BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
SVTH: CAO ĐĂNG HUY
MSSV: 0855020191
GVHD: ThS. LÊ VĨNH CHÂU
Giảng viên khoa luật dân sự
TP. HỒ CHÍ MINH – 8/2012
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG GIA ĐÌNH ................................................................................................ 4
1.1
Cơ sở lý luận hình thành quyền bình đẳng giới trong gia đình ....................... 4
1.1.1 Quyền bình đẳng giới trong gia đình xuất phát từ quyền tự nhiên của
con người ............................................................................................................. 4
1.1.2 Quyền bình đẳng giới trong gia đình xuất phát từ quyền pháp lý ............. 6
1.2
Khái niệm và đặc điểm bình đẳng giới trong gia đình .................................. 11
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm cơ bản về giới......................................................... 11
1.2.2 Khái niệm bình đẳng giới trong gia đình ................................................. 13
1.2.3 Đặc điểm bình đẳng giới trong gia đình .................................................. 15
1.3
Bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam qua các thời kỳ........................... 17
1.3.1 Bình đẳng giới trong gia đình Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng
tháng 8/1945 ...................................................................................................... 17
1.3.2 Bình đẳng giới trong gia đình Việt Nam giai đoạn sau Cách mạng tháng
Tám đến nay. ..................................................................................................... 24
1.4 Bình đẳng giới trong gia đình theo pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới ........................................................................................................................ 27
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH ....................................................................... 34
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình và một
số kiến nghị ............................................................................................................. 34
2.1.1 Quyền và nghĩa trong quan hệ vợ, chồng ................................................ 34
2.1.1.1 Quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nhân thân giữa vợ, chồng ............... 34
2.1.1.2 Quyền và nghĩa vụ trong quan hệ tài sản giữa vợ, chồng..................... 39
2.1.2 Quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình............................ 47
2.1.2.1 Quyền và nghĩa vụ chia sẻ cơng việc gia đình giữa các thành viên ..... 47
2.1.2.2 Bình đẳng trong tiếp nhận quyền giữa các con .................................... 48
2.2
Thực trạng và giải pháp đảm bảo thực hiện bình đẳng giới trong gia đình... 50
2.2.1 Bất bình đẳng trong việc đăng ký sở hữu tài sản chung, đưa ra quyết
định quan trọng trong gia đình .......................................................................... 50
2.2.2 Bất bình đẳng về phân cơng lao động trong gia đình .............................. 52
2.2.3 Bạo lực trong gia đình .............................................................................. 54
2.2.4 Mất cân bằng giới tính khi sinh ............................................................... 60
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NĨI ĐẦU
Ngày nay, giới và bình đẳng giới đã trở thành vấn đề mang tính thời đại. Hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới, bởi vì bình đẳng
giới chính là tiêu chí để đánh giá tiến bộ xã hội. Đảm bảo bình đẳng giới là một trong
những mục tiêu cơ bản của việc bảo đảm công bằng xã hội. Nhận thức được tầm quan
trọng của bình đẳng giới trong gia đình trong xu hướng phát triển của nhân loại về
quyền con người. Đảng và Nhà nước ta -Việt Nam đã chú trọng trong việc thực hiện
và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cùa con người trong đó có quyền bình đẳng
giới. Trong đó có thể kể đến Nghị quyết 11NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ chính trị
về cơng tác phụ nữ thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước; chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, Luật bình đẳng giới(2006)…
Nhìn chung tình hình bình đẳng giới đã và đang đạt được nhiều thành tích đáng kể,
khi mà “Việt Nam là một trong những quốc gia đạt thành tựu cao về thực hiện bình
đẳng giới, được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu thiên
niên kỷ” . Kết quả đó là thực tiễn sinh động minh chứng sự quan tâm của Đảng và nhà
nước ta đối với phụ nữ, và ở mức độ cao hơn là bình đẳng giới. Cho nên, trong công
cuộc xây dựng nước nhà, tiến hành đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay,
phụ nữ Việt Nam luôn vươn lên khẳng định vị trí người làm chủ xã hội, thiên nhiên và
gia đình, bản thân. Trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, đời sống, xã hội, kinh tế, văn hóa,
chính trị, khoa học, kỹ thuật, giáo dục, y tế, xây dựng gia đình văn hóa mới đều có và
ngày càng nhiều phụ nữ tiêu biểu cho phẩm chất, năng lực, đạo đức con người mới.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng sự nghiệp phấn đấu vì mục
tiêu bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ Việt Nam gặp phải nhiều gian nan trở ngại.
Bởi, xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp trải qua hàng nghìn năm Bắc
thuộc, chịu ảnh hưởng của định kiến về giới nặng nề. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ”
còn tồn tại khá phổ biến. Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ còn bị ràng buộc bởi
phong tục, tập quán lạc hậu; tỷ lệ phụ nữ nghèo mù chử cịn cao, tình trạng bất bình
đẳng giới, bạo lực gia đình diển biến phức tạp ở mức độ đáng lo ngại… Nên tình trạng
bất bình đẳng giới vẩn cịn là một hiện tượng chưa thể xóa bỏ hồn toàn, dẫn đến hệ quả
1
là vị thế của người phụ nữ vẫn chưa được thừa nhận xứng đáng, ngang bằng với nam
giới trong nhiều lĩnh vực.
Do đó cần có một cái nhìn thấu đáo, đúng bản chất về bình đẳng giới nói chung, và
bình đẳng giới trong gia đình nói riêng thực tế hơn nữa để có thể giải phóng phụ nữ
triệt để tạo nên sự bình đẳng giới thực sự về mọi mặt trong gia đình. Chính từ những
nhận thức đó, Tác giả đã chọn đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình” làm chủ đề cho
khóa luận tốt nghiệp của mình. Với hi vọng đóng góp một phần nhỏ trong việc nghiên
cứu về bình đẳng giới trong gia đình nhằm mang lại một cái nhìn tồn diện, phổ qt
hơn về vấn đề này cũng như thực trạng của nó. Trên cơ sở đó tạo nên bước tiến cho sự
đảm bảo quyền bình đẳng giới trong đình được phát huy khơng chỉ trên phương diện lí
luận mà cịn cả trên phương diện thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, học thuyết Mac-Lênin về hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ kết hợp với việc
sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích, thống kê, đối chiếu giữa các qui định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng , ngồi ra cịn có sự tham khảo các nguồn thông tin, tài
liệu, sách báo, báo cáo đánh giá, bình luận liên quan làm căn cứ, tư liệu cho việc nghiên
cứu.Tuy nhiên, do đây là một chủ đề rộng, nhiều mặt, phức tạp nên tác giả cũng khơng
có tham vọng suy xét tường tận mọi khía cạnh của nó mà chỉ mong đóng góp chút hiểu
biết khiêm tốn của mình trong vấn đề này. Chủ đạo thì tác giả tập trung vào nghiên cứu
mối quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái. Bố cục của đề tài được tác
giả trình bày như sau:
Lời nói đầu
Nội dung: gồm 2 chương
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về bình đẳng giới trong gia đình
Chương II: Thực trạng và giải pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình
Trong nội dung của chương I, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề mang tính
lý luận cơ bản về bình đẳng giới trong gia đình và diễn biến của bình đẳng giới trong
gia đình ở Việt Nam qua các thời kỳ. Bên cạnh đó, cũng có sự đề cập đến qui định về
2
vấn đề này trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. Đối với chương II, tác giả
nghiên cứu sâu vào thực trạng bình đẳng giới trong gia đình và đưa ra một số giải pháp
nhằm đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình.
Kết luận
Tuy đây là một vấn đề khơng mới nhưng có phạm nghiên cứu rộng, phức tạp liên
quan đến nhiều lĩnh vực, nên với thời lượng nghiên cứu khơng nhiều cũng như kiến
thức có hạn mình, chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những sai sót nhất định về mặt nhận
thức trong tư duy lý luận và nhận định thực tiễn. Rất mong nhận được sự đánh giá, nhận
xét, bình luận quý báu từ quý thầy cơ và các bạn có quan tâm đến đề tài này.
