Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về thỏa thuận ấn định giá và thực tiễn áp dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.97 KB, 91 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

MAI XUÂN HẢI

PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

MAI XUÂN HẢI

PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế, Mã số: 60.38.50

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Thị Bích Thọ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008




3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực và chính xác. Các kết quả nghiên cứu nêu
trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Mai Xuân Hải


4

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, biểu
Lời nói đầu ................................................................................................. 1
Chương 1: Một số vấn đề chung về thỏa thuận ấn định giá .................... 4
1.1 Khái niệm về thỏa thuận ấn định giá ...................................................... 4
1.2 Những vấn đề chung về pháp luật kiểm soát hành vi thỏa thuận ấn
định giá .............................................................................................. 20
1.2.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh của pháp luật đối với thỏa thuận
ấn định giá................................................................................... 20
1.2.2 Một số hệ thống pháp luật điều chỉnh về hành vi thỏa thuận ấn

định giá ....................................................................................... 22
1.2.3 Những nguyên tắc xử lý đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá . 24
1.3 Quá trình hình thành pháp luật kiểm soát thỏa thuận ấn định giá tại
Việt Nam ............................................................................................. 26
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 34
Chương 2: Pháp luật về thỏa thuận ấn định giá và thực tiễn áp dụng
tại Việt Nam .......................................................................... 36
2.1 Các quy định pháp luật về kiểm soát thỏa thuận ấn định giá ............... 36
2.1.1 Đối tượng áp dụng pháp luật kiểm soát thỏa thuận ấn định giá .... 36
2.1.2 Hình thức của thỏa thuận ấn định giá .......................................... 40
2.1.3 Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý, xử lý đối với thỏa
thuận ấn định giá ......................................................................... 45
2.1.4 Thủ tục tiến hành xử lý đối với thỏa thuận ấn định giá ................ 47
2.1.5 Biện pháp xử lý đối với thỏa thuận ấn định giá............................ 53


5

2.2 Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm soát thỏa
thuận ấn định giá ................................................................................. 56
2.2.1 Các vụ việc diễn ra trong thực tế có dấu hiệu của thỏa thuận ấn
định giá ....................................................................................... 56
2.2.2 Những vấn đề ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật kiểm soát
thỏa thuận ấn định giá ................................................................. 62
2.3 Một số đề xuất cho việc hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi
pháp luật kiểm soát thỏa thuận ấn định giá .......................................... 68
2.3.1 Những định hướng cơ bản cho việc hoàn thiện pháp luật............. 68
2.3.2 Một số đề xuất cụ thể nhằm đảm bảo khả năng áp dụng pháp luật
kiểm soát thỏa thuận ấn định giá ................................................. 71
Kết luận chương 2 ...................................................................................... 72

Kết luận .................................................................................................... 73
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục


6

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

1. Bảng 1.1: Nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế

2. Bảng 1.2: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành
phần kinh tế

3. Bảng 1.3: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994
phân theo thành phần kinh tế

4. Bảng 1.4: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép 1988 - 2006


1

LỜI NĨI ĐẦU
Tháng 4 năm 2007, tập đồn Samsung Electronics có thêm lãnh đạo thứ 6
bị tuyên phạt 14 tháng tù giam. Đây là kết quả điều tra của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ
khi lãnh đạo này thừa nhận có dính líu vào vụ thỏa thuận ấn định giá với các
hãng sản xuất chip nhớ DRAM toàn cầu để giữ giá DRAM ở một mức có lợi nhất
cho họ1. Tháng 8 năm 2007, hãng hàng không Anh Quốc - British Airways (BA)
bị Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (DOJ) và Văn phịng Thương mại Cơng bằng Anh Quốc
(OFT) tun phạt một khoản tiền kỷ lục tổng cộng trên 260 triệu Bảng Anh do đã

có hành vi thỏa thuận với đối thủ cạnh tranh của mình là hãng hàng khơng Virgin
Atlantic ấn định mức phụ giá xăng dầu áp dụng đối với vận tải hành khách và
vận tải hàng hóa2. Đó là hai trong số rất nhiều trường hợp thỏa thuận ấn định giá
bị điều tra và xử lý trong thời gian gần đây và là kết quả của quá trình xây dựng
và thực thi hiệu quả pháp luật cạnh tranh của nhiều quốc gia có nền kinh tế thị
trường phát triển. Đồng thời, qua những chế tài nghiêm khắc trên, có thể thấy
được quan điểm của các quốc gia về sự cần thiết phải điều chỉnh các hành vi hạn
chế cạnh tranh bằng pháp luật.
Mặc dù là một nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam cũng nhận thức rõ vai
trò của cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thừa nhận sự cạnh
tranh là một yếu tố tất yếu, đảm bảo tính năng động và phát triển của nền kinh tế.
Năm 1996, Việt Nam đặt vấn đề ban hành Luật đảm bảo cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền trong kinh doanh, chống cạnh tranh không lành mạnh và chống hạn
chế thương mại. Năm 2000, thành lập Ban soạn thảo Luật cạnh tranh. Quốc hội
khóa XI đã thơng qua Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm
2004 và Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2005.
Bằng những nỗ lực trong việc đáp ứng từng bước yêu cầu của nền kinh tế
thế giới, ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kết thúc quá trình 11
năm đàm phán với nhiều nền kinh tế. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được nhiều
nước tun bố cơng nhận là nước có nền kinh tế thị trường đầy đủ (Trung Quốc,
Nga, Đức, Vênêzuêla, Nam Phi, Chi - lê và các nước thuộc ASEAN).
1

2

Hoàng Dũng (2007), “Ấn định giá DRAM: Thêm một lãnh đạo Samsung bị tù 14 tháng”, Báo điện tử
VN Media, />“British Airways chịu mức phạt kỷ lục do hành vi thỏa thuận ấn định giá”, Trang tin điện tử Cục Quản
lý cạnh tranh, />


