BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
PHẠM THỊ THU HỒNG
QUYỀN ĐÁNH CÁ TRONG CÔNG ƢỚC CỦA LIÊN
HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN 1982
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ
TP.HCM, 2012
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
QUYỀN ĐÁNH CÁ TRONG CÔNG ƢỚC CỦA LIÊN
HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN 1982
SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM THỊ THU HỒNG
KHÓA: 33
MSSV:0855050053
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: THS. GVC NGUYỄN THỊ
YÊN
TP. HỒ CHÍ MINH, [2012]
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu nghiêm
túc của chính tác giả, không sao chép của bất kỳ ai khác.
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tác giả muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Nguyễn Thị Yên, người
đã hướng dẫn và đóng góp ý kiến cho tác giả trong suốt q trình làm khóa ln.
Cảm ơn cơ vì những định hướng, những tài liệu quý báu và những động viên, khích
lệ giúp tác giả có thể hồn thành tốt khóa luận.
Tác giả cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo đã giảng dạy
trong bốn năm qua, những kiến thức mà tác giả nhận được trên giảng đường Đại
học sẽ giúp tác giả có đủ hành trang để vững bước trong tương lai.
Cuối cùng, tác giả muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến bạn bè và gia đình, những
người thân u nhất ln quan tâm, động viên và tạo điều kiện cho tác giả hồn
thành khóa luận này.
Sinh viên thực hiện khóa luận
Phạm Thị Thu Hồng
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NGUYÊN TẮC TỰ DO BIỂN CẢ ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH
QUYỀN ĐÁNH CÁ TRONG CÔNG ƢỚC LUẬT BIỂN 1982 ............................5
1.1
Nguyên tắc tự do biển cả trong Luật quốc tế ............................................5
1.1.1 Giới thiệu sơ lược về Luật biển quốc tế và nguyên tắc tự do biển cả .........5
1.1.2 Khái quát tiến trình phát triển Luật biển của Việt Nam và nguyên tắc tự
do biển cả ...........................................................................................................10
1.2 Quyền tự do đánh cá và bƣớc đầu đƣợc pháp điển hóa vào Luật biển
quốc tế hiện đại ....................................................................................................13
1.2.1 Quyền tự do đánh cá trong học thuyết tự do biển cả ................................13
1.2.2 Công ước Geneva 1958 về đánh cá và nguyên tắc tự do biển cả .............15
1.3 Công ƣớc của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 và sự phát triển của
quyền đánh cá.......................................................................................................19
1.3.1 Sự ra đời của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 ................19
1.3.2 Sự phát triển của quyền đánh cá trong Công ước Luật biển 1982 .........213
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................24
CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUYỀN ĐÁNH CÁ
TRONG CÔNG ƢỚC LUẬT BIỂN 1982 .............................................................25
2.1
Quyền đánh cá trong khu vực đặc quyền kinh tế ...................................25
2.1.1 Khái niệm và sơ lược về lịch sử hình thành vùng đặc quyền kinh tế ........25
2.1.2 Nội dung quyền đánh cá của quốc gia ven biển tại vùng đặc quyền kinh tế
............................................................................................................................28
2.1.2.1 Quyền khai thác tài nguyên cá và sinh vật biển của quốc gia ven biển.28
2.1.2.2 Quyền xác định lượng cá dư thừa và cho nước ngoài tiếp cận .............34
2.1.3 Nghĩa vụ bảo tồn tài nguyên cá và sinh vật biển trong vùng đặc quyền
kinh tế .................................................................................................................39
2.2
Quyền đánh cá trên vùng biển quốc tế ....................................................42
2.2.1
Cách xác định vùng biển quốc tế ..........................................................42
2.2.2 Nội dung quyền đánh cá trên vùng biển quốc tế .......................................43
2.2.3 Nghĩa vụ bảo tồn tài nguyên cá và sinh vật biển trong vùng biển quốc tế
............................................................................................................................46
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................49
CHƢƠNG 3: QUYỀN ĐÁNH CÁ TRONG VÀ NGOÀI VÙNG BIỂN CHỦ
QUYỀN CỦA NGƢ DÂN VIỆT NAM .................................................................51
3.1
Quyền đánh cá của ngƣ dân Việt Nam ....................................................51
3.1.1 Quyền đánh cá theo quy định của pháp luật Việt Nam .............................51
3.1.2 Khu vực đánh cá của ngư dân Việt Nam ...................................................54
3.2 Thực trạng và khó khăn trong hoạt động khai thác thủy sản của ngƣ dân
Việt Nam hiện nay ...............................................................................................62
3.2.1 Tình hình khai thác thủy sản nước ta thời gian gần đây ...........................62
3.2.2 Một số khó khăn của ngư dân Việt Nam tham gia khai thác thủy hải sản 64
3.3 Chiến lƣợc phát triển của ngành khai thác và hoạt động bảo vệ nguồn lợi
thủy sản .................................................................................................................67
3.3.1 Một số chương trình đưa ra đối với sự phát triển hoạt động khai thác và
bảo vệ nguồn lợi thủy sản...................................................................................67
3.3.2 Những tồn tại và thách thức phải đối mặt .................................................67
3.3.3 Một số ý kiến để giải quyết những vấn đề trên .........................................75
Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng và khai thác biển nhằm phục vụ cho các nhu
cầu sinh hoạt và đời sống của mình. Biển được sử dụng là con đường thơng thương, mua
bán hàng hóa, vận chuyển con người từ nơi này đến nơi khác. Biển còn cung cấp cho
con người nguồn thực phẩm dồi dào và quan trọng. Theo đó, hoạt động khai thác, đánh
bắt cá trên biển đã có từ rất lâu và cũng sớm phát triển, nó đóng một vai trị khơng thể
thiếu trong hoạt động của con người mãi cho đến tận ngày nay.
Quan niệm ban đầu của con người về nguồn tài nguyên trên biển cả là vơ tận. Trên cơ
sở đó, ngun tắc tự do biển cả được hình thành và được biết đến nhiều trong học thuyết
biển tự do của Hugo Grotius. Quyền tự do đánh cá cũng là hệ quả từ nguyên tắc này.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với những đổi thay của nền kinh tế và chính trị
thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, tầm hiểu biết của loài người
cũng tăng lên, con người nhận thức được rằng nguồn tài nguyên trên biển cả không phải
là vô tận như người ta vẫn tưởng và nó có thể bị cạn kiệt nếu bị khai thác q mức.
Ngồi ra, những lợi ích mà biển mang lại cho con người là vô cùng to lớn, nó khơng chỉ
giới hạn trong vấn đề giao thương hàng hải hay khai thác tài nguyên cá, biển còn bao
gồm rất nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và những lợi ích tiềm tàng. Chính vì
vậy, mỗi quốc gia trên thế giới đều nhận thức được rằng biển đóng một vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển khơng chỉ về mặt kinh tế mà cịn cả vấn đề về quân sự, đặc
biệt đối với các quốc gia ven biển, biển còn liên quan đến vấn đề mang tính chủ quyền
lãnh thổ của quốc gia trên biển.