Trân trọng!
TP. HCM, năm 2012.
3
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG GIA ĐÌNH
1.1
Cơ sở lý luận hình thành quyền bình đẳng giới trong gia đình
Khi nhắc đến ” lịch sử các học thuyết, tư tưởng về quyền con người là lịch sử đấu
tranh của cộng đồng nhân loại tiến bộ vì nhân quyền”1. Các học giả trên thế giới với
luận điểm riêng của mình đã xây dựng nên những học thuyết khác nhau về quyền con
người. Cho đến nay, trên thế giới vẫn song song tồn tại hai học thuyết về quyền con
người, đó là học thuyết quyền tự nhiên (natural rights) và học thuyết quyền pháp lý
(legal rights).
1.1.1
Quyền bình đẳng giới trong gia đình xuất phát từ quyền tự nhiên của
con ngƣời
Những người theo học thuyết quyền tự nhiên cho rằng: ”Quyền con người là những
quyền tự nhiên và cố hữu mà nếu khơng có các quyền đó, chúng ta không thể sống như
một con người”2. Xét về phương diện này tự thân mỗi con người ngay từ lúc sinh ra đã
mang trong mình quyền năng đó là quyền được người khác tơn trọng, đối xử bình đẳng,
mà không cần bất kỳ một sự trao quyền này từ đấng tối cao nào, hay sự quy định của
pháp luật. Họ được hưởng các quyền con người đó vì lẽ họ là thành viên của nhân loại.
Tư tưởng về quyền “tự nhiên”, ”trời phú” cho con người ngay từ khi con người xuất
hiện đã có từ thời cổ đại. Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479-381 trước Công Nguyên) đã cho
rằng quyền bình đẳng tự nhiên của con người đó là ý trời. Ở Hy Lạp cổ đại, các nhà triết
học ngụy biện như Antiphon, Ankidan cũng có những tư tưởng tương tự. Ở Châu Âu từ
thời kì Phục hưng trở đi, tư tưởng về quyền tự nhiên này càng trở nên phổ biến. Những
đại diện tiêu biểu như Locke (1632-1704 ), Rútxô (Pháp), Xipinoda (Hà Lan), Thomas
Hobbes (1588-1679), I.cantơ, Pruphendoocpho (Đức), Jepphecxon (Mỹ)… Theo như tư
tưởng của các nhà tư tưởng, cũng như học thuyết của họ thì các quyền con người không
phụ thuộc vào phong tục tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân,
giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng nào. Đồng nghĩa với việc không một chủ thể nào,
kể cả nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh vốn có đó.
Bản tun ngơn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: ”Người ta
1
Lê Thị Hồng Nhung- Quan niệm về quyền con người dưới góc độ quyền pháp lý và những vấn đề đặt ra, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 9/2011, tr 72-78.
2
United nations, Human Rights center: Human Rights and Anwers, Geneva, 1994, C6.
4
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải ln ln được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”, cũng khẳng định tính quyền tự nhiên của quyền bình đẳng. Đó là một quyền
cơ bản, một quyền bất di bất dịch của con người gắn bó với mỗi cá nhân từ khi họ sinh
ra cho đến lúc mất đi.
Bình đẳng khơng chỉ được coi là hịn đá tảng của hịa bình, ổn định, dân chủ, tiến bộ
mà còn là yếu tố cơ sở của quyền con người 3. Nên cơ sở cho sự khẳng định quyền con
người là quyền tự nhiên, hiển nhiên của con người cũng là cơ sở lý luận cho nhận định
quyền bình đẳng giới trong gia đình là một quyền tự nhiên của con người. Vì xét đến
cùng thì quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng thực chất xuất phát từ
quyền con người. Thừa nhận rằng, nam hay nữ thì họ đều là những con người tồn tại
trong xã hội và “với tư cách là một thực thể xã hội, thành viên của xã hội, được tồn tại
song song với đàn ơng, cùng đóng góp cơng sức vào việc duy trì nịi giống, phát triển
lực lượng sản xuất, người phụ nữ trước hết là con người bằng xương bằng thịt, có nhu
cầu, có cảm xúc, có lí trí, có tâm hồn, có khát vọng và đương nhiên họ phải có những
quyền năng tương xứng với bản chất vốn có ấy”4. Nên tất yếu nam, nữ phải được hưởng
những quyền như nhau trên mọi lĩnh vực khơng riêng gì quyền bình đẳng giới trong gia
đình.
Ở Việt Nam, ngay từ sớm đã vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào cơng cuộc kiến thiết đất nước, giải phóng áp bức, giành lấy quyền bình đẳng
giới. Mà đặc biệt là giải phóng phụ nữ, mang lại vị thế ngang bằng trong xã hội cho họ
với nam giới. Bởi nếu ”phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng”;
”nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng xã hội chủ nghĩa chỉ được một nửa” 5. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng,
tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…“. Những quyền này
khi con người sinh ra đã có mà khơng cần phải được pháp luật ghi nhận mới trở thành
quyền. Nhưng chúng ta không nên tuyệt đối hóa mặt tự nhiên của quyền con người, vì
nó có những hạn chế nhất định. Những quyền tự nhiên của con người, quyền bình đẳng
3
Đỗ Thị Nhung-Quyền bình đẳng giới trong hoạt động quản lý nhà nước ở Việt Nam, Luận văn cử nhân luật
(khoa luật Hành chính), 2011, tr. 10.
4
TS. Lưu Bình Nhưỡng-Tổng quan về quyền phụ nữ theo pháp luật Việt Nam, tạp chí luật học số 2/2011, tr.58.
5
Hồ Chí Minh-Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 10 -tr. 661; tập 12-tr. 195.
5
giữa nam nữ nếu không được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, hoặc có một cơ chế bảo đảm
thì chắc chắn khi thực hiện sẽ nảy sinh ra biến tướng, bất bình đẳng giới sẽ xuất hiện
xâm phạm đến quyền tự nhiên này.
1.1.2
Quyền bình đẳng giới trong gia đình xuất phát từ quyền pháp lý
Những người theo học thuyết quyền pháp lý thì họ cho rằng: Con người được nhìn
nhận trong tổng hịa các mối quan hệ xã hội, cho nên quyền con người chỉ tồn tại trong
các xã hội có giai cấp, chỉ ra đời khi có nhà nước. Do đó, quyền con người được nhìn
nhận dưới góc độ là những giá trị gắn với mỗi con người được ghi nhận trong pháp luật
quốc gia và quốc tế.
Xem xét về quyền con người thì một mặt đó là những quyền tự nhiên, nhưng bản
thân nội dung quyền đó-tự do, dân chủ, bình đẳng lại mang tính trừu tượng. Nên mặt
khác, thì các quyền ấy cần phải được thừa nhận dưới những hình thức pháp lý nhất định
để quyền tự nhiên trở thành quyền con người theo đúng bản chất của nó. Để hiện thực
hóa các quyền đó, tạo căn cứ vững chắc cho việc ghi nhận, cũng như bảo đảm cho việc
thực hiện quyền con người trong đó có quyền bình đẳng giới trong gia đình. Làm cho
những phụ nữ nhận thức được đầy đủ hơn về quyền mà họ có, về quyền được nửa kia
của xã hội-nam giới thừa nhận để khơng một ai có thể thay đổi hay chà đạp lên nó đó là
quyền bình đẳng giới. Sự qui định rõ ràng, cụ thể quyền bình đẳng giới trở thành chìa
khịa vạn năng thiết lập bình quyền, giành lại quyền vốn dĩ thuộc về mọi người, vì chân
lí hiển nhiên rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng.
Cơ sở pháp lý cho quyền bình đẳng giới cũng như bình đẳng giới trong gia đình được
qui định trong các văn bản pháp lý quốc tế và quốc gia, cụ thể:
Văn kiện Pháp lý quốc tế:
Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 đã tuyên bố: ”Một lần nữa thực sự tin
tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị con người, ở quyền bình đẳng
giữa nam và nữ …”. Cũng tại Khoản 3 Điều 1 quy định rằng một trong những mục đích
cơ bản nhất của Liên Hiệp Quốc là: ”Khuyến khích sự tơn trọng quyền con người và tự
do cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ và tơn giáo”.