2

Những kết quả trên là sự khẳng định về thành tựu đổi mới và hội nhập của
Việt Nam trong suốt thời gian dài xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, cho đến nay, việc đảm bảo cho các quy định pháp luật, các chủ trương
của Nhà nước nhằm tạo ra mơi trường kinh doanh bình đẳng vẫn chưa đạt hiệu
quả cao trong thực tế; đây vẫn còn là một vấn đề mới mẻ đối với nền kinh tế Việt
Nam. Các hành vi hạn chế cạnh tranh vẫn tồn tại và có dấu hiệu phổ biến, các
hiện tượng đồng loạt tăng giá bán, giảm giá mua... đang tồn tại trên thực tế. Mặc
dù đã có quy định pháp luật và có hiện tượng hạn chế cạnh tranh nhưng việc xử
lý các vụ việc này là hết sức hạn chế, thậm chí là chưa có.
Do đó, luận văn Thạc sỹ Luật học này chọn một hành vi trong nhóm hành
vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để nghiên cứu - hành vi thỏa thuận ấn định giá
với tựa đề “Pháp luật về thỏa thuận ấn định giá và thực tiễn áp dụng tại Việt
Nam”. Qua đó, luận văn mong muốn góp phần phản ánh thực trạng và khả năng
áp dụng quy định pháp luật; từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật kiểm sốt thỏa thuận ấn định giá nói
riêng trong nền kinh tế Việt Nam.
Cho đến nay, việc nghiên cứu về hành vi thỏa thuận ấn định giá vẫn chưa
được thực hiện thành một hệ thống chuyên biệt mà chỉ thể hiện trong các tài liệu
nghiên cứu chung về pháp luật cạnh tranh. Do vậy, luận văn này được thực hiện
trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các tác giả, các bài viết đã có về thỏa thuận ấn định
giá và xin nêu một số tài liệu đã đề cập chung đến vấn đề này như:
- Nguyễn Như Phát - Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp
luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
- Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2001), Cạnh tranh và xây dựng
pháp luật cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
- Lê Danh Vĩnh - Hoàng Xuân Bắc - Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật
cạnh tranh tại Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội.

Mục đích nghiên cứu của đề tài là (1) làm rõ bản chất kinh tế và pháp lý của
hành vi thỏa thuận ấn định giá trong nền kinh tế thị trường; (2) tìm hiểu, phân
tích các hành vi có dấu hiệu thỏa thuận ấn định giá diễn ra trên thị trường; (3)
nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành về kiểm soát hành vi thỏa thuận ấn định
giá và khả năng áp dụng trong thực tế; (4) từ đó, rút ra những đánh giá và kiến


3

nghị hợp lý cho việc áp dụng hiệu quả pháp luật kiểm soát hành vi thỏa thuận ấn
định giá.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận, lý thuyết
về thỏa thuận ấn định giá; các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của
một số nước về quản lý giá, cạnh tranh và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; các vụ
việc diễn ra tại Việt Nam có dấu hiệu của thỏa thuận ấn định giá; thực tiễn xử lý
các vụ việc thỏa thuận ấn định giá; khả năng thực thi pháp luật kiểm soát thỏa
thuận ấn định giá trong thực tế.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung của đề tài được
phân tích căn cứ trên các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, các tài liệu
tổng kết, đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tài liệu nghiên cứu
khoa học.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp, phân tích. Luận văn chú
trọng sử dụng phương pháp so sánh luật học giữa pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam với pháp luật cạnh tranh một số nước để làm sáng tỏ vấn đề trong quá trình
phân tích, đánh giá.
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn được bố cục thành ba
phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm có 2 chương:

- Chương 1: Một số vấn đề chung về thỏa thuận ấn định giá.
- Chương 2: Pháp luật về thỏa thuận ấn định giá và thực tiễn áp dụng tại
Việt Nam.


4

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ
1.4 Khái niệm về thỏa thuận ấn định giá
Từ năm 1776, Adam Smith đã viết trong tác phẩm “Của cải của các dân
tộc” rằng: “các nhà kinh doanh cùng ngành hàng hiếm khi gặp nhau thậm chí là
để hội hè hay giải trí, nhưng khi đã gặp nhau thì kết quả thường là thông đồng để
chống lại công chúng hay cấu kết nhằm tăng giá”3. Điều đó cho thấy, giá cả hàng
hóa, dịch vụ ln là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh; nó góp
phần quyết định đến lợi nhuận kinh doanh, đến thành công hay thất bại của các
doanh nghiệp.
Theo quy luật khách quan của thị trường, các nhà sản xuất, kinh doanh cùng
một nhóm hàng hóa, dịch vụ phải cạnh tranh với nhau về giá, sản lượng, chất
lượng, kiểu dáng, phong cách phục vụ... để tranh giành khách hàng, thị phần với
mục tiêu giành phần lợi nhuận cao nhất về mình. Tuy nhiên, thực tế có nhiều
trường hợp các doanh nghiệp lại liên kết, thỏa thuận với nhau nhằm đem lại lợi
ích cao nhất cho nhà sản xuất, kinh doanh; có khi sự liên kết đó tạo ra hạn chế,
loại trừ cạnh tranh trên thị trường và hệ quả là người tiêu dùng sẽ bị thiệt hại.
Xét về đối tượng tham gia, sự liên kết giữa các doanh nghiệp có thể hình
thành các kiểu “thỏa thuận theo chiều dọc” hoặc “thỏa thuận theo chiều ngang”.
(1) Thỏa thuận theo chiều dọc là thỏa thuận công khai hoặc không công khai giữa
các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất đầu vào (nhà sản xuất, nhà bán buôn) và
doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất đầu ra (người bán lẻ) của quá trình sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm4. (2) Thỏa thuận theo chiều ngang là thỏa thuận ngầm hoặc

công khai giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau cùng sản xuất,
kinh doanh một hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ5.
Xét về nội dung, các thỏa thuận phổ biến nhất giữa các doanh nghiệp luôn
là: thỏa thuận ấn định giá, gian lận trong đấu thầu, thỏa thuận phân chia khách
hàng. Trong đó, thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ là thỏa thuận phổ biến
3

4

5

Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.57.
Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.89.
Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.53.


5

nhất cho dù các đối thủ cạnh tranh tham gia thỏa thuận trong vai trò là người bán
hàng hay người mua hàng6. Mặt khác, thỏa thuận ấn định giá chỉ là một trong
nhiều kiểu liên kết, nội dung liên kết giữa các đối thủ cạnh tranh.
Pháp luật của các nước và các tài liệu nghiên cứu về chính sách kinh tế hoặc
cạnh tranh thường không đưa ra khái niệm về thỏa thuận ấn định giá mà chỉ coi
chúng như một dạng phổ biến của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (cartel). Bản
chất của thỏa thuận ấn định giá thường được xem xét từ đặc tính của cartel và từ
các nội dung cụ thể của nó. Theo đó, cartel được hiểu là thỏa thuận chính thức
giữa các doanh nghiệp để thống nhất về giá cả hoặc sản lượng... Kết quả là cạnh

