Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH KIM HUỆ

QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH KIM HUỆ

QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN CƢỜNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dƣới
sự hƣớng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Văn Cƣờng. Mọi tài liệu tham khảo dùng
trong luận văn đều đƣợc trích dẫn đầy đủ.

Tác giả luận văn

Đinh Kim Huệ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tố tụng dân sự

:

TTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

:

BLTTDS

Nghị quyết

:

NQ



MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA
ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............................................................ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự và mối liên hệ giữa quyền tự định đoạt của đƣơng sự với các quy
định khác trong Bộ luật Tố tụng dân sự. ............................................................ 8
1.2. Sự hình thành và phát triển của những quy định về quyền tự định đoạt của
đƣơng sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. ...... 16
1.3. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự theo pháp luật tố tụng dân sự của một
số nƣớc trên thế giới. .......................................................................................... 23
Kết luận Chƣơng 1 ................................................................................................. 34
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH .......................... 35
2.1. Quyền đƣa ra yêu cầu, giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu
giải quyết vụ việc dân sự. ................................................................................... 35
2.2. Quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh; Quyền cử ngƣời đại diện theo
ủy quyền; Quyền yêu cầu ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. .............. 44
2.3. Quyền đề nghị Tịa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Quyền đề nghị Tòa
án triệu tập ngƣời làm chứng và đƣa ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng. ................................................................................................. 50
2.4. Quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyền tự
thỏa thuận về việc xác định giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài
sản hoặc yêu cầu Tòa án trƣng cầu giám định, định giá, thẩm định giá tài
sản. ........................................................................................................................ 52



2.5. Quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự; Quyền
tham gia hoặc không tham gia phiên tòa, phiên họp. ...................................... 58
2.6. Quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án và quyền đề
nghị ngƣời có thẩm quyền tiến hành thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. ........ 63
2.7. Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm quyền tự định đoạt của
đƣơng sự. ............................................................................................................. 71
Kết luận Chƣơng 2. ................................................................................................ 73
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ......................................................... 74
3.1. Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
quyền tự định đoạt của đƣơng sự. ..................................................................... 74
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về quyền tự định đoạt của đƣơng sự. ............................................... 89
Kết luận Chƣơng 3 ............................................................................................... 112
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của một quốc gia luôn đồng hành cùng
với sự phát triển của các quan hệ xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự. Các quốc
gia trên thế giới luôn chú trọng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm kịp

thời điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong pháp luật tố tụng dân sự, quyền tự định
đoạt của đƣơng sự đƣợc biểu hiện ở khả năng khi tham gia tố tụng, đƣơng sự đƣợc
chủ động định đoạt các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trƣớc những hành vi xâm phạm. Đó cũng là nội dung đƣợc pháp luật tố tụng
dân sự của hầu hết quốc gia trên thế giới thừa nhận, áp dụng và đƣợc nâng lên thành
nguyên tắc tố tụng cơ bản chỉ đạo, định hƣớng cho việc xây dựng và thực hiện pháp
luật tố tụng dân sự. Mục đích mà pháp luật tố tụng dân sự hƣớng tới luôn nhằm bảo
đảm một cách tốt nhất việc thực hiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự vì suy cho
cùng “việc dân sự cốt ở đôi bên”, và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Nghị quyết
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực
hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nƣớc để tạo điều kiện cho các
đƣơng sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình…Đổi mới việc tổ chức phiên tịa xét xử, xác định rõ hơn vị trí,
quyền hạn, trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng theo
hƣớng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lƣợng tranh
tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp” ” và
tinh thần này đã đƣợc thể hiện tại Điều 3 Hiến pháp năm 2013, đƣợc Quốc hội
thơng qua ngày 28/11/2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014, cụ thể:
“Nhà nƣớc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân
giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi ngƣời có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện” và Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp
năm 2013: “Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa đƣợc bảo đảm”.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đƣợc xem là một trong những văn
bản pháp luật quan trọng có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo đảm quyền và lợi ích


2
hợp pháp của đƣơng sự với các quy định có ý nghĩa nhằm bảo đảm quyền tự định

đoạt của đƣơng sự. Tuy nhiên, bên cạnh những ƣu điểm nêu trên, quyền tự định
đoạt của đƣơng sự trong tố tụng dân sự chƣa phải là tồn diện xét dƣới góc độ lập
pháp và thực hiện pháp luật. Điều này đƣợc biểu hiện ở những quy định cụ thể của
pháp luật tố tụng dân sự vẫn tồn tại những bất cập, hạn chế và chƣa thực sự phát
huy đƣợc hiệu quả trong việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đƣơng sự. Mặt khác,
thực tiễn giải quyết tranh chấp vụ việc dân sự tại Tòa án trong những năm qua cho
thấy sự vi phạm về quyền tự định đoạt của đƣơng sự cịn khá phổ biến. Nhiều bản
án đƣợc tun khơng dựa trên cơ sở của nguyên tắc này. Điều đó cũng xuất phát từ
nhiều lý do khác nhau nhƣng một trong những lý do đó là các quy định của pháp
luật còn nhiều bất cập, chƣa theo kịp sự phát triển của đời sống xã hội. Bên cạnh đó,
nhận thức của ngƣời dân nói chung và của đƣơng sự nói riêng về quyền và nghĩa vụ
của họ khi tham gia tố tụng còn hạn chế. Đặc biệt hiện nay Quốc hội giao Tịa án
nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với các cơ quan ban ngành soạn thảo Dự án Bộ
luật tố tụng dân sự sửa đổi.
Chính vì những lý do trên, tác giả đã chọn “Quyền tự định đoạt của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình với mong
muốn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực tiễn về quyền tự
định đoạt của đƣơng sự, trên cơ sở đó góp phần thể chế hóa quy định trong Hiến
pháp năm 2013 thông qua việc sửa đổi quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, đồng
thời góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam nói chung,
trong đó có quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Qua khảo sát, tác giả nhận thấy liên quan đến đề tài của mình đã có một số
những cơng trình nghiên cứu khoa học đã đƣợc cơng bố và thể hiện ở những hình
thức khác nhau:
Dƣới hình thức luận văn cử nhân, có cơng trình nghiên cứu của tác giả Phan
Nguyễn Phƣơng Thảo (2008), Quyền tự định đoạt của đương sự trong q trình
Tịa án giải quyết vụ án dân sự, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trƣờng Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Ở đây, tác giả Phƣơng Thảo đã tìm hiểu những quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và các văn bản hƣớng dẫn có liên quan

đến quyền tự định đoạt, nhƣng chỉ nghiên cứu giới hạn ở một số quyền tự định đoạt
của đƣơng sự trong vụ án dân sự.