Có thể nói đây là lần đầu tiên quyền bình đẳng giới cũng như quyền bình đẳng giới
trong gia đình được thừa nhận và tơn trọng bởi một văn bản pháp lý quốc tế có giá trị.
Mở ra một kỉ nguyên mới cho bình đẳng giới, và là một bước đà quan trọng thúc đẩy
6
việc luật hóa quyền bình đẳng giới ở mọi cấp độ pháp luật. Khơng chỉ dừng lại ở đó,
Hiến chương cũng cố gắng biến tất cả những quy định này thành hành động thực tế
thông qua việc ghi nhận về quyền thành lập các cơ quan trực thuộc nhằm thúc đẩy
quyền bình đẳng giới 6.
Trong bản Tun ngơn thế giới về nhân quyền (được thông qua và tuyên bố theo
Nghị quyết số 217A ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên hợp quốc) thì tại Điều 16
quy định: ”Nam và nữ đến tuổi trưởng thành có quyền được kết hơn và xây dựng gia
đình khơng bị mọi hạn chế về chủng tộc, dân tộc hoặc tôn giáo. Họ được sử dụng quyền
như nhau trong kết hôn, trong thời gian hôn nhân và ly hôn. Hôn nhân phải do đôi nam
nữ sắp kết hơn tự do thoả thuận. Gia đình là đơn vị tự nhiên và nền tảng của xã hội, có
quyền được nhà nước và xã hội bảo vệ”.
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ngày 24/9/1966, có hiệu
lực ngày 23/3/1976) thì tại Khoản 4 Điều 23 quy định: ”Các quốc gia thành viên của
Công ước này sẽ tiến hành các bước thích hợp để đảm bảo được sự bình đẳng về quyền
và trách nhiệm của vợ chồng đối với hôn nhân trong suốt thời gian chung sống và khi ly
hôn”.
Theo Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, mà Việt Nam
gia nhập Công ước này vào ngày 24/9/1982 thì có một số quy định gián tiếp nhằm đảm
bảo quyền bình đẳng giới trong gia đình như: ”… khơng có bất kì sự phân biệt đối xử
nào về chủng tộc, màu da, giới tính…” (Điều 2); ”… cam kết bảo đảm quyền bình đẳng
giữa nam và nữ…” (Điều 3).
Theo Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
(Công ước CEDAW), là một trong những Công ước quan trọng nhất, làm cơ sở, tiền đề
cho việc bảo vệ quyền lợi phụ nữ thì phân biệt đối xử đối với phụ nữ sẽ có nghĩa là:
”Bất kì sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào được đề ra dựa trên cơ sở giới tính, mà
có tách dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vơ hiệu hóa việc phụ nữ, bất kể tình
trạng hơn nhân của họ như thế nào…”(Điều 1) 7.
6
GS.TS.Võ Khánh Vinh (chủ biên), ”Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học” (tập 1), NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tr. 27.
7
Ths.Ngô Hữu Phước-Ths Lê Đức Phướng (Khoa luật quốc tế-Đại học Luật TP.HCM), Văn bản luật quốc tế và
văn bản pháp luật Việt Nam phục vụ học tập, nghiên cứu môn luật quốc tế, NXB Lao Động, Tp.Hố Chí Minh,
2011. tr. 120-130.
7
Sự ra đời của Công ước CEDAW là kết quả hơn 30 năm đấu tranh của Ủy ban Liên
Hiệp quốc về địa vị phụ nữ (CSW)8, nhằm đảm bảo nhân cách, phẩm giá và các quyền
cơ bản của phụ nữ cũng như quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. Với tôn chỉ hãy
để quyền phụ nữ là quyền phụ nữ và quyền phụ nữ là quyền con người, một lần và mãi
mãi9, Cơng ước CEDAW đã góp phần nâng cao địa vị của người phụ nữ ngang bằng với
nam giới trong gia đình và ngồi xã hội, xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi của nam giới,
cụ thể hóa quyền bình đẳng giữa vợ, chồng trong gia đình: ”Quyền và trách nhiệm như
nhau giữa vợ và chồng trong thời gian hôn nhân cũng như hôn nhân bị hủy bỏ”; ”các
quyền cá nhân như nhau giữa vợ và chồng, bao gồm quyền được lựa chọn tên họ, nghề
nghiệp, việc làm của mình”; ”các quyền như nhau của cả vợ chồng đối với việc sở hữu,
tiếp cận, kiểm soát, quản lí, hưởng thụ và sử dụng tài sản… ” (Điều 16).
Nếu như các văn kiện trước đây chỉ đề cập đến sự bất bình đẳng một cách chung
chung thì Cơng ước đã chỉ rõ các lĩnh vực có phân biệt đối xử nặng nề với phụ nữ, trong
đó có bất bình đẳng trong gia đình. Khơng chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những bất bình
đẳng, Cơng ước cịn xác định những mục tiêu, cách thức, biện pháp đặc thù để áp dụng
những nguyên tắc của quyền con người trong đảm bảo bình đẳng giới10.
Nhìn tổng quan, có khá nhiều văn bản pháp lý quốc tế quy định về quyền con
người, về bình đẳng giới, được xem như là “Hiến pháp của cộng đồng quốc tế trong
lĩnh vực nhân quyền”11. Điều này cho thấy tính chất quan trọng thậm chí sống cịn của
bình đẳng giới đối với sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội trong nhận thức của nhân
loại. Chính vì thế, khơng chỉ trên bình diện tồn cầu nói chung mà mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc cũng sớm có sự nhìn nhận đúng đắn vị trí, vai trị của phụ nữ là khơng thua kém
nam giới trong xã hội. Thế nên, các quốc gia không phân biệt thể chế chính trị phải
thơng qua các biện pháp pháp lý cần thiết và các biện pháp khác để mọi người được
hưởng quyền này. Trong đó pháp luật là biện pháp tiên quyết, là cách thức tốt nhất cho
việc ghi nhận về bình đẳng giới mang tính tất yếu này.
8
Ủy ban được thành lập năm 1946 nhằm giám sát địa vị và nâng cao quyền lợi của phụ nữ.
Trích theo: Vũ Hùng, (2008), ”CEDAW và nỗ lực xóa bỏ những tập tục truyền thống đối xử bất bình đẳng với
phụ nữ ở Việt Nam, 25 năm thực hiện Công ước về xóa bỏ tất cà các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
tại Việt Nam (CEDAW), thực tiễn tại Việt Nam”, NXB Hà Nội, tr. 129- 139.
10
Ngơ Đức Mạnh (chủ biên), Văn phịng Quốc hội và Unicef, ”Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản
pháp lý quốc tế và pháp luật Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.65.
11
GS.TS.Võ Khánh Vinh (chủ biên), ”Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học (tập 1), NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tr. 40.
9
8
Văn kiện pháp lý quốc gia:
Mặc dù cho tới ngày 20/9/1977 mới chính thức trở thành thành viên của Liên Hiệp
Quốc. Nhưng trước đó, trong pháp luật quốc gia thì Việt Nam ngay từ lúc giành được
độc lập tự chủ cũng có sự quy định rõ ràng, nhấn mạnh quyền bình đẳng giới. Theo như
Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam năm 1946, quan điểm bình đẳng giới đã được thể hiện
bằng ngun tắc ”khơng phân biệt giống nịi trai gái, đàn bà ngang quyền với đàn ông
về mọi phương diện”. Đồng thời quy định: ”Tất cả các công dân Việt Nam đều ngang
quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Điều 6). Cho thấy, mối
quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam ngay từ khi mới giành được độc
lập đối với vấn đề giới, về sự cần thiết phải thể chế hóa, quy phạm hóa quyền bình đẳng
nam nữ.