tranh giảm và các doanh nghiệp sẽ cùng hợp tác để đạt được các mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận hay tránh sự gia nhập của các đối thủ mới7.
Trên tinh thần đó, Luật cạnh tranh năm 2004 quy định thỏa thuận ấn định
giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp là một trong những loại
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (điều 8, khoản 1). Điều 14 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP liệt kê các hình thức của thỏa thuận ấn định giá.
Trong tài liệu nghiên cứu về chính sách và pháp luật cạnh tranh, Ngân hàng
Thế giới và Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế cho rằng ấn định giá là một
thuật ngữ chung để miêu tả những hành động của các đối thủ cạnh tranh làm ảnh
hưởng trực tiếp đến giá cả. Hình thức đơn giản của thỏa thuận ấn định giá là một
thỏa thuận về giá áp dụng cho một số hoặc tất cả khách hàng8. Ngoài ra, tài liệu
này cũng liệt kê mang tính gợi ý những thỏa thuận được coi là ấn định giá. Thỏa
thuận ấn định giá tạo nên những lo ngại cho rằng khi người tiêu dùng bị hạn chế
quyền lựa chọn và không dễ dàng giảm nhu cầu tiêu dùng thì các doanh nghiệp
rất dễ dàng tăng giá hoặc ấn định mức giá cao để bóc lột khách hàng.
Từ những nhận thức cơ bản trên, có thể hiểu thỏa thuận ấn định giá là thỏa
thuận ngấm ngầm hoặc công khai, trực tiếp hoặc gián tiếp giữa các đối thủ cạnh
tranh trong cùng lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, liên kết về giá hàng hóa, dịch vụ
nhằm mục đích loại trừ cạnh tranh về giá giữa các bên tham gia thỏa thuận.
Trên cơ sở quan niệm trên, có thể phân tích thỏa thuận ấn định giá qua các
dấu hiệu sau:
6

Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.57.
7
David W. Pearce (1999), Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, tr.143.
8
Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.59.



6

(1) Dấu hiệu thứ nhất: dấu hiệu về nội dung của thỏa thuận ấn định giá
Thỏa thuận ấn định giá là sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể tham gia thỏa
thuận dưới bất kỳ hình thức nào về việc ấn định một mức giá sẽ bán hoặc mua
nhằm thu được lợi nhuận kinh doanh cao nhất. Thế nên, xét về nội dung, thỏa
thuận ấn định giá có hai phần quan trọng: (1) là sự thống nhất ý chí giữa các
doanh nghiệp tham gia; và (2) thống nhất áp dụng một mức giá hoặc áp dụng
chung những nguyên tắc tính giá mua bán hàng hóa, dịch vụ trong giao dịch với
khách hàng.
Nội dung thứ nhất, sự thống nhất ý chí của các doanh nghiệp tham gia đã
liên kết năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp để tạo thành sức mạnh chung
trên thị trường. Một khi năng lực chung được hình thành từ thỏa thuận đủ mạnh
để chi phối thị trường thì có nghĩa là các doanh nghiệp tham gia cũng có đủ khả
năng chi phối quan hệ của họ với khách hàng. Nội dung hạn chế cạnh tranh của
thỏa thuận ấn định giá không chỉ là mức giá quá cao hoặc quá thấp mà còn được
chứng minh qua việc các doanh nghiệp liên kết, liên minh để tạo sức mạnh
chung. Việc các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận đã làm cho họ khơng cịn
cạnh tranh về giá (có thể vẫn cạnh tranh ở những nội dung khác như chất lượng,
số lượng hàng hóa, dịch vụ...) và tạo nên những mức giá thiếu tính cạnh trạnh
trên thị trường.
Nội dung thứ hai, thống nhất áp dụng một mức giá hoặc áp dụng chung
những nguyên tắc tính giá mua bán hàng hóa, dịch vụ trong giao dịch với khách
hàng. Nội dung này cho thấy rằng các doanh nghiệp tham gia đã khai thác sức
mạnh chung để chi phối giá cả trong giao dịch với khách hàng. Kinh nghiệm của
các nước cho thấy, có rất nhiều cách thức để các doanh nghiệp chi phối giá sản
phẩm tùy theo nội dung của thỏa thuận và chúng luôn phát triển, thay đổi theo
thời gian. Tuy nhiên, những cách thức cơ bản được ghi nhận trong chính sách

cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới bao gồm: thống nhất ấn định một mức giá
đối với một hoặc tất cả các khách hàng; thống nhất tăng giá bán; thống nhất giảm
giá mua; thống nhất một công thức chuẩn dùng để tính giá; thống nhất duy trì
một tỷ lệ cố định về giá cả của những sản phẩm cạnh tranh giống nhau nhưng
không đồng nhất; thống nhất loại bỏ chiết khấu giá hoặc thiết lập mức chiết khấu
đồng bộ; thống nhất những điều khoản tín dụng dành cho khách hàng; thống nhất
đưa ra thị trường những sản phẩm được chào bán ở mức giá thấp nhằm hạn chế
nguồn cung và giữ ở mức giá cao; thống nhất không giảm giá nếu không thông


7

báo cho các thành viên khác của cartel; thống nhất tuân theo mức giá đã được
công bố; thống nhất sử dụng mức giá đồng bộ tại thời điểm khởi đầu của các
cuộc đàm phán; thống nhất chia sẻ, trao đổi các thông tin về giá giữa các doanh
nghiệp; chấp nhận một tiêu chuẩn sản phẩm hay chấp nhận việc định giá9. Trong
đó, phổ biến nhất là các cách thức sau:
 Thống nhất tăng giá bán: các doanh nghiệp bán hàng cùng thống nhất
tăng mức giá bán ra đối với sản phẩm đồng loại của tất cả các doanh nghiệp. Lúc
này, các doanh nghiệp sẽ tính tốn mức giá cao hơn giá thành sản xuất của tất cả
các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Việc thống nhất tăng giá bán thường được
tiến hành khi thị trường đang khan hiếm hoặc có nguy cơ, dấu hiệu khan hiếm
hàng hóa; sản phẩm của các doanh nghiệp này trở nên độc quyền trên thị trường.
 Thống nhất giảm giá mua: nội dung thỏa thuận này được thực hiện giữa
các doanh nghiệp thu mua nguyên vật liệu. Bình thường, các doanh nghiệp phải
đưa ra giá mua cao để cạnh tranh với nhau mua được nguồn nguyên liệu đầu vào
của quá trình sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, thường khi thị trường thừa nguyên
liệu thì các doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh cùng liên kết với nhau giảm mức giá
mua, thấp dưới mức giá thành của sản phẩm. Nội dung thỏa thuận ấn định giá
này thường gặp ở các doanh nghiệp thu mua nông, lâm, thủy sản.

