loại giun sau 3 tháng
59
Bảng 3.32. Tỷ lệ tái nhiễm từng loại giun sau 6 tháng
60
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ nhiễm giun chung
43
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ đơn nhiễm và đa nhiễm giun
44
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ tẩy giun thành công
58
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ tái nhiễm giun sau 3 tháng
59
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ tái nhiễm giun sau 6 tháng
60
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ký sinh trùng đường ruột có ảnh hưởng đáng kể trong lĩnh vực sức
khỏe và y tế công cộng, bởi vì tỷ lệ mắc của chúng rất cao trong cộng đồng,
đặc biệt là đối tượng trẻ em [14], [27], [31]. Nhiễm giun truyền qua đất ở
người chủ yếu là giun đũa và giun móc/mỏ. [51]. Các loại giun trịn như giun
đũa, giun móc, giun tóc, giun kim là những tác nhân chính thường thấy ở
bệnh ký sinh trùng đường ruột của cộng đồng cả ở vùng nhiệt đới cũng như
vùng ơn đới. Do giun có chu kỳ phát triển đơn giản, tỷ lệ nhiễm giun liên
quan đến nghèo đói và điều kiện sống thấp, vệ sinh và cung cấp nước khơng
đảm bảo, khí hậu và độ sạch của đất, vệ sinh cá nhân và môi trường kém, hiểu
biết về y tế thấp [63]. Bên cạnh đó, sự lây truyền giun lại rất dễ dàng chủ yếu
là sự nhiễm gián tiếp qua bụi, thức ăn hoặc vật dụng sinh hoạt gia đình, đồ
chơi trẻ em. Vì vậy bệnh có tính chất gia đình, mật độ dân đơng đúc là yếu tố
quan trọng trong truyền bệnh và tái nhiễm.
Tác hại của ký sinh trùng đường ruột trên con người là do ký sinh trùng
chiếm đoạt dưỡng chất, máu của vật chủ, là nguyên nhân ảnh hưởng chính
đến sức khỏe của người bị nhiễm, ngồi ra ký sinh trùng cịn gây nguy hiểm
đến tính mạng người bệnh do số lượng ký sinh trùng bị nhiễm quá lớn và gây
ra một số biến chứng của chúng khi di chuyển, cư trú trong chu trình sống,
phát triển bên trong vật chủ. Một số biến chứng do ký sinh trùng đường ruột
đã được ghi nhận là tắc ruột, thiếu máu, giun chui ống mật, suy dinh dưỡng,
viêm tụy, áp xe gan… [2].
Theo Y văn trên thế giới có khoảng hơn 1 tỷ người bị nhiễm giun, và
một số người trong diện nguy cơ là khoảng 2 tỷ người [19], [23], [83]. Lứa
tuổi trẻ em là lứa tuổi dễ mắc bệnh, tỷ lệ nhiễm cao nhất ở trẻ em truớc tuổi đi
học và học sinh [27]. Nằm ở khu vực nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm hầu như
2
quanh năm, tình trạng vệ sinh mơi trường chưa tốt, dân cư đơng đúc vì vậy
Việt Nam là nước có nhiều bệnh giun sán lưu hành với tỷ lệ cao, đặc biệt là
các bệnh giun truyền qua đất như giun đũa, giun móc và giun kim. Ở Việt
Nam: Tỷ lệ nhiễm giun đũa là 68,8% ở miền Bắc. Ở miền Nam tỷ lệ nhiễm là
14,6%. Tỷ lệ nhiễm giun móc ở miền Bắc là 22,9%, ở miền Nam là 19,6%
[89]. Tỷ lệ nhiễm giun tròn chung của học sinh là 30,59%, giun đũa 2,66%;
giun móc 1,25%; đa nhiễm 2 lọai giun đũa và giun móc là 1,82% [46].
Trẻ em chúng ta hôm nay sớm làm quen và sống trong môi trường tập
thể như trẻ em mẫu giáo, tiểu học nội trú hoặc bán trú, … Do đó khả năng
mắc bệnh giun trịn cao nếu khơng có những biện pháp phịng ngừa bệnh
thích hợp. Mặc dù đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân đã được
nâng cao và những tiến bộ của ngành y tế trong lĩnh vực phịng chống bệnh
ký sinh trùng nói chung đã làm cho tỷ lệ nhiễm giun trong cộng đồng đã giảm
đáng kể nhưng theo những nghiên cứu gần đây tỷ lệ nhiễm giun vẫn cịn
khá cao. Vì vậy, chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tình
hình nhiễm giun trịn và đánh giá kết quả tẩy giun tại các trường tiểu học
trong huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, năm 2012”. Trong nghiên cứu này
chúng tôi chỉ nghiên cứu trên 3 loại giun: giun đũa, giun tóc và giun móc. Với
3 mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm các loại giun đũa, giun tóc và giun móc ở học sinh tại
các trường tiểu học trong huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun đũa, giun tóc và giun
móc ở học sinh các trường tiểu học trong huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
3. Đánh giá kết quả tẩy giun cho học sinh tại các trường tiểu học trong
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Nhiễm giun truyền qua đất ở người chủ yếu là giun đũa và giun
móc/mỏ. Bệnh giun truyền qua đất khơng những phổ biến mà cịn gây nhiều
tác hại nghiêm trọng cho nhân dân, nhất là ở các vùng cịn khó khăn. Do đó
vấn đề đặt ra là phải từng bước hạ thấp tỷ lệ, cường độ nhiễm giun và khống
chế tác hại do bệnh giun gây ra cho cộng đồng [51].
