BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
DƢƠNG HỒNG LINH
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HỌC
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
TRƢỜNG HỢP BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI
Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. NGUYỄN TRƢƠNG TÍN
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin dành trang đầu tiên của của Khóa luận để gửi lời tri ân chân
thành nhất đến gia đình, q Thầy, Cơ và bạn bè trong suốt thời gian qua đã
luôn giúp đỡ và ủng hộ tác giả hoàn thành đề tài.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Thầy
Nguyễn Trƣơng Tín- Giảng viên Khoa Luật Dân sự, trƣờng Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh. Em xin cảm ơn sự tận tâm của Thầy đã truyền cho em một
nguồn động lực lớn. Em xin cảm ơn Thầy đã luôn lắng nghe, chỉ bảo cho em
từng chút một trong việc góp ý, hƣớng dẫn, phản biện giúp em hồn thành đề tài
tốt nghiệp của mình một cách trọn vẹn.
Một lần nữa, tác giả xin chân thành cảm ơn tất cả mọi ngƣời!
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả dƣới
sự hƣớng dẫn khoa học của Thầy Nguyễn Trƣơng Tín. Các nội dung khơng phải
của tác giả đều đƣợc trích dẫn đầy đủ, rõ ràng. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm cho bất cứ sai sót nào từ cơng trình nghiên cứu của mình.
Tác giả
DƢƠNG HỒNG LINH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG TRƢỜNG HỢP BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ
LỖI .......................................................................................................................... 6
1.1. Lƣợc sử pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng
hợp bên bị thiệt hại có lỗi trƣớc khi có Bộ luật Dân sự năm 2015 ................... 6
1.1.1. Trƣớc khi có Bộ luật Dân sự năm 1995 ................................................. 6
1.1.2. Từ khi có Bộ luật Dân sự năm 1995 .................................................... 11
1.2. Pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên
bị thiệt hại có lỗi theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015....................... 15
1.2.1. Quy định chung của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp
bên bị thiệt hại có lỗi ............................................................................................. 15
1.2.1.1. Bên bị thiệt hại có lỗi một phần .................................................. 17
1.2.1.2. Bên bị thiệt hại hồn tồn có lỗi ................................................. 18
1.2.2. Một số quy định cụ thể của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong
trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi .......................................................................... 21
1.2.2.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng
vệ chính đáng......................................................................................................... 21
1.2.2.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ............ 23
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI TRONG TRƢỜNG HỢP BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ...................................................... 27
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định chung về bồi thƣờng thiệt hại trong
trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi và kiến nghị hoàn thiện pháp luật..... ....... 27
2.1.1. Xác định nội hàm yếu tố lỗi của bên bị thiệt hại .................................. 27
2.1.2. Xác định mức độ lỗi của bên bị thiệt hại.............................................. 31
2.2. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp
vƣợt quá giới hạn phịng vệ chính đáng và kiến nghị hồn thiện pháp
luật..... ................................................................................................................... 35
2.3. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra trong trƣờng hợpbên bị thiệt hại có lỗi và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật ........................................................................................... 40
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 46
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế
định quan trọng của pháp luật dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể bị xâm phạm. Mặc dù vậy, để đảm bảo tính cơng bằng, các chủ
thể bị xâm phạm cũng cần chịu trách nhiệm về phần thiệt hại do lỗi của mình
gây ra. Do đó, yếu tố lỗi của bên bị thiệt hại có vai trị rất quan trọng trong việc
xác định phạm vi trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của bên gây thiệt hại.
Tại Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005, chế định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt
hại ngoài hợp đồng đƣợc quy định từ Điều 604 đến Điều 630 của Bộ luật này.
Trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn, bên cạnh
những đóng góp đem lại, trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng nói
chung và bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi cịn bộc lộ
một số hạn chế, bất cập. Một số quy định không cụ thể, không rõ ràng, không
bao quát hết mọi trƣờng hợp xảy ra; đặc biệt là một số quy định không cịn phù
hợp với thực tiễn và từ đó gây nhiều khó khăn cho việc áp dụng pháp luật vào
cơng tác xét xử của Tịa án. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 ra đời, quy
định bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi đã có những
sửa đổi, bổ sung nhất định với những điểm tiến bộ đáng lƣu tâm. Tuy vậy, một
số quy định cũng vẫn còn tồn tại một số điểm cần đƣợc phân tích, đánh giá để
đƣa ra giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện tốt hơn.
Ngoài ra, giữa thực tiễn và văn bản pháp luật liên quan đến quy định bồi
thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi trong một số trƣờng hợp
chƣa đồng nhất. Để có những bản án thấu tình đạt lý, đơi khi Hội đồng xét xử
gặp phải những khó khăn nhất định, có trƣờng hợp Tịa án phải làm “biến dạng”
đi cách hiểu về nội dung của quy định nêu trên. Chính vì vậy, tác giả thấy cần
1
thiết phải có những giải pháp đƣa ra về mặt pháp luật hay thực tiễn nhằm giải
quyết vƣớng mắc trên, tạo điều kiện thuận lợi cho Tịa án trong cơng tác thực
tiễn đƣa ra những phán quyết thực sự thuyết phục cả trên phƣơng diện lí và tình.
Từ những lí do trên cùng với mong muốn tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này,
tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp bên bị thiệt hại có lỗi” để thực hiện cho Khóa luận tốt nghiệp của mình.
