BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ẬT
LU
TP. HỒ
Ch
Í
M
IN
TRƯ ỜNG
C
H
ĐẠ
I
HỌ
VÕ ANH TRUNG
HOẠT ĐỘNG PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA
TRUNG TÂM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ NHÀ NƯỚC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VÕ ANH TRUNG
HOẠT ĐỘNG PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA
TRUNG TÂM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ NHÀ NƯỚC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số:
60380104
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN BÁ NGỪNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật: “Hoạt động
phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước trên địa
bàn tỉnh Bến Tre” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, và khơng có bất cứ
vi phạm nào về quyền tác giả theo quy định của luật pháp. Những số liệu
thống kê phục vụ cho công tác nghiên cứu đề tài đều trung thực, tài liệu có
nguồn từ các cơ quan chức năng địa phương.
Tác giả
Võ Anh Trung
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTV
PNTP
TGPL
TGVPL
Cộng tác viên
phòng ngừa tội phạm
trợ giúp pháp lý
Trợ giúp viên pháp lý
DANH MỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ
Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bến Tre từ năm 2007 đến
2012
Bảng 2. Sơ đồ tổ chức Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bến Tre
Bảng 3. Chất lượng lực lượng Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh
Bến Tre theo ngạch công chức, viên chức từ năm 2007 đến năm
2012
Bảng 4. Chất lượng nguồn nhân lực Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước
tỉnh Bến Tre theo trình độ đào tạo từ năm 2007 đến năm 2012
Bảng 5. Chất lượng nguồn Cộng tác viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà
nước tỉnh Bến Tre từ năm 2007 đến năm 2012
Bảng 6. Số lượng vụ việc tư vấn pháp luật, giai đoạn 2007 – 2012 (thuộc
đối tượng trợ giúp pháp lý )
Bảng 7. Số lượng vụ việc tư vấn pháp luật, giai đoạn 2007 – 2012 (không
thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý )
Bảng 8. Số lượng vụ việc tham gia tố tụng của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
nhà nước tỉnh Bến Tre – Giai đoạn 2007 – 2012
Bảng 9. Số lượng tham gia tố tụng của Trợ giúp viên và Luật sư cộng tác
viên
Bảng 10. Số liệu hoạt động tuyên truyền pháp luật
Bảng 11 Số liệu tham gia hòa giải và sinh hoạt Câu lạc bộ của Trung tâm
Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bến Tre từ năm 2007 đến 2012
Bảng 12. Số liệu Các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh
Bến Tre, giai đoạn 2007 - 2012
Bảng 1.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng thống kê
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chương 1. NHẬN THỨC CHUNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA
TRUNG TÂM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BẾN TRE.................................................................................... 6
1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bến Tre liên quan đến
phòng ngừa tội phạm............................................................................. 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung, nguyên tắc của phòng ngừa tội phạm
............................................................................................................... 7
1.21. Khái niệm phòng ngừa tội phạm ....................................................... 7
1.2.2. Đặc điểm phòng ngừa tội phạm ..................................................... 12
1.2.3. Nguyên tắc của hoạt động phòng ngừa tội phạm ........................... 14
1.2.4. Nội dung của phòng ngừa tội phạm ............................................... 16
1.3. Đặc trưng phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà
nước:.................................................................................................... 17
1.3.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà
nước............................................................................................... 17
1.3.2. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm phòng ngừa tội phạm của Trung tâm
Trợ giúp pháp lý nhà nước ............................................................ 19
1.3.3. Nội dung và đặc điểm hoạt động phòng ngừa tội phạm của Trung
tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước ..................................................... 21
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
CỦA TRUNG TÂM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ NHÀ NƯỚC . 36
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE................................................................. 36
2.1. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bến Tre ...................................... 36
2.1.1. Tình hình tội phạm ........................................................................ 36
2.1.2. Đặc điểm tội phạm học .................................................................. 37
2. 2. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
nhà nước tỉnh Bến Tre ........................................................................ 39
2.2.1. Các đặc điểm về tổ chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý trên địa
bàn tỉnh Bến Tre............................................................................ 39
2.2.2. Về tổ chức bộ máy Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bến
Tre ................................................................................................. 40
2.3. Thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp
pháp lý nhà nước tỉnh Bến Tre: .......................................................... 41
2. 3.1. Thực trạng phòng ngừa tội phạm trong hoạt động tư vấn pháp luật
....................................................................................................... 41
2.3.2. Phịng ngừa tội phạm thơng qua việc phát hiện, loại trừ các nguyên
nhân và điều kiện phạm tội ........................................................... 43
2.3.3. Phịng ngừa tội phạm thơng qua việc tham gia tố tụng ................. 46
2. 3.4. Phòng ngừa tội phạm thông qua việc phối hợp giữa các tổ chức