Do vậy, Việt Nam đã tích cực xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật đa dạng ở
nhiều cấp độ, nhiều lĩnh vực khác nhau về quyền bình đẳng giới. Quan điểm đó được
tiếp tục thừa kế, phát triển phù hợp với xu thế phát triển của đất nước của thời đại qua
các lần sửa đổi Hiến pháp năm 1959, 1980, và đặc biệt tại Hiến pháp năm 1992, quan
điểm này lại được khẳng định tại Điều 63: ”Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau
về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Từ đó, những tư tưởng tiến
bộ về bình đẳng giới nói trên đã được cụ thể hóa bằng những các chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước.
Là thành viên của nhiều Công ước quốc tế về quyền con người, về quyền bình đẳng
giới, về bảo vệ phụ nữ và trẻ em, và là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới
ký tham gia Công ước CEDAW vào 29/7/1980, phê chuẩn vào 27/11/1981. Ở Việt
Nam, trong suốt những năm qua, Quốc hội và Chính phủ đã và đang thực hiện cơng
việc với từng bước nội luật hóa các Cơng ước thơng qua việc ban hành hệ thống các văn
bản về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.
Quan trọng nhất là Luật Bình đẳng giới được ban hành năm 2006. Luật Bình đẳng
giới được coi là một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây là
văn bản luật quy định tập trung nhất các nội dung về bình đẳng giới và bảo đảm quyền
của phụ nữ. Và đặc biệt với quy định nội dung cụ thể tại Điều 18 của luật này, đã làm
cho nhận thức về quyền bình đẳng giới trong gia đình rõ ràng, toàn diện hơn trên cơ sở
9
pháp lý. Điểm nổi bật của Luật này là: lần đầu tiên hình thành nên cơ quan quản lý nhà
nước về bình đẳng giới ở Việt Nam; quy định bắt buộc quy trình lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp luật và yêu cầu các cơ quan chức năng xây
dựng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới…
Bên cạnh đó, đã có rất nhiều Nghị quyết, Nghị định được ban hành nhằm đảm bảo
quyền lợi cho phụ nữ về mọi mặt. Và dưới đây là một số Nghị quyết, Nghị định tiêu
biểu:
Nghị định số 70/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Bình đẳng giới.
Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ quy định về các
biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính về bình đẳng giới.
Chỉ thị 10/2007/CT-TTg ngày 03/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ về triển
khai thi hành Luật Bình đẳng giới.
Quyết định 1855/2008/QĐ-TTg ngày 11/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập, kiện tồn Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ ở UBND cấp tỉnh và cấp
huyện…
Một điểm đặc biệt nữa trong hệ thống Pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới là việc
ban hành Luật Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2007. Đây là một dấu ấn pháp lý trên
con đường hồn thiện pháp luật về bình đẳng giới, về hơn nhân và gia đình của nước ta.
Bởi lâu nay chúng ta chỉ mới điều chỉnh hành vi bạo lực gia đình bằng đạo đức, dư luận
xã hội. Song có những điều đạo đức và dư luận khơng thể điều chỉnh được mà cần phải
có sự can thiệp của luật pháp. Luật đã gửi đi một thông điệp rõ ràng: “Bạo lực gia đình
là hành vi vi phạm pháp luật và không phải là việc riêng của từng gia đình”. Đồng thời
Luật này cũng tạo nên nhận thức mới đầy đủ hơn về vấn đề bình đẳng giới là không chỉ
bênh vực, không chỉ bảo vệ người phụ nữ, trẻ em mà ngay cả đối với người đàn ơng nếu
họ bị bạo hành. Điều này đã góp phần mạnh mẽ, hướng đến giải pháp hữu hiệu trong
việc bảo đảm bình đẳng giới trong gia đình với sự tham gia toàn xã hội bên cạnh mỗi
thành viên trong gia đình.
10
Xem xét về khởi nguồn của quyền con người, cũng như những ghi nhận đầy đủ về
quyền con người trên phương diện pháp lý nói chung, quyền bình đẳng giới trong gia
đình nói riêng với tư cách là một quyền cơ bản của con người, để lấy đó làm nền tảng
cho mục tiêu cao cả của toàn thể nhân loại hướng đến trong cuộc đấu tranh cho quyền
con người, cho quyền bình đẳng giới trong gia đình. Nhưng cũng cần phải khẳng định
rằng, để đạt bình đẳng giới trong gia đình thì địi hỏi khơng chỉ ở phương diện ghi nhận
về mặt pháp lý mà cần phải hiện thực hóa bằng những hành động cụ thể mang tính liên
tục, quyết liệt, tích cực của tồn xã hội.
Khái niệm và đặc điểm bình đẳng giới trong gia đình
1.2
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm cơ bản về giới
Trong sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người từ chế độ chiếm hữu
nô lệ đến nay đã diễn ra sự bất bình đẳng giữa các cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc. Giữa
mn ngàn hiện tượng bất bình đẳng đã nổi lên ba hình thức bất bình đẳng chủ yếu, căn
bản nhất về “chủng tộc, giai cấp và giới”. Nhưng thuật ngữ “giới” được hiểu như thế
nào?.
Thuật ngữ “giới” theo tiếng Anh là “gender” được bắt đầu sử dụng trong các tài liệu
khoa học xã hội của một số nước công nghiệp tiên tiến các đây chưa đầy 40 năm. Năm
1972, khái niêm “giới” (Gender), mới được Ann Oakley lần đầu tiên đưa vào xã hội học
để phân biệt với khái niệm ”giới tính” (Sex). Ở Việt Nam, khái niệm giới mới bắt đầu
được phổ biến và ứng dụng từ đầu những năm 80 của thế kỷ này12. Nhưng cho đến nay,
dựa trên một số định nghĩa, khái niệm về giới thì có thể khẳng định rằng thuật ngữ
“giới” chưa được hiểu một cách thống nhất.
Theo từ điển Tiếng Việt, ”giới” được hiểu là: ”Lớp người trong xã hội phân theo
một đặc điểm rất chung nào đó, về nghề nghiệp, địa vị xã hội”13. Giới theo như định
nghĩa này là tổng thể mọi cá nhân trong cùng một hoàn cảnh xã hội. Nghĩa là họ giống
nhau hoặc bằng nhau về mặt tài sản hay thu nhập, về trình độ học vấn hay văn hóa, về
địa vị vai trị hay uy tín xã hội, cũng như về khả năng thăng tiến trong thang bậc xã hội.
Theo quan điểm xã hội học: ”Giới dùng để chỉ các vai trò trách nhiệm và quyền lợi
mà xã hội qui định cho nam và nữ, bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân
12
Ths.Trần Hồng Vân, Tìm hiểu xã hội học về giới, NXB Phụ nữ, TP.HCM, 2001, tr. 17.
Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 2006.
13
11
chia, các nguồn lợi ích, mối quan hệ giữa nam và nữ trong quan hệ xã hội”14. Theo đó
thì giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò, mối quan hệ xã hội giữa nam, nữ mà xã hội
tạo ra và gán cho trẻ em gái và trai, cho phụ nữ và nam giới với các đặc điểm giới khác
nhau. Bởi vậy các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được.
Theo cái nhìn riêng về giới của các nhà lập pháp Việt Nam thì giới được hiểu là:
”Giới chỉ đặc điểm, vị trí vai trị của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”.15
Như vậy, về “giới” thì hiện nay có một số quan điểm khác nhau về bản chất, cũng
như nội hàm của nó. Nhưng chung qui lại, sự khác nhau đó bắt nguồn từ hướng tiếp cận
giới.
Theo cách tiếp cận thứ nhất: Giới được tiếp cận từ góc độ cơ bản là nam nữ giống
nhau về mặt nhân sinh, nên cũng có những quyền giống nhau, ngang nhau. Từ đó dẫn
đến việc làm luật và áp dụng luật như nhau đối với cả hai giới.
