Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ THANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Tuệ Phƣơng
Học viên: Vũ Thị Thanh
Lớp: Cao học Luật, Khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
theo luật hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Hoàng Thị Tuệ Phƣơng.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực và


chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có kế thừa các quan điểm, ý kiến khoa học
của những nhà nghiên cứu đã từng thực hiện về biện pháp tư pháp áp dụng đối
với người chưa thành niên và những thông tin này khi được sử dụng đến đều có
trích dẫn nguồn đầy đủ trong luận văn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả luận văn

VŨ THỊ THANH

năm 2020


BẢNG CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BCA

Bộ Cơng an

BLHS

Bộ luật hình sự

BR

Beijing Rules - Quy tắc Bắc Kinh năm 1985


CRC

Convention on the Right of the Child - Công ước
quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989

NCTN

Người chưa thành niên


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP ÁP DỤNG
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ................................... 9
1.1. Sơ lƣợc quá trình phát triển lý luận về các biện pháp xử lý đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội tại Việt Nam ............................................ 9
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm người chưa thành niên
phạm tội ........................................................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của người chưa thành niên..................................................11
1.1.3. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội..............................13
1.1.4. Các biện pháp xử lý đối với chưa thành niên phạm tội trong pháp luật
hình sự Việt Nam ...........................................................................................24
1.2. Biện pháp tƣ pháp giáo dục tại trƣờng giáo dƣỡng ............................ 30
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp tư pháp ...................................30
1.2.2. Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng .........................................35
Kết luận Chƣơng 1 .............................................................................................43
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TẠI TRƢỜNG
GIÁO DƢỠNG CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015, SỬA ĐỔI, BỔ
SUNG NĂM 2017 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ...........................................45
2.1. Quy định về biện pháp giáo dục tại trƣờng giáo dƣỡng của Bộ luật

hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 ........................................... 45
2.2. Thực tiễn thi hành biện pháp giáo dục tại trƣờng giáo dƣỡng đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội................................................................. 52
Kết luận Chƣơng 2 .............................................................................................65
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ.....................66
Kết luận Chƣơng 3 .............................................................................................72
KẾT LUẬN .........................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em là nhiệm vụ chung của tồn nhân loại, khơng có
sự phân biệt giữa các quốc gia có chế độ xã hội và bản sắc dân tộc khác nhau.
Với người Việt Nam, việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em khơng chỉ là nhiệm vụ mà
cịn là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời của dân tộc. Quyền và lợi ích trẻ em được
ghi nhận trong hệ thống pháp luật nước ta từ rất sớm thể hiện trong các văn bản
như Hiến pháp, Luật trẻ em…Đồng thời, Việt Nam cũng là một trong những
nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc.
Với quan điểm bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách tồn diện, từ việc dành
cho các em những điều kiện tốt nhất về giáo dục, kinh tế, xã hội, y tế… để các
em phát triển toàn diện đến việc áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp khi các em
vi phạm pháp luật để tạo điều kiện cho các em nhận thức đúng đắn hơn đối với
hành vi của mình, pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương đối tồn diện
đối với quyền và nghĩa vụ của các em. Các quy định của Bộ luật Hình sự cũng
khơng nằm ngồi mục đích trên. Người chưa thành niên là những người chưa có
sự phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ nên quyền và nghĩa vụ của họ cũng bị hạn
chế. Do đó, phải có chính sách pháp luật riêng, phù hợp áp dụng khi họ có hành

vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hình sự nói riêng là rất cần
thiết. Đòi hỏi hệ thống tư pháp áp dụng với người chưa thành niên phải đảm bảo
những yêu cầu khắt khe trong khi áp dụng như vấn đề quy định của pháp luật
phải phù hợp với hoàn cảnh của người phạm tội, đặc điểm tâm lý của người
phạm tội cũng như tính chất của tội phạm, trong đó đặc biệt chú trọng đến lợi ích
tốt nhất của người dưới 18 tuổi. Điều này được khẳng định trong các văn kiện
quốc tế về tư pháp người chưa thành niên và tinh thần này cũng thể hiện trong
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Điều 91 Bộ luật Hình sự quy định
nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội đã thể hiện rõ mục đích
của việc xử lý đối với họ là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Nguyên tắc này đã thể
hiện tính nhân đạo của pháp luật nước ta.
Xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo đó, các quy định áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật Hình sự nước ta đều


2

nhằm mục đích giáo dục, uốn nắn, răn đe những hành vi lệch lạc, làm cho họ thấy
được sai phạm của mình và tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia đình, nhà
trường và xã hội. Điều này thể hiện trong các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội đã chú trọng đến việc áp dụng các biện pháp khơng tước tự do, trong đó ưu
tiên áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn trách
nhiệm hình sự, biện pháp tư pháp và cuối cùng mới áp dụng hình phạt.
Nếu trong Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định
biện pháp tư pháp gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng, đến Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017 chỉ quy định một biện pháp tư pháp duy nhất là giáo dục tại trường
giáo dưỡng. Đây cũng là một trong các biện pháp để quản lý, giáo dục người
chưa thành niên vi phạm pháp luật với ý nghĩa là các biện pháp thay thế cho

hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Quy định các
biện pháp tư pháp này mang ý nghĩa lớn trong việc xử lý hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện tính giáo dục cao, đồng thời thể hiện được
đường lối xử lý mang tính nhân đạo, có sự cân nhắc tới đặc điểm tâm lý của
người phạm tội. Việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi sẽ
khơng để lại án tích đối với họ. Tuy nhiên, trong thực tiễn các biện pháp tư
pháp này rất hiếm khi được áp dụng khi xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Những cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng khi xử lý người chưa thành
niên phạm tội chủ yếu đều áp dụng hình phạt đối với họ. Nguyên nhân của thực
trạng này chủ yếu do một số quy định của pháp luật còn hạn chế, chưa phù hợp,
do tâm lý của người áp dụng pháp luật và của chính người chưa thành niên
phạm tội lẫn gia đình, cộng đồng nơi người đó sinh sống, cơ chế phân cơng,
theo dõi khơng chặt chẽ, việc tái hịa nhập của người chưa thành niên bị áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là khó khăn, phạm vi áp dụng cịn
hạn chế … chưa tương thích với các chuẩn mực quốc tế.
Vì vậy, việc nghiên cứu, hồn thiện các quy định của pháp luật về biện
pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội; đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của
của biện này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên là rất quan trọng và
mang tính cấp thiết.


3

Xuất phát từ những lý do như đã nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn
thạc sĩ luật học là đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, ở các mức độ khác nhau đã có một số cơng trình khoa học đề
cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc xem xét nó trong tương quan là một

phần, mục trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận hoặc đề cập chung khi
nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
Về giáo trình, sách chun khảo có một số cơng trình tiêu biểu sau: Trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần
chung (Tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam; Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
– Phần Chung, NXB Công an nhân dân; Trường Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa
Luật (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội; Nguyễn Thị Phương Hoa – Phan Anh Tuấn – Đồng chủ biên (2017),
Bình luận khoa học những điểm mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), NXB Hồng Đức; Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự - Phần chung, NXB TP.Hồ Chí Minh; Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2010),
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 - Phần
chung, NXB Chính trị quốc gia; Sách chuyên khảo “Những vấn đề cơ bản trong
khoa học hình sự” của tác giả Lê Cảm xuất bản năm 2005…
Trong nội dung của các giáo trình, sách chuyên khảo này đã phân tích về
nguyên tắc xử lý cũng như các biện pháp xử lý áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội. Đồng thời, đưa ra định nghĩa, phân tích quy định về điều kiện thời
hạn, chủ thể áp dụng theo quy định của Bộ luật hình sự về biện pháp tư pháp nói
chung và biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng nói riêng.
Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học cho thấy có một số cơng trình ở cấp độ
luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu khoa học
của sinh viên có những nội dung liên quan đến nội dung này như: 1) Lê Đức
Cảnh (2016), Quản lý Nhà nước đối với các trường giáo dưỡng ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ quản lý công, Học viện hành chính quốc gia Hà Nội; 2) Trần


4

Ngọc Lan Trang (2017), Các biện pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với

người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015, Luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; 3) Nguyễn Thị Tố Nga
(2011), Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
theo quy định của pháp luật hình sự, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội; 4) Bùi Thị Chính Thái (2014), Biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội, Luận văn cử nhân, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh; 5) Trương Thị Hương Huệ, Nguyễn Thị Diễm My, Nguyễn
Hồ Anh Vũ (2014), Thực trạng áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70
BLHS năm 1999 đối với người chưa thành niên phạm tội”, Đề tài nghiên cứu
khoa học sinh viên, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; 6) Nguyễn
Ngọc Trân Châu, Ngô Nam Phương, Trần Nhân Chính, Phạm Bá Thiên Nam,
Đinh Hồng Khánh (2014), Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội theo Bộ luật hình sự Việt Nam, Đề tài nghiên
cứu khoa học sinh viên, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Luận án tiến sĩ, các luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật và
các đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên đã đưa ra những vấn đề lý luận về các
biện pháp tư pháp nói chung như khái niệm, đặc điểm, vai trò của các biện pháp tư
pháp. Đồng thời, phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các
biện pháp tư pháp nói chung, trong đó có biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng. Trên cơ sở quy định pháp luật, các cơng trình nghiên cứu này đánh giá
chung về thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp, có nêu một số kết quả khảo sát
tại Tòa án nhân dân khi xét xử người chưa thành niên phạm tội. Trên cơ sở đó, các
cơng trình nghiên cứu khoa học này đã chỉ ra những vướng mắc, bất cập cịn tồn
tại và kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp.
Một số cơng trình dưới dạng bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý, điển
hình như: Phạm Hồng Hải, Các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 1999
và vấn đề hồn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện
pháp đó, Tạp chí Luật học, số 5/2000; tác giả Hồ Sĩ Sơn, Thi hành các biện pháp tư
pháp khơng phải là hình phạt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2004; Trần
Quang Tiệp, Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt không tước tự

do và các biện pháp tư pháp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2004; Lê Cảm -


