BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
---------------
LÊ THỊ DIỆU LINH
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG BẰNG
CON ĐƢỜNG TÀI PHÁN THEO CÔNG ƢỚC CỦA
LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2010 - 2014
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
---------------
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
BẰNG CON ĐƢỜNG TÀI PHÁN THEO CÔNG
ƢỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN
NĂM 1982
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
SV THỰC HIỆN
: LÊ THỊ DIỆU LINH
KHÓA
: 35
MSSV
: 1055050361
GV HƢỚNG DẪN : ThS. NGUYỄN THỊ VÂN HUYỀN
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả.Tồn bộ
nội dung nghiên cứu trong khóa luận là do tác giả thực hiện dưới sự hướng dẫn của
Th.S Nguyễn Thị Vân Huyền.
Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
tháng
Tác giả
Lê Thị Diệu Linh
năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của mình, ngồi nỗ lực của
bản thân, tác giả còn nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ nhiều phía.
Trước tiên, tác giả xin bày tỏ lịng biết ơn đến quý Thầy, Cô đang công tác tại
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tác
giả trong suốt những năm học vừa qua. Vốn kiến thức tiếp thu trong 4 năm học tại
trường khơng chỉ giúp cho tác giả hồn thiện khóa luận mà cịn là nền tảng vững
chắc để tác giả thực hiện tốt công việc sau này.
Tiếp đến, tác giả xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Luật Quốc
tế, Cô giáo cố vấn học tập đã động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác giả thực
hiện tốt cơng trình nghiên cứu của mình. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân
thành đếnCô giáo Nguyễn Thị Vân Huyền.Cảm ơn Cô đã tận tình chỉ bảo, giúp
đỡ, định hướng để tác giả hồn thành tốt khóa luận này.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè,các bạn sinh viên
của lớp Quốc tế 35.4 đã động viên tinh thần trong suốt q trình tác giả thực hiện
cơng trình nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tác giả xin kính chúc quý Thầy, Cô nhiều sức khỏe và thành công
trong công tác.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu viết
tắt
UNCLOS
1
Tiếng Anh
1982
Tiếng Việt
United Nations Convention Công ước của Liên hợp
on the Law of the Sea
quốc về Luật Biển 1982
International Court of Justice
Tịa án Cơng lý quốc tế
Charter of United Nations
Hiến chương Liên hợp
Công ước 1982
2
ICJ
3
Hiến chương
quốc năm 1945
Declaration on Principles of Tuyên bố về các nguyên
International Law concerning tắc của Luật quốc tế liên
4
Tuyên bố 1970
Friendly
relations
and quan đến quan hệ thân
Coperation among States in thiện và hợp tác giữa các
accordance with the Charter quốc gia theo Hiến chương
of United Nations
Liên hợp quốc năm 1970
MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1. BIỂN ĐƠNG VÀ LỊCH SỬ TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG ....... 7
1.1 Biển Đông ................................................................................................................. 7
1.2 Lịch sử tranh chấp trên Biển Đông ...................................................................... 11
Chƣơng 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP TÀI PHÁN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN THEO CÔNG ƢỚC CỦA LIÊN HỢP
QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 .......................................................................... 21
2.1
Các khái niệm liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp bằng con
đƣờng tài phán .................................................................................................. 21
2.1.1 Tranh chấp, tranh chấp quốc tế, tranh chấp quốc tế về biển ..................... 21
2.1.1.1
Khái niệm tranh chấp, tranh chấp quốc tế, tranh chấp quốc tế về biển . 21
2.1.1.2
Đặc điểm của tranh chấp quốc tế về biển ............................................... 24
2.1.1.3
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế về biển .................................. 25
2.1.2 Giải quyết tranh chấp quốc tế bằng con đường tài phán............................ 27
2.2
Các biện pháp giải quyết tranh chấp biển bằng tài phán theo Công ƣớc
của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 ................................................... 30
2.2.1 Tịa án Cơng lý quốc tế (ICJ) ....................................................................... 30
2.2.1.1
Khái qt về Tịa án Cơng lý quốc tế ...................................................... 30
2.2.1.2
Cơ cấu tổ chức của Tịa án Cơng lý quốc tế ........................................... 31
2.2.1.3
Thẩm quyền của Tịa án Cơng lý quốc tế ................................................ 31
2.2.1.4
Thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tịa án Cơng lý quốc tế ...................... 32
2.2.2 Tịa án quốc tế về Luật biển ......................................................................... 35
2.2.2.1
Khái quát về Tòa án quốc tế về Luật biển ............................................... 35
2.2.2.2
Cơ cấu tổ chức của Tòa án quốc tế về Luật biển .................................... 35
2.2.2.3
Thẩm quyền của Tòa án quốc tế về Luật biển ......................................... 36
2.2.2.4
Thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án quốc tế về Luật biển .............. 36
2.2.3 Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp
quốc về Luật biển 1982 ................................................................................. 39
2.2.3.1
Thẩm quyền của Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển ............................... 40
2.2.3.2
Cách thức thành lập của Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển .................. 40
2.2.3.3
Thủ tục tố tụng tại Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển ............................ 41
2.2.3.4
Giá trị pháp lý của phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển . 42
2.2.4 Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII của Công ước
Liên hợp quốc về Luật biển 1982 ................................................................. 43
2.2.4.1
Chức năng của Tòa trọng tài đặc biệt..................................................... 44
2.2.4.2
Thẩm quyền của Tòa trọng tài đặc biệt .................................................. 44
2.2.4.3
Cách thức thành lập của Tòa trọng tài đặc biệt ..................................... 45
2.2.4.4
Thủ tục tố tụng tại Tòa trọng tài đặc biệt ............................................... 46
Chƣơng 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TÀI PHÁN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ BIỂN. KIẾN NGHỊ CHO VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TẠI BIỂN ĐÔNG HIỆN NAY....................................................................... 48
3.1
Thực tiễn áp dụngbiện pháp tài phán giải quyết tranh chấp về biển theo
Công ƣớc 1982 .................................................................................................. 48
3.1.1 Thực tiễn áp dụng biện pháp tài phán giải quyết tranh chấp về biển trên
thế giới ........................................................................................................... 48
3.1.1.1
Vụ tranh chấp ngư trường Anh – Na Uy năm 1951 ................................ 49
3.1.1.2
Vụ tranh chấp Thềm lục địa Biển Bắc năm 1969.................................... 50
3.1.1.3
Vụ kiện của Philippines phản đối yêu sách “đường lưỡi bị”của Trung
Quốc trên Biển Đơng............................................................................... 51
3.1.2 Thực tiễn tranh chấp liên quan đến Việt Nam tại Biển Đông .................... 55
3.2
Những kiến nghị nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông tại Việt Nam ..... 58
3.2.1 Đối với Tranh chấp Hoàng Sa, Trường sa .................................................. 59
3.2.2 Đối với “đường lưỡi bò” phi pháp của Trung Quốc ................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 63
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Biển Đông nằm ở trung tâm Đông Nam Á, có tầm quan trọng về nhiều mặt như phát triển
kinh tế, vận tải biển và an ninh quốc phịng khơng chỉ với các nước nằm trong khu vực mà còn với
các cường quốc khác trên thế giới. Với nguồn lợi và vai trị to lớn như vậy, Biển Đơng được xem là
trọng tâm mà các quốc gia hướng tới trong chiến lược phát triển và hưng thịnh đất nước. Đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tranh chấp trong việc phân định chủ quyền, quyền
chủ quyền đối với các vùng biển cũng như các đảo và quần đảo trong khu vực này ngày một căng
thẳng, đe dọa đến hịa bình và an ninh trong khu vực.