Theo cách tiếp cận thứ hai: Giới được tiếp cận từ góc độ giai cấp, tầng lớp, vị trí của
một nhóm người có cùng chung đặc điểm về nghiệp, địa vị… Từ đó dẫn đến việc pháp
luật phải quy định quyền và nghĩa vụ như nhau đối với những người cùng giới.
Trong pháp luật Việt Nam thì giới được tiếp cận hịa hợp giữa mặt sinh học và xã
hội trên nền tảng bình đẳng giới nhằm hướng hoạt động xây dựng pháp luật theo hướng
vừa tạo ra được sự bình đẳng thực chất cho cả hai giới, vừa có những quy định riêng
phù hợp cho từng giới.
Ngoài ra, cần phải phân biệt giữa “giới” và “giới tính”.
Giới tính là ”một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ bộ môn sinh học dùng để chỉ sự
khác biệt về sinh học giữa nam và nữ. Đó là sự khác biệt phổ thông và không thể thay
đổi được. Con người sinh ra đã có những đặc điểm giới tính và đặc điểm này tồn tại
trong suốt cuộc đời”16.
Vì giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ nên khái niệm này có những
đặc điểm:
Bị quy định hoàn toàn bởi gen qua cơ chế di truyền từ mẹ sang con. Mang
tính bẩm sinh. Các đặc điểm giới tính hầu như khơng phụ thuộc vào khơng gian và
14
Đặng Cảnh Khanh-Lê Thị Quý, Gia đình học, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007, tr. 338.
Luật bình đẳng giới năm 2006.
16
Đặng Cảnh Khanh-Lê Thị Quý, Gia đình học, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007, tr. 337
15
12
thời gian (từ xưa cho tới nay, ở bất kì nơi nào trên trái đất, về đặc điểm sinh học thì
phụ nữ vẫn là phụ nữ và nam giới vẫn là nam giới).
Các đặc điểm sinh học có những biểu hiện thể chất có thể quan sát được
trong cấu tạo, giải phẩu sinh lý người (nam nữ có những đặc điểm sinh học khác
nhau về gen, cơ quan nội tiết, hoocmơn, cơ quan sinh dục…).
Giới tính cịn gắn liền với một số chức năng sinh học (ví dụ: phụ nữ có
khả năng mang thai và sinh con), sinh thành, biến đổi tuân theo quy luật sinh học,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi cá nhân (sinh-lão-bệnh-tử).
Khác với khái niệm giới tính, “giới” là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí và vai trị của
nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội nên có những đặc điểm cơ bản sau:
Một phần còn bị quy định bởi các yếu tố, tiền đề sinh học của giới tính.
Có nghĩa là đặc điểm giới tính phần nào ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành, phân
định về giới ở một số khía cạnh liên quan mà xã hội gán cho mỗi giới.
Khơng mang tính di truyền bẩm sinh mà mang tính tập nhiễm (tức là bị
quy định bởi điều kiện sống của cá nhân và xã hội, được hình thành qua hàng loại các
cơ chế bắt chước, học tập, ám thị…).
Mang tính đa dạng, phong phú cả về nội dung, hình thức và tính chất bộc
lộ thơng qua suy nghĩ, tình cảm và hành vi.
1.2.2 Khái niệm bình đẳng giới trong gia đình
Bản chất của bình đẳng giới là sự tộn trọng, tạo điều kiện cho cả nam và nữ cùng
phát triển, cùng nhau cống hiến hiều nhất cho xã hội và đáp ứng nhu cầu của cá nhân.
Hình thành nhận thức xã hội đúng đắn về khái niệm bình đẳng giới sẽ là một trong
những điều kiện để bình đẳng giới trở thành thực sự trong cuộc sống.
Để hiểu rõ thế nào là bình đẳng giới trong gia đình thì trước tiên cần phải tìm hiểu,
làm rõ thuật ngữ “bình đẳng” và ”bình đẳng giới”.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Bình đẳng có nghĩa là người này ngang bằng với
người kia về địa vị và quyền lợi”17. Bình đẳng theo nghĩa này được hiểu là sự ngang
bằng nhau mà khơng có sự phận biệt đối xử nào, anh như thế nào thì tơi như thế đó.
Dường như chưa hợp lý với cách hiểu này, bởi đó là sự cào bằng trong xã hội,
không thể hiện được nội dung đích thực của bình đẳng. Khi mà xã hội là tổng thể những
17
Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Hồ Chí Minh, 2002, tr.161.
13
mối quan hệ của các cá nhân, giữa con người với con người, và bản chất con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội18. Nhưng mỗi cá nhân lại có đặc điểm riêng về mặt
sinh học, và vai trị, vị trí, uy tín xã hội của họ khơng hồn tồn giống nhau. Dẫn đến hệ
quả bình đẳng giữa những người khơng bình đẳng là sự bất bình đẳng.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng dưới góc độ pháp luật thì “bình đẳng” là
một trong những quyền cơ bản của mọi cơng dân cho dù mỗi người có những khác biệt
nhất định ở mặt thành phần, địa vị xã hội, giới tính… Nên theo như cách từ điển bách
khoa giải thích: ”Quyền bình đẳng là quyền như nhau, ngang nhau giữa các chủ thể của
pháp luật (kể cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế). Theo quy định của pháp luật
Việt Nam, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, phụ nữ bình đẳng với nam giới
về mọi phương diện, các dận tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đều bình đẳng với
nhau, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường…. Trong pháp
luật quốc tế, nguyên tắc các quốc gia bình đẳng về chủ quyền đã trở thành một trong
những nguyên tắc cơ bản”19 là phù hợp.
Nói chung, bình đẳng thể hiện mọi người có được quyền và nghĩa vụ ngang nhau
về mọi mặt khi tham gia vào các quan hệ xã hội. Đó là quyền được pháp luật ghi nhận,
đảm bảo thực hiện, dưới sự tôn trọng của toàn xã hội. Nhưng hiện nay khi đề cập đến
quyền bình đẳng cịn tồn tại những quan điểm khác nhau:
Quan điểm “bình đẳng” khi chưa có sự nhận thức về giới: Bình đẳng giới là đối xử
như nhau giữa nam và nữ trên mọi phương diện, khơng có sự phân biệt, hạn chế, loại trừ
bất kì quyền nào của giới nam hay giới nữ. Đây là một sự bình đẳng mà khơng tơn trọng
sự khác biệt về giới tính, một sự khác biệt không thể nào thay đổi được xét về mặt sinh
học. Do đó bình đẳng mà khơng xét đến sự khác biệt giới tính là sự bình đẳng chung
chung, thiếu tính tồn diện, khách quan, chưa phản ánh đúng bản chất, tương quan về
giới trong đòi hỏi quyền bình đẳng giới. Khơng thể phủ nhận được rằng nam và nữ có
những đặc tính sinh học, đặc trưng khác nhau, nên nếu không chú ý đến cái riêng trong
cái chung thì sẽ khơng có bình đẳng thực sự.
Quan điểm “bình đẳng” có sự nhận thức về giới: Một khi đã thừa nhận phụ nữ có
những đặc điểm khác biệt so với nam giới, thì sẽ khơng cơng bằng khi nghĩ rằng bình
18
C.Mác và Ăngghen-Tồn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 13.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa-Từ điển bách khoa Việt Nam tập 3, NXB Từ điển bách
khoa, Hà Nội, 2003, tr. 634.
19
14
đẳng nghĩa là đối xử như nhau giữa nam và nữ trên mọi phương diện, nữ giới phải có
thể làm tất cả những gì mà nam giới làm được mới tạo ra bình đẳng giới. Điều này tạo
ra những ứng xử, lối tư duy sai lệch. Vì việc đối xử như nhau giữa các bộ phận xã hội
không giống nhau sẽ khơng thể đạt được tới sự bình đẳng thực sự. Do đó cần phải được
hiểu bình đẳng khi có nhận thức giới là sự bình đẳng nam nữ nguyên gốc là dựa trên cơ
sở quyền con người. Nhưng phải có sự điều chỉnh, biến thể theo chính sự khác biệt của
nam nữ về mặt sinh học, xã hội thì mới có đạt được bình đẳng giới đúng nghĩa.