Vì thời gian và kiến thức cịn nhiều hạn chế, đối với những thiếu sót trong
Khóa luận của mình, tác giả hi vọng nhận đƣợc nhiều ý kiến đóng góp từ phía
Thầy, Cơ và bạn đọc để đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp bên bị thiệt hại có lỗi” đƣợc hồn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, tác giả nhận thấy đề tài “Bồi thường thiệt
hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi” mà mình thực hiện đã đƣợc phân
tích, đánh giá ở một vài khía cạnh nhất định qua các cơng trình nghiên cứu của
các tác giả đi trƣớc, tiêu biểu nhƣ:
- Phùng Trung Tập (2004), “Lỗi và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10;
- Quách Thành Vinh (2005), “Một số ý kiến từ việc áp dụng tình tiết
ngƣời bị hại cũng có lỗi”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 2;
- Ban biên tập tạp chí Tịa án nhân dân (2006), “Về việc bồi thƣờng thiệt
hại trong trƣờng hợp ngƣời bị thiệt hại có lỗi”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 4;
- Phạm Văn Bằng (2013), “Chế định bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
những vấn đề đặt ra khi sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 4;
- Hồng Thế Liên (Chủ biên) (2013), “Bình luận khoa học Bộ luật Dân
sự năm 2005”, tập III, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
2
- Nguyễn Văn Cừ- Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), “Bình luận
khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội.
Bên cạnh đó, đã có các cơng trình nghiên cứu, sách, bài viết tạp chí thực
hiện phân tích, đánh giá chuyên sâu và đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này đƣợc kể đến nhƣ:
- Phạm Kim Anh (2003), “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 3: Tác giả bài viết dẫn chứng định nghĩa về lỗi từ Luật
La Mã, pháp luật các nƣớc Châu Âu lục địa, pháp luật Anh- Mỹ và đƣa ra kiến
nghị xây dựng khái niệm lỗi cho pháp luật dân sự Việt Nam. Tác giả bài viết đƣa
ra kiến nghị xây dựng khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể
đối với việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Phùng Trung Tập (2005), “Cần hoàn thiện chế định bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 204: Trong bài viết của mình tác giả đề cập đến vấn đề Dự thảo
sửa đổi BLDS đã khơng có một quy định nào về mức độ lỗi ngoài quy định tại
khoản 1 Điều 593 Dự thảo BLDS (sửa đổi) về hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vơ ý.
Trong khi đó việc bồi thƣờng thiệt hại trong một số trƣờng hợp cụ thể, pháp luật
lại quy định căn cứ vào mức độ lỗi để xác định mức tài sản mà ngƣời gây thiệt
hại phải bồi thƣờng (Điều 605 và Điều 606 Dự thảo BLDS). Tác giả bài viết cho
rằng việc pháp luật khơng quy định mức độ lỗi là gì và đƣợc hiểu nhƣ thế nào đã
gây khó khăn cho cơ quan xét xử khi giải quyết tranh chấp vì khơng biết căn cứ
vào đâu để giải quyết vụ việc. Từ đó, tác giả bài viết đã đƣa ra kiến nghị theo
hƣớng pháp luật nên có quy định về mức độ lỗi để các cơ quan, tổ chức mà trƣớc
hết là Tòa án có căn cứ áp dụng giải quyết tranh chấp trong trƣờng hợp thiệt hại
xảy ra có yếu tố lỗi của ngƣời bị thiệt hại. Tuy nhiên, tác giả bài viết chƣa đƣa ra
đề xuất cụ thể về mức độ lỗi nên đƣợc quy định nhƣ thế nào là phù hợp.
- Đỗ Văn Đại (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng Việt
Nam- Bản án và bình luận án (Tập 1 và tập 2), Nxb. Hồng Đức- Hội luật gia
3
Việt Nam, Hà Nội: Tác giả cuốn sách đã đƣa ra các bản án chứng minh cho tính
thuyết phục trong phần bình luận của mình. Liên quan đến Đề tài “Trách nhiệm
bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi”, tác giả cuốn sách
đã phân tích, bình luận các nội dung: Trƣờng hợp khơng chịu trách nhiệm bồi
thƣờng (Bản án số 17, 18 và 19), Tác động lỗi của ngƣời bị thiệt hại tới mức bồi
thƣờng (Bản án số 22, 23 và 24), Mức bồi thƣờng khi vƣợt q giới hạn phịng
vệ chính đáng (Bản án số 25 và 26), Tai nạn giao thông đƣờng bộ: Lỗi của
ngƣời bị thiệt hại (Bản án 174, 175 và 176),...Từ đó, tác giả cuốn sách đã đƣa ra
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhƣ: Bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng
hợp vƣợt q giới hạn phịng vệ chính đáng cần xác định mức bồi thƣờng cụ thể
của từng chủ thể (thiệt hại tổng thể, thiệt hại mà ngƣời bị thiệt hại phải gánh
chịu và mức thiệt hại mà ngƣời phịng vệ vƣợt q giới hạn phịng vệ chính đáng
phải bồi thƣờng cho ngƣời bị thiệt hại), hay thiết lập một quy định riêng về bồi
thƣờng thiệt hại do hành vi của con ngƣời gây ra với phƣơng tiện là nguồn nguy
hiểm cao độ (tai nạn giao thông),...
Kế thừa ý kiến q giá từ các cơng trình nghiên cứu đi trƣớc, tác giả
của Đề tài sẽ tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu và phát triển hơn về cơ sở pháp lý
cũng nhƣ thực tiễn áp dụng quy định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi” vào thực tiễn. Từ đó, tác giả của Đề tài đề
xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện hơn về chế định này.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài làm rõ các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật thực định
cũng nhƣ thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi.