1.1. Lịch sử nghiên cứu nhiễm giun ở người
Cho đến nay, có thể khẳng định rằng giun sán là những ký sinh trùng
có lịch sử xuất hiện rất sớm ngay từ khi sơ khai trái đất hình thành và sự xuất
hiện của các vi sinh vật khác trên trái đất, mặc dù chưa có cơng trình nghiên
cứu nào tìm thấy được vết tích của giun truyền qua đất trong những tầng địa
chất cổ xưa và trong các hóa thạch, nguyên nhân là do cấu tạo của cơ thể giun
sán không bền vững.
Vào khoảng thế kỷ thứ I, các nhà y học Hy Lạp Columelle, Avicenne
đã mô tả giun đũa, giun kim, giun móc và sán dây. Đến thế kỷ XVIII, bệnh
giun sán ngày càng được quan tâm và hiểu biết nhiều hơn. Năm 1844, E.
Dujardin đã viết lịch sử tự nhiên về giun sán. Năm 1879 T.S Cobbold xuất
bản một số tài liệu về giun, sán ký sinh ở người và động vật.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã có nhiều cơng trình điều tra
giun sán đầu tiên ở người, đó là cơng trình của Mathis, Leger, Salamon,
Levew và Maurriquand…Đặc biệt là hai cơng trình của hai nhà khoa học
Mathis và Leger (1911) đã tiến hành điều tra khá cơ bản, toàn diện về các loại
giun truyền qua đất, tiếp đó là những nghiên cứu về điều trị bằng thuốc.
Ở Việt Nam, đã từ lâu Hải Thượng Lãn Ơng cũng đã tìm hiểu và đề cặp
đến tới các bài thuốc điều trị về bệnh giun sán. Ở Miền Nam cũng có những
4
cơng trình nghiên cứu của Brau về tình hình nhiễm giun truyền qua đất trong
nhân dân. Tiếp theo là những cơng trình nghiên cứu để sử dụng thuốc tây y
vào điều trị bệnh giun. Năm 1938, Đặng Văn Ngữ đã tiến hành điều tra cơ
bản về các loài giun và đánh giá tình hình nhiễm giun ở người Việt Nam.
Từ năm 1954 đến nay, nhất là từ khi đất nước hồn tồn thống nhất sau
năm 1975 đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực về các
bệnh nhiễm giun như: nghiên cứu điều tra cơ bản, nghiên cứu về hình thể, đặc
tính sinh học. phân bố dịch tễ, bệnh học, miễn dịch, biện pháp phòng chống
các bệnh giun sán [51]. Năm 1974, Hoàng Tân Dân nghiên cứu về tình hình
nhiễm giun ở trẻ em lứa tuổi nhà trẻ [12]; năm 1978, Nguyễn Cước nghiên
cứu về tình hình nhiễm giun móc và kết quả điều trị bằng Vermox cho trẻ em
ở xã Thủy Phù [9]; năm 1999, Nguyễn Văn Kim và cộng sự điều tra tình hình
nhiễm giun móc, giun lươn ở xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, Thành phố
Hồ Chí Minh [36]; năm 2003, Nguyễn Thị Hưng và cộng sự nghiên cứu tình
hình nhiễm giun sán tại một xã đồng bằng tỉnh Quảng Ninh [31]; năm 2009,
Cao Bá Lợi nghiên cứu mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành
phịng chống bệnh giun móc/mỏ với tình trạng nhiễm giun móc/mỏ ở nữ cơng
nhân các nơng trường chè tỉnh Phú Thọ 2007- 2009 [42]; năm 2010, Nguyễn
Thị Mỹ Liên và cộng sự nghiên cứu thực trạng nhiễm giun truyền qua đất và
các yếu tố liên quan ở học sinh lớp 5 huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí
Minh [40]…..Theo nhiều cơng trình nghiên cứu về bệnh do giun sán gây ra
thì giun đũa, giun kim, giun tóc, giun móc là những lồi giun gây bệnh phổ
biến nhất, chiếm tỷ lệ rất cao trong nhân dân và chúng làm tác hại đáng kể
đến sức khỏe cộng đồng với các biến chứng nguy hiểm như: thiếu máu, suy
dinh dưỡng, tắc ruột do giun, nhiễm trùng đường mật, sỏi đường mật, viêm
ruột thừa…. Từ đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người và sự
phát triển kinh tế - xã hội của gia đình, đất nước.