Là vùng lãnh thổ không thể tách rời, Việt Nam luôn quan tâm, chú trọng bảo vệ từng tấc
biển, bởi với dân tộc Việt Nam, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, cao quý. Thế nhưng gần đây,
các cuộc tranh chấp về chủ quyền trên biển ngày càng căng thẳng, phức tạp mà tranh chấp lớn nhất
là chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang theo chiều hướng xấu đi, chưa có
giải pháp nào hữu hiệu để giải quyết. Tàu của ngư dân Việt Nam bị phía Trung Quốc phá hủy, đâm
chìm; ngư dân Việt Nam bị đánh đập trong khi đánh bắt trên chính vùng biển của mình. Những
hành động ngang ngược của Trung Quốc khơng còn là sự kiện ngẫu nhiên mà đã trở thành một
sách lược trong mưu đồ xác định chủ quyền, hiện thực hóa u sách “đường lưỡi bị” trên
biển.Trước tình hình đó, việc đảm bảo cuộc sống của ngư dân trên biển và toàn vẹn lãnh thổ đất
nước là vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết.
Thực hiện đúng nguyên tắc của Luật quốc tế nói chung và Luật biển nói riêng, Việt Nam
luôn giải quyết mọi tranh chấp với tinh thần hịa bình, thiện chí, tránh gây va chạm ảnh hưởng đến
mối quan hệ láng giềng đã có từ lâu đời với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhưng mọi cuộc đàm
phán, thương lượng đều không mang lại kết quả khả quan nào. Minh chứng là sự kiện gần đây nhất,
khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD-981 trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam vào ngày 2 tháng 5 năm 2014, Việt Nam đã tiến hành hơn 30 lần tiếp xúc với các cơ
quan có thẩm quyền của Trung Quốc nhưng phía Trung Quốc vẫn từ chối đàm phán thực chất1
(tính đến thời điểm ngày 19 tháng 6 năm 2014). Đỉnh điểm vào ngày 18-6-2014, trong chuyến đến
Việt Nam tham dự cuộc họp Ban chỉ đạo hợp tác Việt Nam – Trung Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện
Trung Quốc Dương Khiết Trì đã khẳng định rằng: “Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc coi
trọng phát triển quan hệ hữu nghị với Việt Nam, nhất trí hai bên cần sớm ổn định tình hình trên
biển, kiềm chế khơng để xảy ra xung đột, không để quan hệ hai nước xấu đi, cùng nhau nỗ lực thúc
1
Báo Tin Tức – Thông tấn xã Việt Nam: (truy cập ngày 19.6.2014)
đẩy các mặt hợp tác giữa hai nước để có những bước phát triển sâu rộng và thực chất hơn nữa”2.
Tuy nhiên, thực tế sau đó một ngày, ngày 19.6, Trung Quốc đã kéo giàn khoan thứ hai vào Biển
Đông, cụ thể là từ toạ độ 17 độ 38 vĩ Bắc, 110 độ 12 phút 3 kinh Đông tới vị trí có tọa độ 17 độ 14
phút 6 vĩ Bắc, 109 độ 31 phút kinh Đông3 để tiếp tục khai thác trong khi tranh chấp vẫn đang diễn
ra căng thẳng, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Những cam kết “hịa bình, hữu nghị”, “gác tranh chấp cùng khai thác” với Trung Quốc thực
tế chỉ là những lời nói mang tính “ngoại giao” ngồi mặt và Trung Quốc đã khơng thực hiện biện
pháp nào như đã cam kết để cải thiện tình trạng tranh chấp bất ổn hiện nay.
Tranh chấp Biển Đông rất phức tạp và càng lúc lại kéo theo sự can thiệp của nhiều quốc gia.
Những tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông gây nên những hậu quả nặng nề mà Việt Nam có
thể sẽ là quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất.Do đó, vấn đề bức thiết hiện nay là cần có một giải pháp
phù hợp và thiết thực để giải quyết. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp
Biển Đông bằng con đường tài phán theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”
làm đề tài Tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Biển Đông từ lâu đã trở thành vấn đề được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế cũng như các
học giả.Riêng đối với khía cạnh tranh chấp về biển, đã có khá nhiều cơng trình của các nhà nghiên
cứu. Có thể kể ra một số nhà nghiên cứu rất tâm huyết trong vấn đề này như tác giả Nguyễn Hồng
Thao hay tác giả Ngô Hữu Phước với các bài nghiên cứu đã được xuất bản như: Ngô Hữu Phước
(2010), Luật quốc tế, NXB Chính trị quốc gia; Nguyễn Hồng Thao (1997), Những điều cần biết về
Luật biển quốc tế, NXB.Công an nhân dân Hà Nội; Nguyễn Hồng Thao (2000), Tịa án Cơng lý
quốc tế, NXB. Chính trị quốc gia; Nguyễn Hồng Thao (2006), Tòa án quốc tế về luật biển, NXB.
Tư pháp. Ngồi ra, cịn có những cơng trình nghiên cứu khác được đăng trên các tạp chí Luật học:
Nguyễn Hồng Thao (1997), “Tòa án quốc tế về Luật biển và thủ tục giải quyết tranh chấp biển”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luậtsố 109 tháng 5/1997; Nguyễn Hồng Thao (2011), “Khả năng sử
dụng Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển trong tranh chấp Biển Đông”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 17 (202) tháng 9/2011; Ngơ Hữu Phước (2011), “Tìm giải pháp hiệu quả để giải quyết
tranh chấp Biển Đơng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2011; Ngô Hữu Phước (2013), “Giải quyết
tranh chấp bằng Trọng tài theo Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”, Tạp
chí Khoa học Pháp lý, số 5/2013. Vấn đề giải quyết tranh chấp biển bằng con đường tài phán cịn
2
Báo Dân Trí: (truy cập ngày 19.6.2014)
3
Báo Tuổi trẻ: (truy cập ngày 19.6.2014)
được đề cập trong cơng trình nghiên cứu của tác giả Đào Thị Thu Hường (2013), “Đánh giá khả
năng sử dụng các thiết chế tài phán quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp bảo vệ chủ quyền biển
đảo Việt Nam trên Biển Đơng hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2013.