Như vậy, bình đẳng giới là “việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của
gia đình và hưởng thụ như nhau về thành quả của sự phát triển đó”20. Có nghĩa là nam
và nữ có điều kiện và cơ hội như nhau để thực hiện đầy đủ quyền và hưởng đầy đủ lợi
ích từ sự nỗ lực của họ. Bình đẳng giới cũng khơng phải là mục đích tự thân mà là
phương tiện để cải thiện phúc lợi của nữ giới và nam giới, trẻ em trai và trẻ em gái.
Từ những phân tích ở trên về bình đẳng và bình đẳng giới thì ta có thể rút ra khái niệm
về bình đẳng giới trong gia đình là:
”Bình đẳng giới trong gia đình là sự bình đẳng trên hết và trước hết giữa vợ và
chồng với nhau về quyền và nghĩa vụ đối với mọi mặt trong gia đình. Đồng thời khơng
có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa các thành viên trong gia đình. Mỗi thành viên
trong gia đình được tạo điều kiện như nhau cho sự phát triển, có nghĩa vụ cùng nhau
đóng góp, chia sẻ cơng việc gia đình dựa trên khả năng của mình”.
1.2.3 Đặc điểm bình đẳng giới trong gia đình
a. Tính phổ biến của quyền bình đẳng giới trong gia đình
Nhận thức rằng: “Khơng có nhiều hơn một nhân loại, và vì vậy, cũng khơng có
nhiều hơn một loại quyền con người với ý nghĩa là những giá trị phổ quát chung cho
toàn nhân loại”21. Như vậy, xét về mặt bản chất thì quyền con người xét trên mọi
phương diện là một giá trị phổ biến. Bình đẳng giới với tư cách là một quyền cơ bản của
quyền con người nên cũng có một số đặc điểm mang tính bản chất của quyền con người.
Tính phổ biến của quyền con người là cái chung bao hàm trong đó quyền bình đẳng
giới, mà cụ thể là quyền bình đẳng giới trong gia đình. Bình đẳng giới trong gia đình
20
Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006.
Vũ Cơng Giao-Bàn về một số khía cạnh lý luận và thực tiễn của quyền con người, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 5/2009, tr. 69.
21
15
cũng là sự thể hiện bình đẳng trong xã hội. Bởi lẽ khơng có sự tự do bình đẳng trong gia
đình thì sẽ khơng có sự tự do bình đẳng trong xã hội và ngược lại22. Điều này có nghĩa
là những đặc tính, đặc điểm, những mặt chung của quyền bình đẳng giới trong gia đình
xuất hiện ở mọi lúc, mọi nơi, mọi quốc gia, dân tộc mà không phụ thuộc vào chế độ
chính trị-kinh tế ở nơi đó. Bình đẳng giới trong xã hội phổ biến thể hiện tập trung nhất ở
chổ đó là quyền mà mỗi người và mọi người đều có vì đơn giản với tư cách một con
người.
b. Tính đặc thù của quyền bình đẳng giới trong gia đình
Q trình phát triển của xã hội lồi người nói chung, của từng khu vực, của từng
quốc gia, lãnh thổ, nhìn một cách tổng quan đã trải qua các gia đoạn khác nhau. Ở mỗi
giai đoạn phát triển thì đều có những đặc điểm riêng do các điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, đạo đức, truyền thống, lịch sử… và các điều kiện khác quy định. Chính
những đặc điểm riêng đó quy định tính đặc thù của bình đẳng giới trong gia đình theo
khu vực, quốc gia, dân tộc.
Tính đặc thù của quyền bình đẳng giới cịn được thể hiện trong thể chế hóa. Một
mặt của đặc điểm phổ biến của bình đẳng giới thơng qua thể chế hóa quyền này trong
pháp luật quốc tế, khu vực, quốc gia. Nhưng mặt khác thì cũng chính đặc điểm luật hóa,
đã tạo nên tính đặc thù cho vấn đề bình đẳng giới trong gia đình. Pháp luật thì mang tính
giai cấp, lịch sử nên trong mỗi gia đoạn của tiến trình phát triển thế giới, khu vực, quốc
gia là khơng giống nhau xét cả về góc độ giai cấp, điều kiện lịch sử, tính chất quan hệ
xã hội, sự biểu hiện của hình thái kinh tế. Hay nói cách khác khi dùng thước tự do và
bình đẳng để đánh giá quyền con người trong đời sống phải đưa chúng vào khn khổ
phân tích giai cấp và tư duy biện chứng23. Chính tác động, ảnh hưởng, chi phối bởi
những đặc thù riêng vốn có ở đó, dẫn đến mức độ ghi nhận, bảo vệ của luật pháp, cũng
như mơ hình các thiết chế bảo đảm, thúc đẩy, thực hiện về bình đẳng giới trong gia
đình có sự khác nhau nhất định ở mỗi quốc gia, dân tộc.
22
23
Ph.Ăngghen-Nguồn gốc của gia đình, C.Mac-Ăngghen-Tuyển tập, tập VI, tr. 130.
Nhị Lang Hoài, Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 223.
16
c. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của quyền bình đẳng giới với
các quyền con ngƣời khác
Tính chất này cho thấy các quyền của con người không tồn tại một cách độc lập mà
tồn tại trong tổng thể, trong đó quyền này bảo đảm cho quyền kia và ngược lại. Chính vì
bình đẳng giới là một bộ phận, một phần của quyền con người cùng với các quyền khác,
nên trong mọi hồn cảnh, rất khó, thậm chí là không thực sự thành công trong việc bảo
đảm riêng một quyền bình đẳng giới mà bỏ qua các quyền khác. Có nghĩa là tiến bộ
trong việc bảo đảm một trong các quyền con người ít hoặc nhiều có tác động tích cực
đến việc bảo đảm các quyền khác. Sự vi phạm một quyền này ít hoặc nhiều ảnh hưởng
tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác và ngược lại.
Ví dụ: Để đảm bảo thực hiện tốt quyền bình đẳng giới trong gia đình thì cần bảo
đảm một loạt các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, xã hội khác như: Quyền được giáo
dục, quyền được tôn trọng nhân phẩm và giá trị của mỗi cá nhân, quyền được tự chủ về
mặt kinh tế, quyền được tham gia vào các hoạt động sinh hoạt xã hội, tiếp cận, hưởng
thụ các tiện ích, giải trí… Và một khi bình đẳng giới đạt được thì đó sẽ là địn bẩy hữu
hiệu cho sự khai thông, mở hướng thuận lợi cho bước tiến thực hiện các quyền con
người khác.
1.3
Bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam qua các thời kỳ
1.3.1 Bình đẳng giới trong gia đình Việt Nam giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng
8/1945
a. Giai đoạn từ thế kỷ XI đến 1858
Ở nước ta trong thời kỳ phong kiến bình đẳng giới khơng được quan tâm, chú ý đến.
Do tính chun chế, quyền lực đậm chất gia trưởng, nên trong xã hội lúc bấy giờ ý niệm
về bình đẳng là khơng có. Ngay chính trong gia đình với mối quan hệ huyết thống, tình
cảm vợ chồng thì sự bất bình đẳng cũng bộc lộ rõ. Thế nên ”nét nổi bật trong gia đình
phong kiến chính là sự thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng
trong gia đình”24. Nghĩa là dường như khơng có sự bình đẳng giới trong gia đình trong
gia đoạn này.
Điều này hồn tồn có thể lí giải được do định kiến về giới trong nhận thức mang
tính bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới đã ăn sâu bám chắc trong đầu óc con người.
24
Trường Đại học Luật TP.HCM-Khoa Luật Dân Sự, Tập bài giảng Luật Hơn nhân và gia đình, 2009, tr. 23.