3
Dƣới hình thức luận văn thạc sĩ, có những cơng trình nghiên cứu sau:
- Nguyễn Tiến Trung (1997), Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Ở đây, tác giả đã
nghiên cứu một số nội dung quyền tự định đoạt của đƣơng sự nhƣng vào thời điểm
trƣớc khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đƣợc ban hành.
- Nguyễn Phƣơng Hạnh (2011), Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Theo đó, tác giả nghiên cứu quyền tự định đoạt của
đƣơng sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 giới hạn dƣới góc độ
quyền khởi kiện; Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; Quyền tự thỏa thuận giải
quyết vụ án dân sự; Quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.
- Nguyễn Văn Tuyết (2011), Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong Tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội. Trong cơng trình này, tác giả nghiên cứu quyền tự định đoạt của đƣơng sự
dƣới góc độ ngun tắc.
Về giáo trình, sách tham khảo, chun khảo, bình luận khoa học, có thể kể
đến những cơng trình tiêu biểu sau:
- Nguyễn Văn Cƣờng, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa chủ biên (2012),
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động – Xã hội, Hà
Nội. Trên cơ sở phân tích, so sánh giữa các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004 với Bộ luật Tố tụng dân sự đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011, các tác
giả đã nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự, trong đó có
nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đƣơng sự. Đồng thời, còn nghiên
cứu về thu thập chứng cứ chứng minh; thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm vụ án dân sự, thủ tục giải quyết việc dân sự - mà thơng qua đó đều liên

quan đến từng quyền tự định đoạt cụ thể của đƣơng sự đƣợc thể hiện qua từng giai
đoạn tố tụng tại Tòa án.
- Đỗ Văn Đại, Nguyễn Văn Tiến (2010), Tuyển tập các bản án, quyết định
của Tòa án Việt Nam về tố tụng dân sự, NXB Lao Động, Hà Nội. Trong cơng trình
này, các tác giả đã tập hợp các bản án, quyết định của Tòa án, bao gồm cả bản án,
quyết định vi phạm quyền tự định đoạt của đƣơng sự, qua đó phản ánh tình hình
thực hiện những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền tự định đoạt của
đƣơng sự.


4
- Nguyễn Phƣơng Hạnh (2012), Tìm hiểu về quyền tự định đoạt của đương
sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, NXB Chính trị
Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. Ở đây, tác giả đã đi sâu phân tích những quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011 và các văn bản hƣớng
dẫn có liên quan về quyền tự định đoạt của đƣơng sự. Bên cạnh đó, tác giả đã khảo
sát thực tiễn thực hiện những quy định này, chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập để từ
đó đề xuất một số giải pháp hồn thiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự. Tuy nhiên,
tác giả chỉ nghiên cứu giới hạn ở những quyền cụ thể nhƣ sau: Quyền thay đổi, bổ
sung, rút yêu cầu; Quyền tự thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự; Quyền kháng cáo,
khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.
- Nguyễn Thị Hồi Phƣơng chủ biên (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
Giáo trình có kết cấu gồm 10 chƣơng, trong đó, quyền tự định đoạt của đƣơng sự
đều đƣợc thể hiện qua từng nội dung cụ thể của từng chƣơng, ví dụ nhƣ một trong
những nội dung tại Chƣơng VI là Biện pháp khẩn cấp tạm thời thì tác giả đã đề cập
tới quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và đây chính là
quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
- Nguyễn Thị Hoài Phƣơng (2011), Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh
chấp tại Tòa án, Trọng tài – Cơ chế hiện hữu bảo vệ quyền dân sự, NXB Lao động,

Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cơng trình này, tác giả đã đề cập đến quyền khởi
kiện (Phần 2), các thủ tục có thể thực hiện khi khởi kiện tại Tòa án (Phần 5) gồm:
Quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Ủy quyền tham gia tố
tụng; Nhờ ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Ngồi ra, quyền tự định đoạt
còn đƣợc thể hiện ở Phần 6 Thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tịa án.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí nhƣ: Nguyễn Văn
Cƣờng (2010), “Một số vƣớng mắc trong quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự
- Những kiến nghị, giải pháp hồn thiện”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (02); Nguyễn
Văn Cƣờng (2010), “Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng
dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (11); Bùi Thị Huyền (2007), “Sự thỏa thuận của
các đƣơng sự tại phiên tịa dân sự sơ thẩm”, Tạp chí Luật học, (8); Bùi Thị Huyền
(2007), “Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đƣơng sự tại phiên tòa sơ thẩm”,
Tạp chí Luật học, (9); Nguyễn Ngọc Khánh (2005), “Nguyên tắc quyền quyết định
và tự định đoạt của đƣơng sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà


5
nước và Pháp luật, (5); Phạm Hữu Nghị (2000), “Về quyền định đoạt của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (20)...và nhiều cơng trình
nghiên cứu có liên quan khác.
Nhƣ vậy, có thể thấy cho đến nay chƣa có một cơng trình nghiên cứu nào
mang tính tồn diện và đầy đủ về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong tố tụng
dân sự. Những vấn đề mà các cơng trình nghiên cứu, các bài viết đã kể trên tuy có
đề cập đến quyền tự định đoạt của đƣơng sự, nhƣng chỉ giới hạn ở một số quyền cụ
thể hoặc dƣới góc độ nguyên tắc. Vì vậy, cơng trình nghiên cứu này khơng bị trùng
lắp với cơng trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Quyền tự định đoạt của đƣơng sự đã đƣợc quy định trong Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004 và thực hiện trong thực tiễn tại Tòa án nhân dân trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, tình hình thực tế cho thấy những quy định của pháp luật tố tụng dân sự

trong việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đƣơng sự vẫn tồn tại những bất cập, hạn
chế. Việc các bản án, quyết định của Tòa án chƣa bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự, không tôn trọng quyền tự định đoạt của đƣơng sự vẫn xảy ra.
Từ đó, mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận quyền tự định
đoạt của đƣơng sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, đánh giá thực tiễn áp
dụng những quy định của pháp luật tố tụng dân sự là cơ sở để đƣa ra một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đối tƣợng nghiên cứu: Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2011 và các văn bản hƣớng dẫn liên quan đến quyền tự định đoạt
của đƣơng sự trong thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân với các
quyền cụ thể nhƣ sau: Quyền đƣa ra yêu cầu, giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút
yêu cầu; Quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh; Quyền cử ngƣời đại diện theo ủy
quyền; Quyền yêu cầu ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; Quyền yêu cầu Tòa
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyền đề nghị Tịa án tạm đình chỉ giải
quyết vụ án; Quyền đề nghị Tòa án triệu tập ngƣời làm chứng và đƣa ngƣời có quyền