Vần đề này cũng được các thế hệ sinh viên của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
nghiên cứu với các đề tài:
- Phạm Thị Linh Trang (2001), Vấn đề giải quyết tranh chấp theo Công ước luật biển 1982
của Liên hợp quốc, NXB. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
- Trần Thị Hồng Muôn (2009), Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật biển quốc tế năm 1982, NXB. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Thị Phong Lan (2013), Thẩm quyền của trọng tài quốc tế về Luật biển - nhìn từ
thực tiễn vụ Philippines kiện Trung Quốc, NXB. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh…
Có thể thấy tài liệu và các cơng trình nghiên cứu về vấn đề tranh chấp Biển Đơng hay về các
biện pháp tài phán của Công ước 1982 nhằm giải quyết tranh chấp biển khá nhiều. Mỗi công trình
đều có những giá trị riêng, đáng ghi nhận.Tuy nhiên, vấn đề tranh chấp trên Biển Đông hiện nay
đang diễn biến rất phức tạp.Mỗi thời kỳ, mỗi trường hợp, hoàn cảnh lại đề ra những cách giải quyết
khác nhau phù hợp với tình huống cụ thể, phù hợp với vị thế của các bên tranh chấp.Vấn đề đặt ra
là phải xác định đượcbiện pháp nào hiệu quả nhất. Vì vậy, xuất phát từ thực tiễn việc Trung Quốc
ngang nhiên thực hiện những hành động sai trái để hiện thực hóa “đường lưỡi bị” nhằm độc chiếm
Biển Đơng, đồng thời tiến hành thăm dò, khai thác trái phép trên vùng biển và thềm lục địa của
Việt Nam khiến tranh chấp leo thang và việc giải quyết bằng con đường ngoại giao đã đi vào bế tắc
vì khơng mang lại hiệu quả, tác giả đãnghiên cứu một cách có hệ thống con đường tài phán theo
Cơng ước 1982. Từ đó, đề ra biện pháp cụ thể góp phần vào việc giải quyết tranh chấp Biển Đông
tại Việt Nam hiện nay.Vậy nên, “Giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng con đường tài phán theo
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982” là một đề tài mới và có tính ứng dụng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài “Giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng con đường tài phán theo Công ước của
Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”, đầu tiên tác giả mong muốn được tìm hiểu và hồn thiện
các kiến thức về Cơng pháp quốc tế mà mình đã được học tại trường đại học Luật, từ đó có nền
tảng để hiểu sâu, hiểu rộng hơn về lĩnh vực này, hồn thành tốt khóa luận tốt nghiệp cử nhân
chun ngành Luật quốc tế của mình.
Thứ hai, khóa luận hi vọng sẽ giúp ích được phần nào trong vai trò là tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến Công pháp quốc tế, đặc biệt là vấn đề giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Thứ ba, khóa luận sẽ góp phần mang lại hiệu quả giải quyết tranh chấp Biển Đông tại Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về tình hình tranh chấp Biển Đông và những vấn
đề lý luận, thực tiễn của các biện pháp giải quyết tranh chấp biển theo Công ước 1982, hiệu quả của
việc áp dụng các biện pháp đó.
Đề tài cũng kiến nghị một số giải pháp cụ thể áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp Biển
Đông tại Việt Nam hiện nay.
Về phạm vi nghiên cứu: Luật Quốc tế ghi nhận rất nhiều biện pháp hòa bình để giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên, trong phạm vi của khóa luận, tác giả xin được trình bày về các biện pháp tài
phán nhằm giải quyết tranh chấp quốc tế về Biển Đông theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật
biển năm 1982.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Marx –
Lenin và trên quan điểm, định hướng của Đảng cũng như của Nhà nước trong việc thực hiện các
cam kết quốc tế.
Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống như:
phương pháp lịch sử, tổng hợp, phân tích, so sánh… các thơng tin, tài liệu, các vụ việc cụ thể trong
thực tiễn giải quyết tranh chấp theo Cơng ước 1982.
6. Cơ cấu của khóa luận
Ngồi Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận gồm có ba chương:
Chương 1: Biển Đơng và lịch sử tranh chấp trên Biển Đông.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về các biện pháp tài phán giải quyết tranh chấp biển theo
Công ước 1982.
Chương 3: Thực tiễn áp dụngbiện pháp tài phán giải quyết tranh chấp về biển. Kiến nghị cho
việc giải quyết tranh chấp tạiBiển Đônghiện nay.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu dưới sự hướng dẫn tận tình của giảng viên Thạc sĩ Nguyễn Thị
Vân Huyền, tác giả đã hồn thành khóa luận của mình với đề tài “Giải quyết tranh chấp Biển
Đông bằng con đường tài phán theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”.
Khóa luận là một cơng trình nghiên cứu tâm huyết của tác giả.Nhưng vì thời gian nghiên cứu
khơng nhiều, kiến thức bản thân cịn hạn hẹp nên khơng tránh khỏi những thiếu sót.Tác giả rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cơ và các bạn để hồn thiện thêm cơng trình nghiên cứu của
mình.
Chƣơng 1
BIỂN ĐÔNG VÀ LỊCH SỬ TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐƠNG
1.3 Biển Đơng
Bản đồ Biển Đơng
(Nguồn: www.map.google.com)
Lãnh thổ của Việt Nam tiếp liền với Biển Đơng, là biển rìa lớn nhất của Thái Bình Dương.
Người Trung Quốc gọi biển Đơng là Nam Hải, còn người phương Tây sau này khi đến khu vực
Đơng Á thì gọi là biển Nam Trung Hoa (South China Sea), từ đó đến nay South China Sea được
dùng như một tên quốc tế để chỉ biển Đông4. Theo quy định của Uỷ ban Quốc tế về biển, tên của
các biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn nhất, gần nhất hoặc mang tên của một nhà
khoa học phát hiện ra chúng5. Biển Đông nằm ở phía Nam của Trung Hoa đại lục nên có tên gọi là
biển Nam Trung Hoa chứ địa danh biển khơng có ý nghĩa về mặt chủ quyền.Ở Việt Nam, Biển
Đơng được gọi theo thói quen như một danh từ riêng, bởi biển nằm dọc theo dun hải phía Đơng
Việt Nam, gắn bó hàng nghìn năm với cuộc sống và con người Việt Nam.