17
Những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ, đạo đức phong kiến “tam tịng, tứ đức” được
khuyến khích duy trì để trói buộc người phụ nữ, chà đạp lên tình cảm và nhân phẩm của
chị em… dần dần thành thói ứng xử thơ bạo của người đàn ơng đối với đàn bà. Tư tưởng
này dần dần trở thành quy tắc, thành thơng lệ, khơng cần có luật pháp bảo vệ, nó vẫn có
tác động cưỡng chế, điều chỉnh hành vi ứng xử của người đàn ông đối với đàn bà.
Sự bất bình đẳng hiện hữu rõ trong giai đoạn lịch sử này, khơng chỉ trên mặt xã hội mà
cịn gay gắt ngay trong chính pháp luật với những quy định của nó. Pháp luật thời kỳ đó
quan tâm bảo vệ quyền gia trưởng của người chồng mà không quan tâm bảo vệ quyền
lợi của người vợ, người con trong gia đình. Pháp luật thực chất chỉ là cơng cụ hợp pháp
hóa ”chế độ nam trị”, một chế độ xã hội dựa trên ” luật lệ của người cha”, xem sự gia
trưởng trong gia đình là “trật tự nhiên”.
Trong gia đình thì tập trung quyền vào người đàn ơng gia trưởng. Người phụ nữ được
coi là tài sản của chồng. Phép nhà Hồ quy định, nếu binh sĩ ra trận mà nhút nhát thì vợ,
con, điền sản phải xung cơng. Triều đình phong kiến nhà Lý cịn có tục bắt cung nữ chết
theo vua hoặc hoàng hậu bằng cách đưa họ lên hỏa thiêu ... Vợ cả, vợ lẽ đều thuộc quyền
“sở hửu” riêng của chồng, không ai được xâm phạm. Chiếu tháng 9 năm Nhâm ngọ
(1042) đời vua Lý Thái Tông quy định: “Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm với vợ cả, vợ
lẽ người ta, người chủ đánh chết ngay bấy giờ thì khơng bị tội”25. Cịn theo An Nam lược
chí thời nhà Trần cho biết: ”Đàn bà ngoại tình bị xử cho về với chồng làm nô tỳ và người
chồng được tự ý đem bán hay cầm đợ”. Với những quy định đó minh chứng rằng, nếu hai
bộ luật hình thư đời Lý-Trần có chế định Thập tội ác thì pháp luật thời kỳ này đã xác lập,
củng cố, bảo vệ chế độ gia đình phụ quyền gia trưởng26.
Như vậy, khơng có mảnh đất nào cho bình đẳng giới trú ngụ trong giai đoạn vương
Triều Lý- Trần và trước đó. Bình đẳng giới là một cái gì đó chưa hiện hữu ngay cả trong
ý nghĩ của con người thời bấy giời. Phụ nữ, người vợ như kẻ hạ nhân, người hầu phục vụ
cho người chồng- người chủ gia đình, số phận của họ khơng được quyết định bởi chính
họ.
Thời nhà Lê Sơ: Với sự độc tơn của tư tưởng chính trị Nho giáo, nên các qui định về
hơn nhân gia đình thể hiện rõ ảnh hưởng của lễ nghĩa Nho giáo, trật tự gia đình xã hội
25
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 263.
Trường Đại học Luật Hà Nội-Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, 2006, tr. 126.
26
18
phong kiến.Tình trạng bình đẳng giới trong gia đình vẫn chưa có bước phát triển đáng kể.
Điển hình là Bộ luật Hồng Đức (ban hành năm 1483) với các nguyên tắc cơ bản trong
lĩnh vực hơn nhân gia đình phản ánh hôn nhân không được tự do, đa thê và xác lập chế độ
gia đình trưởng.
Trong xã hội bấy giờ, việc kết hơn nhằm mục đích sinh con đẻ cái, nối dõi tơng đường.
Hơn nhân trước hết là vì quyền lợi của dịng họ, của hai gia đình nên việc kết hơn phải có
sự đồng ý của hai bên cha mẹ27. Sự ưng thuận của cha, mẹ là điều kiện tiên quyết cho việc
xác lập hôn nhân của con cái. Thế mới thấy được, trong xã hội này quyền lợi cá nhân bị
coi là thứ yếu, đặt dưới quyền lợi chung của gia đình dịng tộc.
Con, cháu sống dưới quyền của cha mẹ khơng có quyền có tài sản. Các tài sản đều
thuộc về quyền sở hữu, quản lý của người gia trưởng28, vì lúc cịn cha mẹ, ngay cả đến
tấm thân của người con cũng không phải là của mình, tài sản riêng cũng khơng có. Con
cháu khơng được kiện ông bà cha mẹ ngay cả trong trường hợp bề trên có lỗi với mình
(Điều 511). Phải chăng vì “trong thiên hạ khơng có cha mẹ nào là khơng đúng” (thiên hạ
vô bất thị để mẫu). Tất cả chỉ vì, lý thuyết đạo đức quyền gia trưởng, quyền phụ mẫu như
trời bể đã không cho phép những người con có được thân phận, tiếng nói, có được quyền
được tơn trọng, quyền được hưởng quyền về nhân thân, tài sản.
Trong quan hệ vợ chồng, thì do quan niệm “chồng chúa, vợ tơi” nên nhìn chung chồng
có nhiều đặc quyền và ít nghĩa vụ, ngược lại thì người vợ dường như chỉ mang trên mình
nghĩa vụ mà quyền thì chẳng có mấy. Về mặt nhân thân, thì sự bất bình đẳng giữa vợ,
chồng mang tính sâu sắc. Nghĩa vụ của người vợ là phải tuyệt đối chung thuỷ với chồng
theo thuyết “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” mà nếu có xự vi phạm thì chế tài rất
nặng29. Lý do, nguyên nhân ly hôn cũng phần nhiều xem như lỗi của người vợ, pháp luật
cịn có quy định khắt khe buộc người chồng phải bỏ vợ nếu phạm phải một trong bảy điều
“thất xuất”. Nếu người chồng không bỏ vợ thì pháp luật buộc phải bỏ và đồng thời người
chồng bị xử biếm30. Pháp luật đã can thiệp quá sâu và thái quá đối vấn đề nhân thân vợ
chồng trong trường hợp này. Điều này khiến cho quyền nhân thân của phụ nữ bị tước bỏ
hoàn toàn bởi sự bảo vệ quá mức, cực đoan cho quyền ly hôn của người chồng.
27
Điều 314 Bộ Luật Hồng Đức.
Điều 378 Bộ Luật Hồng Đức.
29
Điều 310 Bộ Luật Hồng Đức.
30
Điều 308 Bộ Luật Hồng Đức.
28
19
Người vợ phải có nghĩa vụ đồng cư cùng chồng và gia đình chồng, khơng được chọn
lựa nơi sống chung của vợ chồng31. Nghĩa là một khi đã kết hôn về nhà chồng thì người
phụ nữ khơng cịn là người phụ nữ nữa. Vì những quyền nhân thân cơ bản của họ giờ phụ
thuộc vào người chồng, chịu sự dạy bảo của chồng. Người vợ chỉ như là một cái bóng của
người chồng, được đối xử tùy theo phẩm trật của người chồng (Điều 7 Bộ Luật Hồng
Đức). Bi đát hơn họ cịn bị xem như một “món đồ” thuộc về người chồng, để mà đem
“bán, sung công hay cho chuộc”, gánh chịu nghĩa vụ thay cho người chồng khi người
chồng phạm tội (Điều 412 Bộ Luật Hồng Đức). Thậm chí nếu người chồng có sai phạm
thì họ cũng chỉ biết làm ngơ, lặng thinh và cố tình che giấu cho người chồng, không được
phép tố cáo chồng nếu không sẽ bị trừng trị32.
Trong quan hệ tài sản vợ chồng thì, người vợ tuy được sở hữu chung tài sản trong gia
đình với chồng nhưng đó chỉ là hình thức. Quyền định đoạt thực chất thuộc về người
chồng. Người phụ nữ chỉ mang vỏ bọc của một người vợ với tất cả quyền năng kinh tế do
người chồng quyết định thay cho họ. Nên khi ly hôn do lỗi của người vợ như gian dâm thì
điền sản của vợ thuộc về người chồng33. Người vợ chỉ thực sự có quyền tài sản khi mà
chồng chết với chế định thừa kế. Không được quyền nắm giữ tài sản nên các quyền liên
quan đến tài sản của người vợ đã không được thực hiện trên thực tế. Hệ quả là bất bình
đẳng sâu, rộng trong mối tương quan tài sản vợ chồng, người vợ khơng khác gì người lao
động tay trắng trong gia đình chồng với danh phận cao quý người vợ.