thực hiện trợ giúp pháp lý với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan (cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thơng tin đại chúng,
các tổ chức đồn thể chính trị xã hội, chính quyền cơ sở…) ....... 50
2.3.5. Phịng ngừa tội phạm thơng qua cơng tác tun truyền, giáo dục
pháp luật và trợ giúp pháp lý lưu động ......................................... 53
2.3.6. Phịng ngừa tội phạm thơng qua các hoạt động khác:.................... 57
2.4. Đánh giá về hoạt động phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp
pháp lý trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong thời gian qua ........................ 60
2.4.1. Thành công ..................................................................................... 60
2.4.2. Hạn chế ........................................................................................... 62
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tội
phạm của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước trên địa bàn tỉnh
Bến Tre.......................................................................................... 65
Chương 3 . DỰ BÁO TÌNH HÌNH TỘI PHẠM Ở BẾN TRE VÀ CÁC
BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA TRUNG TÂM TRỢ
GIÚP PHÁP LÝ NHÀ NƯỚC TỈNH BẾN TRE ................. 71
3.1. Dự báo tình hình tội phạm ở Bến Tre trong thời gian tới ..................... 71
3.1.1. Cơ sở của dự báo ............................................................................ 71
3.1.2. Một số dự báo cụ thể ...................................................................... 72
3.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm của
Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bến Tre........................... 74
3.2.1. Những định hướng đối với việc nâng cao hiệu quả trong hoạt động
phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước
nhà nước tỉnh Bến Tre .................................................................. 74
3.2.2. Nâng cao hiệu quả nghiệp vụ công tác trợ giúp pháp lý ................ 77
3.2.3. Tiến hành tổng hợp các biện pháp giáo dục, kinh tế và pháp luật . 77
3.2.4. Các biện pháp cụ thể ...................................................................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC THỐNG KÊ SỐ LIỆU
1
LỜI MỞ ĐẦU
Bến Tre là một trong 13 tỉnh của Đồng bằng sơng Cửu Long, phía Đơng
giáp biển, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang và
phía Nam giáp tỉnh Trà Vinh; Tỉnh có diện tích tự nhiên là 2.356 km2, được
hợp thành bởi 3 dãi cù lao lớn: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh do
phù sa bồi đắp của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Tiền, sông Ba Lai, sông
Hàm Lng, sơng Cổ Chiên). Tỉnh có các tuyến đường đi qua như: Quốc lộ
57 và Quốc lộ 60. Vị trí này cho phép tỉnh Bến Tre hội tụ những tiềm năng
phát triển các ngành kinh tế như khai thác thủy hải sản, nông nghiệp, phát
triển du lịch vườn…. Đồng thời cịn tạo cho Bến Tre có điều kiện phát triển
giao thông đường bộ, đường thủy, đặc biệt là sau khi xây dựng xong cầu Rạch
Miễu, Hàm Luông hệ thống giao thơng đường bộ đã có một sự phát triển đáng
kể tạo cho việc phát triển công nghiệp, du lịch….
Trong những năm qua, cùng với sự hội nhập, phát triển mọi mặt của đời
sống kinh tế, văn hóa xã hội tại địa phương, thì tình hình tội phạm ở nơi đây
có những diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi... Các loại
tội phạm cướp, cướp giật tài sản, xâm phạm tính mạng, sức khỏe cơng dân,
xâm phạm tình dục, các tội phạm về ma túy…và các hoạt động thế lực thù
địch ln tìm cách tun truyền chống phá, kích xúi, lơi kéo người dân ở
vùng ven biển, vùng kinh tế cịn khó khăn biểu tình, gây rối, chống phá chính
quyền, ln là một thách thức khơng nhỏ đối với Đảng bộ, chính quyền địa
phương và nhân dân tỉnh Bến Tre.
Trung tâm Trợ giúp pháp lý (TGPL) nhà nước tỉnh Bến Tre là một đơn
vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, được thành lập vào năm 1998 với chức
năng thực hiện công tác TGPL tại địa phương, thông qua việc tham gia tố
tụng, tuyên truyền pháp luật, TGPL lưu động, thực hiện cơng tác hịa giải,
kiến nghị… Sau 14 năm thành lập, với sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền
địa phương, và bằng sự nỗ lực, quyết tâm của toàn thể cán bộ Trung tâm
TGPL nhà nước tỉnh Bến Tre, sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức
đoàn thể…TGPL đã giải quyết được nhiều vướng mắc, nhiều tranh chấp kéo
dài, giữ gìn đồn kết, tương thân, tương ái trong nhân dân, củng cố được lòng
2
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước và ngày càng được người dân tin
tưởng và tiếp cận. Từ đó, đã góp phần quan trọng trong cơng tác đấu tranh
phòng ngừa tội phạm tại địa phương như nhận định của Phó Thủ tướng Chính
phủ Trương Vĩnh Trọng trong Hội nghị tổng kế 10 năm hoạt động TGPL ở
Việt Nam “TGPL đã giúp cho chính quyền địa phương hiểu dân, tạo diễn đàn
đối thoại dân chủ giữa người dân với chính quyền, góp phần giảm thiểu khiếu
nại, tố cáo trái pháp luật, điều chỉnh kịp thời những bất cập trong hoạt động
cơng vụ, giữ gìn đồn kết cộng đồng, ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an
ninh – quốc phòng, thúc đẩy phát triển kinh tế” 1. Tuy nhiên, trong tình hình
hiện tại, với sự diễn biến phức tạp của các loại tội phạm, là thách thức không
nhỏ đặt ra với chính quyền địa phương nói chung, Trung tâm TGPL nhà nước
tỉnh Bến Tre nói riêng trong hoạt động phịng ngừa.
Trung tâm TGPL có vị trí pháp lý rất đặc biệt, do đó có những ưu thế rất
riêng trong phịng ngừa tội phạm, thơng qua hoạt động tư vấn pháp luật, tham
gia tố tụng, hòa giải... Trung tâm TGPL có thể phát hiện, góp phần quan trọng
nhằm ngăn chặn ngay từ trong tư tưởng, ý nghĩ nghững dự định vi phạm pháp
luật của các cá nhân trong xã hội. Mặc dù vậy, trong q trình cơng tác trong
ngành, tôi nhận thấy rằng công tác đấu tranh PNTP của Trung tâm TGPL nhà
nước tỉnh Bến Tre còn bộc lộ những thiếu sót nhất định như: hệ thống văn bản
về TGPL liên quan đến chức năng PNTP của Trung tâm TGPL nhà nước cịn
nhiều bất cập; cơng tác phân cơng phân nhiệm vẫn còn nhiều điểm chưa hợp
lý, hoạt động PNTP thông qua hoạt động nghiệp vụ, công tác phối hợp giữa
các chủ thể khác chưa được chú trọng…từ đó dẫn đến việc chưa tận dụng
được hết ưu thế của chủ thể này trong hoạt động PNTP tại địa phương.