 Thống nhất một cơng thức chuẩn dùng để tính giá: Trên cơ sở cân đối
giữa các chi phí thực tế của doanh nghiệp (mặt bằng, nhân công, khấu hao tài
sản...), mỗi doanh nghiệp đưa ra một cách tính tốn mức giá bán hoặc giá mua
hàng hóa, dịch vụ để thu lợi nhuận hợp lý, cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các doanh nghiệp liên kết với nhau, thống
nhất một cơng thức tính giá; dẫn đến hệ quả là các doanh nghiệp cùng đưa ra một
mức giá mua, giá bán thống nhất.
 Thống nhất đưa ra thị trường những sản phẩm được chào bán ở mức giá
thấp nhằm hạn chế nguồn cung và giữ ở mức giá cao: Đây là một nội dung được
các bên tham gia thỏa thuận ấn định giá thống nhất với nhau. Khi tung sản phẩm
ra thị trường, nhất là các sản phẩm mới, các bên tham gia thỏa thuận cùng chào
bán với mức giá thấp nhất, thậm chí là thấp hơn giá thành sản phẩm để chiếm
lĩnh thị trường, khách hàng, hạn chế khả năng cạnh tranh, cung ứng sản phẩm
của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Khi đã có được thị trường, khách
9

Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.59.


8

hàng ổn định, các doanh nghiệp sẽ cùng nhau điều chỉnh và giữ mức giá cao hơn
giá thành sản phẩm.
 Thống nhất sử dụng mức giá đồng bộ tại thời điểm khởi đầu của các cuộc
đàm phán: Ở nội dung này, các doanh nghiệp có thể mua hoặc bán với giá khác
nhau, tùy thuộc vào quá trình đàm phán, thương lượng với khách hàng. Mặc dù
vậy, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận thống nhất với nhau một mức giá khởi
điểm khi đưa ra đàm phán với khách hàng. Doanh nghiệp tham gia thỏa thuận
không được đưa ra giá chào mua cao hơn giá thỏa thuận và giá chào bán thấp hơn

giá thỏa thuận.
 Thống nhất chia sẻ, trao đổi các thơng tin về giá giữa các doanh nghiệp:
Đó là các trao đổi thơng tin về biểu giá, cách tính giá, giá trần, giá sàn... giữa các
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau. Các doanh nghiệp dựa vào sự chia
sẻ thông tin mà áp dụng mức giá, biểu giá trùng nhau, hay còn gọi là sự “hài hòa
về giá”10. Thực tế cho thấy, việc chia sẻ thông tin có thể làm cho các thỏa thuận
ấn định giá được thực hiện dễ dàng hơn do các bên tham gia thỏa thuận có được
đầy đủ và kịp thời các thơng tin về đối thủ cạnh tranh liên quan đến giá cả, các
giao dịch và chi phí. Các thành viên tham gia thỏa thuận có thể kiểm tra giá cả
sau giao dịch, thu thập được các thông tin về giá cả, khách hàng cũng như chính
sách về giá, về kế hoạch và năng lực sản xuất của các đối thủ cạnh tranh trong
tương lai.
(2) Dấu hiệu thứ hai: dấu hiệu về chủ thể thực hiện thỏa thuận ấn định giá
Chủ thể thực hiện thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ là các cá nhân,
doanh nghiệp (gọi chung là doanh nghiệp) cùng kinh doanh một hoặc một nhóm
hàng hóa, dịch vụ nhất định và cũng có thể là các hiệp hội ngành nghề.
 Chủ thể thực hiện thỏa thuận ấn định giá là các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh cùng một hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ: Thơng thường, các
doanh nghiệp này là đối thủ cạnh tranh với nhau. Tuy nhiên, giữa các doanh
nghiệp cũng diễn ra các hoạt động liên kết để tạo thành sức mạnh liên minh, điều
khiển thị trường theo ý chí chủ quan của mình. Thỏa thuận, liên kết về giá hàng
hóa, dịch vụ là một trong các nội dung mà các doanh nghiệp có thể tiến hành.
Nếu các doanh nghiệp này liên kết được với nhau, thống nhất ấn định được mức
giá đối với mặt hàng cùng kinh doanh thì sẽ mang lại lợi nhuận cao nhất cho các
10

Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật Cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr.64.



9

thành viên tham gia thỏa thuận. Giữa các doanh nghiệp thỏa thuận ấn định giá sẽ
hạn chế hoặc loại bỏ sự cạnh tranh về giá, tạo ra mức giá thống nhất trên thị trường.
Nếu chủ thể thực hiện thỏa thuận ấn định giá là các doanh nghiệp đối thủ
cạnh tranh chiếm thị phần, doanh số lớn trong thị trường, có ảnh hưởng quyết
định đến thị trường thì sự thỏa thuận về giá sẽ trở thành độc quyền giá. Ngược
lại, khi các bên tham gia thỏa thuận chỉ là những doanh nghiệp nhỏ, chiếm thị
phần không đáng kể trên thị trường thì việc liên kết của họ có thể khơng ảnh
hưởng lớn đến thị trường, lợi ích của khách hàng khơng bị xâm hại vì khách hàng
vẫn cịn sự lựa chọn ở những nhà cung ứng, thu mua khác. Trong nhiều trường
hợp, thỏa thuận ấn định giá được thực hiện giữa các doanh nghiệp trong cùng
một tập đồn, một tổng cơng ty, giữa công ty mẹ và các công ty con. Tuy nhiên,
đó là thỏa thuận được thực hiện một cách khép kín và pháp luật của một số quốc gia
khơng coi đây là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cần xử lý hoặc chưa quan tâm xử lý.
 Chủ thể thực hiện thỏa thuận ấn định giá là các hiệp hội ngành nghề trong
các trường hợp sau11:
Một, khi các hiệp hội ngành nghề đại diện cho các thành viên của hiệp hội
đứng ra đàm phán, thống nhất giá hàng hóa, dịch vụ với các doanh nghiệp là đối
thủ cạnh tranh ngoài hiệp hội. Điều này rất dễ dàng xảy ra và cũng rất dễ bị lạm
dụng khi hiệp hội đứng ra đàm phán các vấn đề liên quan đến giá.
Hai, trong hoạt động bình thường của mình, các hiệp hội có thể đàm phán
với Chính phủ về các vấn đề liên quan đến ngành nghề hoạt động. Trong một số
trường hợp, các hiệp hội ngành nghề có thể cố gắng thuyết phục Chính phủ hay
cơ quan nhà nước có thẩm quyền những vấn đề như xin phép được độc quyền đối
với hàng hóa, dịch vụ nhất định, hợp thức hóa mức giá mà các thành viên của
hiệp hội đã thỏa thuận ấn định.
Ba, các hiệp hội ngành nghề trở thành một diễn đàn cho các thành viên hiệp
hội tiến hành các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó có thỏa thuận ấn định
giá. Việc chia sẻ các thông tin nhạy cảm về cạnh tranh có thể hỗ trợ cho việc cấu

kết ngầm hoặc công khai; việc thảo luận về tình hình thị trường, giá cả có thể
vượt qua giới hạn quy định của pháp luật và có thể dẫn đến việc đưa ra các thỏa
thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ làm hạn chế cạnh tranh trên thị trường.