6
lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng; Quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài
sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc yêu cầu Tòa án trƣng cầu giám định,
định giá, thẩm định giá tài sản; Quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
việc dân sự; Quyền tham gia hoặc khơng tham gia phiên tịa, phiên họp; Quyền kháng
cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án; Quyền đề nghị ngƣời có thẩm quyền
giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài:
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin; Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; Quan điểm của Đảng Cộng sản về cải cách tƣ pháp

và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. Bên cạnh đó, các phƣơng pháp nghiên
cứu khoa học chuyên ngành cũng đƣợc sử dụng một cách phù hợp với nội dung của
từng vấn đề trong luận văn nhƣ:
- Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng chủ yếu ở Mục 1.2 và 1.3 Chƣơng 1 để
so sánh trong quá trình hình thành và phát triển những quy định của pháp luật tố
tụng dân sự liên quan đến quyền tự định đoạt của đƣơng sự; so sánh giữa pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam và pháp luật tố tụng dân sự các nƣớc khác trên thế giới.
- Phƣơng pháp phân tích chứng minh, phƣơng pháp diễn giải và phƣơng
pháp tổng hợp đƣợc sử dụng xuyên suốt trong luận văn, cụ thể: Ở Chƣơng 1, các
phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để thể hiện khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền tự
định đoạt của đƣơng sự cũng nhƣ mối liên hệ giữa quyền tự định đoạt với các quy
định khác trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Tiếp theo, ở Chƣơng 2, các phƣơng pháp
này đƣợc sử dụng để thể hiện nội dung quyền tự định đoạt của đƣơng sự. Cuối cùng
là Chƣơng 3 thì các phƣơng pháp này đã phát huy hiệu quả trong việc trình bày
những vƣớng mắc, bất cập của pháp luật tố tụng dân sự liên quan đến quyền tự định
đoạt của đƣơng sự nhằm đƣa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
- Phƣơng pháp thống kê đƣợc sử dụng ở Chƣơng 3 để thể hiện số liệu xét xử
của Tòa án và đánh giá một số bản án, quyết định đặc trƣng của Tòa án vi phạm
quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài:
Ý nghĩa khoa học: Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự về quyền tự định đoạt của đƣơng sự cũng nhƣ thực tiễn thực hiện các quy
định này, luận văn đã tìm ra những vƣớng mắc, bất cập trong quy định của pháp


7
luật và đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, góp phần bảo đảm
quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
Giá trị ứng dụng: Luận văn sẽ là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo
cho những ngƣời làm công tác pháp luật, sinh viên các trƣờng luật và cho những

ngƣời có mối quan tâm đến việc tìm hiểu những quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
7. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chƣơng:
Chương 1: Lý luận chung về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong tố tụng
dân sự.
Chương 2: Nội dung quyền tự định đoạt của đƣơng sự theo pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về quyền tự định đoạt của đƣơng sự và một số kiến nghị hoàn thiện.


8

CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền tự định đoạt của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự và mối liên hệ giữa quyền tự định đoạt của đƣơng sự với
các quy định khác trong Bộ luật Tố tụng dân sự.
1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Trong đời sống xã hội, đồng hành cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ
của các quan hệ dân sự là những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể
ngày càng gia tăng. Khi thiết lập một quan hệ dân sự, thông thƣờng điều mà các chủ
thể ln hƣớng tới chính là lợi ích và địi hỏi lợi ích đó phải đƣợc đảm bảo thơng
qua việc thỏa thuận với nhau bằng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Tuy nhiên, nếu
một trong các bên nhận thấy lợi ích mà mình hƣớng tới đã khơng cịn đƣợc đảm
bảo, thƣờng là do vi phạm của bên kia, điều này dẫn tới hệ quả là hình thành nên
những mâu thuẫn và nếu các bên không tự giải quyết đƣợc, mâu thuẫn ngày càng

gay gắt hơn thì một trong những phƣơng thức giải quyết tranh chấp hiệu quả mà các
bên lựa chọn là con đƣờng khởi kiện tại Tòa án. Chính vì vậy, điều này địi hỏi pháp
luật tố tụng dân sự (TTDS) phải xây dựng những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục
giải quyết tranh chấp tại Tịa án để các đƣơng sự thực hiện, trong đó bao hàm cả
những quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
Trong TTDS, các chủ thể khi tham gia tố tụng với tƣ cách khác nhau đều có
quyền và nghĩa vụ nhất định. Quyền luôn song hành cùng với nghĩa vụ, nhƣng một
khi đã đề cập đến “quyền” và những quyền này đƣợc pháp luật TTDS ghi nhận thì
những quyền đó phải đƣợc tơn trọng và bảo vệ. Theo đó, quyền tự định đoạt là một
quyền đặc thù thuộc về đƣơng sự và đƣợc thể hiện dƣới những quyền cụ thể trong
q trình Tịa án giải quyết vụ việc dân sự. Việc thừa nhận quyền tự định đoạt là một
trong những biểu hiện của sự tôn trọng quyền con ngƣời, đƣợc pháp luật của nhiều
nƣớc trên thế giới ghi nhận khơng chỉ trong pháp luật TTDS mà cịn đƣợc ghi nhận
trong Hiến pháp - văn bản pháp luật có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật. Ví
dụ, Khoản 2 Điều 77; Điều 78 Hiến pháp nƣớc Cộng Hịa Ba Lan1 quy định: “Các
đạo luật khơng đƣợc cản trở việc một ngƣời dựa vào tòa án để khởi kiện đối với hành
1

Văn phịng Quốc Hội, Trung tâm thơng tin, thƣ viện và nghiên cứu khoa học (2011), Tuyển tập Hiến pháp
một số nước, Hà Nội, tr. 14.