Từ việc nêu ra sự chƣa thống nhất giữa cơ sở pháp lý và thực tiễn giải
quyết tranh chấp liên quan đến bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt
hại có lỗi, tác giả của Đề tài sẽ kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp
luật cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ nâng cao hiệu quả trong công
tác thực tiễn giải quyết tranh chấp.
4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng
hợp bên bị thiệt hại có lỗi theo quy định của pháp luật hiện hành. Cụ thể là các
điều luật của BLDS 2015: Điều 584, Điều 585, Điều 594 và Điều 601 BLDS
2015 và thực tiễn giải quyết thông qua các bản án, quyết định của Tòa án.
- Phạm vi nghiên cứu: Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp
bên bị thiệt hại có lỗi theo quy định của pháp luật Việt Nam với các nội dung:
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại; yếu tố lỗi của bên gây thiệt
hại, bên bị thiệt hại về nội hàm và mức bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp
bên bị thiệt hại có lỗi theo quy định chung và các trƣờng hợp cụ thể.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc hiệu quả cao trong công tác nghiên cứu, Đề tài đƣợc tác giả
sử dụng kết hợp giữa các phƣơng pháp cụ thể sau:
Trong Chƣơng 1, tác giả sử dụng chủ yếu phƣơng pháp lịch sử, phƣơng
pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp so sánh luật học.
Trong Chƣơng 2, tác giả sử dụng chủ yếu phƣơng pháp phân tích và tổng
hợp, phƣơng pháp so sánh luật học và phƣơng pháp bình luận án.
6. Bố cục của đề tài
Ngồi Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục
bản án đính kèm, Khóa luận đƣợc tác giả trình bày trong hai chƣơng, cụ thể:
- Chƣơng 1: Những vấn đề pháp lý về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi; và
- Chƣơng 2: Thực tiễn giải quyết trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong
trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI TRONG TRƢỜNG HỢP BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI
1.1. Lƣợc sử pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong
trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi trƣớc khi có Bộ luật Dân sự năm 2015
1.1.1. Trƣớc khi có Bộ luật Dân sự năm 1995
Dƣới triều đại phong kiến, “Các đạo, chiếu, lệnh và các chính sách ruộng
đất của nhà nƣớc phong kiến Lý, Trần, Hồ đƣợc sử sách ghi chép cho thấy, lần
đầu tiên trong lịch sử pháp luật nƣớc ta, các vấn đề sở hữu và hợp đồng đã đƣợc
pháp luật quy định”1.
Nhƣ vậy, các chế định về dân sự lần đầu tiên đƣợc pháp luật quy định ở
thời Lý- Trần- Hồ. Tuy nhiên, bƣớc đầu mới tồn tại những chế định về sở hữu,
hợp đồng và thừa kế. Bóng dáng những quy định về bồi thƣờng thiệt hại ngoài
hợp đồng chƣa xuất hiện.
Đến thời nhà Lê, pháp luật phát triển rực rỡ cùng với sự ra đời của Bộ
Quốc triều Hình luật. Đây đƣợc đánh giá là bộ luật tiêu biểu nhất trong lịch sử
pháp luật phong kiến Việt Nam. Tuy vậy, nội dung những quy định trong lĩnh
vực dân sự của bộ luật cũng chỉ dừng lại với các quan hệ về sở hữu, hợp đồng và
thừa kế với đối tƣợng đƣợc chú trọng là ruộng đất.
Sau Bộ Quốc triều Hình luật phải nhắc đến Bộ Hoàng Việt luật lệ- văn
bản pháp luật đƣợc pháp điển hóa và có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống
pháp luật phong kiến Việt Nam ra đời dƣới thời vua Gia Long. Nếu nhƣ Bộ
Quốc triều Hình luật đề cập về sở hữu, hợp đồng và thừa kế trong lĩnh vực dân
1
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, trang 144.
6
sự thì đến đây, Bộ Hồng Việt luật lệ đã đi sâu hơn về những đó đồng thời xuất
hiện thêm chế định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.
Đối với lĩnh vực dân sự trong bộ Hoàng Việt luật lệ, yếu tố lỗi đƣợc đặt ra
với ba hình thức: lỗi cố ý, lỗi vô ý, lỗi sơ ý. “Sở dĩ nhà làm luật ngày xƣa chú ý
đến sự phân biệt các lỗi cố ý, vô ý, hay sơ ý về phƣơng diện bồi thƣờng, nhất là
tăng thêm sự bồi tổn trong trƣờng hợp cố ý, là vì cổ pháp chƣa đạt đến sự phân
biệt giữa hai vấn đề trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự. Mặc dù tiền bồi
tổn đƣợc trả cho nạn nhân để đền bù vào sự thiệt hại, nhƣng nhà làm luật cũng
coi số tiền ấy nhƣ một hình phạt và hơn nữa nó có tính cách thị uy để ngăn ngừa
những ngƣời khác khỏi phạm”2.
Đến ngày 23/3/1972, Thông tƣ số 173/UBTP của Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC) đƣợc ban hành hƣớng dẫn xét xử về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp
đồng. Tại văn bản này, trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngồi hợp đồng đƣợc
xác định phát sinh khi có đầy đủ bốn điều kiện:
- Phải có thiệt hại;
- Phải có hành vi trái pháp luật;
- Phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật;
- Phải có lỗi của ngƣời gây thiệt hại.