Với mong muốn góp phần trong hoạt động PNTP của Trung tâm TGPL
trên địa bàn, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Hoạt động phòng ngừa tội
phạm của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến
Tre” làm Luận văn Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
1
Bài phát biểu của Phó Thủ tướng chính phủ Trương Vĩnh Trọng, TGPL thực sự khẳng định đảng, nhà
nước, Chính phủ ln quan tâm quyền lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách, 10 năm hoạt
động TGPL ở Việt Nam hướng phát triển, Cục Trợ giúp pháp lý
3
Tình hình nghiên cứu hoạt động PNTP nói chung, hoạt động PNTP của
các chủ thể cụ thể đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, có thể kể đến các cơng
trình như sau:
- Cơng trình “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” của
Nguyễn Xuân Yêm được nhà xuất bản Công an nhân dân phát hành vào năm
2001. Đây là một cơng trình nghiên cứu có giá trị rất lớn, trong đó tác giả đã
đưa ra được nhiều nội dung lý luận quan trọng về: tình hình tội phạm, nguyên
nhân, điều kiện của tình hình tội phạm; nhân thân người phạm tội, phương
pháp PNTP….
- Tác giả Đoàn Thị Nguyên với khóa luận tốt nghiệp Đại học cũng có nội
dung nghiên cứu về: Hệ thống các chủ thể phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam
của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Cơng trình đã đi sâu vào
việc phân tích, đánh giá và xác định chủ thể tham gia hoạt động PNTP.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của các tác giả: Trà Hùng Cường, “Hoạt
động phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu của lực lượng cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự xã hội công an tỉnh Tây Ninh”; Lê Minh Hiền “Hoạt động
phòng ngừa tội phạm của Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Tây Ninh”; Lê
Văn Sang “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của công an xã trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh”; Trần Minh Sơn “Hoạt động phòng ngừa tội đào ngũ trên địa bàn
Quân khu 7”; Nguyễn Văn Lam “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án
Quân sự Quân khu 9”; Nguyễn Thị Lệ Huyền “Hoạt động phòng ngừa tội
phạm của Viện Kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Long An” ... đã có những
nghiên cứu và đưa ra nhiều luận điểm sâu sắc về các chủ thể phòng ngừa của
lực lượng vũ trang, cơ quan tư pháp..
Luận văn Thạc sỹ Luật học “Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho
người nghèo” của tác giả Phan Thị Hồng Huệ có đề cập đến hoạt động của
Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Bến Tre, tuy nhiên, cơng trình này chỉ đề cập
đến việc thực hiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả TGPL cho người
nghèo tại địa phương.
Các cơng trình khoa học của các tác giả nêu trên đã nghiên cứu về phòng
ngừa tội phạm ở nhiêu khía cạnh ở nhiều địa khác nhau. Tuy nhiên chưa có
cơng trình nào đề cập đến hoạt động PNTP của Trung tâm TGPL nói chung
4
và trên địa bàn tỉnh Bến Tre nói riêng. Chính vì vậy, việc lựa chọn đề đài
nghiên cứu “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre” không trùng lắp với bất kỳ cơng trình
nào đã cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và giới hạn nghiên cứu đề tài
- Mục đích nghiên cứu
Làm rõ hoạt động PNTP của Trung tâm TGPL trên địa bàn tỉnh Bến Tre,
từ đó đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động PNTP trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong thời gian tới.
-Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ một
số nội dung sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận PNTP, quy định của pháp luật về
chức năng PNTP của Trung tâm TGPL nhà nước.
- Nghiên cứu tình hình tội phạm và đánh giá hoạt động PNTP của Trung
tâm TGPL nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre
- Phạm vi nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ trên Luận văn khơng có tham vọng giải quyết
hết các vấn đề về hoạt động PNTP nói chung mà chỉ nghiên cứu về:
- Hoạt động PNTP của Trung tâm TGPL nhà nước
- Địa bàn nghiên cứu tại tỉnh Bến Tre
- Thời gian nghiên cứu của Luận văn được giới hạn số liệu thống kê
trong 6 năm, từ năm 2007 đến 2012. Đây là mốc thời gian Luật TGPL có hiệu
lực pháp luật, tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong hoạt động TGPL cũng như
tạo những thuận lợi cho tác giả trong việc tìm hiểu ưu điểm, hạn chế tồn tại và
những nguyên nhân của nó, đồng thời đưa ra những giải pháp cần thiết nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động PNTP của cơ quan này tại địa phương trong
thời gian tới.
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của
5
Đảng, Nhà nước về đấu tranh PNTP nói chung và hoạt động PNTP ở Bến Tre
nói riêng, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thống kê, so sánh
5. Đóng góp mới của Luận văn
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về hoạt động PNTP của Trung tâm
TGPL nhà nước, có đối chiếu, so sánh với các quy định, quan điểm trước đây
và hiện tại, góp phần nâng cao nhận thức, tạo tiền đề cho việc xây dựng, hoàn
thiện hoạt động này. Giúp cho các cơ quan hữu quan nhìn nhận đúng thực
chất của cơng tác PNTP trên địa bàn tỉnh của các cơ quan nói chung và của
Trung tâm TGPL nhà nước nói riêng, từ đó có các biện pháp quản lý, hoạt
động phù hợp để nâng cao chất lượng của công tác này.
6. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có 3
chương:
- Chương 1. Nhận thức chung về phòng ngừa tội phạm của Trung tâm
Trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Bến Tre
- Chương 2. Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp
pháp lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre
- Chương 3. Dự báo tình hình tội phạm ở Bến Tre và các biện pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
nhà nước tỉnh Bến Tre
6
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA
TRUNG TÂM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BẾN TRE
1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bến Tre liên quan đến
phịng ngừa tội phạm
Vị trí địa lý của tỉnh Bến Tre là tỉnh miền đồng bằng châu thổ nằm ở
phía Tây Nam Bộ, phía Đơng giáp biển, phía Tây giáp với tỉnh Vĩnh Long,
phía Nam giáp với tỉnh Trà Vinh, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang. Trước đây
do địa hình bị sơng ngịi chia cắt, giao thơng đi lại khó khăn, từ khi Cầu Hàm
Lng, Rạch Miễu được đưa vào sử dụng, sự lưu thông sang các tỉnh cũng
như trong nội tỉnh đã được khắc phục, diện tích tự nhiên 2.3.57,7 km2, chiếm
5,84% diện tích vùng đồng bằng sông Cửu Long với đường bờ biển dài trên
60 km. Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 86 km, cách Thành phố Cần
Thơ 120 km. Tỉnh có các tuyến đường như quốc lộ số 57 và quốc lộ 60 chạy
qua. Tồn tỉnh có 9 đơn vị hành chính bao gồm: Thành phố Bến Tre 2 và 8
huyện là Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Chợ Lách, Thạnh Phú, Châu Thành,
Giồng Trơm, Bình Đại, Ba Tri, với 164 xã phường, thị trấn. Dân số toàn tỉnh
khoảng 1.257.782 người, chủ yếu là người Kinh. Mật độ dân cư đông đúc 533
người/1 km2, theo thống kê có khoảng 90% dân số sống ở nơng thơn, phần
cịn lại chủ yếu tập trung tại các trung tâm các huyện lỵ, thành phố; đông nhất
là thành phố Bến Tre, thị trấn Ba Tri, Mỏ Cày Nam.
Theo Báo cáo tổng kết năm 2012 nền kinh tế Bến Tre tiếp tục phát
triển, tốc độ GDP bình quân năm 2012 đạt 6,61%; tổng kim ngạch xuất khẩu
đạt 430 triệu USD, các vùng kinh tế trọng điểm từng bước được quy hoạch,
đầu tư phát triển. Các thành phần kinh tế đã và đang phát triển và đóng góp
quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên nền kinh tế
của Bến Tre có sự xuất phát điểm thấp, vẫn cịn sự ảnh hưởng chung của nền
kinh tế toàn cầu, chuyển dịch cơ cấu theo hướng phát triển chậm, quy mơ
2
Ngày 02/9/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 34 về việc thành lập Thành phố Bến Tre trực thuộc
tỉnh Bến Tre
7
nhỏ, hiệu quả và sức cạnh tranh một số mặt hàng chủ đạo cịn thấp, thu nhập
bình qn đầu người năm 2012 của toàn tỉnh là 800 USD/người, chỉ số này
cịn thấp so với chỉ số thu nhập bình qn của cả nước.
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ; Văn hóa - xã hội đã có sự
cải thiện đáng kể, cơng tác xóa đói giảm nghèo giảm mạnh, giảm tỉ lệ hộ
nghèo còn 11,13%; y tế giáo dục được tiếp tục nâng lên về chất lượng 5,69
bác sĩ/vạn dân; ngày càng nhiều đơn vị được cơng nhận cơ quan, đơn vị, xã
phường văn hóa….