9
động đƣợc cho là vi phạm tự do hoặc các quyền”; “Các bên có quyền kháng cáo đối
với những phán quyết và quyết định đƣợc đƣa ra ở giai đoạn sơ thẩm. Những ngoại lệ
của nguyên tắc này và thủ tục kháng cáo sẽ do luật định”. Hoặc theo Khoản 1 Điều
46 và Khoản 1 Điều 47 Hiến pháp nƣớc Cộng Hòa Liên Bang Nga2: “Mỗi ngƣời đều
đƣợc bảo vệ các quyền và tự do của mình tại Tịa án”; “Khơng ai bị tƣớc quyền đƣợc
xét xử tại tồ án và bởi các thẩm phán mà pháp luật quy định có thẩm quyền xét xử
vụ việc đó”. Tại Việt Nam, Điều 50 Hiến pháp 1992 quy định: “Ở nƣớc Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngƣời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố
và xã hội đƣợc tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và đƣợc quy định trong Hiến
pháp và luật” và tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con ngƣời, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội đƣợc cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật. Quyền con ngƣời, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trƣờng hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Về khái niệm quyền tự định đoạt của đƣơng sự, trƣớc tiên theo Từ điển giải
thích thuật ngữ Luật học thì quyền tự định đoạt của đƣơng sự đƣợc hiểu là: “Quyền
tố tụng dân sự của đƣơng sự tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
họ tại Tòa án… Trong tố tụng dân sự, đƣơng sự có quyền quyết định việc khởi kiện
vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; rút đơn khởi kiện, thay
đổi yêu cầu khi khởi kiện; hịa giải với đƣơng sự phía bên kia”3.
Ngồi ra, theo quan niệm của một số tác giả, quyền tự định đoạt của đƣơng
sự trong TTDS đƣợc hiểu là “quyền của đƣơng sự trong việc tự quyết định về
quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi
ích đó”4; hoặc là “quyền tố tụng dân sự của đƣơng sự đƣợc quy định trong pháp luật
TTDS, theo đó đƣơng sự đƣợc tự mình lựa chọn quyết định các hành vi tố tụng
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong q trình giải quyết vụ việc
dân sự”5. Bên cạnh đó, quyền tự định đoạt là một thuật ngữ pháp lý đƣợc Bộ luật Tố
tụng dân sự (BLTTDS) 2004 sử dụng và ghi nhận tại Điều 5 dƣới nguyên tắc quyền
2

Văn phòng Quốc Hội, Trung tâm thông tin, thƣ viện và nghiên cứu khoa học (2011), tlđd 1, tr. 109.
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 224.
4
Nguyễn Cơng Bình chủ biên (2005), Giáo trình luật tố tụng dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 47- 48.
5

Nguyễn Phƣơng Hạnh (2012), Tìm hiểu về Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 16.
3


10
quyết định và tự định đoạt của đƣơng sự, nhƣng BLTTDS lại không đƣa ra khái
niệm thế nào là quyền tự định đoạt của đƣơng sự. Có thể nói, quyền tự định đoạt
của đƣơng sự đƣợc xem là một trong những nguyên tắc đặc thù của pháp luật TTDS
Việt Nam, là nền tảng để xây dựng các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải
quyết các vụ việc dân sự. Theo nội dung tại Điều 5 BLTTDS, đƣơng sự có quyền
quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự.
Tịa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của
đƣơng sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn u cầu đó. Trong q
trình giải quyết vụ việc dân sự, đƣơng sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu
của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo
đức xã hội. Một vụ kiện tại Tòa án chỉ phát sinh khi và chỉ khi có đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu của đƣơng sự, hay nói cách khác, đƣơng sự chính là chủ thể mở ra q
trình tố tụng tại Tịa án. Khi nhận thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm, đƣơng sự có quyền lựa chọn, quyết định việc có khởi kiện hay khơng khởi
kiện cũng nhƣ quyết định việc thay đổi, bổ sung nội dung hoặc rút yêu cầu. Việc
các đƣơng sự tự thỏa thuận với nhau đƣợc tơn trọng và đề cao trong q trình Tòa
án giải quyết vụ việc dân sự. Trên cơ sở nguyên tắc tại Điều 5, quyền tự định đoạt
của đƣơng sự cịn đƣợc thể hiện thơng qua những quyền cụ thể khác đƣợc pháp luật
TTDS quy định trong suốt quá trình Tịa án giải quyết vụ việc dân sự. Quyền tự
định đoạt của đƣơng sự đƣợc bắt đầu kể từ khi khởi kiện, thụ lý vụ việc cho đến khi
kết thúc vụ việc dân sự. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt khơng mang tính hồn tồn
tuyệt đối, bởi lẽ, đƣơng sự tự định đoạt nhƣng phải trong giới hạn mà pháp luật cho
phép và theo đúng thủ tục TTDS, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể
khác, mặt khác quyền ln đi đơi với nghĩa vụ, ví dụ: đƣơng sự có quyền khởi kiện

và có nghĩa vụ phải đóng tạm ứng án phí đối với u cầu của mình. Mặt khác, “mọi
hành vi định đoạt trong tố tụng chỉ có giá trị pháp lý khi đƣợc Tịa án chấp nhận”6.
Chính vì vậy, Tịa án đóng một vai trị quan trọng trong việc bảo đảm cho quyền tự
định đoạt của đƣơng sự đƣợc thực hiện và có ý nghĩa trên thực tế.
Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm về quyền tự định đoạt của đƣơng sự, có
thể khái quát về quyền tự định đoạt của đƣơng sự nhƣ sau:

6

Nguyễn Thị Hoài Phƣơng (2011), Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa án, trọng tài – Cơ chế
hiện hữu bảo vệ quyền dân sự, NXB Lao động, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 26.