Trong nội dung của điều kiện thứ 4- lỗi của ngƣời gây thiệt hại đồng thời
làm phát sinh các hình thức lỗi nhƣ sau: “lỗi cố ý”, “lỗi vô ý”, “lỗi nhẹ”, “lỗi vô
ý nhẹ”, “lỗi vô ý nặng” và “lỗi nghiêm trọng”. Tuy nhiên, tất cả các thuật ngữ
trên đều không đƣợc quy định cụ thể về cách hiểu cũng nhƣ các xác định.
Về vấn đề trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại khi ngƣời bị thiệt hại có lỗi
đƣợc quy định cụ thể nhƣ sau:
“Lỗi của người bị thiệt hại là vô ý nặng, thì Tịa án xác định trách nhiệm
hỗn hợp và chỉ buộc người gây thiệt hại chịu trách nhiệm bồi thường phần thiệt
hại tương đương với phần lỗi của mình.
2
Huỳnh Cơng Bá (2017), Định chế pháp luật và tố tụng Triều Nguyễn (1802-1885), Nxb. Thuận Hóa, Hồ Chí
Minh, trang 396.
7
Nếu có lỗi của người bị thiệt hại là vơ ý nhẹ, thì khơng có trách nhiệm
hỗn hợp, mà người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm về toàn bộ thiệt hại.
Trường hợp người bị thiệt hại cố ý mong muốn sự thiệt hại, thì cũng
khơng có trách nhiệm hỗn hợp, mà người gây thiệt hại khơng có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thí dụ: người đi đường lao vào ô tô đang chạy để tự tử”.
Nhƣ vậy, khi ngƣời bị thiệt hại có lỗi và là lỗi vơ ý nặng thì đƣợc xem xét
nhƣ trƣờng hợp ngƣời bị thiệt hại có lỗi một phần theo quy định của BLDS
20153 và ngƣời gây thiệt hại chỉ phải chịu trách nhiệm đối với phần lỗi của
mình. Trong trƣờng hợp lỗi của ngƣời bị thiệt hại là lỗi vơ ý nhẹ thì ngƣời gây
thiệt hại phải chịu hoàn toàn trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại. Quay lại cơ sở
của trách nhiệm bồi thƣờng ngoài hợp đồng, khi phát sinh đầy đủ bốn điều kiện
về thiệt hại, hành vi trái pháp luật, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành
vi trái pháp luật, có lỗi của ngƣời gây thiệt hại đồng thời ngƣời bị thiệt hại
khơng có lỗi thì ngƣời gây thiệt hại cũng phải bồi thƣờng toàn bộ thiệt hại. Do
đó, hệ quả trong hai trƣờng hợp khi ngƣời bị thiệt hại có lỗi vơ ý nhẹ và khi
ngƣời bị thiệt hại khơng có lỗi là nhƣ nhau, trách nhiệm bồi thƣờng toàn bộ thiệt
hại đều thuộc về ngƣời gây thiệt hại. Phải chăng quy định về lỗi vô ý nhẹ là
không cần thiết? Cuối cùng, khi lỗi của ngƣời bị thiệt hại là lỗi cố ý thì đƣợc
xem xét nhƣ trƣờng hợp ngƣời bị thiệt hại hồn tồn có lỗi theo quy định của
BLDS 20154 và ngƣời gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngồi hợp đồng trong
trƣờng hợp ngƣời gây thiệt hại và ngƣời bị thiệt hại đều có lỗi đƣợc Thơng tƣ
nêu trên thể hiện bằng cụm từ “trách nhiệm hỗn hợp”. Qua phân tích trên có thể
thấy chỉ duy nhất một trƣờng hợp thỏa điều kiện của trách nhiệm hỗn hợp, đó là
ngƣời gây thiệt hại và ngƣời bị thiệt hại đều có lỗi mà lỗi của ngƣời bị thiệt hại
là vô ý nặng.
3
Khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 quy định: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì khơng được bồi
thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra”.
4
Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 quy định: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
8
Sau Thông tƣ 173/UBTP của TANDTC ngày 23 tháng 3 năm 1972, một
Thông tƣ mới ra đời hƣớng dẫn giải quyết một số vấn đề về bồi thƣờng thiệt hại
trong tai nạn ơ tơ, đó là Thơng tƣ số 03-TATC của TANDTC ban hành ngày 05
tháng 4 năm 1983. Thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ” đƣợc manh nha hình
thành kể từ thời điểm Thông tƣ này ra đời với nội dung “hoạt động của ô tô là
một nguồn nguy hiểm cao độ”. Thông tƣ xem ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ,
đó cũng chính là nội dung sau đó đƣợc BLDS năm 1995, 2005 và 2015 kế thừa
quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Cụ thể hiện nay, khoản 1 Điều 601 BLDS năm 2015, phƣơng tiện giao thông
vận tải cơ giới (trong đó có ơ tơ)5 đƣợc xem là một trong những nguồn nguy
hiểm cao độ6. Bên cạnh đó, quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại khi
ngƣời bị thiệt hại có lỗi tiếp tục đƣợc nhắc đến trong văn bản này.