Bến Tre có nhiều lễ hội mang đậm phong tục, tập quán của địa phương
như lễ hộ Nghinh ông, lễ hội cúng đình, lễ hội truyền thống văn hóa Nguyễn
Đình Chiểu, lễ hội truyền thống cách mạng kỷ niệm Bến Tre đồng khởi… Đó
là những điều kiện về văn hóa ảnh hưởng tích cực đến đời sống tinh thần của
nhân dân. Bên cạnh đó, thói quen uống rượu, bia trong các dịp lễ hội, tiệc
tùng vẫn còn phổ biến trong nhân dân và đây cũng là một trong những hủ tục
làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các tệ nạn cũng như hành vi vi
phạm pháp luật.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường kèm theo với
những mặt trái của nó đã làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa xã hội
nói chung, trong đó có tình hình tội phạm, một bộ phận khơng nhỏ công dân
bị tác động bởi nhà hàng, vũ trường, quán bar, internet, thuốc lắc, văn hóa
phẩm đồi trụy… trong khi ý thức pháp luật và trình độ văn hóa thấp rất dễ rơi
vào cịn đường vi phạm pháp luật
Với tình hình địa lý, dân cư, kinh tế, văn hóa – xã hội như trên sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho Bến Tre phát triển trong thời gian tới, nhưng đồng thời
cùng với mặt trái của nó là tình hình tội phạm gia tăng, nếu địa phương khơng
có biện pháp phịng ngừa thật sự hiệu quả.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung, nguyên tắc của phòng ngừa tội
phạm
1.21. Khái niệm phịng ngừa tội phạm
Những tư tưởng về PNTP được hình thành từ rất xa xưa, từ những quan
điểm của các nhà triết học cổ đại Hy Lạp như Arixtốt, Platon… Những tư
tưởng này đã được các nhà triết học Châu Âu thế kỷ XIII kế thừa và phát
8
triển, tiêu biểu như Montesquieu, Beccaria, Rousseau và các nhà cách mạng
dân chủ Nga như Radich Sep, Ghec-xen…
Tiếp tục phát triển những tư tưởng này, C.Mác và Ph.Ănghen đã nêu lên
những phương hướng cơ bản nhất của đấu tranh phòng chống tội phạm là hoạt
động PNTP. C. Mác cho rằng “Nhà làm luật thông thái bao giờ cũng làm tất
cả để phịng ngừa tội phạm chứ khơng để sau này buộc phải trừng trị kẻ phạm
tội..”3
Tại Việt Nam, tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănghen đã được Hồ Chủ Tịch
và Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị tiếp tục phát triển trong
các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Cương lĩnh xây dựng đất nước, pháp
luật của nhà nước về PNTP: “Chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả
chống các thế lực thù địch và bọn tội phạm….” 4 Các văn bản quy phạm
pháp luật cũng đã xác định tư tưởng PNTP, như Hiến pháp 1992 đã xác định:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm
Hiến pháp và pháp luật”5
Bộ Luật Hình sự 1999 quy định “Pháp luật hình sự là một trong những
cơng cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp
phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa….Bộ luật Hình sự thể hiện tinh
thần chủ động phịng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm và thông
qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hố, cải tạo người phạm tội trở thành
người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức làm
chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và
chống tội phạm” 6
3
C.Mác và Ph.Ănghen tuyển tập (1970),Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.31
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ hóa độ lên chủ nghĩa xã hội,
Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 17
5
Điều 12, Hiến pháp 1992
6
Lời nói đầu, Bộ luật Hình sự năm 1999
4
9
Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003 tại điều 1 đã xác định “Bộ luật Tố
tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”7.
Quan điểm chung của Đảng và nhà nước ta là đấu tranh chống tình trạng
phạm tội được tiến hành theo nguyên tắc: Nhanh chóng phát hiện tội phạm,
trừng trị và cải tạo người phạm tội, hình thành phản ứng tích cực của xã hội
đối với tội phạm. Do đó, hoạt động PNTP chính là một trong những nội dung
quan trọng và chiếm một vị trí đặt biệt trong lý luận cũng như hoạt động thực
tiễn của các cơ quan nhà nước, cũng như các tổ chức chính trị xã hội… Để
đấu tranh phịng chống tội phạm có hiệu quả, trước hết cần hiểu rõ về tội
phạm và có cách hiểu thống nhất về “phịng ngừa tội phạm”.
Trước khi đưa ra khái niệm “phòng ngừa tội phạm” dưới góc độ tội
phạm học cần phải làm sáng tỏ hai nội dung “tội phạm” với tư cách là đối
tượng phòng ngừa và “tội phạm học” với tư cách là hệ thống bao gồm các
bộ phận khác nhau mà lý luận về PNTP chính là một bộ phận cấu thành
trong đó.
Khái niệm “phịng ngừa” theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là “phịng
trước khơng cho cái xấu, cái khơng hay nào đó xảy ra” 8 .
Điều 8. Bộ luật Hình sự năm 1999 đưa ra khái niệm tội phạm: “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật
tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa”. 9
7
Điều 1, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Viện ngôn ngữ học (1995), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb. TP.HCM, tr. 714
9
Điều 8, Bộ luật Hình sự năm 1999
8
10
Trên cơ sở định nghĩa về khái niệm “phòng ngừa” và “tội phạm” trong
Từ điển Tiếng Việt cũng như Bộ luật hình sự năm 1999, các nhà khoa học đã
đưa ra một số khái niệm về “phòng ngừa tội phạm” như sau:
- Nhóm quan điểm cho rằng PNTP là hoạt động nhằm ngăn chặn không
để tội phạm xảy ra
Theo Từ điển Luật học thì: “PNTP là ngăn ngừa tội phạm và loại trừ
nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với
nhau do cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội thực hiện” 10
PGS. TS Nguyễn Chí Dũng và tập thể tác giả thì cho rằng “PNTP là sử
dụng các phương pháp, chiến thuật, biện pháp, phương tiện cần thiết, với sự
tham gia của các lực lượng nhằm khắc phục mọi nguyên nhân, điều kiện,
khơng để tội phạm phát sinh, phát triển”11 “Theo đó phòng ngừa chung là sử
dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, pháp luật…
nhằm loại bỏ các yếu tố để trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh,
phát triển tội phạm được xã hội tham gia thực hiện; phòng ngừa riêng là hoạt
động nghiệp vụ do các cơ quan chuyên môn (Công an, Kiểm sát, Tòa án,
Thanh tra, Biên phòng…) tiến hành nhằm vào những đối tượng cụ thể”12 TS
Trịnh Tiến Việt cho rằng: “PNTP là hoạt động của tất cả các cơ quan bảo vệ
pháp luật và Tòa án, các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội và mọi công dân
trong xã hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng vào
thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu
tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực,
đồng thời từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời
sống xã hội” 13. GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: “PNTP là hoạt động của
các cơ quan, tổ chức và công dân thực hiện tổng thể các biện pháp tác động
trực tiếp vào các nhóm nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác
dụng và loại trừ dần những nhóm nguyên nhân này”14
10
Từ điển Luật học (1999), Nxb Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội,
Nguyễn Chí Dũng (2004), Một số vấn đề về tội phạm và cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tr.39
12
Nguyễn Chí Dũng (2004), Một số vấn đề về tội phạm và cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tr.39)
13
Trịnh Tiến Việt (2008), Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm học, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội (24), tr.197
14
Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, Tạp chí luật học, (6), tr.31
11
11
Nhìn chung các khái niệm đều thống nhất với nhau về nội dung: PNTP là
việc sử dụng các biện pháp nhất định để phịng trước khơng cho tội phạm xảy
ra. Với mục đích là giảm bớt hoặc loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội và
xác định các nguyên nhân của tội phạm để đề ra các cách thức phòng ngừa.