11
Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong TTDS là quyền của đƣơng sự trong
việc lựa chọn, quyết định các hành vi tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình; đƣợc quy định trong pháp luật TTDS và Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho
đƣơng sự thực hiện quyền tự định đoạt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
1.1.2. Đặc điểm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Từ khái niệm về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong TTDS thì quyền tự
định đoạt có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyền tự định đoạt là quyền cơ bản của công dân, đƣợc Hiến pháp
và các văn bản pháp luật quy định, trong đó có văn bản pháp luật dân sự và TTDS.
Trong TTDS, đƣơng sự là ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ trực tiếp gắn liền với vụ
việc dân sự, bởi chính bản thân họ là ngƣời thiết lập nên các giao dịch dân sự nhằm
mục đích phục vụ cho lợi ích của mình, kết quả giải quyết vụ việc dân sự sẽ ảnh
hƣởng trực tiếp đến chính họ, vì vậy đƣơng sự hồn tồn có quyền tự định đoạt các
hành vi tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu khơng tự mình
tham gia tố tụng, đƣơng sự hồn tồn có thể ủy quyền cho ngƣời khác đại diện.
Trƣờng hợp đƣơng sự là ngƣời khơng có năng lực hành vi TTDS thì việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án do ngƣời đại diện hợp pháp thực hiện.
Thứ hai, Nhà nƣớc tạo điều kiện cho ngƣời tham gia tố tụng bày tỏ ý chí,
nguyện vọng của mình trên cơ sở quy định của pháp luật. Quyền tự định đoạt chỉ là
một tên gọi chung dùng để chỉ những quyền cụ thể mà đƣơng sự có, đƣợc pháp luật
TTDS ghi nhận và bảo đảm trong từng quy định tố tụng cụ thể, đƣơng sự chỉ đƣợc
định đoạt trong phạm vi mà pháp luật TTDS cho phép. Theo đó, đƣơng sự có quyền
lựa chọn, quyết định sẽ thực hiện những hành vi tố tụng nào để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho mình trong suốt q trình tố tụng và các chủ thể khác có nghĩa vụ
phải tơn trọng những quyền này. Ngoài ra, việc đƣơng sự thực hiện quyền tự định
đoạt không đƣợc xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác cũng
nhƣ quyền, lợi ích của Nhà nƣớc và xã hội. Mặt khác, quyền tự định đoạt của đƣơng
sự đƣợc bảo đảm thực hiện trên thực tế thơng qua vai trị tích cực của Tịa án. Bên
cạnh đó, hoạt động của Tịa án phải chịu sự kiểm sát chặt chẽ của Viện kiểm sát.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án với tƣ cách là cơ quan xét xử nắm
trong tay quyền lực nhà nƣớc có trách nhiệm tơn trọng, tạo điều kiện cho đƣơng sự
và bảo đảm cho đƣơng sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình. Những quy định


12
của pháp luật về quyền tự định đoạt của đƣơng sự chỉ thực sự có ý nghĩa khi đƣợc
áp dụng một cách có hiệu quả trong thực tiễn và phải thực sự bảo vệ đƣợc quyền,
lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
Thứ ba, quyền tự định đoạt của đƣơng sự đƣợc thể hiện trong tất cả các giai
đoạn tố tụng, kể từ khi khởi kiện, thụ lý vụ việc cho đến giai đoạn xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Từng hành vi định đoạt của đƣơng sự sẽ mở ra
từng giai đoạn tố tụng, ví dụ nhƣ việc quy định về quyền kháng cáo của đƣơng sự sẽ
mở ra thủ tục phúc thẩm, hay việc quy định về quyền đề nghị ngƣời có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ mở ra thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm. Bên cạnh đó, có những quyền tự định đoạt đƣợc thể hiện xuyên suốt từ giai
đoạn sơ thẩm cho đến phúc thẩm nhƣ quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh,

quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Thứ tư, quyền tự định đoạt của đƣơng sự khác với quyền của những ngƣời
tham gia tố tụng khác theo quy định pháp luật TTDS. Ngƣời tham gia tố tụng trong
vụ việc dân sự ngồi đƣơng sự ra thì cịn có những ngƣời tham gia tố tụng khác nhƣ
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời
giám định, ngƣời phiên dịch; nhƣng chỉ có đƣơng sự mới có quyền tự định đoạt,
hay nói cách khác, quyền tự định đoạt là quyền đặc thù thuộc về đƣơng sự mà
không dành cho những ngƣời tham gia tố tụng khác.
Thứ năm, quyền tự định đoạt trong Luật TTDS khác với quyền tự định đoạt
trong Luật tố tụng hành chính, Luật tố tụng hình sự. Trong tố tụng hành chính, đƣơng
sự đƣợc gọi là “ngƣời khởi kiện”, bên cịn lại là “ngƣời bị kiện” – mà chủ thể bị kiện
ở đây là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh, lập danh sách cử tri bị khởi kiện. Do xuất phát từ đặc điểm của
quan hệ pháp luật hành chính ln có sự xuất hiện của chủ thể đặc biệt là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc sử dụng quyền lực nhà nƣớc, nên phạm vi quyền
tự định đoạt của đƣơng sự bị hạn chế hơn, chẳng hạn nhƣ: Trong TTDS, đƣơng sự
đƣợc quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc thơng qua các phiên
hịa giải tại Tịa án, nếu hịa giải thành thì Tịa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đƣơng sự, nhƣng trong tố tụng hành chính thì giữa ngƣời khởi kiện và
ngƣời bị kiện khơng có việc “tự thỏa thuận” mà thay vào đó chỉ là đối thoại với nhau
tại buổi đối thoại, và cũng khơng có thủ tục hịa giải thành. Cịn trong tố tụng hình sự,


13
không xuất hiện thuật ngữ “đƣơng sự”, mà là ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự ... Quyền tự định đoạt rất hạn chế, nhất là trong vấn
đề thu thập chứng cứ, bởi lẽ việc chứng minh bị cáo là có tội trong q trình thu thập
chứng cứ hồn tồn thuộc trách nhiệm của cơ quan điều tra.
1.1.3. Ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.