5

Đỗ Thị Phượng, Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, những
khía cạnh tội phạm học, của, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 22/2004.
Ngồi ra cịn một số cơng trình khác như: Bộ Tư pháp và Quỹ nhi đồng
Liên hiệp quốc (Unicef), 2019, Báo cáo nghiên cứu, Pháp luật về phòng ngừa,
xử lý, phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm
pháp luật và tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam;
Viện Khoa học pháp lý, năm 2000, Thông tin khoa học chuyên đề, Tăng cường
năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại Việt Nam.
Trong nội dung của các tài liệu này đã nêu và phân tích một số quy định
của Bộ luật hình sự về nguyên tắc xử lý và áp dụng biện pháp tư pháp đối với
người chưa thành niên phạm tội; trên cơ sở đó, các cơng trình nghiên cứu cũng
đã phân tích, nêu ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hiện
hành và đồng thời đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về vấn đề này.
Như vậy, qua khảo sát tác giả nhận thấy các đề tài nghiên cứu về biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội hiện nay khơng phải là ít.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên do phạm vi và mục đích của mình nên không đi
sâu về biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Biện pháp tư pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội thường
chỉ là một phần trong toàn bộ nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên hoặc các chế tài áp dụng đối với họ. Chính vì vậy, các nghiên cứu này
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các biện pháp tư pháp nói chung theo quy định của
Bộ luật hình sự, mà theo như khảo sát của tác giả chưa có một cơng trình nghiên
cứu riêng biệt, chuyên sâu về biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Do vậy, biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo quy định của Bộ

luật hình sự cần được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như những nội
dung cơ bản của biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở phân


6

tích những điểm được, điểm hạn chế, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp này
để kiến nghị việc hoàn thiện các quy định về biện pháp tư pháp trong luật hình
sự nước ta. Từ sự phân tích này, tác giả luận văn đề xuất các giải pháp góp phần
áp dụng hiệu quả hơn biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với
người chưa thành niên phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, mối
quan hệ giữa biện pháp tư pháp này với các chế tài hình sự khác, với biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng trong Luật xử lý vi phạm hành chính, phân tích các
nguyên tắc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
pháp luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích các quy định của pháp luật về các biện pháp tư pháp đối với
người chưa thành niên phạm tội theo Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành
niên phạm tội. Qua đó, rút ra những hạn chế, nguyên nhân hạn chế áp dụng biện
pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác giả đưa ra kiến
nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, một số giải pháp

phối hợp để biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội được áp dụng nhiều hơn trong thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn của biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam.
Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn dựa trên quan điểm
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư


7

tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh
phịng, chống tội phạm nói chung và các biện pháp tư pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng áp dụng đối với người chưa thành niên nói riêng.
Luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phương
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, hệ thống ... Trong đó, phương pháp
nghiên cứu, phương pháp phân tích được xem là chủ đạo. Mỗi chương có thể sử
dụng phương pháp khác nhau hoặc sử dụng kết hợp các phương pháp để làm rõ
những vấn đề lý luận và pháp lý trọng tâm của từng chương.
Tại Chương 1: tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh khi trình
bày lý luận chung về các biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
theo pháp luật Việt Nam và lý luận về biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Tại Chương 2: tác giả sử dụng phương pháp liệt kê, tổng hợp, so sánh,
phân tích các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy
định trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và so sánh,

đánh giá kết quả thực tiễn áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Tại Chương 3: kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để đưa ra những kiến nghị
về mặt pháp luật nhằm hoàn thiện các quy định của liên quan và đưa ra các giải
pháp để biện pháp tư pháp được áp dụng nhiều hơn trong thực tiễn xử lý người
chưa thành niên phạm tội.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết
Bố cục của đề cương chi tiết:
Chƣơng 1. Lý luận chung về biện pháp tƣ pháp áp dụng đối với ngƣời
chƣa thành niên phạm tội.
1.1. Sơ lược quá trình phát triển lý luận về các biện pháp xử lý đối với
người chưa thành niên phạm tội tại Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm người chưa
thành niên phạm tội.
1.1.2. Đặc điểm của người chưa thành niên.


8

1.1.3. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội.
1.1.4. Các biện pháp xử lý đối với chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật hình sự Việt Nam.
1.2. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp tư pháp
1.2.2. Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
Chƣơng 2. Quy định về biện pháp giáo dục tại trƣờng giáo dƣỡng của
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và thực tiễn thi hành.
2.1. Quy định về biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng của Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
2.2. Thực tiễn thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối
với người chưa thành niên phạm tội

Chƣơng 3. Một số giải pháp, đề xuất, kiến nghị


9

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP ÁP DỤNG ĐỐI VỚI
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1. Sơ lƣợc quá trình phát triển lý luận về các biện pháp xử lý đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội tại Việt Nam
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng, một thực tế tồn tại ở tất
cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều giải quyết vấn đề người chưa thành
niên phạm tội theo những mức độ, cách thức khác nhau tùy thuộc vào những điều
kiện, tập quán, pháp luật của mỗi nước.1 Một hoạt động mà các nước trên toàn cầu
đang nỗ lực thực hiện là tìm mọi cách bảo đảm hệ thống tư pháp người chưa thành
niên tuân thủ theo đúng luật quốc tế về quyền con người. Kể từ năm 1989, với tốc
độ ngày càng cao, các nước trên thế giới đã và đang đưa những nguyên tắc quốc tế
vào các luật và chính sách quốc gia. Đã có nhiều văn bản quốc tế về quyền con
người của trẻ em, của người chưa thành niên ra đời. Đồng thời, việc tăng cường
bảo vệ các quyền của trẻ em cũng là một khía cạnh quan trọng trong hoạt động
của các cơ quan và chương trình hành động của Liên Hợp Quốc.2 Với quan điểm
nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Nhà nước Việt Nam đã tham gia các Công
ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó, đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối
tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trường hợp người chưa thành niên
phạm tội. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên là nhằm giúp đỡ, cải tạo, giáo dục để người
chưa thành niên nhận ra sai lầm, từ đó sửa chữa những sai lầm của mình, tạo điều
kiện để các em có khả năng tái hòa nhập cộng đồng.
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm người chưa thành

niên phạm tội
Theo pháp luật quốc tế, trong các văn bản quốc tế và chương trình của
Liên Hợp Quốc đồng thời sử dụng cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành
1

Vũ Thị Phương Thanh (2015), Hoàn thiện địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong
tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ, trường Đại học quốc gia Hà Nội.
2
Trương Hồng Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về quyền của con người,
truy cập 10/9/2019.