Khi mà sự khai thác quá mức dẫn đến gần cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên trên
đất liền, sự bùng nổ về dân số, ý thức bảo vệ chủ quyền của các quốc gia ven biển và
nhiều vấn đề khác như môi trường, quân sự.. , khiến cho các quốc gia đổ xô vươn ra
biển, khai thác biển. Các tranh chấp trên biển cũng vì thế mà diễn ra ngày càng nhiều
hơn, đặc biệt là những tranh chấp xảy ra để tranh giành quyền khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên trên biển trong đó có nguồn tài nguyên cá và sinh vật biển.
Những quy định không rõ ràng khiến cho tình trạng vơ chính phủ trên biển đã diễn ra
dẫn đến nhiều hệ quả đáng tiếc cho nguồn tài nguyên sinh vật biển mà quan trọng nhất
1
là sự suy giảm nguồn tài nguyên này. Cùng với đó là những thay đổi của nền chính trị
thế giới, nhiều quốc gia giành được độc lập, họ là những quốc gia có biển hay những
quốc gia khơng có biển, họ đang trên đà phát triển và họ đòi hỏi cần một sự công bằng
mới đối với việc khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật trên biển. Do đó, sau nhiều
cuộc thảo luận giữa các quốc gia trên thế giới tại các Hội nghị về Luật biển, cuối cùng,
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 ra đời mang lại một trật tự pháp lý mới
trên biển nói chung và những quy định mới về quyền đánh cá trên biển nói riêng. Cơng
ước Luật biển 1982 được ví như “Hiến pháp của thế giới về biển và đại dương”, là sự
thắng lợi của cộng đồng quốc tế về quản lý các vùng biển.
Biển Việt Nam có một vị trí chiến lược quan trọng cùng nhiều tiềm năng khác để phát
triển nền kinh tế biển, đặc biệt có thể kể đến nguồn tài nguyên sinh vật phong phú và đa
dạng với nhiều lồi có giá trị kinh tế cao. Cơng ước Luật biển 1982 được thơng qua có
một ý nghĩa vô vùng to lớn đối với nước ta. Cơng ước ra đời góp phần khẳng định chủ
quyền và các quyền chủ quyền đối với nguồn tài nguyên sinh vật trên các vùng biển của
nước ta.
Ngành thủy sản Việt Nam, trong đó có hoạt động khai thác đang ngày càng đóng góp
nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay
khi mà những diễn biến trên Biển Đơng có nhiều phức tạp, ngư dân Việt Nam đang gặp
nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền đánh cá của mình trên các vùng biển Việt
Nam và vùng biển quốc tế. Để bảo vệ quyền đánh cá của ngư dân Việt Nam, Nhà nước
ta đã ban hành nhiều văn bản pháp quy về biển, đặc biệt ngày 21-6-2012 vừa qua, Quốc
hội đã thông qua Luật biển Việt Nam cũng khơng nằm ngồi mục đích này. Bên cạnh
đó, “Chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020” đã nhấn mạnh: “Tổ
chức lại sản xuất khai thác hải sản trên biển, trên cơ sở cơ cấu lại tàu thuyền, nghề
nghiệp phù hợp với các vùng biển, tuyến biển, với môi trường tự nhiên, nguồn lợi hải
sản. Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để định hướng khai thác, bảo tồn và phát triển
nguồn lợi hải sản trên biển, tăng cường sự tham gia của cộng đồng. Đổi mới và ứng
dụng khoa học công nghệ trong khai thác thủy sản, bảo quản sản phẩm để giảm tổn thất
sau thu hoạch.”
2
Với mong muốn nghiên cứu sự hình thành, nội dung và những điểm mới của quyền
đánh cá trong Công ước Luật biển 1982 cũng như những quy định về quyền đánh cá
trong các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam, tìm hiểu về thực trạng, tình hình khai
thác các nguồn tài nguyên cá ở Việt Nam thời gian gần đây, từ đó đưa ra một số ý kiến
về cách giải quyết để hoàn thiện hơn những quy định về quyền đánh cá của ngư dân Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Quyền đánh cá trong
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài về “quyền đánh cá trong Công ước Luật biển 1982” khơng phải là một đề tài
mới, đã có nhiều tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu và cũng đã từng được nghiên cứu
làm khóa luận trước đây đó là đề tài “Vùng đặc quyền kinh tế và các quy định về đánh
cá trong Công ước Luật biển 1982 và theo pháp luật Việt Nam” (Đoàn Thị Thu Trang 2005). Tuy nhiên, tác giả vẫn chọn đề tài này làm bài khóa luận tốt nghiệp của mình với
những sự phân tích theo hướng khác so với đề tài khóa luận trước đây đã làm. Tính mới
trong bài khóa luận của tác giả so với đề tài trước đây từng được nghiên cứu đó là ngồi
việc phân tích rõ nội dung quyền đánh cá theo Luật biển quốc tế hiện đại đặc biệt là
trong Công ước Luật biển 1982 và tìm ra những điểm tương đồng phù hợp với quy định
của pháp luật Việt Nam, đồng thời tìm hiểu sâu hơn về thực tiễn của Việt Nam đối với
hoạt động này.
Trong bài khóa luận tốt nghiệp của mình, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề
sau:
Những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc tự do biển cả và sự tác động của nó
đối với việc hình thành nên Luật biển quốc tế hiện đại và những quy định mới về
quyền đánh cá trong Công ước Luật biển 1982.
Tập trung nghiên cứu quyền đánh cá trong Cơng ước Luật biển 1982 trên hai
vùng biển đó là vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển và vùng biển quốc
tế.
Tìm hiểu các quy định về quyền đánh cá theo quy định của pháp luật Việt Nam,
thực trạng, các định hướng phát triển ngành khai thác thủy sản Việt Nam và
những thách thức hiện nay mà ngư dân Việt Nam đang phải đối mặt.
3
Đây là một đề tài rộng, tuy nhiên, tác giả chỉ tập trung đối với quyền khai thác cá
(bao gồm nguồn tài nguyên cá và các sinh vật biển khác) được quy định trong Công ước
Luật biển 1982 và những quy định của pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn hiện nay
về hoạt động khai thác cá của Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong bài khóa luận tốt nghiệp của mình, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê… trên cơ sở nghiên cứu cá nhân dựa trên sự tham khảo có
chon lọc từ các văn bản pháp lý, các tài liệu, giáo trình, bài viết của nhiều tác giả khác
nhằm làm sáng tỏ nội dung của đề tài.
4. Bố cục của đề tài
Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn và mục lục thì khóa luận bao gồm có các phần sau:
Lời nói đầu
Chương 1: Nguyên tắc tự do biển cả đối với sự hình thành quyền đánh cá trong
Cơng ước Luật biển 1982.
Chương 2: Những nội dung cơ bản của quyền đánh cá trong Công ước Luật biển
1982.