Việc quy định quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong tố tụng dân sự thể hiện
tính chất đặc thù của ngành Luật Tố tụng dân sự trong việc bảo vệ lợi ích tƣ, vừa
địi hỏi trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
cá nhân, cơ quan, tổ chức nhƣng đồng thời cũng tơn trọng và địi hỏi trách nhiệm
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc chủ động và có trách nhiệm đối với
việc bảo vệ lợi ích của chính họ7.
Chính vì vậy, việc thừa nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong TTDS
có những ý nghĩa rất to lớn nhƣ sau:
Thứ nhất, về phƣơng diện pháp lý đã tạo điều kiện cho đƣơng sự có thể tìm
cho mình một phƣơng thức để giải quyết tranh chấp nhanh chóng và hiệu quả.
Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong TTDS bắt nguồn từ quyền tự định đoạt của
chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, bởi lẽ trong quan hệ pháp luật dân sự, địa vị
pháp lý của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không bị chi phối bởi các yếu tố
xã hội khác. Các chủ thể có quyền quyết định đối với việc tham gia hoặc không
tham gia vào các quan hệ, có quyền thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên cũng nhƣ phƣơng thức thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó với điều kiện
sự thỏa thuận này không trái pháp luật, đạo đức xã hội; các chủ thể khác có nghĩa
vụ phải tơn trọng. Chính vì vậy, khi xảy ra tranh chấp, các bên tham gia hồn tồn
có quyền lựa chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp, trong đó có con đƣờng khởi
kiện tại Tịa án dựa trên cơ sở pháp luật TTDS đã trao quyền khởi kiện, quyền yêu
cầu cho các chủ thể.
Thứ hai, việc pháp luật TTDS ghi nhận quyền tự định đoạt vừa thể hiện sự
tơn trọng, sự đề cao vai trị chủ động của đƣơng sự, vừa nhằm nâng cao trách nhiệm
của đƣơng sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự liên quan đến quyền, lợi ích
của chính họ do bản chất của các quan hệ dân sự là mang tính chất tƣ. Nhà nƣớc chỉ
7

Nguyễn Thị Hồi Phƣơng chủ biên (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 30, 31.



14
có trách nhiệm tạo điều kiện và bảo đảm cho các đƣơng sự thực hiện quyền tự định
đoạt của mình.
Thứ ba, việc quy định quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong pháp luật
TTDS sẽ giúp cho việc giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án đƣợc nhanh chóng,
hiệu quả, tiết kiệm chi phí, thời gian, cơng sức của cơ quan tiến hành tố tụng cũng
nhƣ của đƣơng sự. Q trình tố tụng tại Tịa án chỉ mở ra với điều kiện cần đầu tiên
là phải có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đƣơng sự; ngƣợc lại, một trong những
căn cứ làm cho quá trình tố tụng tại Tòa án khép lại là khi đƣơng sự rút đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu. Bên cạnh đó, đối với các tranh chấp dân sự, việc các đƣơng sự
hòa giải đƣợc và tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án
cũng làm khép lại quá trình tố tụng tại Tịa án, Tịa án sẽ khơng tiếp tục giải quyết
tranh chấp nữa.
1.1.4. Mối liên hệ giữa quyền tự định đoạt của đương sự với một số quy định
khác trong Bộ luật tố tụng dân sự.
Quyền tự định đoạt của đƣơng sự có mối liên hệ với một số quy định khác
trong BLTTDS, cụ thể:
Thứ nhất, quyền tự định đoạt của đƣơng sự có mối liên hệ với quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự (Điều 4 BLTTDS đã sửa đổi,
bổ sung năm 2011). Theo nội dung tại Điều 4 thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tịa án có thẩm quyền để
u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của ngƣời khác.
Quyền khởi kiện, yêu cầu chính là biểu hiện của một trong những quyền tự định đoạt
của đƣơng sự, bởi lẽ, theo nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đƣơng sự
thì đƣơng sự có quyền quyết định đối với việc khởi kiện, u cầu Tịa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, quyền u cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp là cơ sở để thực hiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
Thứ hai, giữa quyền tự định đoạt của đƣơng sự và nguyên tắc cung cấp
chứng cứ và chứng minh (Điều 6 BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung năm 2011) có mối

liên hệ với nhau, đƣợc biểu hiện ở chỗ: cung cấp chứng cứ là nghĩa vụ nhƣng đồng
thời cũng là quyền của đƣơng sự. Xét ở khía cạnh là quyền, đƣơng sự có quyền
cung cấp chứng cứ trong suốt q trình Tịa án giải quyết vụ việc dân sự và có
quyền yêu cầu Tịa án thu thập chứng cứ - đây cũng chính là một nội dung của


15
quyền tự định đoạt, và nhờ có quyền này mà đƣơng sự có thể bảo vệ đƣợc quyền lợi
của mình.
Thứ ba, quyền tự định đoạt của đƣơng sự có mối liên hệ với nguyên tắc bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS (Điều 8 BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung năm
2011). Điều này biểu hiện ở chỗ: nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong
TTDS thể hiện các đƣơng sự đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong
TTDS. Trong khi đó, quyền tự định đoạt là một nội dung thuộc về “quyền” của
đƣơng sự và các đƣơng sự có quyền tự định đoạt ngang nhau khi tham gia tố tụng.
Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ là cơ sở để đảm bảo cho quyền tự định
đoạt của đƣơng sự.
Thứ tư, quyền tự định đoạt của đƣơng sự có mối liên hệ qua lại với nguyên
tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự (Điều 9 BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung năm
2011). Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự cho phép đƣơng sự có
quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sƣ hay ngƣời khác có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhƣ vậy, đƣơng sự có tồn
quyền quyết định trong việc tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc là
thơng qua luật sƣ, mặt khác, đƣơng sự cũng có quyền tự mình tham gia tố tụng hoặc
cử ngƣời đại diện theo ủy quyền. Qua đó, có thể thấy rằng, nguyên tắc bảo đảm
quyền bảo vệ của đƣơng sự là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền tự định
đoạt của đƣơng sự.
Thứ năm, quyền tự định đoạt của đƣơng sự có mối quan hệ mật thiết với
nguyên tắc hòa giải trong TTDS (Điều 10 BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Liên quan đến vấn đề hòa giải, một trong những nội dung của quyền tự định đoạt là

các đƣơng sự có quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ việc
dân sự. Nội dung nguyên tắc hòa giải quy định tại Điều 10 nhƣ sau: “Tịa án có
trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đƣơng sự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của bộ luật này”. Nhƣ vậy,
pháp luật TTDS ràng buộc trách nhiệm của Tòa án trong việc tổ chức phiên hòa
giải, bảo đảm cho đƣơng sự tự thỏa thuận với nhau trên cơ sở tơn trọng ý chí và sự
tự nguyện giữa các bên. Điều này góp phần bảo đảm quyền tự định đoạt của đƣơng
sự đƣợc thực hiện trên thực tế.