10

niên. Điều 1 Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em (CRC) ghi nhận “Trong
phạm vi của Công ước này, Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường
hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”3. Như
vậy, theo cách hiểu này thì “Trẻ em” có nghĩa là người chưa thành niên và người
chưa thành niên được hiểu là mọi trẻ em dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật
quốc gia có quy định khác. Tại quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hiệp quốc về
bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do quy định “Người chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác
định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên”.4Như vậy, có
thể thấy rằng khi đưa ra khái niệm về người chưa thành niên, trong pháp luật
quốc tế không dựa vào đặc điểm tâm – sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh
thần … mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Kể cả khái
niệm trẻ em và khái niệm người chưa thành niên đều giới hạn là dưới 18 tuổi,
đồng thời đưa ra khả năng mở cho các quốc gia tùy điều kiện kinh tế - xã hội,
văn hóa, truyền thống của mình có thể quy định độ tuổi đó sớm hơn. Nội dung
các quy tắc trên có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia,

phản ánh mục đích và tinh thần của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những
nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối với việc quản lý những người chưa thành
niên vi phạm pháp luật.5
Đồng thời, tại Quy tắc Bắc Kinh (BR) cũng đưa ra định nghĩa người chưa
thành niên phạm tội là “trẻ em hay thanh thiếu niên bị cáo buộc, hay bị kết luận
là đã phạm tội”. Kết hợp với quy định tại Điều 1 Công ước về quyền trẻ em và
Điều 11(a) Quy tắc của Liên hiệp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
tự do có thể tạm đưa ra khái niệm: Người chưa thành niên phạm tội là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với người đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn, bị cáo buộc hay bị kết luận là đã phạm tội.6
3

Article 3 CRC 1989: “For the purposes of the present Convention, a child means every human being below
the age of eighteen years unless under the law applicable to the child, majority is attained earlier”.
4
Liên hiệp quốc (1990), Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hiệp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị
tước quyền tự do. Số 2.1, mục a.
5
Trương Hồng Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về quyền của con người,
truy cập 10/9/2019.
6
Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), Hồn thiện pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên
cơ sở khung pháp lý của Liên Hợp quốc, Nxb Đại học quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, tr.5.


11

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, dù trực tiếp hay gián tiếp đều định
nghĩa người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, điều này phù hợp với pháp luật
quốc tế. Như tại Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận “người chưa thành

niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Còn tại Bộ luật lao động quy định “lao
động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên, trong pháp luật
hình sự Việt Nam khơng có định nghĩa về người chưa thành niên và cũng không
định nghĩa như thế nào về người chưa thành niên phạm tội, mà chỉ quy định độ
tuổi người chưa thành niên phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Tại Điều 12
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng”. Đến Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017, cũng kế thừa quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 nhưng có sự thu hẹp
phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của nhóm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.7
Như vậy, độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam là 14 tuổi và từ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 28 loại tội được liệt kê
trong Bộ luật hình sự. Chỉ có những người từ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội gây ra.8
1.1.2. Đặc điểm của người chưa thành niên
Theo quan điểm quốc tế nói chung, của Việt Nam nói riêng thì người chưa
thành niên được quan niệm là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như
tâm – sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn bị hạn chế, thiếu
những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao. Họ có xu
hướng muốn khẳng định, được đánh giá, được tơn trọng, dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng,
7

Khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định “2. Người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248,
249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
8
Hiện nay, trước thực trạng người chưa thành niên phạm tội đang trẻ hóa trong thời gian qua, nhiều ý kiến
của các nhà làm luật và các nhà khoa học đề nghị nên giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Ở một số quốc

gia khác như ở Trung Quốc, trẻ em từ 14 tuổi đến 18 tuổi được xử lý bằng hệ thống tư pháp vị thành niên và
có thể bị kết án tù chung thân đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Và rất nhiều quốc gia khác quy định độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự thấp hơn Việt Nam, cụ thể, ở Mexico độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự từ 6 tuổi, ở
Bangladest, Ấn Độ, Nam Phi, Thái Lan là 7 tuổi, Vương quốc Anh (Scotland), Indonesia là 8 tuổi ... Như
vậy, có thể thấy so với pháp luật của nhiều nước trên thế giới, độ tuổi người chưa thành niên phải chịu trách
nhiệm hình sự trong pháp luật Việt Nam cao hơn.