5
1.2. Những yếu tố liên quan đến nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc
1.2.1. Yếu tố mơi trường, khí hậu
Đặc tính của lồi giun truyền qua đất là cần phải có một giai đoạn trung
gian từ đất, giun mới phát triển từ trứng để trưởng thành trong cơ thể người.
Để sinh trưởng, phát triển và lây nhiễm, chúng lệ thuộc vào các yếu tố: nhiệt
độ, độ ẩm, oxy, độ pH của đất…
Nhiệt độ thích hợp cho trứng giun phát triển là 24 – 300C. Với nhiệt độ
này, thời gian để trứng non phát triển thành trứng có ấu trùng và khả năng lây
nhiễm là sau 12 – 15 ngày đối với trứng giun đũa, 17 – 30 ngày đối với trứng
giun tóc. Riêng trứng giun móc chỉ sau 24 giờ đã nở thành ấu trùng [52].
Nếu nhiệt độ thay đổi thì sẽ ảnh hưởng đến thời gian phát triển và sự
tồn tại của trứng. Nếu nhiệt độ thấp thì thời gian phát triển của trứng kéo dài,
và tỷ lệ trứng hỏng cao. Trứng giun hỏng càng tăng khi nhiệt độ càng cao.
Trứng giun đũa sẽ bị hủy hoại ở nhiệt độ trên 600C và dưới 120C. Ở nhiệt độ
trên 500C phần lớn trứng giun tóc sẽ bị hỏng. Nhiệt độ dưới 140C hoặc trên
370C trứng giun móc sẽ khơng phát triển.
Độ ẩm từ 80% trở lên, là yếu tố thuận lợi cho trứng giun phát triển.
Oxy là yếu tố cần thiết cho trứng giun phát triển, nơi nào bị ngập nước
thì trứng giun dần dần sẽ bị hỏng. Sự phát triển của trứng giun ở ngoại cảnh bị
hạn chế nhiều ở những vùng có khí hậu lạnh, khơ.
Khi độ ẩm trong đất thích hợp, có đủ oxy, nhiệt độ mơi trường từ 24 –
300C, với pH đất trung bình thì trứng chuyển thành ấu trùng sau 25 giờ đến 3
ngày [51].
Chất đất cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của ấu trùng giun. Ở những
vùng có điều kiện địa lý, khí hậu khác nhau thì tỷ lệ nhiễm giun khác nhau.
Điều kiện địa lý, khí hậu ở Đơng Nam Á nói chung, Việt Nam nói riêng rất
thuận lợi cho sự phát triển của trứng và ấu trùng giun.
6
Mật độ dân số cao cũng là điều kiện thuận lợi lây nhiễm giun sán giữa
người với người.
1.2.2. Yếu tố con người:
Mặc dù người là vật chủ của giun, nhưng giun phải có một thời gian
sống ngồi cơ thể người trong chu kỳ phát triển của chúng,. Thời gian này,
trứng khi được thải ra mơi trường bên ngồi thì chỉ khi gặp điều kiện như:
nhiệt độ, oxy, độ ẩm… thích hợp trứng mới trở thành ấu trùng và trứng chứa
ấu trùng xâm nhập trở lại vào cơ thể người. Nhiều yếu tố liên quan đến kinh
tế, lối sống, sinh hoạt, phong tục tập quán của con người sẽ ảnh hưởng tới tỷ
lệ người nhiễm giun hoặc tái nhiễm giun. Trứng giun chỉ sống ở mơi trường
bên ngồi với một thời gian và phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhất định, vì vậy
nếu chúng ta cắt đường lây truyền từ ngoại cảnh vào cơ thể người của trứng
và ấu trùng thì tỷ lệ nhiễm và tái nhiễm giun sẽ ít dần và biến mất. Những yếu
tố góp phần vào q trình trên là:
* Quản lý phân người
Do thói quen của người dân ở một số địa phương, phân người chưa
được xử lý tốt được dùng làm phân bón cho hoa màu và cây trồng sẽ là điều
kiện tốt cho mầm bệnh lây lan [28],[30],[46],[47],[48],[51].