Thứ nhất, với quy định chung: “Hoạt động của ô tô là một nguồn nguy
hiểm cao độ cho nên phía ơ tơ có trách nhiệm bồi thường cho người thiệt hại, kể
cả trường hợp tai nạn xảy ra vì cấu tạo máy móc, vật liệu (tai nạn rủi ro)”,
Thông tƣ 03-TATC của TANDTC xem thiệt hại phát sinh trong trƣờng hợp tai
nạn ơ tơ có thể do tự thân ơ tơ gây ra hoặc cũng có thể do tác động của con
ngƣời gây ra. Với cách thể hiện trên, tai nạn xảy ra vì cấu tạo máy móc, vật liệu
(tự thân ơ tơ) chỉ là một trong những trƣờng hợp dẫn đến phía ơ tơ phải bồi
thƣờng thiệt hại.
Thứ hai, Thông tƣ 03-TATC của TANDTC đi vào hƣớng dẫn cụ thể cho
trƣờng hợp thiệt hại phát sinh do lỗi từ phía ơ tơ là do con ngƣời gây ra đồng
thời có yếu tố lỗi từ phía nạn nhân:
“Nếu nạn nhân cố ý gây tai nạn (thí dụ: cố ý lao vào xe ô tô đang chạy để
tự tử) hoặc nạn nhân là người cố tình xơng bừa lên xe mặc dầu người lái xe
không đồng ý thì phía ơ tơ khơng phải bồi thường.
5
Khoản 18 Điều 3 Luật Giao thông đƣờng bộ năm 2008 quy định: “Phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo;
xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự”.
6
Khoản 1 Điều 601 BLDS năm 2015 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận
tải cơ giới,…”.
9
Nếu nạn nhân vơ ý (thí dụ: người đi đường chạy qua đường, khi ô tô đã
đến gần hành khách tự ý nhảy xuống khi xe đang chạy: nạn nhân là người bám
xe mặc dầu người lái xe không đồng ý…) mà phía ơ tơ khơng có lỗi thì phía ô tô
không phải bồi thường. Nhưng nếu phía ô tô cũng có lỗi (thí dụ: người lái xe xử
lý khơng hợp lý khi có người đi đường chạy qua…) thì có trách nhiệm hỗn hợp
của cả hai bên, do đó, phía ơ tơ phải bồi thường phù hợp với mức độ lỗi của
họ”.
Với quy định trên có thể thấy tồn tại ba trƣờng hợp về lỗi của ô tô và nạn
nhân tƣơng ứng với trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của phía ơ tơ là khác nhau:
- Lỗi của nạn nhân là lỗi cố ý thì phía ơ tơ khơng phải bồi thƣờng;
- Lỗi của nạn nhân là lỗi vô ý đồng thời phía ơ tơ khơng có lỗi thì phía ơ
tơ khơng phải bồi thƣờng;
- Lỗi của nạn nhân là lỗi vơ ý và phía ơ tơ có lỗi thì phía ơ tơ phải bồi
thƣờng phù hợp với mức độ lỗi của họ.
Việc Thông tƣ 03-TATC của TANDTC xem tác động của con ngƣời cũng
là điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong tai nạn ô tơ đƣợc lí
giải tại khoản 2 mục I Thơng tƣ với ví dụ về lỗi của phía ơ tơ: “Người lái xe xử
lý khơng hợp lý khi có người đi đường chạy qua”. Bên cạnh đó, quy định “Nếu
nạn nhân vơ ý mà phía ơ tơ khơng có lỗi thì phía ơ tơ khơng phải bồi thường”
cũng chứng minh cho việc Thông tƣ 03-TATC của TANDTC xem thiệt hại
trong tai nạn ô tô xuất phát từ hành vi trái pháp luật của con ngƣời. Bởi nếu thiệt
hại xảy ra xuất phát từ bản thân chiếc ơ tơ gây ra thì dù phía ơ tơ khơng có lỗi,
tức khơng tồn tại hành vi trái pháp luật và lỗi của con ngƣời, trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại vẫn phát sinh. Ngƣợc lại với lí giải trên, quy định trong trƣờng
hợp nạn nhân vơ ý đồng thời “phía ơ tơ khơng có lỗi thì phía ơ tơ khơng phải bồi
thƣờng” đã một lần nữa chứng minh cho việc Thông tƣ 03-TATC của TANDTC
xem thiệt hại ở đây xảy ra có nguyên nhân do con ngƣời.
Quay lại căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong tai nạn ô
tô, một trong bốn điều kiện đó là có lỗi của ngƣời gây thiệt hại. Đến đây, nhìn
10
nhận dƣới góc độ thiệt hại xảy ra xuất phát từ hành vi trái pháp luật của con
ngƣời thì quy định về trƣờng hợp thứ hai “Nếu nạn nhân vô ý mà phía ơ tơ
khơng có lỗi thì phía ơ tô không phải bồi thường” là không cần thiết. Bởi lẽ khi
phía ơ tơ khơng có lỗi đã khơng đáp ứng đƣợc điều kiện thứ tƣ của bồi thƣờng
thiệt hại nên điều tất yếu là trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của phía ơ tơ khơng
phát sinh. Hay nói cách khác, quy định trên đã nằm trong nội hàm của điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.
Cuối cùng, có thể nhận ra Thơng tƣ 03-TATC của HĐTP TANDTC ngày
5/4/1983 quy định chỉ cịn hai hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý mà khơng cịn
khái niệm “vơ ý nhẹ”, “vơ ý nặng” hay “vơ ý nghiêm trọng”.