16
Thứ sáu, mối liên hệ giữa quyền tự định đoạt của đƣơng sự với nguyên tắc
bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS (Điều 23a BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung năm
2011). Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tồ án có trách nhiệm bảo đảm để
các bên đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự thực hiện
quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Bằng việc
tranh luận, đƣơng sự sẽ đƣa ra ý kiến, lý lẽ để bảo vệ quyền lợi của mình trƣớc
đƣơng sự phía bên kia nhằm chứng minh u cầu của mình là đúng và đó cũng
chính là biểu hiện của việc đƣơng sự đang thực hiện quyền tự định đoạt.
1.2. Sự hình thành và phát triển của những quy định về quyền tự định đoạt
của đƣơng sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959.
Năm 1945 là một năm đánh dấu sự kiện lịch sử Cách mạng tháng tám thành
cơng, ngày 02/9/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh
nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa. Từ đó, Nhà nƣớc ta đƣợc thành lập và bản
Hiến pháp đầu tiên ra đời đƣợc Quốc Hội thơng qua vào ngày 09/11/1946. Bên cạnh
đó, Nhà nƣớc cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó chứa đựng những
quy phạm điều chỉnh về TTDS mà trƣớc tiên ta có thể kể đến là Sắc lệnh số 13/SL
ngày 24/01/1946 của Chủ tịch nƣớc quy định về cách tổ chức các tòa án và các
ngạch thẩm phán; tiếp theo là Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 của Chủ tịch nƣớc

về việc ấn định thẩm quyền các tịa án và sự phân cơng giữa các nhân viên trong tòa
án; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nƣớc về tổ chức tòa án và một
số thủ tục tố tụng; Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nƣớc về thủ
tục ly hôn.
Theo Khoản 1 Điều thứ 3, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định nhƣ
sau: “Ban tƣ pháp xã có quyền hịa giải tất cả các việc dân sự và thƣơng sự. Nếu
hòa giải đƣợc, ban tƣ pháp có thể lập biên bản hịa giải có các ủy viên và những
ngƣời đƣơng sự ký”. Ở đây, vấn đề hòa giải giữa các đƣơng sự đã đƣợc đề cập đến
cùng với sự xuất hiện của biên bản hòa giải. Các sắc lệnh ra đời tiếp sau Sắc lệnh số
13 cũng nhắc đến vấn đề hòa giải, tại Điều thứ 4 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946
ghi nhận: “Ban tƣ pháp xã hòa giải tất cả các việc hộ và thƣơng mại do các ngƣời
đƣơng sự muốn mang ra trƣớc ban tƣ pháp ấy. Biên bản hịa giải thành chỉ có hiệu
lực tƣ chứng thƣ”; hoặc theo Điều thứ 9 Sắc lệnh này: “Khi nhận đƣợc đơn khiếu về


17
dân sự hay thƣơng sự, ông thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử làm hòa
giải. Biên bản hịa giải có hiệu lực cơng chứng thƣ”. Ở đây, điều khoản này nhắc
đến “đơn khiếu”, điều đó cho phép chúng ta hiểu rằng quyền khởi kiện của đƣơng
sự đã đƣợc đề cập tới. Đến Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 thì tại Điều 9, Điều
10 quy định: “Tịa án nhân dân huyện họp thành Hội đồng hòa giải để thử hoà giải
tất cả các vụ kiện về dân sự và thƣơng sự, kể cả các việc xin ly dị, trừ những vụ
kiện mà theo luật pháp đƣơng sự khơng có quyền điều đình”. “Biên bản hồ giải
thành là một cơng chính chứng thƣ, có thể đem chấp hành ngay. Tuy nhiên, cho đến
lúc biên bản hoà giải đƣợc chấp hành xong, nếu Biện lý xét biên bản ấy phạm đến
trật tự chung thì có quyền u cầu Tồ án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ
những điều mà hai bên đã thoả thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày
phòng biện lý nhận đƣợc hoà giải thành”. Từ những quy định trên đã thể hiện sự tôn
trọng của pháp luật đối với việc hòa giải giữa các bên đƣơng sự cũng nhƣ khẳng
định tầm quan trọng của việc hòa giải. Bên cạnh vấn đề hịa giải, thì sự ghi nhận của

pháp luật về quyền kháng cáo của đƣơng sự cũng đã manh nha xuất hiện. Điều này
đƣợc thể hiện tại Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950, theo Điều 13 Sắc lệnh số 85 quy
định: “Tồ án nhân dân huyện có quyền xử chung thẩm những vụ án sơ thẩm của
ban tƣ pháp xã bị kháng cáo, hoặc những vụ phạm pháp vi cảnh mà ban tƣ pháp xã
xét cần xử phạt giam, hoặc những vụ tái phạm vi cảnh”; và tiếp theo Điều 14 của
Sắc lệnh này quy định: “Trong trƣờng hợp cấp bách, Tồ án nhân dân huyện có
quyền tun án ấn định các phƣơng pháp bảo thủ đối với những vụ kiện khơng
thuộc thẩm quyền Tồ án nhân dân huyện. Nếu ngƣời đƣơng sự kháng cáo bản án
nói trên, thì trong ngày nhận đƣợc đơn kháng cáo, Toà án huyện phải gửi hồ sơ đến
Tồ án có thẩm quyền. Tồ án này trong hạn ba ngày, sau khi nhận đƣợc hồ sơ, sẽ
tuyên án hoặc y, hoặc cải, hoặc bác bản án của Toà án nhân dân huyện…”
Đối với lĩnh vực hơn nhân và gia đình thì sự ra đời của Sắc lệnh 159/SL ngày
17/11/1950 của Chủ tịch nƣớc có ý nghĩa quan trọng. Sắc lệnh này điều chỉnh về
vấn đề ly hơn, trong đó có những quy định về căn cứ cho ly hơn, thủ tục ly hơn và
đã có sự phân biệt giữa ly hơn và thuận tình ly hôn. Theo Điều 4 Sắc lệnh 159 quy
định: “Khi xử việc ly hơn, Tịa án áp dụng thủ tục tố tụng thƣờng nhƣ xử các việc
hộ khác. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp hai vợ chồng thuận tình xin ly hơn, nếu tòa án
nhân dân huyện hay thị xã hòa giải khơng thành, và nếu sau đó một tháng hai vợ
chồng vẫn giữ ý kiến xin ly hơn, thì tịa án nhân dân huyện hay thị xã sẽ chính thức