Hằng ngày, đối với một con giun đũa thải ra ngoại cảnh khoảng 24.000
trứng giun, đối với một con giun tóc khoảng 2.000 trứng, đối với một con
giun móc khoảng 9.000 – 30.000 trứng [47],[51],[64],[70]. Vì vậy nếu sử
dụng nhà tiêu không hợp vệ sinh hoặc đi tiêu bừa bãi ra môi trường xung
quanh, làm môi trường ô nhiễm trứng giun, đây là nguồn lây nhiễm giun rất
lớn đối với cộng đồng.
* Thói quen ăn uống, sinh hoạt
Trong cộng đồng với những thói quen sinh hoạt, ăn uống thiếu vệ sinh
đã tạo thành một vịng trịn khép kín thuận lợi cho sự lây nhiễm giun. Theo
7
kết quả nghiên cứu của một số tác giả thì ăn trái cây, rau chưa rửa sạch, uống
nước chưa đun sôi, không rửa tay trước khi ăn và sau khi đi tiêu…có mối liên
quan đến nhiễm giun [9],[10],[30],[31],[39],[81]. Một số tác giả cịn cho rằng:
đi chân đất [39], thói quen ăn gỏi cá [7],[8]… cũng là yếu tố nguy cơ nhiễm
giun. Kết quả nghiên cứu của Phan Anh Tuấn cho thấy những người sống
trong nhà nền đất có tỷ lệ nhiễm giun móc cao hơn trong nhà nền xi măng
hay lót gạch [67]. Trần Duy Thuần cịn cho thấy móng tay bẩn cũng có mối
liên quan đến nhiễm giun [60]. Khổng Thị Hơn còn cho thấy một số người
dân chưa biết được ruồi nhặng là một nguyên nhân làm lây nhiễm giun do
kiến thức về phòng chống giun sán còn thấp [29].
Tùy thuộc vào tình trạng vệ sinh mơi trường của từng vùng mà số
lượng trứng giun trong các mẫu xét nghiệm khác nhau, như ở Lạng Sơn, Lai
Châu có 35 – 42% mẫu đất xét nghiệm nhiễm trứng giun đũa. Tại Thái Bình,
93% mẫu đất nhiễm trứng giun đũa, 74% mẫu đất nhiễm giun tóc [29].. Theo
một số tác giả trong số mẫu đất xét nghiệm, mẫu đất trong nhà có tỷ lệ nhiễm
trứng giun đũa cao nhất là 93,3% [16],[64],[70]. Trong một nghiên cứu trên
725 trẻ tại Luweero, Uganda từ 1 – 5 tuổi của Robinal Dumba [86] có 34,8%
trẻ nhiễm giun có sử dụng phương pháp làm sạch hậu môn sau khi đi tiêu
bằng đất cát xung quanh so với 15,8% trẻ được sử dụng nhà vệ sinh.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đề tìm thấy ấu trùng giun
sán ở mẫu rau tại Nam Định lả 13%, Hịa Bình gần 4%, Hà Nội 5% [17]. Tỷ
lệ nhiễm ấu trùng giun trong gỏi cá là 95%. Theo Lê Thị Tuyết trứng giun còn
hiện diện trong bụi, ở sân nhà, sàn lớp học, bàn học sinh [70].
1.3. Những đặc điểm cơ bản của giun đũa, giun tóc, giun móc
Nhiễm giun truyền qua đất gồm có 5 loại: giun đũa, giun tóc, giun
móc/mỏ, giun kim và giun lươn [73]. Do điều kiện không cho phép nên
nghiên cứu này chúng tôi chỉ khảo sát 3 loại giun là giun đũa, giun tóc, giun
8
móc. Những ký sinh trùng có lịch sử xuất hiện rất sớm có thể khẳng định là
giun sán [47],[64].
1.3.1. Giun đũa:
Năm 1683, người đầu tiên mô tả giun đũa là Wdward Tyson [70] và do
giống giun ở đất nên đặt tên là Lumibrius terres. Tên giun đũa là Ascaris
lumbricoides trên danh mục động vật học chính thức được quốc tế xác nhận
vào năm 1915 [30].
Do nhiều yếu tố như: Tính phổ biến, độ bền của trứng ở ngồi mơi
trường, số lượng trứng được thải ra, và điều kiện kinh tế - xã hội thấp nên tỷ
lệ nhiễm giun đũa còn cao ở nhiều nơi trên thế giới.
1.3.1.1. Hình dạng
Giun trưởng thành hình ống, màu trắng hồng hay màu hồng lợt, miệng
có 3 mơi hình bầu dục. Giun đực dài 15 – 31 cm, có đi cong và có gai giao
hợp. Giun cái to hơn giun đực, dài 20 – 35 cm, di thẳng.
Trứng có 3 dạng, dạng điển hình có vỏ Albumine màu nâu do sắc tố
mật, trứng không điển hình mất vỏ Albumine, trứng lép vỏ sần sùi do khơng
thụ tinh.