11

Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.87.


10

(3) Dấu hiệu thứ ba: dấu hiệu về hình thức của thỏa thuận ấn định giá
Có nhiều cách thức để các đối thủ cạnh tranh tiến hành thỏa thuận ấn định
giá hàng hóa, dịch vụ12. Các đối thủ cạnh tranh có thể trực tiếp bàn bạc với nhau,
đi đến thống nhất bằng một thỏa thuận viết tay rõ ràng dưới dạng một hợp đồng,
bản cam kết, biên bản ghi nhớ giữa các thành viên tham gia thỏa thuận. Đây là
hình thức sơ khai nhất của hành vi thỏa thuận ấn định giá. Thỏa thuận ấn định giá
còn được thể hiện dưới hình thức nội quy, quy chế hay nghị quyết của hiệp hội
ngành nghề hoặc một nghiệp đồn có nội dung thỏa thuận về giá, chẳng hạn ban
hành một bảng giá chung để các thành viên cùng áp dụng một mức giá thống
nhất khi bán hoặc mua hàng hóa, dịch vụ. Các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh
cũng có thể thiết lập một thỏa thuận về giá thông qua hình thức thành lập một
liên doanh giữa các bên. Tuy nhiên, các thỏa thuận ấn định giá dưới hình thức
văn bản là rất hiếm. Điều này thường xảy ra khi các bên tham gia thỏa thuận
không biết rằng họ đang tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và khơng
biết hành vi đó sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Hiện tượng này phổ biến tại
các quốc gia mới áp dụng pháp luật cạnh tranh. Ngoài ra, giá cả hàng hóa, dịch
vụ cũng có thể được các thành viên ấn định, thống nhất mà không để lại một văn
bản rõ ràng nào và đây là phương thức chủ yếu của thỏa thuận ấn định giá.

Một phương thức gián tiếp sẽ dẫn đến thỏa thuận ấn định giá là thỏa thuận
chấp thuận hành vi chia sẻ thông tin, trao đổi các thông tin về giá (các thông tin
về biểu giá, cách tính giá, giá trần, giá sàn...) giữa các doanh nghiệp là đối thủ
cạnh tranh với nhau. Như vậy, các thỏa thuận hỗ trợ có thể làm giảm cạnh tranh,
mặc dù khơng có một thỏa thuận rõ ràng về giá hay sản lượng13.
Dù thỏa thuận ấn định giá có được các bên ghi nhận công khai hay thỏa
thuận ngầm thì cartel phải thuyết phục được các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường để cùng nhau ấn định giá ở mức thống nhất, ngoài mức giá cạnh tranh để
đạt được lợi nhuận cao nhất. Hành vi thỏa thuận ấn định giá với tính chất là thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh thường được thực hiện thơng qua thỏa thuận ngầm,
khơng có sự ràng buộc và không được bảo hộ thực hiện. Vì vậy, về bản chất, thỏa
thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ giữa các đối thủ cạnh tranh là không ổn định,

12

13

Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.66-67.
Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.78.


11

khơng bền vững. Các đối thủ cạnh tranh có thể bội ước bằng cách bí mật điều
chỉnh giá, chiết khấu, chi phí... so với thỏa thuận.
Từ những phân tích về các dấu hiệu của thỏa thuận ấn định giá, có thể đánh
giá một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, thỏa thuận ấn định giá là một phương thức định giá của các doanh

nghiệp kinh doanh. Thế nên, kết quả của thỏa thuận là các doanh nghiệp tham gia
khơng cịn cạnh tranh với nhau về giá và hình thành nên một mức giá hoặc cách
thức tính giá chung cho hàng hóa, dịch vụ.
Thứ hai, thỏa thuận ấn định giá mà pháp luật và lý thuyết cạnh tranh đề cập
phải là những thỏa thuận giữa các doanh nghiệp có cùng thị trường liên quan (tức
là các doanh nghiệp tham gia đang là đối thủ cạnh tranh của nhau). Căn cứ này
giúp phân biệt loại thỏa thuận này với sự thống nhất về mức giá mua bán trong
quan hệ dọc của các doanh nghiệp thuộc các cấp độ kinh doanh khác nhau. Pháp
luật cạnh tranh của các nước có đề cập đến các loại thỏa thuận dọc giữa nhà sản
xuất và nhà phân phối. Trong quan hệ phân phối, có thể xuất hiện tình trạng
thống nhất về mức giá bán lại. Trường hợp này có thể được coi là thỏa thuận về
giá, song lý thuyết cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh thường gọi là thỏa thuận ấn
định giá bán lại giữa các doanh nghiệp trong hoạt động phân phối mà không là
thỏa thuận ấn định giá. Hai loại thỏa thuận này khác nhau về bản chất. Theo đó,
thỏa thuận ấn định giá là sự liên kết để tạo sức mạnh chung nhằm chi phối giá
của thị trường để bóc lột khách hàng khi họ bị hạn chế quyền lựa chọn và không
thể giảm nhu cầu tiêu dùng. Các doanh nghiệp tham gia khơng liên minh, khơng
cùng nhau bóc lột một đối tượng cụ thể. Mỗi doanh nghiệp tham gia có nhóm
khách hàng riêng. Trong khi đó, ấn định giá bán lại thường chỉ gây hại cho thị
trường khi một trong các doanh nghiệp tham gia có quyền lực thị trường. Mặt
khác, sự liên kết trong thỏa thuận ấn định giá bán lại là sự hợp tác của các doanh
nghiệp sản xuất và phân phối để cùng nhau bóc lột người tiêu dùng, cùng nhau
bóc lột một nhóm khách hàng cụ thể.
Thứ ba, thỏa thuận ấn định giá chỉ có thể gây hại cho thị trường khi đáp ứng
một số điều kiện nhất định, cụ thể là: (1) sự liên kết phải tạo nên sức mạnh đủ để
chi phối thị trường. Khi đó, khách hàng luôn yếu thế trong giao dịch với doanh
nghiệp vì nhu cầu của họ phụ thuộc vào khả năng cung ứng của doanh nghiệp.
(2) Khách hàng bị hạn chế quyền lựa chọn và không thể giảm nhu cầu tiêu dùng