Chương 3: Quyền đánh cá trong và ngoài vùng biển chủ quyền của ngư dân Việt
Nam.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
4
CHƢƠNG 1: NGUYÊN TẮC TỰ DO BIỂN CẢ ĐỐI VỚI SỰ HÌNH
THÀNH QUYỀN ĐÁNH CÁ TRONG CƠNG ƢỚC LUẬT BIỂN 1982
1.1 Nguyên tắc tự do biển cả trong Luật quốc tế
1.1.1 Giới thiệu sơ lược về Luật biển quốc tế và nguyên tắc tự do biển cả
Từ xa xưa, biển đã thuộc về tự nhiên trước khi thuộc về luật pháp, vì vậy nó là đối
tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên trước khi là đối tượng điều chỉnh của luật pháp.
Trước đây, khi sự hiểu biết về các nguồn tài nguyên của con người còn hạn chế cùng
với nền khoa học kỹ thuật chưa hiện đại, biển cả được biết đến và quan tâm chủ yếu là
trong hàng hải giao thương buôn bán giữa các nước và quan trọng nhất đó là nguồn cung
cấp cho con người số lượng hải sản khổng lồ mà khơng gì có thể thay thế được cùng với
các sản phẩm từ trồng trọt, săn bắn và hái lượm. Có thể thấy, biển đóng một vai trị quan
trọng trong sự phát triển của lồi người.
Theo Luật quốc tế truyền thống, biển được chia thành hai phần đó là lãnh hải và biển
cả. Lãnh hải là một dãy hẹp ven bờ, phần bên trong lãnh hải và toàn bộ tài nguyên sinh
vật bên trong khu vực đó nằm hồn tồn dưới chủ quyền của quốc gia ven biển và quốc
gia ven biển chỉ có thẩm quyền trong phần biển từ lãnh hải trở vào. Bên ngoài ranh giới
lãnh hải là biển cả. Trong khu vực này, bất cứ quốc gia nào dù có biển hay khơng có
biển, quốc gia phát triển hay khơng phát triển đều có quyền khai thác, đánh bắt tài
nguyên sinh vật biển như nhau1.
Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng tăng cao, những nguồn tài
nguyên mới được phát hiện ngày càng nhiều bên cạnh sự tích cực nghiên cứu để tìm ra
những phương thức để khai thác và sử dụng chúng. Kéo theo đó là hàng loạt vấn đề
được đặt ra như kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng… mà quan trọng là sự mở rộng
tầm ảnh hưởng của các quốc gia ra biển để có thể chiếm hữu, khai thác và sử dụng
những nguồn tài nguyên nay theo ý của riêng mình cùng với quyền tài phán quốc gia
trên các vùng biển. Vì vậy, hồn thiện những chế độ pháp lý đối với các quốc gia sử
dụng biển vì các mục đích khác nhau là một việc cần làm.
Trong hệ thống pháp luật quốc tế, Luật biển quốc tế là một ngành luật truyền thống,
đã có từ lâu đời và được tồn tại dưới dạng các tập quán pháp.
1
Nguyễn Trường Giang, “Luật Quốc tế về đánh cá trên biển”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia (2010), tr.11.
5
Các học thuyết pháp lý có từ trước thế kỷ XX đã góp phần vào sự phát triển của Luật
biển quốc tế hiện đại, có thể kể ra một số học thuyết tiêu biểu như sau: thuyết Res nullis
(biển cả không phải của riêng quốc gia nào, do vậy ai muốn làm gì tại đó cũng được),
thuyết Res communis (biển cả là của chung, là đối tượng vật chất mà bất kỳ quốc gia
nào cũng có quyền sử dụng), thuyết biển tự do (luận cứ của học thuyết nay bắt nguồn từ
bản chất tự nhiên của biển cả, đó là tính động, tính lỏng, tính thống nhất, tính khơng cạn
kiệt của tài nguyên theo quan niệm của thời kỳ đó và Luật tự nhiên), thuyết biển đóng.
Trong đó, học thuyết biển tự do là học thuyết được ủng hộ mạnh mẽ nhất.
Với các quan niệm rằng biển cả là nguồn tài nguyên vô tận, không cạn kiệt và là của
chung, khơng của riêng ai do tính đặc thù của biển là một môi trường tương đối đồng
nhất, luôn vận động và không thể phân chia thống nhất nên lúc đầu chưa xảy ra các cuộc
đấu tranh giành quyền lực trên biển hay đấu tranh để chiếm hữu các nguồn tài nguyên
trên đó. Các quy tắc trên biển đầu tiên mang nặng tính tập qn, được hình thành từ
những người đi biển như ngư dân, thủy thủ, hoa tiêu hay các thương nhân, sau đó được
các nhà lập pháp pháp điển hóa thành những quy định pháp luật. Có thể nói “các quyền
sơ khai đầu tiên chính là nguyên tắc tự do biển cả”2.
Nếu như trước đây, Luật biển quốc tế chủ yếu tồn tại dưới dạng các quy phạm tập
quán xuất phát từ các học thuyết thì cùng với sự phát triển về trình độ khoa học kỹ thuật
và cách cư xử cũng như thái độ của các quốc gia khi tham gia khai thác, sử dụng biển
đặc biệt là đối với các ngành kinh tế như vận tải biển, khai thác tài nguyên thiên nhiên
trên biển… đòi hỏi một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần có một trật tự pháp lý quốc tế trên
biển phù hợp với trình độ phát triển của thế giới hiện đại. Theo đó, Luật biển quốc tế
cũng có những sự phát triển khơng ngừng và đang ngày càng tiếp tục hồn thiện hơn.
Quá trình hình thành và phát triển của Luật biển quốc tế đánh dấu những bước thay đổi
cơ bản trong tư duy nhận thức của con người về môi trường tự nhiên gắn với sự phát
triển chung của lịch sử nhân loại.
Đối với sự hình thành và phát triển của Luật biển quốc tế hiện đại, không thể không
kể đến vai trò quan trọng của các Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển. Các Hội
nghị Luật biển đã pháp điển hóa nhiều nguyên tắc và quy phạm của Luật biển quốc tế
2
Bộ Ngoại giao Ban biên giới, “Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của Luật biển ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia (2004), tr. 11.
6
bao gồm những nguyên tắc và quy phạm của Luật quốc tế về biển đã và đang tồn tại
dưới dạng tập quán pháp quốc tế, các quy phạm pháp luật quốc gia, cùng với đó là các
nguyên tắc và quy phạm mới được thảo luận tại các Hội nghị. Các nguyên tắc và quy
phạm này kết hợp với nhau tạo nên một trật tự pháp lý mới tại các vùng biển. Trong
tổng số bốn Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển được tố chức (Hội nghị Luật biển
đầu tiên năm 1930 tại Lahay, Hội nghị Luật biển lần thứ nhất năm 1958 tại Geneva, Hội
nghị Luật biển lần thứ hai năm 1960 tại Geneva, Hội nghị Luật biển lần thứ ba từ năm
1973 đến năm 1982 tại nhiều thành phố lớn trên thế giới), có thể thấy, Hội nghị Luật
biển lần thứ nhất và lần thứ ba đã đạt được nhiều kết quả đáng kể mà quan trọng nhất là
đã góp phần pháp điển hóa những tập quán trên biển trở thành những quy phạm pháp
luật được quy định trong bốn Công ước Geneva 1958 và về sau là trong Công ước Luật
biển 1982.