1.3.1.2. Đường lây truyền và chu trình phát triển
Trứng mới sinh chưa có phơi và khơng có khả năng lây nhiễm, theo
phân ra ngồi, tùy theo điều kiện mơi trường bên ngồi dần dần phát triển
thành trứng có ấu trùng từ hai đến bốn tuần.
Khi người nuốt phải trứng có ấu trùng, dịch tiêu hóa sẽ tác động lên vỏ
trứng, ấu trùng được phóng thích, đi đến ruột non, xuyên qua thành ruột, đến
gan qua hệ thống tĩnh mạch cửa hay xuyên qua phúc mạc. Ấu trùng đến tim
bằng đường tĩnh mạch trên gan, rồi vào động mạch phổi, mao quản phổi, đến
thành phế nang – mao quản, đi ngược lên cuống phổi nhỏ, cuống phổi lớn và
khí quản, sau đó rơi xuống thực quản, dạ dày, đến ruột non phát triển thành
9
giun trưởng thành. Giun trưởng thành sống ký sinh trong ruột non của người,
ăn các chất dinh dưỡng chứa trong ruột nhất là glycogen, phát triển và đẻ
trứng. Sau khoảng 60 – 75 ngày trứng giun xuất hiện trong phân kể từ khi
nuốt phải trứng có ấu trùng. Giun trưởng thành sống 12 – 18 tháng.
1.3.2. Giun tóc
Năm 1760, ở ruột một cháu gái 5 tuổi, Wriberg H.A và cộng sự đã
phát hiện ra giun tóc [70]. Đến năm 1941 các chuyên gia thống nhất đặt tên
giun tóc là Trichuris trichiura.
1.3.2.1. Hình dạng
Giun trưởng thành có màu hồng lợt hay trắng, vỏ có vân. Phần đầu
mảnh như sợi tóc, chiếm 3/5 cơ thể chứa thực quản. Phần đi phình to chứa
ruột và cơ quan sinh dục. Giun tóc dài khoảng 3 – 5 cm, con đực đi cong có
gai giao hợp, con cái đi thẳng đầu trịn. Giun tóc sống ký sinh ở đại tràng
[52]. Phần đầu bám vào phần ruột hút máu, phần thân treo lơ lửng. Mỗi ngày
một con giun tóc hút đến 0,005ml.
Trứng hình thoi dài, giống như trái cau, kích thước khoảng 20 x 50
micromet, vỏ dày, nhẵn gồm 3 lớp, ở 2 đầu có nút trong.
1.3.2.2. Đường lây truyền và chu trình phát triển
Trứng theo phân ra ngồi chưa có phơi, 3 – 4 tuần lễ nếu gặp nhiệt độ
và độ ẩm thích hợp trứng phát triển thành ấu trùng mới có khả năng gây
nhiễm, giai đoạn này khoảng 30 – 45 ngày.
Đường lây truyền là đường tiêu hóa, người nuốt phải trứng có ấu trùng,
vỏ trứng sẽ bị các men tiêu hóa làm tiêu đi và ấu trùng được phóng thích ở
ruột non, phát triển ở đó một tuần và sau đó di chuyển xuống sống ký sinh ở
manh tràng và đại tràng. Ấu trùng giun tóc khơng có giai đoạn chu du ở gan,
tim, phổi. Đời sống của giun tóc khoảng 6 năm [52].
10
1.3.3. Giun móc:
Năm 1843 ở một tử thi phụ nữ , Dubini đã tìm thấy giun móc, mơ tả tỉ
mỉ và đặt tên. Về sau, một ủy ban quốc tế thống nhất gọi tên giun móc là
Ancylostoma đuoenal trên danh mục động vật học vào năm 1915 [64]. Stiles
C.W tìm thấy một loại giun trịn giống A.đuoenal nhưng có cấu tạo khác
nhau ít nhiều vào năm 1902. Ơng đã mơ tả và đặt tên là Necator americanus.
1.3.3.1. Hình dạng
Giun trưởng thành có màu trắng sữa hoặc hơi hồng hoặc màu nâu đỏ
tùy thuộc vào trong ruột giun có máu hay khơng, miệng có 2 đơi răng hình
móc bố trí cân đối ở bờ trên miệng, bờ dưới có các bao cứng giúp giun ngoạm
chặt vào niêm mạc tá tràng để hút máu.
Giun đực có kích thước từ 5 – 11 mm, đi có túi giao hợp, xịe như
chân vịt, có hai gai sinh dục. Giun cái có kích thước từ 9 – 13 mm, đuôi cùn
thẳng, xoang cơ thể chứa buồng trứng và tử cung chứa đầy trứng.