12

đối với sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh. Nói cách khác, thị trường khơng
có nhiều sản phẩm thay thế cho hàng hóa, dịch vụ bị ấn định giá.
Thứ tư, như các loại thỏa thuận khác, thỏa thuận ấn định giá có thể tồn tại
dưới dạng văn bản hoặc chỉ là thỏa thuận miệng, có thể diễn ra cơng khai hoặc
khơng cơng khai. Có thể nói, hình thức của loại thỏa thuận này rất đa dạng. Tuy
nhiên, ở những giai đoạn sơ khai của thị trường, thỏa thuận ấn định giá có thể
được thực hiện cơng khai. Song, một khi pháp luật cạnh tranh được xây dựng và
vận hành trên thực tế đã tuyên bố thỏa thuận ấn định giá là vi phạm pháp luật thì
chắc chắn các doanh nghiệp ln tìm cách ẩn dấu ý chí thực sự của họ bằng cách
tiến hành liên kết ngầm. Mặt khác, giá cả là một trong những biến số nhạy cảm
nhất của thị trường vì có nhiều yếu tố chủ quan, khách quan chi phối. Các doanh
nghiệp có thể khai thác sự biến động thị trường để lý giải cho việc định giá của
họ. Nói tóm lại, việc điều tra về thỏa thuận ấn định giá khơng đơn giản. Việc tìm
kiếm bằng chứng để chứng minh có sự thỏa thuận giữa các doanh nghiệp ln là
cơng việc khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh.
 Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc điều chỉnh của pháp luật đối với
thỏa thuận ấn định giá
Trong truyền thống pháp luật cạnh tranh, chế định về thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh (trong đó có thỏa thuận ấn định giá) ln có vị trí quan trọng. trong
bối cảnh của một thị trường non trẻ, việc xây dựng và chuẩn bị các thiết chế pháp
lý của một nền kinh tế hiện đại luôn cần thiết với bất kỳ quốc gia đang phát triển
nào, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, việc xây dựng pháp luật cạnh tranh nói
chung và từng chế định cụ thể của nó phải được thực hiện trên những nền tảng lý
luận và thực tiễn nhất định. Chỉ có như vậy, pháp luật mới có được nội dung và
sức điều chỉnh đủ liều lượng đối với thị trường. Riêng đối với chế định về thỏa
thuận ấn định giá, những cơ sở quan trọng được sử dụng bao gồm:
(1) Cơ sở thứ nhất, nguồn gốc hình thành thỏa thuận ấn định giá
Thỏa thuận ấn định giá là kết quả từ sự lạm dụng quyền tự do định giá của

các doanh nghiệp và sức ép cạnh tranh trên thị trường. Sau khi lồi người trãi qua
mơ hình kinh tế tự nhiên làm cho xã hội vận động chậm chạp và mô hình kinh tế
kế hoạch hóa tập trung làm mất đi sự năng động và động lực phát triển của nền
kinh tế; đến nay, lịch sử kinh tế thế giới đã chứng minh tính ưu việt của cơ chế
kinh tế thị trường. Đó là nền kinh tế ln ln thúc đẩy sự tự do vận động, tự do


13

cạnh tranh của các thành phần kinh tế, thúc đẩy sản lượng, chất lượng hàng hóa,
dịch vụ ngày càng phát triển, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu thụ hưởng của
con người. Trong sự tự do của thị trường, các doanh nghiệp được quyền định giá
sản phẩm mà họ kinh doanh. Về nguyên tắc, giá của sản phẩm chịu sự chi phối
bởi quy luật giá trị, quan hệ cung cầu và quan hệ cạnh tranh trên thị trường.
Trong từng giao dịch mua bán, giá cả còn phụ thuộc vào khả năng đàm phán của
các bên. Nhà nước và pháp luật trong nền kinh tế hiện đại không thể dùng quyền
lực để định giá mà chỉ có thể dùng các chính sách tài chính, kinh tế để điều tiết
sức mua của đồng tiền và đặt ra hành lang pháp lý cho quyền định giá của doanh
nghiệp được thực hiện có trật tự. Trong bối cảnh đó, ngồi những phương thức
định giá chính đáng, lành mạnh, cũng đã xuất hiện nhiều toan tính khơng lành
mạnh trong việc định giá sản phẩm. Các doanh nghiệp có thể lạm dụng quyền tự
do để định mức giá phi cạnh tranh nhằm bóc lột khách hàng hoặc để tiêu diệt đối
thủ cạnh tranh. Các hình thức liên minh định giá bóc lột khách hàng là một dạng
của sự lạm dụng kể trên.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng được xác định là
trung tâm của quá trình sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ. Các doanh nghiệp
khơng ngừng chạy đua với nhau trên thị trường để lơi kéo về mình ngày càng
nhiều khách hàng, thị phần của thị trường; cạnh tranh để mang đến cho người
tiêu dùng sản phẩm có chất lượng tốt nhất với giá thấp nhất. Trong một khía cạnh
nào đó thì người tiêu dùng là chủ thể quyết định sự tồn tại và phát triển của

doanh nghiệp. Ngược lại, đối với các doanh nghiệp, lợi nhuận là động lực, mục
đích và là phương tiện để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế
thị trường14. Với tư cách là chủ thể kinh doanh, các doanh nghiệp không thể chỉ
biết phục vụ người tiêu dùng mà qn đi lợi ích của mình. Chính mâu thuẫn giữa
lợi nhuận tối đa, chi phí sản xuất tối thiểu và lượng khách hàng nhiều nhất đã đòi
hỏi các doanh nghiệp phải khơng ngừng cải tiến quy trình sản xuất, chi phí đầu
vào, phương thức bán hàng, nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng... để đạt được mục đích kinh doanh. Dưới sự tác động của các quy luật
khách quan của cơ chế thị trường, các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với
nhau để sản phẩm của mình được người tiêu dùng chấp nhận, đáp ứng được nhu
cầu của thị trường. Tuy nhiên, nhu cầu của con người là vô hạn, trong khi khả
14

Nguyễn Như Phát - Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.4.