Từ những quy định trong các văn bản pháp luật quốc tế kể trên, với cách tiếp cận
Luật biển là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế và là một ngành luật rất cổ
xưa, có thể định nghĩa Luật biển như sau:
“Luật biển là tổng hợp của các quy phạm pháp lý quốc tế được thiết lập bởi các quốc
gia trên cơ sở thỏa thuận hoặc thơng qua thực tiễn có tính tập quán nhằm điều chỉnh
chế độ pháp lý của các vùng biển và các hoạt động nhằm sử dụng biển cũng như bảo vệ
môi trường biển và hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong các lĩnh vực này”3.
Cùng với sự phát triển của các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế, Luật biển
quốc tế hiện đại cũng đã có sự phát triển đáng kể so với Luật biển quốc tế trước đây khi
còn tồn tại chủ yếu dưới dạng tập quán.
Luật biển quốc tế được xác định là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế.
Do đó, Luật biển quốc tế hiện đại được xây dựng dựa trên cơ sở phù hợp với các nguyên
tắc cơ bản của Luật quốc tế4, có thể được kể đến 7 nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
được nêu trong Tuyên ngôn của Liên hợp quốc năm 1970 bao gồm:
3
4
-
Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia;
-
Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
-
Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc;
Ts Lê Mai Anh (chủ biên), “Luật biển quốc tế hiện đại”, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội (2005), tr. 17.
PGS. TS Nguyễn Trung Tín, “Giáo trình Luật biển quốc tế”, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân (2008), tr.16,17.
7
-
Nguyên tắc không dùng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực;
-
Ngun tắc hịa bình giải quyết tranh chấp quốc tế;
-
Nguyên tắc quốc gia có nghĩa vụ hợp tác lẫn nhau;
-
Nguyên tắc tuân thủ các cam kết quốc tế.
Vì là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế nên Luật biển quốc tế cũng có
những mối quan hệ với một số ngành khác trong hệ thống pháp luật quốc tế như Luật
Điều ước quốc tế, Luật quốc tế về lãnh thổ quốc gia, Luật hàng không quốc tế, Luật
hàng hải quốc tế, Luật môi trường quốc tế5. Trong đó, Luật biển quốc tế có mối quan hệ
mật thiết với Luật quốc tế về lãnh thổ quốc gia, Luật hàng không quốc tế, Luật môi
trường quốc tế. Cái này là căn cứ để xác định, tác động đến sự hình thành và phát triển
của cái kia và ngược lại. Đây là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Chính mối quan hệ với
các ngành luật này cũng đã góp phần tạo nên những nguyên tắc đặc thù riêng biệt của
Luật biển quốc tế hiện đại.
Các nguyên tắc đặc thù của Luật biển quốc tế hiện đại có nguồn gốc từ các tập quán
quốc tế và một số học thuyết lớn từ xưa, qua q trình pháp điển hóa mà gần đây nhất là
được quy định trong Công ước Luật biển 1982, đã trở thành những nguyên tắc có giá trị
pháp lý ràng buộc đối với các chủ thể của Luật biển quốc tế hiện đại. Có thể kể ra những
nguyên tắc sau được coi là nguyên tắc đặc thù riêng biệt mà chỉ riêng Luật biển quốc tế
hiện đại mới có, bao gồm:
-
Nguyên tắc tự do biển cả;
-
Nguyên tắc đất thống trị biển;
-
Nguyên tắc sử dụng biển cả vì các mục đích hịa bình;
-
Ngun tắc Vùng và tài nguyên trên Vùng là di sản chung của nhân
loại;
-
Nguyên tắc sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên sống trên biển;
-
Ngun tắc bảo vệ mơi trường biển.
Theo đó, có thể thấy, nguyên tắc tự do biển cả là một nguyên tắc đã có từ rất lâu đời,
từng tồn tại dưới dạng các quy phạm tập quán và bây giờ được pháp điển hóa, trở thành
5
Xem TS Lê Mai Anh, chú thích số 3, tr. 65-78.
8
một nguyên tắc pháp lý được công nhận rộng rãi. Hiện nay, nội dung của nguyên tắc tự
do biển cả được quy định trong Điều 87 Công ước Luật biển 1982 như sau:
“1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay khơng có biển.
Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của
Công ước và những quy phạm khác của luật quốc tế trù định. Đối với các quốc gia, dù
có biển hay khơng có biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm:
a. Tự do hàng hải;
b. Tự do hàng không;
c. Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ phần VI;
d. Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật quốc
tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI;
e. Tự do đánh bắt hải sản, trong các điều kiện đã được nêu ở Mục 2;
f.
Tự do nghiên cứu khoa học, với điều kiện tuân thủ các phần VI và phần
XIII.
2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực
hiện quyền tự do trên biển quốc tế của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được
Công ước thừa nhận liên quan đến các hoạt động trong vùng.”
“Nguyên tắc tự do biển cả được hiểu theo hai khía cạnh pháp lý cơ bản: thừa nhận sự
ngang nhau về quyền và lợi ích của mọi quốc gia trên biển cả, và khơng có sự phân biệt
đối xử dựa trên vị trí và hồn cảnh địa lý của mọi quốc gia khi tham gia sử dụng và khai
thác biển cả”6.
Mãi đến cuối thế kỷ XIX, vùng lãnh hải với chiều rộng 3 hải lý vẫn được coi là một
tập quán quốc tế. Do đó, nguyên tắc tự do biển cả được áp dụng trên hầu hết các diện
tích biển trong nhiều thế kỷ. Sau nhiều Công ước về Luật biển ra đời, dù ranh giới giữa
biển cả và các vùng biển thuộc quyền tài phán và chủ quyền của quốc gia đã có nhiều sự
thu hẹp và mở rộng đáng kể, nguyên tắc tự do biển cả vẫn luôn giữ được quan điểm biển
cả không phải là riêng của quốc gia nào, biển cả là của chung và bất cứ quốc gia nào dù
có biển hay khơng có biển đều có quyền tham gia khai thác và sử dụng nó. Tuy vậy,
6
Xem TS Lê Mai Anh, chú thích số 3, tr.31.
9
nguyên tắc tự do biển cả ngày nay cũng đã có sự phát triển về mặt nội dung và có đôi
chút khác biệt so với nguyên tắc tự do biển cả trong các tập quán xưa.
Nguyên tắc tự do biển cả có một vai trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
Luật biển quốc tế. Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để thiết lập chế độ pháp lý của các
vùng biển và đối với hoạt động của các đối tượng tham gia khai thác, sử dụng biển.