Trứng giun móc hình bầu dục, kích thước 40 x 60 micromet, vỏ mỏng
trong, màu xám nhạt, khối nhân sẫm thường phân chia thành 4 – 8 phần.
1.3.3.2. Đường lây truyền và chu trình phát triển
Giun cái trưởng thành đẻ trứng và thải theo phân ra ngoại cảnh, khi
gặp nhiệt độ và độ ẩm thích hợp trứng nở ra ấu trùng. Ấu trùng giun móc
nhiễm vào người qua lỗ chân lơng, nơi phần da mỏng như mu bàn chân, kẽ
ngón chân. Rất hiếm khi người bị nhiễm ấu trùng giun móc qua đường miệng.
Sau khi xuyến qua da, ấu trùng theo đường tĩnh mạch về tim phải, từ đó ấu
trùng theo động mạch phổi để đến phổi. Tại phổi, ấu trùng tiếp tục phát triển
rồi di chuyển theo các nhánh phế nang tới khí quản rồi lên vùng hầu họng và
được nuốt xuống dạ dày. Ấu trùng dừng lại ở tá tràng và phát triển thành giun
móc trưởng thành. Giun móc hút máu ký chủ nhờ vào sự co giãn của thực
quản và tiết ra chất kháng đông giúp cho sự hút máu được dễ dàng hơn. Tùy
11
loại giun móc, mỗi loại giun có thể hút máu từ 0,03 đến 0,3 ml máu mỗi ngày
ở ký chủ.Tuổi thọ của giun móc từ 6 – 8 năm hoặc lâu hơn [41].
1.4. Tác hại của giun đũa, giun tóc, giun móc
1.4.1. Tác hại do ấu trùng
1.4.1.1. Tác hại do ấu trùng giun đũa
Ấu trùng giun đũa gây những tổn thương cho các cơ quan mà nó đi
ngang qua trong quá trình di chuyển trong cơ thể con người, trong đó biểu
hiện rõ hơn cả là ở phổi với hội chứng Loeffler: Sốt khơng kiên tục, ho khan
hay có chất nhầy lẫn máu, X quang có hình ảnh giả lao. Các triệu chứng này
sẽ biến mất sau 1 – 2 tuần [30], trong giai đoạn này bạch cầu đa nhân trung
tính tăng 10.000 đến 20.000/mm3, có tinh thể Charcot Leyden trong đàm [52].
Những tổn thương này có thể là do tác động cơ học của ấu trùng giun đũa,
mặt khác là do tính gây độc và dị ứng của giun [70].
1.4.1.2. Tác hại do ấu trùng giun móc
Khi ấu trùng giun móc xuyên qua da sẽ gây ra nổi mẫn đỏ và ngứa tại
chỗ, triệu chứng này sẽ biến mất sau 3 – 5 ngày, vị trí thường gặp ở kẽ tay hay
mu bàn chân [48], hiện tượng này xảy ra do tăng tiết men hyaluronidase [51],
có thể gây ra viêm da bội nhiễm. Khi ấu trùng xuyên qua phổi cũng sẽ xuất
hiện triệu chứng đau ngực, ho khạc ra máu. Hội chứng Loeffler không rõ ràng
như ở giun đũa, tự khỏi sau một thời gian ngắn [30].
1.4.2. Tác hại do giun trưởng thành
1.4.2.1. Tác hại do giun đũa
Tại ruột:
-Rối loạn tiêu hóa:
Bệnh nhân đau bụng giống như viêm loét dạ dày.
Tiêu chảy xen kẽ táo bón, triệu chứng nặng hay nhẹ tùy thuộc vào số
giun ký sinh nhiều hay ít.
12
-Biến chứng ngoại khoa: Hiếm gặp, thường gặp ở trẻ em.
+ Tắc ruột do búi giun đũa.
+ Xoắn ruột, lồng ruột.
Ngoài ruột:
Thường gặp nhất là giun chui vào ống dẫn mật gây tắc ống dẫn mật,
viêm túi mật, sạn đường mật, viêm ruột thừa, apxe gan, viêm tụy [30],[32].
Một số nghiên cứu còn cho thấy giun gây ra một số tác hại cho người bị
nhiễm như: cân nặng của trẻ em nhiễm giun thấp hơn cân nặng của trẻ không
nhiễm giun và cân nặng trung bình tiêu chuẩn (p<0,01) [3],[38]. Hoàng Thị
Hiền nghiên cứu thực trạng nhiễm giun trẻ em từ 24 – 60 tháng tuổi ở tỉnh
Quảng Trị cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ nhiễm giun cao hơn so với trẻ
không nhiễm giun là 32,65 %/16,14 % [21].