Trải rộng từ vĩ độ 3 lên đến vĩ độ 26 Bắc và từ kinh độ 100 đến 121 Đông, Biển Đông là một
trong sáu biển lớn của thế giới, là một biển nửa kín, được bao bọc bởi nhiều quốc gia mà hầu hết là
các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Biển rộng khoảng 3,5 triệu km2, nối liền hai đại dương
lớn: Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Về cấu trúc, Biển Đơng là biển duy nhất trên thế giới có hai quốc gia quần đảo là Indonesia
và Philippines, đồng thời có hai quần đảo lớn nằm giữa biển là Hoàng Sa và Trường Sa. Quần đảo
Hồng Sa (Paracel Islands – có nghĩa là “cát vàng”) rộng khoảng 30.000 km2, là một nhóm khoảng
37 đảo, bãi san hô và mỏm đá ngầm nằm giữa hai kinh tuyến 1120 đến 1170 Đông và giữa hai vĩ
tuyến 160 đến 170 Bắc, ở phía Bắc Biển Đơng, cách đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam
120 hải lý. Các đảo ở quần đảo này được chia thành hai nhóm: Nhóm phía Đơng là nhóm An Vĩnh,
gồm các đảo chính: đảo Cây, đảo Trung, đảo Bắc, đảo Nam, đảo Hịn Đá, đảo Linh Cơn và đảo Phú
Lâm. Ngồi các đảo trên thì nhóm này cịn có các đảo san hơ nhỏ chỉ nhìn thấy được khi thủy triều
xuống thấp. Nhóm phía Tây là nhóm Lưỡi Liềm, gồm: đảo Hoàng Sa, đảo Hữu Nhật, đảo Duy
Mộng, đảo Quang Ảnh, đảo Quang Hòa, đảo Bạch Qui và đảo Tri Tơn. Trong đó, đảo Hồng Sa là
đảo lớn và quan trọng nhất6.
Cách quần đảo Hoàng Sa 200 hải lý về phía Nam và cách thành phố Cam Ranh của tỉnh
Khánh Hòa, Việt Nam 250 hải lý là quần đảo Trường Sa (Spratly Islands). Trường Sa là một quần
đảo rộng với hàng trăm đảo lớn nhỏ, bãi cạn, bãi ngầm, bãi đá san hô ở vào khoảng 6,50 đến 120 vĩ
Bắc, 111,300 đến 117,200 kinh Đơng. Trong đó, các đảo chính là Song Tử Đông, Song Tử Tây, đảo
Thị Tứ, đảo Loại Ta, đảo Ba Bình, đảo Nam Yết, đảo Sinh Tồn và đặc biệt là đảo lớn Trường Sa.
Ngoài hai quần đảo nói trên, Biển Đơng cịn có hai bãi ngầm, là bãi ngầm Macclesfiels và
Pratas, hai vịnh lớn ăn sâu vào đất liền: Vịnh Bắc Bộ được bao bọc bởi bở biển Việt Nam và Trung
4
Nguyễn Hồng Thao (2008), Công ước Biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, NXB.Chính trị quốc gia,
tr15.
5
(truy cập ngày
15.06.2014)
6
Nguyễn Ngọc Trường (2014), Về vấn đề Biển Đơng, NXB Chính trị quốc gia, tr68.
Quốc và vịnh Thái Lan được bao bọc bởi bờ biển của 4 nước Việt Nam, Campuchia, Thái Lan,
Malaysia.
Theo độ sâu, trong Biển Đơng hình thành hai khu vực: khu vực biển sâu nằm ở Đơng Bắc,
diện tích khoảng 1.745 triệu km2, chiếm 49,8% toàn vùng biển; khu vực biển nông là thềm lục địa
rộng lớn, chiếm 1.755 triệu km2 (50,2% diện tích tồn vùng biển)7.
Từ vị trí thuận lợi nêu trên, Biển Đông là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên quý giá về sinh
vật biển, về năng lượng, khoáng vật, du lịch… phong phú, đa dạng có vai trị rất quan trọng cho đời
sống và sự phát triển kinh tế của các quốc gia xung quanh. Biển Đông được coi là một trong năm
bồn trũng dầu khí lớn nhất thế giới. Ước tính Biển Đơng mang lại trữ lượng dầu mỏ khoảng 7 tỷ
thùng và hơn 274 nghìn tỷ mét khối khí tự nhiên, đạt sản lượng khai thác khoảng 18,5 triệu
tấn/năm. Riêng ở Việt Nam, theo báo cáo của Tổng cơng ty dầu khí vào tháng 3 năm 1996 thì tổng
trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của tồn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy
đổi, trữ lượng khai thác khoảng 2 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1000 tỷ mét khối. Bên cạnh
đó, biển cịn đóng góp một phần không nhỏ trong việc điều tiết môi trường. Đặc biệt, nhắc đến
Biển Đông là nhắc đến con đường huyết mạch nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua eo
biển Malacca, có vai trị là cầu nối tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, giao lưu văn hóa, tơn
giáo quốc tế. Ước tính, trong khu vực Đơng Á và Biển Đơng có khoảng 536 cảng biển gồm 5 cảng
lớn, 11 cảng trung bình, 73 cảng nhỏ, còn lại là cảng rất nhỏ. Các cảng quan trọng là Manila,
Singapore, Sài Gịn, Trạm Giang, Băng Cốc8… Do đó, Biển Đông được coi là tuyến đường vận tải
nhộn nhịp thứ hai trên thế giới với sự dịch chuyển kinh tế thương mại hết sức tấp nập với hơn một
nửa số tàu chở hàng hóa mỗi năm của thế giới và 1/3 tồn bộ giao thơng đường biển đi qua vùng
biển này và trong tương lai đây sẽ là con đường vận tải biển đầy hứa hẹn vì nó gần như là tuyến
đường ngắn nhất cho mọi hoạt động thông thương giữa Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu
- Châu Á, Trung Đông - Châu Á được thuận tiện, dễ dàng và ít tốn kém9.
Khơng chỉ vậy, các đảo và quần đảo trong Biển Đơng cịn có ý nghĩa phòng thủ chiến lược
quan trọng đối với nhiều nước. Hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể
dùng để kiểm sốt các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích an ninh, quân sự.
7
Nguyễn Hồng Thao (chủ biên) (2008), Công ước biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, NXB.Chính
trị Quốc gia, tr18.
8
Nguyễn Hồng Thao (chủ biên) (2008), Công ước biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, NXB.Chính
trị Quốc gia, tr17.
9
Đọc thêm: Nguyễn Ngọc Trường (2014), Về vấn đề Biển Đơng, NXB.Chính trị quốc gia, tr34.
Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế
được cả Biển Đơng10”.
Với Việt Nam, biển có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Là một quốc gia ven
biển Đông, Việt Nam được biển ưu ái ban tặng một nguồn tài nguyên phong phú, dồi dào để phát
triển các ngành kinh tế mũi nhọn như: du lịch, dầu khí, thủy hải sản, đóng tàu, giao thơng vận tải…
Những năm gần đây, kinh tế biển và ven biển luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định,
mang lại cho kinh tế nước nhà những thành quả đáng ghi nhận.Khi mà các nguồn tài nguyên đất
liền ngày càng cạn kiệt, việc hướng ra biển là một chiến lược đúng đắn.Bên cạnh đó, bờ biển của
nước ta cịn là tuyến phịng thủ hướng Đơng của đất nước, đóng vai trị quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai.