Quyền tự do biển cả không chỉ tồn tại ở vùng biển cả mà cịn có giá trị pháp lý đối với
những vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển.
“Nguyên tắc tự do biển cả luôn được coi là nền tảng mang tính chất xuất phát điểm cho
sự hình thành và phát triển các quy phạm của Luật biển quốc tế hiện đại”7.
1.1.2 Khái quát tiến trình phát triển Luật biển của Việt Nam và nguyên tắc tự do biển
cả
Là một quốc gia ven biển từ bao đời nay, Việt Nam luôn có ý thức gắn biển với sự
phát triển của đất nước và đời sống con người Việt Nam qua nhiều thế hệ trong lịch sử
cho đến tận ngày nay và mãi về sau.
Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, quá trình hình thành và phát triển của Luật
biển Việt Nam có thể được chia ra làm bốn thời kỳ8:
Luật biển trước khi các nước phương Tây tới (trước 1874)
Với truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ cùng bọc trứng trăm con, 50 con theo mẹ
lên non, 50 con theo cha xuống biển, ngay từ thưở khai sinh đất nước, người dân Lạc
Việt thời bấy giờ đã có ý thức đối với việc tiến ra biển.
Trong lịch sử, người Việt với các hoạt động đánh bắt cá và các hoạt động hàng hải,
thương mại cùng với việc thiết lập chủ quyền trên các quần đảo xa bờ như Trường Sa,
Hoàng Sa… ở các vùng biển trên Biển Đơng, đã đóng góp nhiều vào việc hình thành
nên những tập quán về Luật biển.
Trong một số sách sử cổ, đã xuất hiện những từ như “hải giới Giao chỉ”, “cương vực
mặt biển”… Vào thời nhà Nguyễn, các vua chúa Nguyễn cũng đã có nhiều hoạt động
7
Xem TS Lê Mai Anh, chú thích số 3, tr.34.
Xem thêm TS Nguyễn Hồng Thao, “Những điều cần biết về Luật biển”, Nhà xuất bản Công an nhân dân (1997),
tr.24-28.
8
10
quản lý nhà nước trên biển về các hoạt động đo đạc đường biển, trục vớt, cứu hộ tàu
thuyền nước ngoài…
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, chiều rộng và quy chế pháp lý của các vùng biển
chưa rõ ràng.
Luật biển dưới thời thực dân (1874 - 1954)
Năm 1859, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Trong thời kỳ này, khi là một thuộc
địa của thực dân Pháp, Luật biển Việt Nam chủ yếu xuất phát từ những văn bản luật
biển mà Pháp ban hành cho những nước thuộc địa.
Nghị định ngày 12 tháng 9 năm 1936 của Bộ trưởng thuộc địa: “Về phương diện
đánh cá, lãnh hải Đông Dương có chiều rộng là 20 kilomet tính từ ngấn nước thủy triều
thấp nhất”. Trước đó, Pháp đã mở rộng luật ngày 1 tháng 3 năm 1988 cho các thuộc địa,
theo đó, nghiêm cấm khơng cho người nước ngồi được vào đánh cá trong các vùng
nước lãnh hải, giới hạn bởi đường ranh giới 3 hải lý tính từ ngấn nước thủy triều thấp
nhất.
Thêm vào đó, Nghị định số 104/1036 năm 1948 quy định thêm vùng tiếp giáp có
chiều rộng 20 km tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất.
Luật biển trong giai đoạn đất nước bị phân chia (1954 – 1975)
Thời kỳ này Việt Nam bắt đầu ban hành những văn bản quy định về các vùng biển,
chủ yếu là về lãnh hải và thềm lục địa. Tuyên bố ngày 27 tháng 4 năm 1965 của Nam
Việt Nam chính thức thiết lập chiều rộng lãnh hải của mình là 3 hải lý. Nam Việt Nam
tiếp tục đưa ra sơ đồ phân ra 33 lô thềm lục địa với Nghị định ngày 9 tháng 6 năm 1971.
Sau hiệp định Geneva 1954, Việt Nam được chia làm hai miền theo vĩ tuyến 17: Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa ở phía Bắc và Việt Nam Cộng hịa ở phía Nam. Vì chính sách
thù địch của Mỹ nên Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ở phía Bắc khơng được mời tham gia
vào các Hội nghị về luật biển do Liên hợp quốc tổ chức. Tuy nhiên, đại diện của một
miền Việt Nam là Việt Nam Cộng hịa đã có mặt tại Hội nghị luật biển lần thứ nhất tổ
chức tại Geneva. Mặc dù có tham gia và đưa ra những yêu cầu nhưng lại khơng được
chấp nhận. Vì vậy, Nam Việt Nam đã khơng ký các Cơng ước Geneva 1958. Nhưng có
thể nói đây là những bước đầu Việt Nam đưa Luật biển của mình tiến gần hơn với sự
phát triển Luật biển trên thế giới.
11
Ngày 1 tháng 4 năm 1972, chế độ Việt Nam Cộng hòa tuyên bố một vùng đánh cá
đặc quyền rộng 50 hải lý tính từ ranh giới ngồi cùng của lãnh hải.
Luật biển từ khi đất nước thống nhất (sau 1975)
Sau khi chiến tranh kết thúc, công việc tái thiết đất nước còn nhiều vấn đề nan giải
cần phải giải quyết, Việt Nam bắt đầu ban hành các quy định pháp lý về biển từ năm
1977. Với Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12
tháng 5 năm 1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa,
nước Việt Nam thống nhất đã có văn bản pháp lý đầu tiên về luật biển, bước đầu cho sự
hình thành và phát triển của Luật biển Việt Nam về sau.
Tiếp theo sau đó, Chính phủ ta lại tiếp tục đưa ra Tuyên bố ngày 12 tháng 11 năm
1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á tham gia ký và
phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, đánh dấu quá trình Luật
biển Việt Nam chính thức hội nhập cùng Luật biển quốc tế.
Cùng với những Tuyên bố của Việt Nam về các vùng biển và sau đó là tham gia ký
kết Cơng ước Luật biển 1982, tại vùng đặc quyền kinh tế của mình, Việt Nam đã khẳng
định quyền chủ quyền đối với khai thác tài nguyên sinh vật.
Sau khi là thành viên của Công ước Luật biển 1982 cho đến nay, Việt Nam đã ban
hành nhiều văn bản pháp quy mới để quy định về chế độ pháp lý và tiến hành quản lý
các hoạt động diễn ra trên các vùng biển của mình, đồng thời với đó là tham gia tích cực
vào các Công ước khác liên quan đến biển như Công ước biển chuyên ngành về Hàng
hải quốc tế IMO, Công ước SOLAS về cứu hộ trên biển, Công ước về mớn nước…
Những quy định về biển của Việt Nam hiện nay tuy nhiều nhưng chưa thực sự thống
nhất để các hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên các vùng biển về các
hoạt động phát triển kinh tế, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển có thể đạt
được hiệu quả cao. Trong thời gian tiếp theo, Việt Nam cần có nhiều hơn những nghiên
cứu để ban hành những khung pháp lý mới giúp điều chỉnh tốt hơn những hoạt động trên
biển bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia, dân tộc mình.