1.4.2.2. Tác hại do giun tóc
Theo Đỗ Dương Thái, tùy theo tình trạng nhiễm giun tóc nhẹ hay nặng
mà có biểu hiện lâm sàng khác nhau, nếu người bị nhiễm giun tóc nhẹ, chỉ
thấy đau bụng, buồn nơn, táo bón, nhiễm giun tóc mức độ 200 trứng/1gram
phân thì khơng có biểu hiện lâm sàng. Mức độ 500 trứng/1 gram phân mới có
triệu chứng, chứng tỏ có tổn thương giải phẩu bệnh rõ ràng. Những trường
hợp trên 20.000 trứng/1gram phân, sẽ có hội chứng lỵ nghiêm trọng, có thể
mất máu mãn hoặc sa trực tràng [56]. Con trưởng thành sống ở ruột già, phần
đầu bám vào ruột hút máu, phần thân treo lơ lửng. Mỗi ngày một con giun tóc
có thể hút đến 0,005 ml máu [52].
1.4.2.3. Tác hại do giun móc
Giun móc trưởng thành dùng miệng hoặc răng ngoạm vào niêm mạc
ruột, hút máu và tiêu thụ 0,03 – 0,3 ml máu mỗi ngày [30]. Tuyến đầu của
giun móc tiết ra men hyaluronidase, nên cơ thể còn mất một lượng máu không
nhỏ chảy ra liên tục taị chỗ niêm mạc tổn thương ngồi lượng máu giun móc
13
hút đi, làm cho tình trạng thiếu máu của người bị nhiễm giun móc ngày càng
nặng thêm. Đồng thời tại chỗ tổn thương có thể bị bội nhiễm [17].
Thiếu máu do giun móc là loại thiếu máu nhược sắc, hồng cầu nhỏ,
hồng cầu không đều [17], [52], [70], chiếm 30 % trong các loại thiếu máu nói
chung, đóng vai trị quan trọng trong các loại thiếu máu do giun. Nhiễm giun
móc làm mất máu và rối loạn cân bằng xuất nhập sắt, protein và các chất dinh
dưỡng khác. Tình trạng thiếu máu nhiều hay ít tùy thuộc vào cường độ nhiễm
giun, tình trạng thiếu máu nặng kéo dài sẽ dẫn đến suy tim [52].
Ngồi ra giun móc cịn tiết ra chất độc ức chế cơ quan tạo máu, gây
chán ăn, buồn nôn, mất ngủ.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Đề [17] nghiên cứu tình trạng nhiễm
giun móc và hiệu quả một số thuốc điều trị giun móc ở 3 vùng canh tác thuộc
đồng bằng miền Bắc Việt Nam thì trên 478 người bị nhiễm giun móc tuổi từ 1
– 70 tuổi, cho thấy: Hồng cầu giảm 74,6 %, hematorite giảm 3,4 %, sắt huyết
thanh giảm 12,3 %, bạch cầu ái toan tăng 76,1 %. Ngoài ra tỷ lệ hemoglobine
giảm ở người nhiễm giun nhẹ là 51,3 %, Hb trung bình là 9,7 g/dl. Ở người
nhiễm giun móc nặng là 91 %, Hb trung bình là 8,8 g/dl.
1.5. Tình hình nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc
1.5.1. Trên thế giới
Theo Tổ chức Y tế thế giới, tình hình nhiễm giun có liên quan đến
nghèo đói, điều kiện sống thấp, vệ sinh và việc cung cấp nước sạch sinh hoạt
cho người dân khơng được đảm bảo, cùng với khí hậu, độ sạch của đất, vệ
sinh cá nhân và môi trường kém, nhất là hiểu biết y tế về chăm sóc sức khỏe
con người còn thấp, chủ yếu xảy ra ở một số nước trên thế giới [63].
Cơng tác phịng ngừa và làm giảm tỷ lệ các bệnh gây mắc và chết do
giun rất khó khăn vì liên quan đến nhiều yếu tố như đời sống kinh tế, trình độ
văn hóa, phong tục tập quán, kiến thức và thực hành về phòng chống các bệnh
14
giun sán…. Trên thế giới, năm 1987 có khoảng 900 – 1.000 triệu người nhiễm
giun đũa, 500 – 700 triệu nguời nhiễm giun tóc, giun móc. Trong đó, ở Đơng
Nam Á có số người nhiễm nhiều nhất là 685 triệu người, Châu Phi là 132
triệu người, Trung Nam Mỹ là 104 triệu người [47],[51]. Năm 2000, theo
đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới, số người trong diện nguy cơ là rất cao,
khoảng 2 tỷ người, số bị nhiễm là hơn 1 tỷ, trong đó với hơn 800 triệu học
sinh bị nhiễm giun. Tình hình tử vong hàng năm khoảng 135.000 người. Tỷ lệ
tử vong đối với trẻ lứa tuổi mẫu giáo chiếm từ 10 – 20% trong tổng số người
bị nhiễm [63],[83].