Trên cơ sở tổng hợp tất cả các quan điểm nêu trên, PNTP cần được hiểu
theo nghĩa rộng, tức là hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện
phạm tội và hoạt động phát hiện xử lý tội phạm. PNTP được tiến hành bằng
hệ thống các biện pháp khác nhau, mỗi biện pháp phòng ngừa gắn liền với
chức năng, vai trò của tổ chức nhà nước và xã hội nhất định.
Bên cạnh đó, cịn một số quan điểm cho rằng PNTP chỉ ngăn ngừa tội
phạm xảy ra là chưa triệt để. Bởi đó chỉ là một giai đoạn của việc PNTP,
chưa bao quát hết quá trình của hoạt động phịng ngừa. Có thể nói rằng PNTP
theo quan điểm trên mới chỉ là những hành động về mặt lý luận, chưa tác
động vào thực tiễn của việc phát hiện điều tra, xử lý những trường hợp vi
phạm cụ thể sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của công tác phịng ngừa
- Nhóm các quan điểm cho rằng PNTP là việc đưa ra các giải pháp ngăn
chặn, phòng ngừa và xử lý vi phạm và tội phạm
GS. TS Đỗ Ngọc Quang: “Theo nghĩa rộng, PNTP bao hàm, một mặt
không để tội phạm xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt
khác bằng mọi cách ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý
nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người
phạm tội, đưa họ trở thành những cơng dân có ích cho xã hội; theo nghĩa hẹp,
PNTP là không để tội phạm xảy ra, không để tội phậm gây hậu quả cho xã
hội, không để cho thành viên của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, tiết
kiệm được những chi phí cần thiết cho nhà nước trong công tác điều tra, truy
tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội”15
TS Lê Thế Tiệm và tập thể tác giả thì cho rằng: “PNTP tức là không để
tội phạm xảy ra và gây nên những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không để
các thành viên của xã hội phải gánh chịu các hình phạt nghiêm khắc của pháp
luật. Và nếu tội phạm có xảy ra thì phải kịp thời phát hiện, xử lý để đảm bảo
15
Đỗ Ngọc Quang (1999), Giáo trình tội phạm học, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội, tr.32
12
cho tội phạm khơng thể tránh khỏi hình phạt, giáo dục và cải tạo người phạm
tội trở thành công dân có ích cho xã hội…”16
Với các tác giả trên, hoạt động PNTP phải ở hai khía cạnh (giai đoạn đầu
và gioi đoạn cuối) là đưa ra các giải pháp nhằm ngăn ngừa và kết hợp với việc
xử lý hành vi vi phạm và tội phạm xảy ra. Qua thực tế cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm cho thấy rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn ngừa
chỉ nhằm mục đích khơng để tội phạm xảy ra, nó khơng thể làm tội phạm
không thể xảy ra và khi tội phạm xảy ra thì việc giải pháp xử lý tội phạm là
biện pháp vô cùng cần thiết. Việc xử lý tội phạm sẽ có tác động đến người vi
phạm và những người khác về giá trị giáo dục cũng như tính răn đe rất cao.
Việc kết hợp biện pháp ngăn ngừa và biện pháp xử lý, giáo dục sẽ mang lại
hiệu quả PNTP có giá trị cao và phù hợp với thực tiễn đấu tranh PNTP ở mỗi
giai đoạn cụ thể.
Từ những phân tích trên các quan điểm của các nhà khoa học, có thể
hiểu PNTP là tổng thể các biện pháp khác nhau (trong đó bao gồm việc phát
hiện và xử lý hành vi vi phạm và tội phạm, hướng vào thủ tiêu những nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá
trình hình thành phẩm chất tiêu cực) do các chủ thể PNTP tiến hành nhằm
ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra hoặc ít xảy ra.
1.2.2. Đặc điểm phịng ngừa tội phạm
PNTP là tổng hợp các biện pháp khác nhau của nhà nước và xã hội nhằm
triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, phát hiện và xử lý hành vi vi
phạm, với mục tiêu cuối cùng là loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Với
sự tham gia của tồn xã hội, trong đó nhà nước đóng vai trị chủ đạo. PNTP
được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc xã hội, quy định của pháp luật,
đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước. Do vậy, hoạt động PNTP có
một số đặc điểm như sau:
- PNTP là hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi
công dân. Các chủ thể này thực hiện những nhiệm vụ nhất định trong khuôn
khổ chức năng, thẩm quyền của từng cơ quan cũng như nghĩa vụ của mỗi
16
Lê Thế Tiệm, Phạm Tự Phả và tập thể tác giả (1994), Tội phạm ở Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp, Đề tài KX 04-14, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
13
người dân. Hay nói đúng hơn các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện hoạt
động PNTP trên cơ sở quy định của pháp luật.