1.4 Lịch sử tranh chấp trên Biển Đông
Dưới góc độ luật biển, Biển Đơng là khu vực đặc thù, chứa đựng tất cả các yếu tố liên quan
như quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo, quốc gia khơng có biển hay bất lợi về mặt địa lý, các
vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, vùng nước lịch sử, vùng đánh cá, phân định biển, vấn đề
biển kín và nửa kín, eo biển quốc tế, hợp tác quản lý tài nguyên sinh vật, các đàn cá di cư xa và các
đàn cá xuyên biên giới, khai thác chung, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, chống
cướp biển, an tồn hàng hải, tìm kiếm, cứu nạn…11
Sự xuất hiện của khái niệm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển đã làm
cho hầu hết Biển Đông bị bao phủ bởi vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của
các nước ven Biển Đông.Kết quả là nhiều nước trước đây vốn cách trở nay trở thành những quốc
gia cùng chia sẻ đường biên giới biển và khiến cho nơi đây chứa đựng nhiều tranh chấp biển, trong
đó có tranh chấp thuộc loại phức tạp và có nhiều quốc gia liên quan nhất thế giới.12 Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam khơng phải là ngoại lệ.
Vấn đề tranh chấp có nhiều mặt, nhưng tranh chấp trên Biển Đông chủ yếu thể hiện trên ba
phương diện: một là chủ quyền lãnh thổ trên các đảo, hai là phân định ranh giới các vùng biển và
thềm lục địa chồng lấn, ba là quyền tự do hàng hải. Từ trước tới nay, trên Biển Đông luôn tồn tại
nhiều tranh chấp, riêng đối với Việt Nam, tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa là những tranh chấp
mà chúng ta đã và đang cố gắng tìm giải pháp hợp lý. Bên cạnh đó, một vấn đề gây lo ngại không
chỉ cho các nước xung quanh Biển Đơng mà cịn liên quan đến các cường quốc trên thế giới là sự
10
Ngô Hữu Phước và Lê Đức Phương (2011), Hỏi đáp về chủ quyền biển đảo trong Luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam, NXB.Lao động, tr.88.
11
Nguyễn Ngọc Trường (2014), Về vấn đề Biển Đơng, NXB Chính trị quốc gia, tr32.
12
Nguyễn Hồng Thao (chủ biên) (2008), Công ước biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, NXB.Chính
trị Quốc gia, tr20.
kiện xảy ra vào ngày 7 tháng 5 năm 2009.Vào thời gian đó, Trung Quốc đã chính thức u cầu lưu
truyền trong cộng đồng các nước thành viên Liên hợp quốc bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò” (còn
gọi là đường chữ U hay đường đứt khúc chín đoạn) trên Biển Đơng.Chính quyền Trung Quốc cho
rằng đây là ranh giới thuộc chủ quyền của Trung Quốc và bất kỳ quốc gia nào cũng không được
xâm phạm, mặc dù họ không đưa ra được một bằng chứng lịch sử hay pháp lý nào thuyết phục.
Đây được nhìn nhận là vấn đề phức tạp, có nguy cơ gây bất ổn cho tình hình an ninh, chính trị
trong khu vực và trên thế giới.
Ngay từ xa xưa, trong các sách cổ đã đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong
Biển Đông. Trước thời kỳ thuộc địa, hai quần đảo được biết đến qua các phát hiện của những
người đi biển. Những người đánh cá từ các quốc gia khác nhau như Ấn Độ, Ả Rập, Pháp, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha… đã tới lui các đảo này nhưng chưa có một hành động nào gọi là chiếm hữu hay
xác lập chủ quyền trên đó. Trong số này, có các nhà hàng hải người Pháp trên chuyến đi đến Viễn
Đông, đã đến Hoàng Sa vào ngày 7-3-1568. Đến năm 1698, quần đảo này trở nên nổi tiếng trong
các biên niên sử hàng hải với vụ đắm tàu “Amphitrite” dưới thời vua Louis XIV trong khi ông đi từ
Pháp sang Trung Quốc. Nhưng cho đến thể kỷ XVIII, vẫn chưa có dấu hiệu nào khẳng định chủ
quyền của hai quần đảo này13.
Dưới thời nhà Nguyễn, các chúa đã thành lập đội Hoàng Savà Bắc Hải có nhiệm vụ đi khai
thác và bảo vệ các đảo này.
Năm 1816, Vua Gia Long đã tuyên bố chủ quyền của An Nam trên các quần đảo, đến thời
vua Minh Mạng, ông nối ngôi và tiếp tục theo đuổi công việc của tiên triều.
Năm 1833-1834, vua Minh Mạng ra chiếu dụ xây dựng bia và lập bản đồ quần đảo Hồng
Sa.
Năm 1835-1848, triều đình cho xây dựng các cơng trình trên đảo.Cơng việc này liên tục
được thực hiện và duy trì trong các năm 1847-1848. Bên cạnh đó, triều đình nhà Nguyễn cịn thực
hiện quản lý hành chính bằng việc đặt các quan cai trị, trơng coi các đảo, phái người đi khảo sát
thực địa và thu thuế ngư dân trong vùng.
Trong khoảng hơn hai phần ba thế kỷ từ lúc Pháp xâm chiếm Việt Nam đến cuối Chiến tranh
thế giới thứ Hai, bằng hiệp ước về chế độ bảo hộ ký tại Sài Gòn ngày 15-3-1874 và hiệp ước ấn
định dứt khoát chế độ bảo hộ (Hiệp ước Patenotre) ký tại Huế ngày 6-6-1884, Pháp kiểm sốt tồn
bộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ngày 17-10-1887, liên hiệp Đông Dương được thành lập biến thành một
13
Monique chemillier – Gendreau (2011), Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB.
Chính trị quốc gia, tr.53.
chính quyền thuộc địa dưới sự thúc đẩy của Tồn quyền Paul Doumer. Từ đó, quyền lực của triều
đình thuộc về tay Khâm sứ.
Ngày 26-6-1887, Pháp và Trung Quốc ký kết Công ước hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và
Trung Quốc với nội dung vùng ở phía Đơng và Đơng Bắc Móng Cái ở phía bên kia của biên giới
cùng những hải đảo nằm trên đường chạy dài từ Bắc xuống Nam đi qua mũi phía Đơng đảo Trà Cổ
thuộc về Trung Quốc, còn các đảo khác nằm ở phía Tây kinh tuyến Paris thuộc về nước An Nam
(Việt Nam lúc bấy giờ).