Qua đó thấy được thân phận người phụ nữ trong gia đình vẫn cịn một khoảng cách
q lớn so với nam giới, các thành viên trong gia đình bị buộc chặt bởi tư tưởng quyền
nam gia trưởng. Sự bất bình đẳng giới trong gia đình hiển hiện rõ nét và sâu sắc nhưng
không phải trên mọi phương diện.
Khi ta xem xét các quy định của Bộ luật Hồng Đức về quyền ly hôn, quyền sở hữu tài
sản, thừa kế, hợp đồng, định đoạt các cộng việc, tài sản gia đình thì yếu tố bình đẳng giữa
vợ chồng, con cái, và các thành viên khác trong gia đình mang tính tiến bộ. Vì người vợ
được quyền chủ động động trong một số trường hợp về quyền nhân thân, tài sản trong
thời gian chung sống với chồng. Tuy khơng tồn diện, mức độ bảo vệ quyền của người vợ
31
Điều 321 Bộ Luật Hồng Đức.
Điều 504 Bộ Luật Hồng Đức.
33
Điều 401 Bộ Luật Hồng Đức.
32
20
cịn hạn chế, nhưng đó là tiền đề, là bước tiến quan trọng cho việc mở rộng, nâng cao tính
bình đẳng trong gia đình cho các giai đoạn sau.
Cụ thể: Về nhân thân, người vợ cũng có quyền ly hơn trong những trường hợp như :
”Chồng bỏ lửng vợ 5 tháng khơng đi lại, nếu đã có con thì một năm”(Điều 308), hoặc
“chồng mắng nhiếc cha mẹ một cách phi lý” (Điều 333), lối thốt vẫn cịn cho người phụ
nữ muốn bước chân ra khỏi gia đình nơi mà họ thấy quá ngột ngạt. Ngoài ra, với quy định
người chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, cấp dưỡng, chăm lo cho vợ con, không được
đánh đập vợ34, cho thấy phần nào quyền lợi, tính mạng, sức khỏe của vợ con được quan
tâm bảo đảm trên phương diện pháp luật.
Về quyền tài sản thì, người phụ nữ ngang quyền với chồng trong quan hệ thừa kế và
sở hữu tài sản thừa kế. Vì khi vợ chồng khơng có con, nếu chồng chết trước thì điền sản
chia làm hai phần, mỗi người một phần, phần của vợ được nhận làm của riêng35. Trong
trường hợp vợ chồng đã có con, nếu một người chết trước, sau đó con cũng lại chết thì
điền sản thuộc về chồng hay vợ còn sống36. Bộ luật này cũng có quy định quyền làm chủ
tài sản chung trong gia đình thuộc về cả vợ chồng, thừa nhận quyền sở hữu hay sự đóng
góp của người vợ trong gia đình thơng qua việc xác lập quyền sở hữu cho người vợ37.
Dẫu chỉ là quy định mà việc áp dụng, sử dụng thật là khó khăn cho người vợ trên thực tế,
nhưng ít ra thì luật cũng đã ghi nhận quyền có tài sản trong gia đình cùng với chồng của
người vợ.
Riêng về quy định đối với những người con thì xu hướng khơng phân biệt đối xử với
các con cũng nhem nhóm, phát triển theo hướng bình đẳng qua chế định thừa kế. Con cái
dù là nam hay nữ đều có quyền thừa kế: ”Tài sản của cha mẹ để lại cho các con được
pháp luật quy định bằng nhau”;”con gái cũng được hưởng thừa kế hương hỏa như con
trai”38.
Nhìn chung, quyền và nghĩa vụ nhân thân, tài sản cũng như hầu hết các quyền và
nghĩa vụ khác gần như được sắp đặt sẵn trong lễ nghĩa Nho giáo. Chồng là người chủ gia
đình, có quyền quản lý tồn bộ gia sản, người phụ nữ bị ép mình, gị bó trong khn phép
lễ nghĩa khắt khe. Song, Luật nhà Lê đã cố gắng nâng đỡ người vợ để họ vươn lên sự
34
Điều 428 Bộ Luật Hồng Đức.
Điều 375 Bộ Luật Hồng Đức.
36
Điều 376 Bộ Luật Hồng Đức.
37
Điều 374, 375, 376 Bộ Luật Hồng Đức.
38
Điều 388, 391 Bộ Luật Hồng Đức.
35
21
bình đẳng với chồng, trong cái khn mẫu chung của xã hội “quyền nam”. Các thành viên
khác trong gia đình cũng được hưởng một chút quyền bình đẳng, và khơng hẳn là khơng
có quyền gì.
Thời nhà Nguyễn: Khi nhắc đến pháp luật nhà nước phong kiến Việt Nam bên cạnh
Bộ luật Hồng Đức thì cịn có Bộ luật Gia long (ban hành năm 1815) được xem là sản
phẩm có giá trị lớn về mặt lập pháp của Vương triều Nguyễn-Triều đại phong kiến cuối
cùng ở Việt Nam thể hiện khá sâu sắc bản chất xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX. Các quy định trong Hoàng Việt luật lệ đều là ” sự thể chế hóa các tư
tưởng chính trị Nho giáo, bảo vệ lễ nghi Nho giáo được đề cao tuyệt đối”39.
Pháp luật nhà Nguyễn khơng có điều nào quy định về tài sản vợ chồng40, cũng khơng
có quy định về tài sản riêng của người vợ. Nghĩa là vợ khơng có tài sản riêng và khơng có
quyền tham gia định đoạt các tài sản trong gia đình. Thực chất, người vợ vẫn phụ thuộc
vào chồng và gia đình chồng, phải có nghĩa vụ đồng cư cùng chồng và gia đình chồng,
nếu vi phạm nghĩa vụ này thì bị phạt trượng, đồ, treo cổ… Họ vẫn bị xem là tài sản của
người chồng cho nên chồng được quyền gả bán vợ mắc tội thơng gian41.
Về việc cưới hỏi thì quyền quyết định vẫn thuộc về bề trên, con cái chỉ biết tuân theo
sự sắp đặt đó. Con cái khơng có được sự tự do về quyết định hôn nhân (theo Lệ 1, Điều
94, Điều 109). Con cháu sống dưới quyền của cha mẹ “khơng có quyền có tài sản, các tài
sản đều thuộc quyền sở hữu, quản lý của người gia trưởng” (Điều 82).
Qua việc xem xét các quy định trong Bộ luật Hồng Việt Luật lệ ta thấy hầu như
khơng có sự phân định rạch ròi giữa những quy phạm bảo vệ trật tự hôn nhân, với các quy
phạm bảo vệ trật tự gia đình, hay trật tự xã hội nói chung. Điều này lý giải phần nào
những quy định hỗn đồng42 vi phạm luân lý đạo đức và vi phạm pháp luật trong Hồng
Việt luật lệ, làm cho quyền bình đẳng giới trong gia đình khơng những khơng phát triển
mà cịn thụt lùi so với Bộ luật Hồng Đức.
39
TS.Trương Quang Vinh (chủ biên),Tội phạm và hình phạt trong Hồng Việt luật lệ, NXB Tư pháp, Hà Nội,
2008, tr. 204.
40
Phan Đăng Thanh- Trương Thị Hịa, Pháp luật Hơn nhân và gia đình Việt nam xưa và nay, NXB Trẻ, TP. Hồ
Chí Minh, 2000, tr. 97.
41
Điều 108, 332 Bộ Luật Hoàng Việt luật lệ.
42
Vũ Văn Mậu:Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng,Quyển thứ hai,NXB Sài Gòn,1975,tr. 257.
22