Mặc dù sau khi ký Cơng ước Luật biển 1982, Chính phủ Việt Nam ta đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật liên quan đến các hoạt động trên biển như Bộ luật hàng hải,
12
Luật thủy sản, Luật dầu khí… nhưng một luật chung về biển thì cho đến hiện nay vẫn
chưa có. Tuy nhiên, vừa có một tin vui đó là tại phiên họp cuối ngày 21-6-2012 của kỳ
họp thứ ba của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bỏ phiếu thông
qua Luật biển với số phiếu tán thành 495/496. Luật biển Việt Nam với 7 chương và 55
điều sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-20139. Trong tình hình phát triển đất nước hiện nay, đặc
biệt là đối với kinh tế biển và bên cạnh đó là đáp ứng những yêu cầu về bảo vệ chủ
quyền đất nước, Luật biển Việt Nam ra đời là một sự kiện pháp lý vô cùng quan trọng
và cần thiết để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển quốc gia, tạo cơ
sở cho việc sử dụng, khai thác biển góp phần phát triển kinh tế đồng thời bảo vệ tốt hơn
chủ quyền vùng biển nước nhà. Sự ra đời của Luật biển Việt Nam hy vọng sẽ mở ra một
trang mới cho sự phát triển về biển của Việt Nam trong tương lai.
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, nguyên tắc tự do biển cả ảnh hưởng rất
nhiều đến hoạt động đánh bắt cá ở Việt Nam cũng như việc ban hành các văn bản pháp
luật của Nhà nước về lĩnh vực này. Các hoạt động đánh bắt cá của Việt Nam cùng với
việc xác lập các vùng đánh cá trước đây hay xác lập chế độ pháp lý đối với các vùng
biển sau khi đất nước thống nhất cũng góp phần tác động mạnh mẽ đến việc pháp điển
hóa các tập quán quốc tế về biển hình thành nên Cơng ước Luật biển 1982 tạo ra một
trật tự pháp lý mới trên biển nói chung và đối với hoạt động đánh cá của các quốc gia
trên thế giới nói riêng.
1.2 Quyền tự do đánh cá và bƣớc đầu đƣợc pháp điển hóa vào Luật biển quốc tế
hiện đại
1.2.1 Quyền tự do đánh cá trong học thuyết tự do biển cả
“Nguồn gốc của quyền tự do đánh cá trên biển cả xuất phát từ học thuyết tự do biển
cả của Hugo Grotius đưa ra cách đây hơn 350 năm”10. Hugo Grotius là thi si, triết gia,
đồng thời cũng là nhà văn, nhà bình luận và là luật gia. Trong cuốn sách về pháp luật
“De jure praedae” xuất bản năm 1604 để tư vấn pháp luật cho một cơng ty Hà Lan,
Hugo Grotius đã có viết một chương tựa đề là “Mare liberum” nói về tư tưởng tự do
9
Xem (truy cập ngày 2/7/2012).
Xem Nguyễn Trường Giang, chú thích số 1, tr.12.
10
13
biển cả, về sau được Hà Lan dùng làm cơ sở pháp lý chống lại tham vọng của người
Anh vì người Anh muốn cản trở người Hà Lan đánh cá trên biển Bắc Hải11.
Học thuyết tự do biển cả mà Hugo Grotius đưa ra trong thời kỳ đó khi chưa có Luật
biển chính thức, tất cả chỉ tồn tại dưới dạng các tập quán và theo Luật quốc tế truyền
thống thì biển chỉ bao gồm hai phần là lãnh hải và biển cả. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ
XIX, vùng lãnh hải rộng 3 hải lý vẫn là một tập qn được các quốc gia cơng nhận. Do
đó, biển cả lúc bấy giờ là một khu vực rộng mênh mông so với việc bị thu hẹp nhiều
như hiện nay. Theo lập luận của Hugo Grotius trong học thuyết tự do biển cả thì quyền
tự do đánh cá là dựa trên cơ sở nhận thức về tính khơng cạn kiệt của tài nguyên biển và
biển cả là khu vực thuộc về tất cả mọi người. Do đó, tất cả mọi người và mọi quốc gia
đều có quyền khai thác nguồn tài nguyên sinh vật ở các khu vực nằm ngoài khu vực
thuộc quyền tài phán quốc gia. Như vậy, quyền tự do đánh cá trên biển được áp dụng
hầu hết trên các diện tích của biển trong nhiều thế kỷ qua.
Tuy nhiên, Hugo Grotius cũng đưa ra những hạn chế nhất định đối với quyền tự do
trên biển cả mà điển hình là đối với quyền tự do đánh bắt cá trên biển. Quyền tự do đánh
cá trên biển bị giới hạn bởi một số điều kiện nhất định. Một quốc gia trong khi thực hiện
quyền tự do đánh cá của mình khơng được tự ý làm phương hại đến các quyền tự do,
trong đó có quyền tự do đánh cá của các quốc gia khác. Do đó, bất kỳ nguồn tài nguyên
nào trên biển cũng là của chung và không một quốc gia nào có quyền độc chiếm. Ngồi
ra, các quốc gia cũng khơng có quyền đánh cá trong các vùng nước nội thủy và lãnh hải
của các quốc gia ven biển khác12. Tuy vậy, cách đây hơn hai thế kỷ, việc đánh cá trong
lãnh hải của quốc gia ven biển vẫn là quyền tự do của các quốc gia tham gia đánh cá
trên biển. Thực ra đây không được coi là quyền nhưng đa số các quốc gia ven biển thời
bấy giờ khơng có đủ khả năng và tiềm lực để bảo vệ chủ quyền trên vùng lãnh hải của
mình tránh khỏi vi phạm của các quốc gia khác nhất là trong vấn đề đánh cá. Từ thế kỷ
XIX, các quốc gia bắt đầu có ý thức đối với vấn đề này và tìm cách hạn chế cho phép
tàu thuyền nước ngồi vào lãnh hải của mình. Cùng với đó nhiều quốc gia đã ban hành
nhiều luật lệ về việc cấm đánh cá trong vùng biển của mình. Việc các quốc gia ven biển
11
12
Xem TS Lê Mai Anh, chú thích số 3, tr.10.
Xem Nguyễn Trường Giang, chú thích số 1, tr.12.
14
ý thức đối với việc bảo vệ vùng lãnh hải cùng với đó là xu hướng mở rộng vùng đánh cá
đã dẫn đến phát sinh ra nhiều tranh chấp trong thời kỳ này.
Như vậy, ngay từ khi mới hình thành, quyền tự do đánh cá hay ngày nay được quy
định là quyền tự do đánh bắt hải sản đã không phải là một quyền tự do tuyệt đối và nó
ln có những hạn chế nhất định. Những hạn chế của quyền tự do đánh cá trong học
thuyết tự do biển cả của Hugo Grotius và hạn chế của quyền tự do đánh bắt hải sản trong
Công ước Luật biển 1982 liệu có gì khác nhau khơng sẽ được tác giả nghiên cứu ở
chương II.