14

năng cung ứng của các nhà sản xuất, kinh doanh cũng như trình độ phát triển của
xã hội tại mỗi thời điểm đều có những giới hạn nhất định. Do đó, trong một
chừng mực, người tiêu dùng buộc phải chấp nhận những sản phẩm do doanh
nghiệp cung ứng trên thị trường mà khơng thể địi hỏi khác được. Sự tác động
qua lại giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng đã làm cho cả hai bên không thể lợi
dụng ưu thế của mình để chèn ép bên kia. Cạnh tranh chính là sự đảm bảo cho
điều này. Tuy nhiên, cũng từ những lập luận trên, có thể thấy rằng người tiêu
dùng ln ở vào vị trí yếu thế trước doanh nghiệp. Ngồi quyền lựa chọn, người
tiêu dùng khơng có đủ điều kiện và khả năng để thẩm tra các thông tin về tình
hình thị trường, về sản phẩm, về giá... được các doanh nghiệp cung cấp. Sự hạn
chế về thông tin của người tiêu dùng (thường xảy ra trong những thị trường đang

phát triển) có thể bị doanh nghiệp khai thác để định những mức giá mang tính
bóc lột.
Dưới góc độ kinh tế học, cạnh tranh được hiểu là sự tranh giành thị trường
(khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Theo đó, các doanh
nghiệp là đối thủ trên thương trường phải tranh giành với nhau bằng nhiều cách
thức, phương pháp và thủ đoạn để đạt được mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Các
học thuyết về kinh tế thị trường đã kết luận rằng: cạnh tranh với tính cách là động
lực phát triển nội tại của mỗi nền kinh tế chỉ xuất hiện và tồn tại trong điều kiện
của kinh tế thị trường15. Trong quá trình tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp
luôn luôn đứng trước những áp lực của nền kinh tế thị trường, trước nhiều đối thủ
cạnh tranh, nhiều phương diện phải cạnh tranh mà trước hết và cấp thiết là cạnh
tranh về giá hàng hóa, dịch vụ cung ứng ra thị trường. Trong cuộc cạnh tranh về
giá, người tiêu dùng luôn được hưởng lợi từ những nỗ lực giảm giá và doanh
nghiệp phải chấp nhận giảm mức lợi nhuận. Trước những áp lực đó, sẽ phát sinh
tâm lý muốn được tồn tại và phát triển trong mơi trường ít cạnh tranh, thậm chí là
khơng có cạnh tranh. Do đó, bên cạnh nỗ lực xây dựng địa vị thống lĩnh một cách
chính đáng, lành mạnh cịn có những toan tính hủy diệt cạnh tranh bằng các thủ
đoạn tiêu diệt đối thủ hoặc tiêu diệt cạnh tranh trên thị trường. Sự dẫn dắt của lợi
nhuận và dưới sức ép cạnh tranh đã thúc đẩy các doanh nghiệp cấu kết với nhau
để thống nhất ấn định một mức giá nhất định, buộc người tiêu dùng phải chấp
nhận mức giá ấn định mà khơng có sự lựa chọn khác. Mối tương quan lực lượng
15

Nguyễn Như Phát - Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.3.


15

giữa người sản xuất và người tiêu dùng sẽ nghiêng về các nhà sản xuất. Như vậy,

sự thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ giữa các doanh nghiệp sẽ phá vỡ quy
luật khách quan của cơ chế kinh tế thị trường, hạn chế và loại bỏ tính cạnh tranh
của nền kinh tế; kìm hãm sự vận động và phát triển của nền kinh tế. Tất nhiên,
với tính cách là hành vi hạn chế cạnh tranh, sự thỏa thuận ấn định giá sẽ không
được chấp nhận trong nền kinh tế thị trường.
Nói tóm lại, với những nguyên lý khách quan, thị trường đã tạo ra môi
trường và động lực để các doanh nghiệp liên kết thông qua thỏa thuận về giá của
hàng hóa, dịch vụ mà họ kinh doanh. Thế nên, cũng như mọi hiện tượng khác, sự
ra đời của thỏa thuận ấn định giá cũng là hiện tượng khách quan của thị trường
và pháp luật cần điều tiết.
(2) Cơ sở thứ hai, bản chất hạn chế cạnh tranh
Những quan điểm về khả năng gây ra hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận ấn
định giá ra đời cùng với sự hình thành của pháp luật về kiểm sốt độc quyền (anti
- trust) tại Hoa Kỳ. Lúc ban đầu, do tác hại của các thỏa thuận ấn định giá giữa
các tập đoàn độc quyền đến thị trường và đời sống xã hội nên Luật Sherman của
Hoa Kỳ (năm 1890) đã cấm mọi thỏa thuận ấn định giá16. Sau đó, sự phát triển
của các lý thuyết về cạnh tranh đã khuyến cáo cần có thái độ mềm dẻo hơn đối
với các thỏa thuận này theo nguyên tắc chỉ cấm khi chúng thực sự gây ra hậu quả
hạn chế cạnh tranh trên thị trường17. Bản chất hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận
ấn định giá được phân tích từ hai góc độ:
Thứ nhất, bằng thỏa thuận, các doanh nghiệp đã tạo nên sức mạnh chung
nhằm chi phối giá cả của thị trường. Trong môi trường cạnh tranh, mặt bằng giá
cả của thị trường chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố, song cơ bản vẫn là tương
quan cung cầu và quan hệ cạnh tranh. Vì thế, khả năng chi phối mặt bằng giá
ln thuộc về những doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Một khi có quyền lực
thị trường, doanh nghiệp có cơ hội khai thác sự lệ thuộc của khách hàng để ấn
định những mức giá mua, giá bán đem lại lợi nhuận độc quyền cho mình. Đối
chiếu với thỏa thuận ấn định giá, việc liên kết giữa các doanh nghiệp không chỉ
loại bỏ sự cạnh tranh giữa họ với nhau mà cịn hình thành nên sức mạnh chung
làm giảm đi khả năng lựa chọn của khách hàng. Từ đó, các doanh nghiệp có cơ

16

17

Nguyễn Như Phát - Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.35.
Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Xuân Bắc, tr.55.


16

hội bóc lột khách hàng. Ngược lại, khi sự liên kết của các doanh nghiệp tham gia
chưa tạo nên sức mạnh thị trường thì chưa đáp ứng điều kiện cần để thỏa thuận
ấn định giá gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh.
Thứ hai, nội dung của thỏa thuận là ấn định mức giá hoặc những cách thức
tính giá chung mà các doanh nghiệp tham gia sẽ áp dụng khi giao dịch với khách
hàng. Kết quả của thỏa thuận là tạo nên mặt bằng chung về giá trên thị trường.
Cách thức ấn định giá rất đa dạng, có thể là thỏa thuận về một mức giá hoặc cùng
áp dụng một cách thức tính giá... song kết quả ln là tạo nên mặt bằng giá giữa
các doanh nghiệp tham gia. Khi thỏa thuận giá được thực hiện bởi các doanh
nghiệp có quyền lực thị trường thì quyền lợi của khách hàng bị đe dọa.
(3) Cơ sở thứ ba, tác động của thỏa thuận ấn định giá đến thị trường
Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ có khi mang lại lợi ích cho các
doanh nghiệp và cho cả thị trường, có khi là hành vi hạn chế cạnh tranh. Điều
này đặt ra vấn đề là cơ quan quản lý nhà nước phải phân biệt được giữa thỏa
thuận tích cực, tăng cường cạnh tranh và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để đưa ra
chính sách cạnh tranh hợp lý, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Không phải
mọi thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh đều làm phương hại đến cạnh tranh18.
Có những hoạt động liên kết giữa các đối thủ cạnh tranh giúp tăng cường hiệu