12

thiếu kiên nhẫn, nhiều hồi bão, thiếu tính thực tế, dễ bị kích động, bị lơi kéo vào
những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn thương nhưng lại dễ thay đổi
thích nghi, dễ uốn nắn …Trong các đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên,
có thể thấy có hai xu hướng nổi bật liên quan đến tội phạm và khả năng giáo dục,
cải tạo của họ. Đó là họ dễ bị người khác dụ dỗ, kích động, thúc đẩy vào việc thực
hiện tội phạm nhưng do ý thức phạm tội của họ chưa cao và chưa chắc chắn nên
cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục họ thành người có ích cho xã hội.9 Với những
đặc điểm hạn chế về mặt thể chất cũng như tâm sinh lý do lứa tuổi, cũng như
nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội của người chưa thành niên
chủ yếu bắt nguồn từ những thiếu sót, bất cập, sai lầm trong việc ni dưỡng giáo
dục của gia đình, xã hội. Điều này đặt ra một đòi hỏi hết sức chính đáng là người
chưa thành niên phạm tội cần có sự quan tâm và bảo trợ đặc biệt của gia đình, nhà
trường, xã hội và pháp luật. Đồng thời, đây cũng là đối tượng đang ở ngưỡng cửa
cuộc đời, trong giai đoạn hình thành nhân cách, cá tính, lập trường quan điểm
chưa rõ ràng …tất cả có thể làm lại từ đầu, khả năng tiếp thu, giáo dục là rất lớn.
Pháp luật hình sự Việt Nam khơng coi người chưa thành niên phạm tội có
năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ như người đã thành niên.10 Theo đó, người chưa
thành niên ln được hưởng chính sách hình sự mang tính nhân đạo – đường lối xử
lý mang tính chất nương nhẹ hơn so người đã thành niên phạm tội. Theo tác giả Trần
Đình Nhã thì “khi tìm hiểu những vấn đề thuộc trách nhiệm hình sự của người chưa

thành niên phạm tội, không thể đi từ cái chung: tội phạm, trách nhiệm hình sự và hình
phạt nói chung” trong đó nhà làm luật (…) cấu tạo hẳn một chương “biệt lệ” ở Bộ
luật hình sự với mức độ chênh lệch, giảm nhẹ đáng kể so với nguyên tắc chung để
làm chuẩn mực xử lý những trường hợp người chưa thành niên phạm tội.11
Tác giả Kiều Đình Thụ cũng cho rằng “Do những đặc điểm về tâm lý, thể
chất và những u cầu có tính đặc thù trong đấu tranh, phịng chống tình trạng
người chưa thành niên phạm tội có những khác biệt so với người trưởng thành,
(…) địi hỏi Nhà nước phải xem xét tính tốn khi quy định trong luật hình sự”.12
9

Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam- tập 1, NXB Công an nhân dân, tr. 318.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB
Hồng Đức, tr. 421.
11
Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2002), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Cơng an nhân
dân, xem Trần Đình Nhã, Chương XXIV “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội”, tr.511.
12
Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu Luật Hình sự Việt Nam, NXB Đồng Nai, tr.263-264.
10


13

Vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1985 đã dành Chương VII với 11 điều luật để
quy định về xử lý người chưa thành niên phạm tội. Đến Bộ luật hình sự năm
1999 tiếp tục kế thừa với quy định tại Chương X với 10 điều luật. Bộ luật hình
sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cũng dành một chương riêng để quy
định về xử lý người chưa thành niên phạm tội là Chương XII với 18 điều luật.
Trong đó, các quy định về xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có nhiều thay đổi so với Bộ luật

hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999.
Dựa vào quan điểm trên, khoa học luật hình sự ln nhấn mạnh rằng để
giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội cần phải kết hợp chặt chẽ giáo
dục gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội với chính quyền xã, phường, thị trấn,
pháp luật cùng với các chế định xã hội khác. Trong đó, nhấn mạnh sự giáo dục
của gia đình có vị trí quan trọng vì gia đình có trách nhiệm đầu tiên trong việc
bảo vệ, giáo dục người chưa thành niên. Tuy nhiên, để giúp người chưa thành
niên phát triển toàn diện và hạn chế được những thiếu sót nhất định trong việc
giáo dục tại gia đình, cần phải sự kết hợp giáo dục tại nhà trường và xã hội.13
Trên tinh thần đó, từ góc độ xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội, quan điểm của luật hình sự Việt Nam là “phải phối hợp trách nhiệm giữa gia
đình, nhà trường và xã hội, chủ yếu bằng những biện pháp giáo dục, giúp đỡ để
người chưa thành niên nhận rõ sai lầm và tự sửa chữa để trở thành những thành
viên có ích của xã hội. Đối với người chưa thành niên, môi trường xã hội tác
động rất mạnh mẽ tới quá trình hình thành nhân cách sống của họ. Trong nhiều
trường hợp do khơng được chăm sóc và giáo dục chu đáo, chịu sự tác động của
những hiện tượng tiêu cực từ môi trường xung quanh đã dẫn đến thực hiện tội
phạm. Do đó, khi người chưa thành niên phạm tội thì khơng chỉ chính họ có lỗi
mà trách nhiệm cịn thuộc gia đình và xã hội”.14
1.1.3. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật hình sự nước ta đã đưa ra các nguyên tắc có tính định hướng cho
việc xây dựng các quy định cụ thể về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Ngun tắc là những quy định có tính định hướng cho việc xây dựng các điều luật
13
14

Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), tlđd (9). tr.318.
Kiều Đình Thụ (1998), tlđd (12), tr. 264.