Tư tưởng của Hugo Grotius dựa trên cơ sở cho rằng tài nguyên biển cả là vô tận, do
đó quyền tự do đánh bắt cá là hệ quả của nguyên tắc tự do biển cả. Ngày nay, khi con
người nhận thức được nguồn tài nguyên trên biển không phải là vô tận cùng với nguồn
tài nguyên này sẽ bị cạn kiệt nếu không được bảo tồn. Cùng với đó là sự mở rộng quyền
tài phán của các quốc gia ra biển đã đặt ra nhu cầu cần thiết phải thiết lập một trật tự
pháp lý trên biển. Các hội nghị về Luật biển do Liên hợp quốc tổ chức đã tạo nên một hệ
thống pháp luật quốc tế mới về biển, trong đó bao gồm cả những nguyên tắc pháp lý
điều chỉnh về vấn đề đánh cá trên các vùng biển. Đối với vấn đề đánh cá trong đó phải
tính đến hai Cơng ước quan trọng nhất là Công ước Geneva 1958 về đánh cá và bảo tồn
tài nguyên sinh vật trên biển cả và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982.
1.2.2 Công ước Geneva 1958 về đánh cá và nguyên tắc tự do biển cả
Trong thời kỳ này, tác động mà nguyên tắc tự do đánh cá gây ra cho tài nguyên cá
trên biển là chưa đáng kể. Tuy nhiên, khi tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao, số
lượng tàu thuyền khai thác tăng lên đáng kể cùng với chất lượng của các ngư cụ dùng để
khai thác được nâng cao, ngoài ra ý thức kém của những người tiến hành đánh bắt đã
làm cho tác động này tăng lên rõ rệt.
Đặc biệt đối với giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, khả năng và tổng
lượng đánh bắt cá của các quốc gia trên thế giới tăng lên nhanh chóng cùng với các hoạt
động đánh cá tầm xa phát triển mạnh mẽ làm cho tình trạng suy giảm tài nguyên cá xuất
hiện. Điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của quốc gia ven biển. Do đó, một
số quốc gia đã tìm cách mở rộng thẩm quyền của mình đối với khu vực biển nằm ngồi
15
vùng lãnh hải của họ đặc biệt là xu hướng mở rộng khu vực đánh cá ra biển. Tiêu biểu
có thể kể đến Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman về nghề cá ven bờ trong một số
vùng của biển cả bên ngoài lãnh hải 3 hải lý: nước Mỹ đề nghị thiết lập một “vùng bảo
tồn một phần nhất định biển cả kế cận với bờ biển Hoa Kỳ nơi các hoạt động đánh cá đã
và sẽ được phát triển trong tương lai tới một mức độ quan trọng”13. Sau khi Tuyên bố
này đưa ra đã kéo theo hàng loạt các quốc gia khác trên thế giới mở rộng khu vực đánh
cá của quốc gia mình. Ngồi ra, cũng vì vậy mà một số tranh chấp quốc tế về đánh cá
thời kỳ này đã xảy ra. Có thể ví dụ như: tranh chấp giữa Anh và Hà Lan về việc Anh
đơn phương hạn chế hoạt động đánh cá trích của ngư dân Hà Lan ở ven bờ biển
Scotland và Anh; tranh chấp về quyền đánh cá giữa Nhật Bản và Liên Xơ; tranh chấp về
hải cẩu có lơng ở biển Bering giữa Nhật, Nga và Anh; tranh chấp giữa Mỹ và Canada về
cá hồi sockeye ở Đơng Thái Bình Dương…14
Tình trạng vơ chính phủ trên biển, các quốc gia tự do đánh bắt cá đã làm cho tài
nguyên cá bị suy giảm nghiêm trọng. Chính vì lẽ đó, Hội nghị của Liên hợp quốc về
Luật biển đã được tổ chức để giải quyết những vấn đề cấp bách. Đó là kết quả của các
cuộc xung đột lợi ích gay gắt, mâu thuẫn lẫn nhau giữa các quốc gia ven biển và quốc
gia đánh cá tầm xa, giữa các quốc gia mới giành được độc lập với các quốc gia phát
triển nhằm thiết lập một trật tự mới trên biển.
Hai Hội nghị Luật biển lần thứ nhất và lần thứ hai tập trung thảo luận nhiều vấn đề,
trong đó được cho là quan trọng nhất là giới hạn và chiều rộng của lãnh hải. Ngoài ra,
“vùng đánh cá đặc quyền” cũng là một vấn đề được hai Hội nghị đưa ra bàn bạc nhiều.
Tuy nhiên, quan điểm của các quốc gia quá khác biệt nên hai Hội nghị này không đạt
được nhiều kết quả.
Có thể nói kết quả tốt nhất mà Hội nghị Luật biển lần thứ nhất đạt được là cho ra đời
bốn Công ước: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về thềm lục
địa, Công ước về biển cả, Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của
biển cả.
“Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả (có hiệu lực
ngày 20 tháng 3 năm 1966 với 36 quốc gia là thành viên) đã đưa ra các khái niệm như
13
14
Xem TS. Nguyễn Hồng Thao, chú thích số 8, tr.117.
Xem thêm Nguyễn Trường Giang, chú thích số 1, tr.29-38.
16
“giữ gìn sinh vật sống”, “biển cả” và “nghề đánh cá”; xác định các điều kiện bắt cá ở
các vùng biển gần vùng lãnh hải; thiết lập trật tự giải quyết các tranh chấp về việc đánh
bắt cá ở biển cả”15.
Công ước Geneva về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả đã có các
quy định về việc khai thác tối ưu các nguồn tài nguyên trên biển cả đồng thời với nghĩa
vụ tiến hành những hoạt động và những thương lượng cần thiết của quốc gia ven biển
với các quốc gia khác có liên quan để bảo tồn nguồn tài nguyên sinh vật biển.
Có thể tóm tắt một số nội dung chính của Cơng ước như sau:
Công ước quy định các quốc gia tiến hành những hoạt động đánh cá trên biển
cả có nghĩa vụ bảo tồn các tài nguyên sinh vật biển nhằm duy trì sản lượng
tối ưu ổn định khi khai thác nguồn tài nguyên này. Nếu các công dân của hai
hay nhiều quốc gia cùng đánh bắt một hoặc một số loài cá hoặc các tài
nguyên sinh vật biển khác trên bất kỳ khu vực nào của biển cả, các quốc gia
này sẽ, khi có yêu cầu của bất kỳ quốc gia liên quan nào, thương lượng với
nhau nhằm đạt được những thỏa thuận về các biện pháp bảo tồn cần thiết.