1.1.2. Từ khi có Bộ luật Dân sự năm 1995
Khi ra đời, BLDS 1995 tiếp tục dành cả Chƣơng V để quy định về Trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng. Mặc dù BLDS 1995 không quy định
minh thị nhƣ Thông tƣ số 173-TANDTC của TANDTC ngày 23/3/1972, tuy
nhiên căn cứ xác định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng cũng chỉ
phát sinh khi có đủ 4 điều kiện: Có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành
vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp
luật, ngƣời gây thiệt hại có lỗi7.
Tại Điều 609 BLDS 1995 quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vơ ý
xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản
của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường”.
Cũng nhƣ Thông tƣ 03-TAND của TANDTC ngày 5/4/1983, BLDS 1995 quy
định có hai hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Đồng thời tại Điều 309 BLDS
1995 quy định rõ về cách hiểu lỗi cố ý và lỗi vô ý. Cụ thể: “ Cố ý gây thiệt hại là
trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người
7
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ tƣ pháp (1997), Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật
Dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 232-233.
11
khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc
cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại
sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng
cho rằng thiệt hại sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.
Điều 621 BLDS 1995 quy định: “Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong
việc gây ra thiệt hại, thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại
tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của
người bị thiệt hại, thì người gây thiệt hại khơng phải bồi thường”. Trƣớc đây,
Thông tƣ 03-TATC của TANDTC ngày 5/4/1983 chỉ quy định trƣờng hợp cụ
thể về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại khi nạn nhân (ngƣời bị thiệt hại) cũng có
lỗi trong tai nạn ô tô. Nhƣ vậy, với Điều 621 BLDS 1995, quy định bồi thƣờng
thiệt hại trong trƣờng hợp ngƣời bị thiệt hại cũng có lỗi đã đƣợc khái quát hóa
thành quy định chung cho cả những trƣờng hợp khác ngồi tai nạn ơ tơ.
Riêng đối với trƣờng hợp bồi thƣờng thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra, BLDS 1995 quy định theo hƣớng thiệt hại trong trƣờng hợp này phải do
tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chứ không bao gồm nguyên nhân xuất
phát do con ngƣời. Điểm này đƣợc thể hiện thông qua Điều 6278 BLDS 1995
8
“1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy cơng
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao
độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở
hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng, thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt
hại cả khi khơng có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
12
với tên gọi: Bồi thƣờng thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cùng nội
dung của điều luật.
Nghị quyết 01/2004/HĐTP ngày 28/4/2004 của HĐTP TANDTC sau đó
ra đời hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 1995 về bồi thƣờng thiệt
hại ngồi hợp đồng. Trong đó, quy định về nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại của
Nghị quyết có nội dung: Khi giải quyết yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại do tài sản,
sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm cần “xác định
mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản
thiệt hại tương xứng đó”. Tức cần xác định mức độ lỗi của ngƣời gây thiệt hại và
ngƣời bị thiệt hại để ngƣời gây thiệt hại chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
tƣơng xứng với phần lỗi của mình gây ra.
Ngồi ra, đối với trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, Nghị quyết 01/2004/HĐTP hƣớng dẫn nội dung tại điểm a khoản
3 Điều 627 BLDS 1995 “Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị
thiệt hại” với ví dụ: “Xe ơ tơ đang tham gia giao thơng theo đúng quy định của
pháp luật, thì bất ngờ có ngƣời lao vào xe để tự tử và hậu quả là ngƣời này bị
thƣơng nặng hoặc bị chết. Trong trƣờng hợp này chủ sở hữu, ngƣời đƣợc chủ sở
hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thƣờng thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra”. Nghị quyết đã giúp cho việc
áp dụng pháp luật của Tòa án thuận tiện và dễ dàng hơn về vấn đề trách nhiệm
bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp ngƣời bị thiệt hại có lỗi tại thời điểm này.
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, thì người đang chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc
để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, thì phải liên đới bồi thường thiệt hại”.
13
Khi BLDS 2005 ra đời vẫn giữ nguyên tinh thần của BLDS 1995 về căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng là phải đầy đủ 4
điều kiện: Có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có
mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật, ngƣời gây thiệt hại
có lỗi. Ngồi ra, tại khoản 2 Điều 604 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp
pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp
khơng có lỗi thì áp dụng quy định đó”. Đây là điểm mới của BLDS 2005 cũng là
ngoại lệ của căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại. Mặc dù thiếu đi
điều kiện về lỗi của ngƣời gây thiệt hại nhƣng trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
vẫn phát sinh. Chẳng hạn, Điều 624 BLDS 2005 quy định: “Cá nhân, pháp nhân
và các chủ thể khác làm ơ nhiễm mơi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ơ nhiễm mơi trường
khơng có lỗi”.
Bên cạnh đó, nội dung Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp
ngƣời bị thiệt hại có lỗi đƣợc BLDS 2005 kế thừa từ quy định tại Điều 621
BLDS 1995: “Khi ngƣời bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại, thì
ngƣời gây thiệt hại chỉ phải bồi thƣờng phần thiệt hại tƣơng ứng với mức độ lỗi
của mình; nếu thiệt hại xảy ra hồn tồn do lỗi của ngƣời bị thiệt hại, thì ngƣời
gây thiệt hại không phải bồi thƣờng”.