Năm 1895-1896, ở Hoàng Sa đã xảy ra hai vụ đắm tàu lớn, đó là tàu Bellona của Đức và
Imegi Maru của Nhật đã gây nên nhiều vụ tranh cãi. Lý do là tồn bộ hàng hóa trên tàu vì khơng
thể cứu được nên bị bỏ lại tại chỗ. Những người Trung Quốc đã cướp lấy và vận chuyển đến đảo
Hải Nam bán lại cho các chủ tàu thuyền. Các công ty bảo hiểm Anh (hai chiếc tàu bị đắm do công
ty Anh bảo hiểm) lên án và yêu cầu những người đó phải chịu trách nhiệm, đại diện nước Anh tại
Bắc Kinh và lãnh sự tại Hoihow đã phản đối. Tuy nhiên, các quan chức của Trung Quốc đã
khơng nhận trách nhiệm và cho rằng Hồng Sa là quần đảo bị bỏ rơi, không thuộc về một nước
nào và do đó, khơng một nhà chức trách nào có nhiệm vụ phụ trách an ninh khu vực đó.
Ngày 6-6-1909, Phó vương Tổng đốc Lưỡng Quảng của Trung Quốc đã phái hai pháo
thuyền nhỏ do Thủy sư Đô Đốc Lý Chuẩn chỉ huy, tiến hành đổ bộ chớp nhống vào các đảo của
Hồng Sa, sau đó rút lui. Trong khi đó, Việt Nam mất độc lập từ tay Pháp và Pháp đã khơng có một
sự phản kháng nào. Sự kiện này được coi là mở đầu tranh chấp trên Biển Đông.
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, với vị trí kế thừa quyền lực, Pháp đã thực hiện chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và phản đối những yêu sách từ phía Trung Quốc. Cũng
trong thời gian này đến suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã chiếm một số đảo
trên hai quần đảo để làm căn cứ quân sự.
Năm 1945, những sự kiện liên tiếp diễn ra đã làm lịch sử Việt Nam có một sự thay đổi lớn.
Nhật đầu hàng đồng minh, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hịa được thành
lập, vua Bảo Đại thối vị chấm dứt thời kỳ phong kiến hàng trăm năm ở nước ta. Ngày 2-9, chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.Trong
khi đó, Pháp âm mưu tái chiếm Đơng Dương, và sau đó khơng lâu thì Pháp trở lại, Việt Nam lại
phải lo cho kháng chiến. Lợi dụng cơ hội đó, cuối năm 1946 Trung Quốc đã chiếm đóng Hồng Sa.
Chính phủ Pháp phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp và gửi một phân đội lính Pháp và Việt Nam
đến đặt một đồn lính ở đảo Hồng Sa. Dưới sự phán đối của Pháp, Chính phủ Trung Quốc phản
kháng và cho ký một sắc lệnh đặt tên Trung Quốc cho hai vùng đảo và tuyên bố hai quần đảo này
thuộc lãnh thổ của Trung Quốc. Tranh chấp tiếp tục leo thang.
Năm 1950, chính phủ Bảo Đại cho quân đội thay thế Pháp ở Hoàng Sa và đến năm 1956,
quân đội Pháp rút khỏi Đơng Dương, chính quyền Việt Nam dân chủ Cộng hòa đưa các lực lượng
vũ trang đến thay thế Pháp ở Hồng Sa. Cũng tại thời điểm đó, Trung Quốc cho quân đổ bộ một
cách kín đáo chiếm bộ phận phía Đơng của quần đảo Hồng Sa. Như vậy, vào thời điểm năm 1956,
Trung Quốc chiếm đóng phía Đơng và Việt Nam cộng hịa quản lý vùng phía Tây.
Ở quần đảo Trường Sa, vào tháng 3 năm 1956, một công dân Philippines tên là Thomas
Cloma cùng một vài người bạn của ơng đã đổ bộ và chiếm đóng vài đảo trên quần đảo này, đồng
thời thông báo cho Bộ trưởng Bộ ngoại giao Philippines. Trong cuộc họp báo tại Manila năm đó,
ơng tun bố quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Philippines và xin Chính phủ nước này cho
vùng đất mà ơng ta chiếm đóng được hưởng quy chế đất bảo hộ. Viên đại diện Philippines tuyên bố
ngồi bảy hịn đảo gọi là Trường Sa, tất cả các đảo nhỏ cịn lại đều là đảo vơ chủ.
Năm 1971, Tổng thống Philippines cho biết binh sĩ Đài Loan đã chiếm đóng và củng cố đồn
trại ở một đảo trong Trường Sa nhưng không nhắc đến chủ quyền của Philippines trên đảo.
Năm 1978, quân đội Philippines chiếm thêm một đảo trong quần đảo Trường Sa. Đến năm
1979, Tổng thống nước này tuyên bố chủ quyền của Philippines trên hầu hết các đảo thuộc quần
đảo này.
Năm 1983, Malaysia đưa ra vấn đề chủ quyền của họ đối với 3 hòn đảo trong Trường Sa,
cũng trong năm này, ngày 25-3, Bộ ngoại giao Việt Nam bác bỏ tuyên bố trên. Thế nhưng, đến
tháng 6, Malaysia đưa binh lính ra chiếm đóng đảo Hoa Lau và bắt đầu những cơng trình xây dựng
trên đảo này.
Tiếp theo đó, Trung Quốc cũng lần lượt chiếm từng đảo nhỏ trong hai quần đảo này.
Một sự kiện lịch sử đáng lưu ý là từ ngày 17 đến 20-1-1974, quân đội Trung Quốc đã sử
dụng vũ lực đẩy qn đội của Chính quyền Việt Nam cộng hịa ra khỏi Hồng Sa và chiếm nốt cụm
đảo phía Tây do chính quyền Việt Nam cộng hịa đang kiểm sốt. Đến năm 1988 thì đổ bộ lên một
số đảo của quần đảo Trường Sa.
Năm 1995, Philippines đã phản đối Trung Quốc về việc Trung Quốc đã chiếm đảo Vành
Khăn – một đảo nhỏ mà Philippines đã tuyên bố chủ quyền.
Từ đó đến nay, Trung Quốc thường xuyên thực hiện những hành động xâm chiếm của mình
để bành trướng lãnh thổ, đe dọa an ninh khu vực và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Vào giữa năm
2007, tàu hải quân Trung Quốc đã bắn vào các tàu đánh cá của Việt Nam gần quần đảo Trường Sa,
giết chết một ngư dân và làm bị thương 6 người khác, trong khi hãng dầu khí BP của Anh đã phải
tạm ngưng hợp đồng xây dựng một đường ống dẫn khí đốt ngồi khơi Việt Nam trị giá 2 tỉ USD
sau lời cảnh báo của Bộ ngoại giao Trung Quốc. Kế đến cuối năm 2007, Trung Quốc cũng đã phản
đối cơng ty ONGC Videsh của Ấn Độ đang thăm dị hai lơ 127 và 128 ngồi khơi vùng biển Khánh
Hịa dẫn đến cơng ty này phải tạm ngưng tìm kiếm dầu mặc dù đã đầu tư 100 triệu USD. Đặc biệt,
cũng vào tháng 11 năm 2007, Trung Quốc lại tổ chức diễn tập quân sự để củng cố cho yêu sách
lãnh thổ của mình xung quanh quần đảo Trường Sa14.