Cơng ước cơng nhận lợi ích đặc biệt của các quốc gia ven biển trong việc duy
trì hiệu suất của các tài nguyên sinh vật trong bất kỳ khu vực nào của biển cả
tiếp giáp với lãnh hải của mình. Quốc gia ven biển có quyền tham gia bình
đẳng vào việc nghiên cứu và đưa ra các biện pháp cần thiết cho việc bảo tồn
các tài nguyên sinh vật biển trong khu vực đó, ngay cả khi cơng dân của quốc
gia ven biển đó khơng tham gia đánh cá ở đó. Quốc gia có cơng dân tham gia
đánh cá tại bất kỳ khu vực nào của biển cả tiếp giáp với lãnh hải của một
quốc gia ven biển sẽ không tiến hành các biện pháp bảo tồn trái với các biện
pháp bảo tồn của quốc gia ven biển trong khu vực đó và sẽ thương lượng với
quốc gia ven biển đó nhằm thỏa thuận về các biện pháp cần thiết để bảo tồn
các tài nguyên sinh vật biển trong khu vực đó.
Quốc gia ven biển có quyền thơng qua các biện pháp bảo tồn đơn phương
thích hợp đối với bất kỳ loài cá nào hoặc các tài nguyên sinh vật của vùng
15
Xem PGS.TS. Nguyễn Trung Tín, chú thích số 4, tr.11.
17
biển cả tiếp giáp với lãnh hải của họ nếu các cuộc thương lượng giữa họ và
quốc gia đánh cá tầm xa không đi đến được các thỏa thuận về bảo tồn.16
Mặc dù trong Công ước quy định quyền của quốc gia ven biển đối với việc bảo tồn
tài nguyên sinh vật khá nhiều nhưng tuy nhiên quyền của các quốc gia ven biển lại bị
hạn chế đến mức gần như khơng có ý nghĩa17 vì Cơng ước khơng quy định một cơ chế
nào để những biện pháp bảo tồn của quốc gia ven biển có thể được thực hiện trên thực tế
khi các quốc gia khác phản đối. Thêm nữa, việc khơng có hiệu quả đối với các quốc gia
không phải là thành viên của Công ước cũng không làm giảm đi mức độ nghiêm trọng
gây ra cho tài nguyên sinh vật biển do việc đánh bắt cá quá mức của các quốc gia trên
biển và khơng hề có bất cứ biện pháp quản lý và bảo tồn nào mang lại.
Có thể nói, về cơ bản, Cơng ước vẫn duy trì trật tự đánh cá cũ được xây dựng trên
nguyên tắc lỗi thời – quyền tự do đánh cá trên biển cả, rút ra từ học thuyết tự do biển cả
của Hugo Grotius. Như vậy, Công ước Geneva 1958 về đánh cá và bảo tồn các tài
nguyên sinh vật của biển cả đã không giải quyết được những vấn đề cấp bách nhất để có
thể mang lại một trật tự mới đối với hoạt động đánh bắt cá trên biển. Theo đó, Cơng
ước khơng đáp ứng được u cầu mở rộng quyền tài phán về đánh cá của các quốc gia
ven biển cũng như nhu cầu bảo tồn tài nguyên cá và sinh vật biển đang bị đe dọa làm
giảm sút. Mặc dù Cơng ước có đề cập đến vấn đề bảo tồn nhưng lại khơng có những
biện pháp bảo đảm rằng việc bảo tồn đó sẽ được thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Vì
những lý do đó, Cơng ước khơng giành được sự ủng hộ và tham gia của nhiều quốc gia
trên thế giới vì khơng đáp ứng được quyền lợi của số đông các quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia mới giành được độc lập và các quốc gia đang phát triển. Nói đến việc khơng
tham gia Cơng ước này, có thể kể đến Việt Nam Cộng hòa, một phần của Việt Nam
trong giai đoạn đất nước bị phân chia vì chiến tranh hai miền Nam Bắc. Đại diện của
Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ khi có mặt tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển
lần thứ nhất đã có yêu cầu quyền đánh cá ưu tiên trên một phần của biển cả cho các
quốc gia ven biển phụ thuộc nhiều vào nghề cá, nhất là các quốc gia chưa phát triển.
16
17
Xem Nguyễn Trường Giang, chú thích số 1, tr.25-26.
Xem thêm Nguyễn Trường Giang, chú thích số 1, tr.26-27.
18
Tuy nhiên, đề nghị này cùng những đề nghị về các vấn đề khác không được chấp nhận
nên Việt Nam Cộng hịa khơng ký Cơng ước nào trong bốn Cơng ước Geneva 195818.
Có thể nói, vì vấn đề quyền lợi thiết yếu của các quốc gia ven biển về tài nguyên sinh
vật, cụ thể là trong vấn đề đánh cá ở những vùng biển tiếp giáp với lãnh hải chưa được
giải quyết. Do đó, sau khi Cơng ước Geneva 1958 về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh
vật biển ra đời và có hiệu lực cùng với cuộc thảo luận về “vùng tiếp giáp đặc quyền
đánh cá” tại Hội nghị Luật biển lần thứ hai tiếp tục thất bại vì những ý kiến quá bất đồng
giữa các quốc gia tham gia Hội nghị, nhiều quốc gia đã đơn phương ban hành luật lệ
riêng của mình để mở rộng “vùng đánh cá” của họ ra biển cả. Những vùng đánh cá đó
chủ yếu được quy định từ 50 hải lý trở lên, như Iceland, Pakistan thiết lập vùng đánh cá
rộng 50 hải lý tính từ đường cơ sở để đo lãnh hải, Maroc quy định 70 hải lý, Senegal
110 hải lý…19
Tóm lại, hai Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển đã diễn ra nhưng không đi tới
kết quả nào đáng kể. Nhưng những tác động mà Hội nghị Luật biển lần thứ nhất và lần
thứ hai đối với thực tiễn là khá mạnh mẽ đặc biệt là trong việc mở rộng lãnh hải và vùng
tài phán của các quốc gia ven biển. Đồng thời với đó, các thực tiễn của các quốc gia
trong giai đoạn này cũng có sự ảnh hưởng trở lại mạnh mẽ đối với sự phát triển của Luật
biển quốc tế về sau.
1.3 Công ƣớc của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 và sự phát triển của quyền
đánh cá
1.3.1 Sự ra đời của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982
Qua hai Hội nghị quốc tế về Luật biển đã được tổ chức, tuy đã có những tác động và
ảnh hưởng nhất định đối với thực tiễn các quốc gia nhưng lại không mang lại một trật tự
pháp lý thực sự trên biển như mong đợi.
Trong những năm 70 của thế kỷ XX, có hai nhân tố chính xuất hiện ảnh hưởng đến sự
phát triển của luật biển20. Nhân tố đầu tiên chính là sự xuất hiện của nhiều quốc gia mới
giành được độc lập và các quốc gia đang phát triển cùng với việc đòi thay đổi trật tự
18
Xem thêm TS.Nguyễn Hồng Thao, chú thích số 8, tr.26-27.
Phạm Giảng, “Luật biển”, Nhà xuất bản pháp lý (1983), tr.92.
20
Xem thêm Phạm Giảng, chú thích số 19, tr.11-19.
19
19