- Hoạt động PNTP phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ
chức và cá nhân trong xã hội. Cần nhận thức rằng, hành vi phạm tội không chỉ
nhằm vào một đối tượng cụ thể, một mối quan hệ cụ thể mà nó xâm hại tới
nhiều khách thể được nhà nước bảo vệ, xâm hại đến mọi lĩnh vực đời sống vật
chất và tinh thần của xã hội, gây thiệt hại cho mọi thành viên trong xã hội.
Thực tiễn cho thấy rằng tình hình tội phạm đã gây ra tác hại lớn về các mặt:
kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, tác động xấu đến quá trình phát triển xã
hội và cơng cuộc đổi mới đất nước. Do đó, PNTP phải được coi là trách
nhiệm của tồn xã hội chứ khơng phải riêng của tổ chức, cá nhân nào. Để
PNTP đạt hiệu quả cao, các chủ thể cần có sự phối hợp chặt chẽ thành một hệ
thống đưa ra những biện pháp tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm cũng như việc phát hiện, xử lý tội phạm thơng qua các biện pháp mang
tính cưỡng chế.
- Các biện pháp phịng ngừa và xử lý phải mang tính nhân đạo, khoan
hồng mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra. Trên cơ sở nhận thức đường lối lối
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước ta được xây dựng trên tinh thần
nhân đạo, đề cao tính giáo dục, hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng các
biện pháp mang tính cưỡng chế, vì vậy, trong hoạt động PNTP cũng phải
mang tính giáo dục, nhân đạo và khoan hồng đó là cơ sở mang lại hiệu quả
trong PNTP.
- PNTP có phạm vi tác động rộng, với nhiều hình thức và biện pháp
phong phú. Khi tiến hành áp dụng các biện pháp PNTP thì địi hỏi giá trị tác
động của nó phải có ý nghĩa phịng ngừa chung và phù hợp với nhiều đối
tượng cụ thể và nhiều lĩnh vực, điều đó đảm bảo cho việc PNTP đạt hiệu quả
cao. Việc tiến hành một biện pháp phịng ngừa có tác dụng điều chỉnh đến
nhiều đối tượng, nhiều khu vực, nhiều địa phương hay tồn xã hội thì sẽ có
tác dụng cao hơn việc sử dụng nhiều biện pháp và thực hiện ở một địa
phương. Bên cạnh đó cũng cần nhận thức rằng, ở từng địa phương khác nhau
có thể áp dụng những biện pháp phòng ngừa khác nhau để phù hợp với điều
kiện kinh tế xã hội, tập quán, trình độ dân trí ở địa phương đó, tuy nhiên mục
14
đích cuối cùng của việc thực hiện các biện pháp PNTP là nhằm ngăn ngừa
tình trạng phạm tội xảy ra.
- PNTP với mục đích là từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới việc loại
bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Cùng với việc xây dựng cơ chế phối hợp
giữa các chủ thể, xây dựng các nguyên tắc PNTP, các quy định pháp luật…
mục đích cuối cùng của việc PNTP là hướng đến việc loại trừ tội phạm ra
khỏi đời sống xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội đem lại
đời sống bình yên cho người dân.
1.2.3. Nguyên tắc của hoạt động phịng ngừa tội phạm
Theo Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì
PNTP có các nguyên tắc hoạt động như sau:
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Hoạt động phòng ngừa và các
biện pháp phịng ngừa phải hợp pháp, hợp hiến. Khơng được lấy lý do vì hoạt
động phịng ngừa mà xâm phạm vào lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
Để đảm bảo tuân thủ triệt để nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, một mặt nhà nước
cần có những quy định chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ công dân; tuyên truyền
để mọi người dân cùng biết về trách nhiệm của mình trong đấu tranh phịng
chống tội phạm. Mặt khác, mỗi chủ thể tham gia hoạt động PNTP, nhất là cơ
quan nhà nước, các tổ chức phải nêu cao trách nhiệm trong bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà nước xã hội và công dân. Chỉ khi các chủ thể tham
gia hoạt động phòng ngừa nhận thức được vai trị trách nhiệm của mình mới
có thể đưa cơng tác PNTP thực hiện thường xuyên, đảm bảo nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa
- Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hoạt động phòng ngừa.
Nguyên tắc này thể hiện vai trò của các chủ thể trong hoạt động phòng ngừa.
Cụ thể như:
+ Mỗi chủ thể tham gia đều có quyền phát huy sáng kiến của mình đảm
bảo hoạt động PNTP có hiệu quả. Sự tham gia tích cực của các chủ thể, nhất
là của các công dân trong hoạt động phòng ngừa là thể hiện quyền làm chủ xã
hội của công dân
+ Các chủ thể tham gia hoạt động phòng ngừa chủ động bàn bạc và chủ
động tiến hành các biện pháp PNTP;
15
+ Mỗi chủ thể có quyền phát hiện các nguyên nhân và điều kiện phạm
tội và chủ động phối hợp với các chủ thể khác áp dụng các biện pháp thủ tiêu
nguyên nhân và điều kiện phạm tội
+ Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện tốt nhất để có
thể phát huy quyền làm chủ của các chủ thể trong hoạt động PNTP
- Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa chính trong nội dung của hoạt
động phòng ngừa. Do hoạt động phòng ngừa nhằm cứu một thành viên trong
xã hội không để họ đi vào con đường phạm tội, vì vậy phải bằng mọi cách,
mọi biện pháp khác nhau để ngăn chặn họ thực hiện hành vi phạm tội. Để
thực hiện được điều này có thể sẽ tốn kém về kinh tế, mất nhiều thời gian..
nhưng thực hiện được điều đó thể hiện tính nhân đạo cao cả của hoạt động
phòng ngừa.
- Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia, phối hợp trong hoạt động phòng
ngừa Hoạt động PNTP là hoạt động có tính chất quốc gia và xã hội. Chính vì
vậy, cần thiết phải có sự phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước,
các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và mọi cơng dân trong cơng tác phịng
ngừa. Đảm bảo sự tham gia phối hợp trong hoạt động PNTP thể hiện:
+ Hoạt động PNTP cần thiết sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng
(cơ quan Công an, Viện Kiểm sát…)
+ Các cơ quan chức năng chủ động bàn bạc với các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, thực hiện cơng tác PNTP tại chính cơ quan, tổ chức này;
+ Giữa các cơ quan nhà nước trong cùng một khu vực địa lý có phương
án phối hợp hành động, cùng tổ chức hoạt động tuần tra, canh gác, báo động,
hỗ trợ nhau… mỗi khi sự việc liên quan đến an nình trật tự xảy ra;
+ Thực hiện yêu cầu của các cơ quan chức năng về áp dụng ngay các
biện pháp phòng ngừa cũng như thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội
trong cơ quan tổ chức mình;
+ Thông báo cho các cơ quan chức năng về tội phạm đang được chuẩn
bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện xảy ra trong cơ quan, tổ chức
mình, không được tự ý giữ lại để xử lý nội bộ;
Để làm được điều này hoạt động phòng ngừa phải có sự lãnh đạo của
Đảng, của cơ quan quyền lực nhà nước và phải sử dụng đồng bộ các biện
16
pháp khác nhau của các ngành, các cấp tham gia, phối hợp trong hoạt động
phòng ngừa
- Nguyên tắc cụ thể của hoạt động phòng ngừa: Hoạt động phòng ngừa
cần mang tính cụ thể về từng lĩnh vực phịng ngừa, hành vi phòng ngừa, địa
điểm phòng ngừa cũng như đối tượng phịng ngừa. Tính cụ thể đảm bảo hiệu
quả của cơng tác PNTP và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
1.2.4. Nội dung của phòng ngừa tội phạm
Cũng theo Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì
PNTP các nội dung như sau:
Thứ nhất, loại bỏ các nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội
nói chung và tội phạm cụ thể nói riêng. Việc loại bỏ các nguyên nhân và điều
kiện của tình trạng phạm tội được thực hiện bằng việc:
- Khắc phục những sơ hở thiếu sót, nhược điểm mà trong cơng tác quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội đã mắc phải trong giai đoạn vừa qua;
- Xóa bỏ những mơi trường khơng thuận lợi cho sự hình thành nhân cách
con người mà trong những năm vừa qua còn tồn tại những nội dung nhất định
như: trong việc giáo dục thành viên trong gia đình, những yếu kém trong nhà
trường, những khuyết điểm trong lĩnh vực văn hóa giáo dục xây dựng con
người mới…
- Phát triển kinh tế đất nước, tăng cường công tác giáo tư tưởng, nâng
cao hiệu quả của công tác tổ chức, quản lý, nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần cho người dân, trong đó tuyên truyền sâu rộng kiến thức pháp luật trong
nhân dân..
Thứ hai, nâng cao hiệu quả của công tác pháp luật và hoạt động của các
cơ quan bảo vệ pháp luật
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo pháp luật hồn chỉnh, thống
nhất, có đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ trong xã hội, đảm bảo cho công
tác quản lý ở mọi lĩnh vực bằng pháp luật;
- Hoàn thiện các văn bản xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật,
nhất là hình phạt của luật hình sự và các hình thức xử phạt khác; cần thiết
phải nâng cao mức phạt, nâng cao các hình thức xử lý khác, tăng cường phạt
tiền… từ đó mới có ý nghĩa trong cơng tác phịng ngừa;
17
- Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, đưa pháp luật trở thành công cụ
hữu hiệu trong quản lý nhà nước và xã hội;
- Tổ chức các cơ quan bảo vệ pháp luật đảm bảo cho công tác đấu tranh
chống tội phạm theo hướng chun mơn hóa cao, áp dụng các thành tựu khoa
học tiên tiến vào công tác phịng ngừa cũng là nội dung của cơng tác phịng
ngừa
Thứ ba, xóa bỏ những hồn cảnh thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm
trong nhiều lĩnh vực khác nhau
- Khắc phục các sơ hở trong các văn bản liên quan đến quản lý đất nước,
quản lý kinh tế, quản lý xã hội khơng để cho người phạm tội có thể lợi dụng
được để thực hiện hành vi phạm tội;
- Tăng cường thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội;
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về anh ninh trật tự trong mọi
lĩnh vực;
- Giáo dục ý thức tự PNTP cho nọi công dân. Mỗi công dân có ý thức
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản và các lợi ích hợp pháp của mình
Từ việc xác định nội dung của hoạt động phòng ngừa mới đề ra nên áp
dụng các biện pháp phòng ngừa nào cho phù hợp.
1.3. Đặc trưng phòng ngừa tội phạm của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
nhà nước:
1.3.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
nhà nước
Năm 2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban
hành Luật Trợ giúp pháp lý (ngày 29/6/2006) và có hiệu lực ngày 1/1/2007;
đây là văn bản pháp quy cao nhất quy định về chức năng, quyền hạn, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức của Trung tâm TGPL của nhà nước trên phạm vi toàn
quốc. Cụ thể hóa Luật Trợ giúp pháp lý ngày 12/01/2007 Chính phủ ban hành
Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của
Luật Trợ giúp pháp lý. Theo quy định tại điều 7, Nghị định này “Trung tâm là
đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp. Trung tâm chịu sự quản lý nhà nước