Khơng những thế, bỏ qua mọi sự phán đối của các quốc gia liên quan đến tranh chấp, sự lên
án của dư luận thế giới, ngày 2-12-2007, Trung Quốc cho thành lập thành phố Tam Sa và thực hiện
việc quản lý hành chính đối với tồn bộ quần đảo Hồng Sa và một phần quần đảo Trường Sa.
Hành động khiêu khích này liên tục bị các nước liên quan phản đối.
Năm 2009, căng thẳng Biển Đông dâng cao, nổi bật là vụ đụng độ tàu Imppeccable của Mỹ
ngày 8-3, sau đó là các sự kiện bắt giữ tàu cá của Việt Nam trong khu vực quần đảo Hoàng Sa và
ban hành lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương của Trung Quốc ngày 16-5-2009.Không dừng lại, cũng
vào tháng 5-2009, Trung Quốc đưa yêu sách “đường lưỡi bò”- cái mà Trung Quốc gọi là “đường
biên giới quốc gia trên biển” ra Liên hợp quốc và yêu cầu cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Đây là u sách được đưa ra một cách khơng chính thức, thể hiện rõ sự vơ lý về nhiều khía
cạnh.
Một là, “đường lưỡi bị” khơng có vị trí, tọa độ rõ ràng. Lúc đầu, Trung Quốc cơng bố
“đường lưỡi bị” gồm 11 đoạn vẽ gộp các quần đảo Đông Sa, Hồng Sa, Trường Sa và bãi ngầm
Trung Sa, có điểm giới hạn phía Nam là vĩ tuyến 40. Thế nhưng, đến năm 1953, đường 11 đoạn đã
được điều chỉnh thành 9 đoạn, bỏ 2 đoạn trong vịnh Bắc Bộ, không rõ nguyên nhân15. Do đó, nhiều
chuyên gia nhận định đường này được vẽ một cách tùy tiện.
Đường này xuất phát từ biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ,
14
Đinh Kim Phúc (2012), Hoàng Sa, Trường Sa, Luận cứ và sự kiện, NXB. Thời đại, tr96.
Nguyễn Hồng Thao, “Yêu sách “đường đứt khúc chín đoạn” của Trung Quốc dưới góc độ quốc tế”, Tạp
chí Nghiên cứu Quốc tế, số 4 (79), 12/2009, tr58.
15
chạy xuống phía Nam và Đơng Nam Việt Nam tới cực nam của bãi đá san hơ Scaborough, sau đó
quay ngược lên phía bắc theo hướng song song với đường bờ biển phía tây Sabah của Malaysia và
Palawan của Philippines và quần đảo Luzon, kết thúc tại khoảng giữa eo biển Bashi nằm giữa Đài
Loan và Philippines16. “Đường lưỡi bò” bao phủ gần như trọn vẹn Biển Đông, nằm chồng lấn lên
vùng thềm lục địa của các quốc gia ven biển.Trên thực tế, đến nay khơng có bất kỳ một tài liệu nào
cho biết tọa độ cũng như vị trí chính xác của nó.
Thứ hai, “đường lưỡi bị” có nguồn gốc không thống nhất. Theo các học giả Trung Quốc,
năm 1947, Vụ địa lý thuộc Bộ nội vụ của Trung Quốc xuất bản bản đồ các đảo trong biển Nam
trung Hoa bao gồm cả “đường lưỡi bò”. Đây là lần đầu tiên “đường lưỡi bị” xuất hiện. Có ý kiến
khác thì cho rằng đường này do một viên chức của Cộng hịa nhân dân Trung Hoa vẽ. Trong khi
đó, các nhà nghiên cứu nước ngoài nhận định đường đứt khúc chín đoạn xuất hiện trong một tập
bản đồ tư nhân chứ không phải từ Nhà nước Trung Quốc. Rõ ràng nguồn gốc của “đường lưỡi bò”
cũng hết sức mơ hồ17.
Thứ ba, về ý nghĩa của yêu sách này, không chỉ đối với các học giả quốc tế, ngay cả các học
giả Trung Hoa cũng có những cách lý giải khác nhau. Có quan điểm cho rằng thơng qua đường
này, Trung Quốc yêu sách sở hữu các đảo nằm bên trong chứ không đơn thuần là một đường biên
giới biển. Một quan điểm khác lại cho rằng con đường này đã tồn tại hơn một nửa thế kỷ nay mà
khơng có một quốc gia nào phản đối. Vì vậy, Trung Quốc có quyền địi hỏi một danh nghĩa lịch sử
cho nó. Trung Quốc cho rằng vùng nước này được đặt dưới chế độ pháp lý của nội thủy, do đó
lưỡi bị”
lý của
Trung
Quốc
Biểnđối.
Đơng
thuộc chủ quyền của“Đường
Trung Quốc.
Đâyphi
là chủ
quyền
hồn
tồntrên
và tuyệt
Quan điểm thứ ba thì
lại cho rằng khơng nên xem u sách
“đườngwww.bbc.co.uk)
lưỡi bị” như yêu sách về vùng nước lịch sử truyền
(Nguồn:
thống mà là yêu sách về quyền chủ quyền và quyền tài phán.
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, “đường lưỡi bị” khơng hội đủ các điều kiện về một vịnh hay
một vùng nước lịch sử như nhận định của Trung Quốc vì theo tập quán quốc tế một vịnh hay một
vùng nước được coi là lịch sử khi tại đó, quốc gia ven biển thực hiện một cách thực sự chủ quyền
của mình một cách liên tục, hịa bình và lâu dài, hoặc có sự chấp nhận cơng khai hoặc sự im lặng
không phản đối của quốc gia khác, nhất là các quốc gia láng giềng có quyền lợi tại vùng biển này.
Cả hai điều kiện Trung Quốc đều không thể đạt được.
16
Nguyễn Thị Hồng Yến (2013), “Trung Quốc và yêu sách “đường lưỡi bị” tại Biển Đơng – nhìn từ góc độ
pháp luật quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2013, tr.67.
17
Nguyễn Hồng Thao, “Yêu sách “đường đứt khúc chín đoạn” của Trung Quốc dưới góc độ quốc tế”, Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế, số 4 (79), 12/2009, tr62.