18
công nhận sự ly hôn”. Ở đây, pháp luật vẫn đề cao vai trò của việc hòa giải, đồng
thời thể hiện sự tơn trọng ý chí của mỗi bên đối với mối quan hệ hơn nhân của
chính mình, một khi hai bên đã thuận tình ly hơn và vẫn giữ nguyên ý kiến sau thời
hạn 01 tháng thì trách nhiệm của Tịa án là phải cơng nhận việc ly hơn đó.
Nhƣ vậy, trong giai đoạn này, các Sắc lệnh do Chủ tịch nƣớc ban hành là văn
bản chứa đựng những quy phạm pháp luật điều chỉnh về thủ tục TTDS, trong đó
bao gồm quyền tự định đoạt của đƣơng sự nhƣng còn sơ sài, chƣa rõ ràng cụ thể,
chủ yếu đề cập tới vấn đề tổ chức và thẩm quyền của Tịa án. Tuy nhiên, những quy

định này chính là nền tảng để phát triển những quy định về quyền tự định đoạt của
đƣơng sự về sau.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989.
Ở giai đoạn này, Nhà nƣớc ta hai lần sửa đổi Hiến pháp, theo đó, Hiến pháp
năm 1959 ra đời thay thế cho Hiến pháp năm 1946 và tiếp sau Hiến pháp năm 1980
ra đời thay thế cho Hiến pháp 1959. Đồng thời, các Sắc lệnh trƣớc đó cũng khơng
cịn hiệu lực, thay vào đó Nhà nƣớc đã ban hành các văn bản pháp luật có ý nghĩa
quan trọng nhƣ Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 cùng các Thơng tƣ do
Tịa án nhân dân tối cao và Bộ Tƣ pháp ban hành quy định về thủ tục TTDS, trong
đó chứa đựng những quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự.
Vấn đề hòa giải giữa các đƣơng sự vẫn tiếp tục đƣợc pháp luật TTDS đề cao,
tại Thơng tƣ số 614/DS ngày 24/4/1963 của Tịa án nhân dân tối cao ghi nhận:
“Việc hòa giải của Tòa án nhân dân nhằm giúp đỡ các đƣơng sự tự thỏa thuận với
nhau giải quyết việc kiện trên tinh thần đồn kết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, chính sách, do đó, phải bảo đảm những yêu cầu sau đây: Phải có sự tự nguyện
của các đƣơng sự, nội dung thỏa thuận của các đƣơng sự phải đúng pháp luật, chính
sách”. Xuất phát từ tính chất tƣ trong quan hệ dân sự, việc tự thỏa thuận đƣợc với
nhau giữa các bên đƣơng sự trong vụ việc dân sự chính là mục đích đầu tiên mà
pháp luật TTDS hƣớng tới.
Về vấn đề khởi kiện và thay đổi yêu cầu khởi kiện, theo Thơng tƣ số 614/DS
ngày 24/4/1963 của Tịa án nhân dân tối cao quy định: “Đƣơng sự cũng có quyền
thay đổi yêu cầu trƣớc khi Tòa án quyết định”; và tại Thơng tƣ số 39/NCPL ngày
21/01/1972 của Tịa án nhân dân tối cao quy định: “…Nguyên đơn có đủ tƣ cách để


19
đi kiện phải là ngƣời có năng lực hành vi và có quyền lợi bị xâm phạm. Nguyên đơn
có thể ủy quyền cho một ngƣời có năng lực hành vi thay mặt cho mình trong việc
kiện…”. Đến Thơng tƣ số 96/NCPL ngày 08/02/1977 của Tòa án nhân dân tối cao

cũng thể hiện: “…Tòa án nhân dân chỉ thụ lý khi nguyên đơn khởi tố, trừ trƣờng
hợp luật pháp có quy định quyền khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân, của cơng dân,
hợp tác xã hoặc đồn thể nhân dân để bảo vệ lợi ích chung…”. Ngồi ra, Thơng tƣ
số 96/NCPL ngày 08/02/1977 còn quy định về quyền của đƣơng sự cụ thể nhƣ sau:
- Đƣợc Tòa án nhân dân cho xem hoặc sao chép đơn từ, tài liệu của các
đƣơng sự khác, nhân chứng, giám định viên nếu nhận thấy việc đó cần thiết cho
đƣơng sự chuẩn bị chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ những quyền lợi của họ và việc đó
khơng gây khó khăn cho việc điều tra, hòa giải.
- Đƣợc đề xuất yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc thay đổi yêu cầu của việc kiện.
- Đƣợc đề xuất chứng cứ và những yêu cầu về điều tra hoặc về biện pháp
khẩn cấp tạm thời cần đƣợc Tòa án nhân dân giải quyết.
- Đƣợc xin thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hoặc ngƣời phiên dịch.
- Đƣợc đề xuất những câu hỏi trong khi Tòa án nhân dân thẩm vấn tại phiên
tòa và đƣợc tham gia cuộc tranh luận.
- Đƣợc rút đơn kiện hoặc hòa giải với nguyên đơn, bị đơn về phần có liên
quan đến mình.
- Đƣợc kháng cáo, kháng án theo những quy định của pháp luật, nhƣng
ngƣời thứ ba chỉ đƣợc kháng cáo, kháng án về những vấn đề có liên quan đến quyền
lợi của họ.
Từ những quy định trên đây, quyền khởi kiện cũng nhƣ quyền thay đổi yêu
cầu, quyền rút đơn khởi kiện của đƣơng sự đã đƣợc pháp luật TTDS thừa nhận một
cách rõ ràng. Bên cạnh đó, một điểm mới nữa là pháp luật đã đề cập đến vấn đề ủy
quyền của đƣơng sự, cho phép đƣơng sự quyết định tự mình hoặc ủy quyền cho
ngƣời khác nhân danh mình tham gia tố tụng. Ngồi ra, pháp luật còn đề cập đến
quyền của đƣơng sự trong việc đề xuất chứng cứ và yêu cầu Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Đây là những
quy định có ý nghĩa rất quan trọng để phát triển và hoàn thiện pháp luật TTDS về sau.



×