14

khác tại Chương X – Các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội, đồng
thời đóng vai trị kim chỉ nam cho cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự để xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Với những đặc điểm hạn chế về mặt thể chất cũng như tâm sinh lý do lứa tuổi,
cũng như nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội của người dưới 18
tuổi chủ yếu bắt nguồn từ những thiếu sót, bất cập, sai lầm trong việc ni dưỡng
giáo dục của gia đình, xã hội. Đồng thời, đây cũng là đối tượng đang ở ngưỡng
cửa cuộc đời, trong giai đoạn hình thành nhân cách, cá tính, lập trường quan điểm
chưa rõ …tất cả có thể làm lại từ đầu, khả năng tiếp thu, giáo dục là rất lớn. Do
đó, chính sách hình sự của nước ta theo hướng giảm tính cưỡng chế, tăng cường
các biện pháp giáo dục, cải tạo đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 tại Điều 69 có quy định những
nguyên tắc trong việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Các quy định
của Điều 69 đề cao việc xử lý người chưa thành niên với mục đích giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm và trở thành công dân có ích cho xã hội. Đến Bộ luật hình
sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã kế thừa tinh thần nêu trên của Bộ luật
hình sự 1999, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định mới quan trọng như
“Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người
dưới 18 tuổi”, “khi xét xử Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các
biện pháp tư pháp quy định tại Mục C chương này khơng đảm bảo mục đích giáo
dục, phịng ngừa”…
Pháp luật hình sự Việt Nam đã ghi nhận đầy đủ hơn một số nguyên tắc xử
lý đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Công ước quốc tế
về quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác có liên quan, vừa bảo đảm tăng
cường hiệu quả giáo dục, phục hồi đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, vừa thể
hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế
về bảo vệ, giáo dục trẻ em nói chung và người dưới 18 tuổi nói riêng.

Các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội gồm:
Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội.


15

Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả
năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Khoản 1 Điều 91 của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bổ
sung thêm nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội: “Việc xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đám lợi ích tốt nhất của người dưới 18
tuổi”. Với việc bổ sung nguyên tắc này BLHS năm 2015 đã nội luật hóa quy
định tại Điều 3 của Cơng ước về quyền trẻ em: “Trong mọi hành động đối với
trẻ em, dù là cơ quan phúc lợi xã hội của nhà nước hay của tư nhân, tòa án, nhà
chức trách hành chính hay cơ quan lập pháp, lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là
mối quan tâm hàng đầu”. Nguyên tắc này yêu cầu phải đảm bảo lợi ích tốt nhất
cho trẻ em. Lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải là khía cạnh đầu tiên được xem xét
đến và có trọng lượng đáng kể trong mọi quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em,
người chưa thành niên. Trong Công ước về quyền trẻ em không đưa ra tuyên bố
cụ thể nào là “lợi ích tốt nhất” cho trẻ em trong các trường hợp cụ thể, nhất định
nhưng cung cấp một khung quy phạm xác định các lợi ích này ở một mức độ
nhất định. Công ước cũng thừa nhận rằng ngồi lợi ích của trẻ em cũng phải tính
tới lợi ích của các đối tượng khác, nhưng nguyên tắc “lợi ích tốt nhất” vẫn phải
giữ vai trị chủ đạo. Ngun tắc này có vai trị định hướng trong việc áp dụng đối
với tất cả các quyền của trẻ em được Công ước ghi nhận, bao gồm quyền liên
quan đến tư pháp người chưa thành niên.15
Kế thừa quy định tại khoản 1 Điều 69 của BLHS năm 1999, BLHS năm

2015 tiếp tục quy định rõ mục đích của việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội,
đó là “giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành
cơng dân có ích cho xã hội”, đây là nguyên tắc xuyên suốt, cần phải tuân thủ cho
dù áp dụng biện pháp xử lý nào đối với người dưới 18 tuổi. Cịn ngun tắc vì
lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên là một nguyên tắc có ý nghĩa định
hướng cho cán bộ tiến hành tố tụng khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ
thể đối với người chưa thành niên, nhằm tìm ra biện pháp phù hợp nhất đối với
các em trong mối quan hệ hài hịa với các lợi ích khác.
15

Trần Ngọc Lan Trang (2017), Các biện pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. HCM, tr. 19.


16

Nguyên tắc thứ hai: Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn
hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì
có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại
Mục 2 Chương này.16
Điều 29 Bộ luật hình sự quy định các trường hợp được miễn hoặc có thể
được miễn trách nhiệm hình sự đối với bất kỳ người nào không phân biệt người
dưới 18 tuổi hay trên 18 tuổi. Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên thì việc
miễn trách nhiệm hình sự, ngồi các quy định tại Điều 29 của Bộ luật hình sự thì cơ
quan tiến hành tố tụng còn căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự.
So sánh với quy định về miễn trách nhiệm hình sự của người đã thành niên thì
phạm vi miễn trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội rộng hơn.
Khoản 2 Điều 91 của BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa rõ ràng các trường hợp
được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giáo dục, phòng ngừa

mang tính xã hội. Việc sửa đổi này đã khắc phục được phần nào những bất cập theo
quy định tại khoản 2 Điều 69 của BLHS năm 1999 như Ban soạn thảo Bộ luật hình
sự năm 2015 chỉ ra như “thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thể về điều kiện, trình tự,
thủ tục cũng như vai trị của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại cộng đồng...” và vì thế ít
được áp dụng trong thực tiễn.17 Đồng thời thực hiện chủ trương nhân đạo hóa, tăng
tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự, nhất là đối với đối tượng cần bảo
16

Khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “2. Người dưới 18 tuổi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần
lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách
nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường
hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều
141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249
(tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán
trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12
của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6
(tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều
142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi);
Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản);
Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái
phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất
ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trị khơng đáng kể trong vụ án.”
17
Ban soạn thảo BLHS (sửa đổi) (2015), “Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo BLHS năm 2015 tháng
4/2015”, tr.31-32.