Đồng hành cùng BLDS 2005, Nghị quyết 03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006
của HĐTP TANDTC ra đời hƣớng dẫn một số quy định của BLDS 2005 về bồi
thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng. Nghị quyết 03/2006/HĐTP tiếp tục kế thừa
quy định tại Nghị quyết 01/2004/HĐTP ngày 28/4/2004 của HĐTP TANDTC
về nội dung Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp ngƣời bị thiệt hại
có lỗi. Khi giải quyết yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính
mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm thì một trong những nội dung
quan trọng cần làm là “xác định mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt
hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó”. Bên cạnh đó, “Thiệt hại
14
xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại” quy định tại điểm a khoản 3
Điều 623 BLDS 2005 đƣợc hƣớng dẫn là “Xe ô tô đang tham gia giao thông
theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có ngƣời lao vào xe để tự tử và
hậu quả là ngƣời này bị thƣơng nặng hoặc bị chết. Trong trƣờng hợp này chủ sở
hữu, ngƣời đƣợc chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ơ tơ đó khơng
phải bồi thƣờng thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra”.
Tiếp đó, BLDS 2015 ra đời trên tinh thần kế thừa, khắc phục những
khiếm khuyết của BLDS trƣớc đây, bổ sung những điểm mới để hoàn thiện các
chế định pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thực thi pháp luật trên
thực tế. Chính vì vậy, BLDS 2015 nói chung và chế định trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại ngồi hợp đồng nói riêng có những quy định đƣợc giữ lại đồng
thời cũng có những quy định đƣợc sửa đổi, bổ sung.
1.2. Pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên
bị thiệt hại có lỗi theo Bộ luật Dân sự năm 2015
Về kỹ thuật lập pháp, Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp
ngƣời bị thiệt hại có lỗi khơng cịn là một trƣờng hợp bồi thƣờng thiệt hại cụ thể
nhƣ Điều 621 BLDS 1995 hay Điều 617 BLDS 2005 mà đƣợc quy định tại Mục
về Quy định chung, cụ thể trong Điều 584_Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại và Điều 585_ Nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại của BLDS 2015.
1.2.1. Quy định chung của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong
trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi
Khái niệm “bên bị thiệt hại” đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 584 BLDS
2015 và khoản 3, khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 là khái niệm mới xuất hiện lần
đầu tiên tại BLDS 2015 bởi trƣớc đây, BLDS 2005 sử dụng khái niệm “ngƣời bị
thiệt hại”. Thay đổi này xuất phát từ thực tiễn khi dùng từ “ngƣời” thì thơng
thƣờng chỉ nghĩ đến trƣờng hợp bên bị thiệt hại là cá nhân. Với quy định mới,
15
bên bị thiệt hại đƣợc hiểu bao gồm ngƣời (cá nhân) bị thiệt hại và tổ chức (pháp
nhân) bị thiệt hại.
Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 quy định: Người gây thiệt hại không phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh hoàn
toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 quy định nhƣ
sau: Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì khơng được bồi
thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Với sự sửa đổi, bổ sung của BLDS 2015 thì “lỗi” khơng cịn là một trong
những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng nhƣng
“lỗi” vẫn đóng vai trị quyết định trong việc phân chia mức độ chịu trách nhiệm
đối với thiệt hại thiệt hại của bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại. Mặc dù vậy,
trong BLDS 2015 khơng có quy định nào cho biết cách hiểu về “lỗi” ngồi quy
định về hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý tại Điều 364 BLDS 2015. Dƣới góc
nhìn văn bản pháp luật, qua quy định tại Điều 364 BLDS 2015 về cách hiểu lỗi
cố ý và lỗi vơ ý thì lỗi đƣợc hiểu là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu
quả của hành vi do mình gây ra cho chủ thể khác. “Lỗi là thái độ tâm lý của
ngƣời gây thiệt hại, thể hiện nhận thức và mong muốn của mình đối với hành vi
gây thiệt hại và thiệt hại do hành vi đó gây ra”9. Hay theo quan điểm của một số
học giả về “lỗi” trong pháp luật dân sự: “Lỗi là trạng thái tâm lý của con ngƣời
có thể làm chủ, nhận thức đƣợc hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó”10.
Theo ý kiến của một nhà nghiên cứu khác: “Mặc dù BLDS và Nghị quyết số 03
khơng quy định “lỗi” là gì nhƣng thông qua định nghĩa “lỗi vô ý”, “lỗi cố ý”
chúng ta có thể thấy một điểm chung là trong cả hai loại lỗi này đều có “nhận
thức” về thiệt hại của ngƣời có hành vi gây thiệt hại”11.
9
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
trang 79.
10
Lê Văn Sua (2004), “Vài suy nghĩ về Điều 621 BLDS”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11.
11
Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận án
(Tập 1), Nxb. Hồng Đức- Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, trang 114.
16
1.2.1.1. Bên bị thiệt hại có lỗi một phần
Khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 quy định nội dung này nhƣ sau: “Khi bên
bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì khơng được bồi thường phần thiệt
hại do lỗi của mình gây ra”. Đây khơng phải nội dung mới của BLDS 2015 mà
đã đƣợc quy định trƣớc đó tại BLDS 2005. Điều này thuyết phục bởi lẽ nó phù
hợp với tính chất cơng bằng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự.
Bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi một phần là
một trong những nội dung thuộc trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngồi hợp
đồng. Chính vì vậy, trƣớc tiên quy định này vẫn phải thỏa mãn căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm: Có hành vi trái pháp
luật của bên gây thiệt hại (ngoại trừ trƣờng hợp bồi thƣờng thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra), có thiệt hại xảy ra trên thực tế, có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trên thực tế. Ngoài những điều
kiện trên, để quy định bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có
lỗi một phần đƣợc áp dụng cần thêm điều kiện bên bị thiệt hại có lỗi trong việc
gây ra thiệt hại.