Theo Carlo Urbani (1998), trên toàn cầu số người nhiễm giun cịn rất
cao, có 1,4 tỷ người nhiễm giun đũa, 1,4 tỷ người nhiễm giun tóc, 1,3 tỷ
người nhiễm giun móc [63].
* Tình hình nhiễm giun đũa:
Giun đũa xuất hiện khắp nơi trên thế giới, kể cả ở một số nước phát
triển, nhưng ở những nước có nền kinh tế kém phát triển, trình độ văn hóa –
xã hội thấp chiếm tỷ lệ cao nhất, đặc biệt là thường gặp ở vùng nhiệt đới, tỷ lệ
nhiễm chung khoảng 70-90% [48],[52].
Ở một số quốc gia Châu Phi tỷ lệ nhiễm giun đũa ở lứa tuổi trẻ em còn
khá cao. Ở Ogun, Nigeria theo nghiên cứu của Olufemi Moses Agbolade,
Ndubuisi Chinweike et al (2007) [85], tỷ lệ nhiễm giun đũa là 53,4% ở trẻ 3 –
18 tuổi. Ở Ebenebe, Nigeria theo nghiên cứu của M.C Chukwuma, I.M
Ekejindu, N.R Agbakoba et al (2009) [82], tỷ lệ nhiễm giun đũa là 53,6% ở
trẻ 6 – 15 tuổi. Luweero (Uganda), là 18,9% ờ trẻ dưới 5 tuổi [79]. Vùng Tây
Nam Nigeria là 53,4 % ở trẻ 3 – 18 tuổi [85]. Guatemala [22] là 91% trè từ
7 – 12 tuổi, và Kenya là 14,2 % ở trẻ từ 10 – 18 tuổi. Đặc biệt ở Châu Á, tỷ lệ
nhiễm giun đũa cao nhất 70% [70]. Ở một số nước như Nam Ấn Độ theo
nghiên cứu của Naish S, McCathy J, William GM (2004) [84], tỷ lệ nhiễm
15
giun đũa là 91% ở trẻ 5 – 9 tuổi. Ở Selangor Malaysia theo nghiên cứu của
Al-Mekhlafi MS, Azlin M, Nor Aini U et al (2006) [75], tỷ lệ nhiễm là 61,9%
trẻ từ 2 – 15 tuổi. Ở Cambodia tỷ lệ nhiễm giun đũa từ 35 – 56% [51].
* Tình hình nhiểm giun tóc:
Đặc diểm sinh thái của giun tóc giống giun đũa nên tần suất thường gặp
của chúng tương đương nhau, tuy nhiên giun tóc thường gặp phổ biến ở các
nước đang phát triển. Một số nước có tỳ lệ nhiễm giun tóc rất cao như
Selangor ở Malaysia theo nghiên cứu của Al-Mekhlafi MS, Azlin M, Nor
Aini U et al (2006) [75], tỷ lệ nhiễm giun tóc ở nhóm trẻ 2 – 15 tuổi là 98,2
%. Ở Nam Ấn Độ theo nghiên cứu của Naish S, McCathy J, William GM
(2004) [84], tỷ lệ nhiễm ở trẻ 5 – 9 tuổi là 72%. Ở Indonesia theo nghiên cứu
của Hastaning Sakti, Catherine Nokes et al (1999) [78], tỷ lệ nhiễm ở trẻ từ 8
– 13 tuổi là 24 %. Ở Ogun, Nigeria theo nghiên cứu của Olufemi Moses
Agbolade, Ndubuisi Chinweike et al (2007) [85], tỷ lệ nhiễm ở nhóm trẻ 3 –
18 tuổi là 10,4 %. Ở Luweero, Uganda theo nghiên cứu của Robinah Dumba,
John B Kaddu et al (2008) [86], tỷ lệ nhiễm ở trẻ em dưới 5 tuổi bị nhiễm
giun tóc là 7 %.
* Tình hình nhiễm giun móc/mỏ:
Ở Châu Phi, vùng cận sa mạc Sahara, Đông Nam Á, Đông Ấn Độ là
nơi phân bố chủ yếu giun mỏ. Ở phái Bắc các nước nhiệt đới và Tây Nam Á
là nơi phân bố chủ yếu giun móc [51]. Hai loại này có đặc điểm sinh thái hồn
tồn giống nhau nên chúng thường được gọi chung là giun móc.
Hai loại giun này hiện diện hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhưng
chủ yếu vẫn là các nước nhiệt đới, những nơi có vệ sinh mơi trường kém, điều
kiện sống và dân trí thấp. Theo Gram, ở Pháp có tỷ lệ nhiễm giun móc ở trẻ
em là từ 18 – 33 %, ở Mỹ là 35 – 65% [52].