17

vệ đặc biệt là người chưa thành niên như trong các văn bản của Đảng, Nhà nước
như tại Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trong tình hình
mới, có yêu cầu “Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề
án chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em... Tổ chức thực hiện tốt Công ước Liên hợp
quốc về quyền trẻ em và các cơng ước, điều ước quốc tế khác có liên quan mà Việt
Nam ký kết hoặc tham gia...”. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 quy định “Coi trọng việc
hồn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng
ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội”. Tại Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong
công tác tư pháp trong thời gian tới đã đề ra nhiệm vụ “nghiên cứu thành lập Tịa
hơn nhân và gia đình”. Quy định về miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện
pháp giám sát, giao dục trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
phù hợp với xu hướng chung trong chính sách xử lý đối với người chưa thành niên
của nhiều nước trên thế giới như Đức, Nhật Bản, Thái Lan, Philipin, Canada là ưu
tiên xử lý chuyển hướng, việc đưa người chưa thành niên vào hệ thống xử lý chính
thức chỉ khi khơng cịn cách nào khác để bảo đảm sự an tồn của cộng đồng, do vậy
tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội ở các nước này được áp dụng xử lý chuyển
hướng chiếm tỷ lệ rất cao.18
Theo đó, khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 đã phân hóa độ tuổi và mở
rộng phạm vi “có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp
giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự”.
Khi người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc các trường hợp trên, có nhiều tình
tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả và không thuộc các trường
hợp quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 thì có thể được miễn trách nhiệm hình
sự và áp dụng một trong các biện pháp khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo
dục tại xã, phường, thị trấn.

Xuất phát từ đặc điểm của độ tuổi cũng như yêu cầu tăng cường trách nhiệm
của gia đình và cộng đồng trong việc giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi, việc áp
dụng các biện pháp xử lý mang tính chất thay thế hình phạt và biện pháp tư pháp
18

Ban soạn thảo BLHS (sửa đổi) (2015), tlđd (17), tr.29.


18

như: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn là phù
hợp với điều kiện tâm, sinh lý và yêu cầu giáo dục, phòng ngừa người chưa thành
niên phạm tội. Cũng có ý kiến cho rằng áp dụng hai biện pháp khiển trách và hịa
giải tại cộng đồng có thể khó hiệu quả khi áp dụng trên thực tế do thiếu tính răn
đe.19 Tuy nhiên, trong văn kiện Các hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa
phạm pháp ở người chưa thành niên: “Cần nhận thức rằng những hành vi hay xử
sự của tuổi trẻ không phù hợp với các chuẩn mực và giá trị xã hội chung thường là
một phần của quá trình trưởng thành và phát triển, chúng có xu hướng mất đi ở hầu
hết mọi cá nhân cùng với quá trình chuyển sang giai đoạn trưởng thành”. Nghiên
cứu pháp luật của các nước trên thế giới cho thấy, ngày càng có nhiều nước quy
định và áp dụng xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội. Mục
tiêu của xử lý chuyển hướng các hành vi phạm tội của người chưa thành niên là
nhằm giảm thiểu sự tiếp xúc của các em với hệ thống tư pháp để từ đó giảm tác
động, ảnh hưởng do hệ thống tư pháp chính thống mang lại, cũng như sự kỳ thị của
cộng đồng, đồng thời cũng tránh việc để lại án tích cho các em. Các biện pháp xử lý
chuyển hướng khơng chỉ xử lý hành vi phạm tội mà cịn giải quyết cả những
nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc phạm tội và do đó tác dụng phịng ngừa tái phạm
đặc biệt hiệu quả. Ngoài ra, xử lý chuyển hướng là quy trình giải quyết vụ việc tại
cộng đồng trên cơ sở hỗ trợ của cộng đồng và do đó, tránh được tình trạng q tải
và chi phí tốn kém do thủ tục tố tụng chính thức gây nên.20

Nguyên tắc thứ ba: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm nhân
thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của
việc phòng ngừa tội phạm.
Ngun tắc này cụ thể hóa mục tiêu trong chính sách xử lý người chưa
thành niên phạm tội của nước ta “bất kỳ cách thức xử lý nào có thể được áp dụng
đối với người chưa thành niên cùng phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm
tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm
cũng như đảm bảo sự cân bằng lợi ích của người chưa thành niên phạm tội với
19

Ủy ban thường vụ quốc hội (2017), “Báo cáo tiếp thu, chỉnh lý, giải trình dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS số 100/2015/QH13”, tr12-13.
20
Ban soạn thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi) (2015), “Báo cáo đánh giá tác động dự án Bộ luật hình sự (sửa
đổi)” Hà Nôi, tr 33-34.