Ngay sau khi Trung Quốc gửi Công hàm về yêu sách “đường lưỡi bò” lên Liên Hợp quốc để
khẳng định chủ quyền, Việt Nam và các quốc gia liên quan lần lượt thực hiện các biện pháp để
phản đối. Ngày 05/04/2011, khi Philippines chính thức gửi Cơng hàm lên Liên Hợp quốc để phản
đối u sách vơ lý này thì phía Trung Quốc phản đối gay gắt. Đồng thời Trung Quốc đã gửi Công
hàm đến Liên hợp quốc để phản đối quan điểm của Philippines( ngày 14/04/2011). Điều đáng lưu ý
là hai công hàm của Trung Quốc năm 2009 và 2011 mâu thuẫn nhau. “Trong khi công hàm 7-52009 của Trung Quốc địi hỏi “chủ quyền khơng thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo trong
Biển Đông (mà họ gọi là biển Nam Trung Hoa) và các vùng nước kế cận”, có nghĩa là theo u
sách “đường lưỡi bị”, thì Cơng hàm 14-4-2011 lại lờ đi “đường lưỡi bị” mà cho rằng quần đảo
Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam) có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo
quy định của UNCLOS18”.
Ngoài ra, Trung Quốc còn thường xuyên cho các tàu hải giám, kiểm ngư, tàu quân sự và
cảnh sát trá hình vào những khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam,
cản trở hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên. Điển hình là việc cắt cáp thăm dị địa chấn của tàu
Bình Minh 2 ngày 26-5-2011 và tàu Viking 2 vào ngày 9-6-2011.
Ngày 22-01-2013, để phán đối các hành động gây hấn của Trung Quốc ở bờ biển phía Đơng
và hành động quấy rối hoạt động đánh bắt cá của ngư dân Philippines trên biển, nước này đã chính
thức khởi kiện Trung Quốc ra Tịa trọng tài quốc tế về luật biển nhằm tìm kiếm một giải pháp pháp
lý vững chắc.
Gần đây nhất, Trung Quốc còn cho đặt giàn khoan HD-981 vào ngày 2-5-2014 trong vùng
tọa độ 15°29′58″ Bắc và 111°12′1″ Đông cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hồng Sa 17 hải lý về
phía nam, cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 180 hải lý về phía Nam và cách đảo Lý Sơn (tỉnh
Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý về phía Đơng nhằm khai thác dầu khí mà thực chất là
đang từng bước thực hiện toan tính hợp lý hóa “đường lưỡi bị” nuốt trọn 80% Biển Đơng.
Có thể thấy, từ những vùng biển, đảo và các đảo thuộc chủ quyền không thể chối cãi của
Việt Nam, qua các hành động phi pháp, Trung Quốc đã biến những vùng biển này thành vùng tranh
chấp. Và cho đến thời điểm hiện tại, quần đảo Hoàng Sa là vùng mà cả Việt Nam và Trung Quốc
đều tuyên bố chủ quyền, song song với đó, quần đảo Trường Sa cũng đang tồn tại dưới sự tranh
chấp của 6 quốc gia: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunây và vùng lãnh thổ Đài
Loan.
18
Tài Thành và Vũ Thanh (2014), Những bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB. Hồng Đức, tr. 391.
Từ tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã xuất hiện một loạt
các vấn đề liên quan khác bao gồm cả việc xác định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của các quốc gia liên quan trong khu vực, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa19. Bởi tranh
chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa hiện nay là một tranh chấp quốc tế đa phương rất phức
tạp và tiềm ẩn nguy cơ xung đột quân sự trên biển giữa các quốc gia hữu quan nếu không tìm ra cơ
chế giải quyết thỏa đáng và hiệu quả.
19
Ngơ Hữu Phước và Lê Đức Phương (2011), Hỏi đáp về chủ quyền biển đảo trong Luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam, NXB Lao động, tr93.
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP TÀI PHÁN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP BIỂN THEO CÔNG ƢỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982
Các khái niệm liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp bằng con đƣờng tài phán
4.1
4.1.1
4.1.1.1
Tranh chấp, tranh chấp quốc tế, tranh chấp quốc tế về biển
Khái niệm tranh chấp, tranh chấp quốc tế, tranh chấp quốc tế về biển
Ngày nay, xã hội phát triển không ngừng kéo theo nhiều vấn đề nan giải mà không một quốc
gia, chủ thể độc lập nào có thể tự mình giải quyết được. Việc mở rộng cánh cửa ngoại giao, tiếp
thu, hội nhập kinh tế, trao đổi, giao lưu văn hóa, hợp tác cùng phát triển đã thành một nhu cầu, một
chiến lược quan trọng trong sự nghiệp lâu dài của các nước. Tuy nhiên, trong các mối quan hệ quốc
tế phong phú, đa dạng đó, quyền và lợi ích của các chủ thể mà đặc biệt là các quốc gia – chủ thể cơ
bản và chủ yếu của quan hệ quốc tế không phải bao giờ cũng giống nhau, mà nhiều khi mâu thuẫn,
trái ngược nhau. Sự mâu thuẫn, bất đồng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có khi chỉ dừng lại ở
những mâu thuẫn quan điểm, ý kiến nhưng có lúc cũng hình thành nên các tranh chấp phức tạp.
Đề cập đến vấn đề này, từ điển Tiếng Việt có khái quát: “Tranh chấp là giành nhau một cách
giằng co cái không rõ thuộc về bên nào, là đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là
trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên”20. Trong thực tiễn đời sống, quyền lợi đó có thể là lao động,
dân sự, kinh doanh thương mại…mà các bên mong muốn có được.Trên phương diện pháp lý, tranh
chấp là sự không thỏa thuận được các vấn đề và sự kiện pháp lý.
Theo giáo trình Luật quốc tế của trường Đại học Luật Hà Nội thì “tranh chấp quốc tế là
hoàn cảnh thực tế mà trong đó, các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược hoặc mâu
thuẫn nhau và có những yêu cầu, hay địi hỏi cụ thể trái ngược nhau. Đó là sự không thỏa thuận
được với nhau về quyền hoặc sự kiện, đưa đến sự mâu thuẫn, đối lập nhau về quan điểm pháp lý
hoặc quyền giữa các bên chủ thể luật quốc tế với nhau. Hoàn cảnh này đặt ra nhu cầu giải quyết
các tranh chấp để ổn định lại các quan hệ quốc tế hiện tại, tránh đưa đến xung đột vũ trang hoặc
xung đột gây mất an ninh và đe dọa hịa bình quốc tế21”. Theo đó, tranh chấp quốc tế phản ánh
quan điểm đối lập của các bên tranh chấp. Tùy theo mức độ mà các tranh chấp quốc tế có những
tác động tiêu cực đến lợi ích quốc gia và quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế, thậm chí có nguy cơ
đe dọa đến hịa bình và an ninh quốc tế.
20
Viện ngơn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật quốc tế, NXB. Công an nhân dân, tr386.
21