Sau khi thỏa mãn các điều kiện áp dụng quy định bồi thƣờng thiệt hại
trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi, vấn đề đặt ra là xác định mức độ lỗi của
mỗi bên (bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại) nhƣ thế nào? Trƣớc đây, Điều 617
BLDS 2015 quy định: “Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt
hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức
độ lỗi của mình...”. Cụm từ “mức độ lỗi” tiếp tục đƣợc nhắc đến trong nguyên
tắc bồi thƣờng thiệt hại tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP với nội dung: Tiêu
chí xác định mức bồi thƣờng thiệt hại khi có yêu cầu giải quyết bồi thƣờng thiệt
hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
phải căn cứ vào mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi
thường các khoản thiệt hại tương xứng đó. Hiện nay, nội dung trách nhiệm bồi
17
thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi khơng cịn tồn tại cụm
từ “mức độ lỗi” nữa. Tuy vậy, khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 về cơ bản vẫn
cùng cách hiểu với Điều 617 BLDS 2005 trƣớc đây, theo hƣớng: Khi thiệt hại
thực tế xảy ra mà có yếu tố lỗi của bên bị thiệt hại thì bên bị thiệt hại sẽ phải
chịu trách nhiệm tƣơng đƣơng với phần lỗi của mình gây ra và bên gây thiệt hại
sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại tƣơng ứng với phần thiệt hại phát
sinh do lỗi của mình gây ra. Có thể nói nhƣ vậy vì “lỗi” khơng cịn là căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngồi hợp đồng nhƣng “lỗi” vẫn có
vai trò quan trọng trong việc ấn định mức bồi thƣờng thiệt hại giữa bên gây thiệt
hại và bên bị thiệt hại. Cũng chính vì vậy, “mức độ lỗi” vẫn cần đƣợc xác định
trong trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi theo quy định tại BLDS 2015. Tính từ
thời điểm BLDS ra đời, trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đƣợc quy định trong
trƣờng hợp bên bị thiệt hại có lỗi một phần đƣợc quy định tại Điều 621 BLDS
1995, Điều 617 BLDS 2005 và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015, tuy vậy, các
BLDS cùng văn bản hƣớng dẫn từ trƣớc đến nay khơng có quy định nào về cách
hiểu cũng nhƣ xác định “mức độ lỗi”.
1.2.1.2. Bên bị thiệt hại hồn tồn có lỗi
Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của bên gây thiệt hại sẽ đƣợc loại trừ
nếu nhƣ thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Đó là nội dung quy
định tại khoản 2 Điều 584 BLDS 2015: “Người gây thiệt hại không phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh hoàn toàn
do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác”. Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự là tự do thỏa thuận trên cơ sở không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội đƣợc thể hiện qua cụm từ “trừ trƣờng hợp có thỏa thuận
khác”. Với quy định trên, lỗi của bên bị thiệt hại khơng cần xác định chính xác
về hình thức là lỗi cố ý hay lỗi vô ý mà chỉ cần chứng minh đƣợc thiệt hại phát
18
sinh hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của
ngƣời gây thiệt hại sẽ đƣợc loại trừ.
Vấn đề đặt ra là “hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại” quy định tại khoản
2 Điều 584 BLDS 2015 đƣợc xác định nhƣ thế nào? Để kết luận thiệt hại phát
sinh “hoàn toàn do lỗi của bên gây thiệt hại” sẽ chỉ tập trung xem xét lỗi của bên
bị thiệt hại hay cần đánh giá lỗi của hai bên (bên gây thiệt hại và bên bị thiệt
hại)? BLDS 2005, Nghị quyết 03/2006/NQ- HĐTP của TANDTC hƣớng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thƣờng thiệt hại
ngồi hợp đồng và cả BLDS 2015 hiện hành khơng có quy định nào hƣớng dẫn
vấn đề trên.
Đến đây, việc BLDS 2015 khơng có quy định cụ thể về khái niệm lỗi một
lần nữa phát sinh bất cập. Nhìn từ góc độ văn bản, theo cách hiểu từ quy định tại
Điều 364 BLDS 2015 về hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vơ ý thì lỗi là trạng thái
tâm lý, là khả năng nhận thức của con ngƣời. Với cách quy định về yếu tố lỗi tại
BLDS 2015 nhƣ trên thì “lỗi” trong quy định “hồn tồn do lỗi của bên gây thiệt
hại” sẽ chỉ xác định dựa trên nhận thức (của bên gây thiệt hại, bên bị thiệt hại).
Tuy nhiên, sẽ là thuyết phục nếu kết luận về lỗi đƣợc xem xét toàn diện các mặt
bên cạnh yếu tố nhận thức nhƣ nguyên nhân gây ra thiệt hại xuất phát từ phía
bên gây thiệt hại hay bên bị thiệt hại, hành vi trái pháp luật và toàn bộ các tình
tiết của vụ án có liên quan.
Khoản 3 Điều 584 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp tài sản gây thiệt
hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”.
Tƣơng tự trƣờng hợp thiệt hại do ngƣời gây ra, khi tài sản gây thiệt hại hoàn
toàn do lỗi của bên bị thiệt hại thì chủ sở hữu, ngƣời chiếm hữu tài sản đó khơng
phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại.
19