19

lợi ích cộng đồng, nạn nhân và gia đình họ”.21 Đồng thời, cũng đã phần nào thể
hiện được tinh thần của luật quốc tế tại Quy tắc 5 Quy tắc Bắc Kinh “Áp dụng tư
pháp đối với người chưa thành niên cần chú trọng đến phúc lợi của người chưa
thành niên, và phải bảo đảm rằng bất cứ việc xét xử nào đối với người chưa
thành niên phạm tội phải ln xem xét hồn cảnh của người phạm tội cũng như
hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội”.22 Quy tắc này đề cập đến hai mục tiêu
quan trọng nhất của một hệ thống tư pháp dành cho người chưa thành niên. Mục
tiêu thứ nhất là “tăng cường phúc lợi cho người chưa thành niên” được thể hiện
thông qua việc người chưa thành niên phạm tội nên được xử lý bởi những tồ án
gia đình hay tồ hành chính. Với những hệ thống pháp luật mà việc xét xử vẫn

được tiến hành bởi các tồ án hình sự thì mục tiêu này sẽ là “tránh việc áp dụng
những biện pháp trừng phạt một cách thuần tuý".23 Mục tiêu thứ hai của Quy tắc
5 trong Quy tắc Bắc Kinh là yêu cầu về “tính tương xứng”, một cơng cụ để hạn
chế các biện pháp trừng phạt. Theo đó, việc xét xử người chưa thành niên phạm
tội phải dựa trên cơ sở không chỉ xem xét mức độ phạm tội, mà còn phải xét đến
hồn cảnh riêng của người đó. Những hồn cảnh cá nhân của người phạm tội (ví
dụ như địa vị xã hội, hồn cảnh gia đình, sự thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra,
hay những nhân tố khác tác động đến hoàn cảnh cá nhân) sẽ ảnh hưởng đến các
biện pháp xử lý tương xứng (ví dụ như xét đến cố gắng của người phạm tội trong
việc bồi thường cho người bị hại, hay thái độ của người đó cho thấy sự cố gắng
sửa chữa để quay trở lại cuộc sống lành mạnh và có ích).24
Như vậy, khơng phải mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội đều
bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mà phải xem xét, đánh giá nhiều tiêu chí, một là
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, chỉ trong
trường hợp “cần thiết”, hai là dựa vào đặc điểm nhân thân, tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, ba là yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
21

Ban soạn thảo BLHS (sửa đổi) (2015), tlđd (17), tr.37.
Rule 5 The Beijing Rules 1985: “The juvenile justice system shall emphasize the well-being of the juvenile
and shall ensure that any reaction to juvenile offenders shall always be in proportion to the circumstances of
both the offenders and the offence”.
23
Rule 14 The Beijing Rules 1985: 14.1 Where the case of a juvenile offender has not been diverted (under
rule 11), she or he shall be dealt with by the competent authority (court, tribunal, board, council, etc.)
according to the principles of a fair and just trial. 14.2 The proceedings shall be conducive to the best
interests of the juvenile and shall be conducted in an atmosphere of understanding, which shall allow the
juvenile to participate therein and to express herself or himself freely.
24
Trần Ngọc Lan Trang (2017), tlđd (15), tr.22.

22


20

Tuy nhiên điều luật lại không quy định trường hợp nào là “cần thiết”. Theo quan
điểm của tác giả điều này rất có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác nhau
khi tiến hành xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo tác giả thì để đánh giá
trường hợp “cần thiết” sẽ căn cứ vào đặc điểm nhân thân người phạm tội, thái độ
của người phạm tội, tính chất của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phịng
ngừa tội phạm để đánh giá có cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
họ khơng hay áp dụng biện pháp xử lý khác là đã đạt mục tiêu giáo dục, giúp đỡ.
Khi xét thấy việc miễn miễn trách nhiệm hình sự hay xử lý hành chính cho
người chưa thành niên phạm tội là vượt quá giới hạn của việc để cho người phạm
tội tự kiểm điểm, hối lỗi đối với hành vi của mình, cho rằng với hành vi này không
thể để tự người phạm tội nhận ra lỗi lầm, tự ăn năn hối cải mà cần phải có sự can
thiệp của các cơ quan chức năng, cần phải có một chế tài mạnh hơn để xử lý thì mới
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật.25
Nguyên tắc thứ tư: Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng
một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu
quả giáo dục, phịng ngừa.
Ngun tắc này có nghĩa là việc lựa chọn áp dụng miễn trách nhiệm hình
sự và sau đó áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục như khiển trách, hòa giải
tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc giáo dục tại trường giáo
dưỡng sẽ phải cân nhắc đến trước tiên khi các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn
biện pháp xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Chỉ khi nào xét thấy các
biện pháp giám sát, giáo dục khơng đảm bảo “hiệu quả giáo dục, phịng ngừa”
thì việc áp dụng hình phạt mới có thể tính đến.

Với tinh thần của Công ước về quyền trẻ em yêu cầu các quốc gia thành
viên “Bất kỳ khi nào thấy thích hợp và cần thiết đề ra các biện pháp xử lý những
trẻ em vi phạm pháp luật hình sự mà không phải sử dụng đến thủ tục tư pháp,
miễn là các quyền con người và những bảo vệ pháp lý được tơn trọng đầy đủ”
25

Phùng Văn Hồng, “Ngun tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS năm
2015 – Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, (truy cập ngày 14/9/2020).


×