quả sản xuất, kinh doanh, giảm thiểu rủi ro, ổn định thị trường và đảm bảo tính
cạnh tranh của thị trường. Chẳng hạn, trong các dịp lễ tết hay khủng hoảng thiếu
sản phẩm do thiên tai, địch họa, lượng cầu về hàng hóa nhiều hơn lượng cung thì
sự xuất hiện của một thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ giữa những doanh
nghiệp lớn trong cùng lĩnh vực để bình ổn giá cả, ổn định thị trường là điều hết
sức cần thiết. Tương tự như vậy, nếu lượng cung hàng hóa trong thị trường quá
lớn so với nhu cầu thì các doanh nghiệp có thể ép giá mua, làm thiệt hại lớn cho
người sản xuất. Lúc này, cần thiết có sự thống nhất về giá để hạn chế đến mức tối
thiểu việc hạ giá mua.
Ở góc độ khác, hầu hết các thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một
cách trực tiếp hay gián tiếp đều gây ra tác động tiêu cực cho thị trường, xã hội.
Thông qua cạnh tranh, giá cả hàng hóa, dịch vụ ngày càng được cải thiện theo
hướng có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, một lý do dễ nhận thấy ở các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh nói chung và thỏa thuận ấn định giá nói riêng là các đối
18

Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi Luật và chính sách cạnh tranh, bản dịch tiếng Việt của Hồng Xuân Bắc, tr.53.


17

thủ cạnh tranh tìm cách cấu kết với nhau để tránh việc phải đối đầu với nhau trên
thương trường, không cần phải bỏ ra nhiều chi phí cạnh tranh mà vẫn thu được
hiệu quả kinh doanh cao nhất. Các doanh nghiệp sẽ không cung ứng những sản
phẩm với giá cạnh tranh theo yêu cầu và xu hướng của thị trường mà theo ý chí
áp đặt của doanh nghiệp. Do đó, thỏa thuận ấn định giá sẽ tác động tiêu cực trực
tiếp đến người tiêu dùng. Người tiêu dùng phải chi phí một khoản tiền nhiều hơn
cho một lượng sản phẩm ít hơn hoặc nhận được một sản phẩm với giá quá cao so
với giá trị thực tế của sản phẩm. Mặt khác, xuất phát từ yêu cầu khách quan của

cạnh tranh nên các nhà sản xuất phải cung cấp cho thị trường, cho người tiêu
dùng những sản phẩm không những ngày càng cải thiện về giá mà còn nâng cao
hơn nữa về chất lượng, kiểu dáng. Điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp không
ngừng đầu tư về khoa học, kỹ thuật công nghệ để hạn chế nguyên liệu, sử dụng ít
nhân cơng và giảm thiểu các chi phí đầu vào khác, đồng thời phải nâng cao chất
lượng sản phẩm. Vì vậy, cạnh tranh cũng là nguồn gốc, động lực thúc đẩy tiến bộ
khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, qua sự sàng lọc của quá trình cạnh tranh trên thị
trường, các doanh nghiệp vượt lên được những yêu cầu khắc nghiệt của thương
trường sẽ cùng nhau thúc đẩy nền kinh tế trở nên mạnh mẽ, năng động, phát triển.
Mặc dù chúng ta đều biết rằng, các doanh nghiệp có thể thỏa thuận ấn định
giá để hạn chế cạnh tranh về giá vẫn phải tiếp tục cạnh tranh về chất lượng, kiểu
dáng, cơng nghệ của hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, ở một chừng mực nào đó, nếu
các doanh nghiệp cấu kết với nhau ấn định giá hàng hóa, dịch vụ, hạn chế và loại
bỏ cạnh tranh sẽ dẫn đến sự tự bằng lòng của doanh nghiệp khi mục tiêu lợi
nhuận đã đạt được, dẫn đến nguy cơ kiềm hãm sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, làm cho cả doanh nghiệp và nền kinh tế đều đứng yên trong sự vận động
và phát triển không ngừng của thế giới vật chất. Cuối cùng, sau những tác động
tiêu cực mà thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ cũng như các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh gây ra, sự giao thương đình trệ, người tiêu dùng và xã hội
giảm niềm tin vào một nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Vai trò của nhà nước
với tư cách là người điều hành hoạt động vĩ mô của nền kinh tế thị trường sẽ bị
giảm sút và tồi tệ nhất là sẽ bị xã hội thay thế bằng một nhà quản lý khác có khả
năng điều hành nền kinh tế tiến bộ.


18

(4) Cơ sở thứ tư, vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát thỏa thuận
ấn định giá
Thỏa thuận ấn định giá là hạn chế cạnh tranh dưới góc độ cơ chế kinh tế thị

trường. Tuy nhiên, hành vi thỏa thuận ấn định giá giữa các đối thủ cạnh tranh sẽ
khơng bị kiểm sốt và khơng bị coi là sự hạn chế cạnh tranh nếu khơng có cơ sở
pháp luật ràng buộc. Tiền đề pháp luật của cạnh tranh, trước hết là sự thừa nhận
và bảo vệ của pháp luật đối với sự đa dạng các hình thức sở hữu, coi đó là nguồn
gốc và là kết quả của cạnh tranh. Cạnh tranh cũng chỉ thật sự diễn ra khi pháp
luật thừa nhận tự do thương mại, tự do kinh doanh, tự do khế ước và quyền tự
chủ của các cá nhân được pháp luật đảm bảo thực hiện. Nhà nước bảo đảm sự
bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh
tế; sự điều chỉnh của pháp luật dành cho mọi chủ thể là ngang nhau, khơng có bất
cứ một đặc quyền kinh tế nào; cũng khơng có một quy định pháp luật nào ngăn
cản doanh nghiệp tham gia thị trường một cách hợp pháp. Nói cách khác, cạnh
tranh chỉ xuất hiện khi nhà nước đảm bảo khơng có sự độc quyền dưới bất cứ
hình thức nào19.
Trong một quốc gia, tại những giai đoạn lịch sử, kinh tế, chính trị nhất định,
nhà nước có chính sách hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường, bảo hộ sự độc
quyền của một hàng hóa, dịch vụ nhất định bằng công cụ pháp luật. Thông
thường, sự đồng nhất hình thức sở hữu tồn tại trong nền kinh tế chỉ huy, tập
trung, bao cấp; nơi mà pháp luật chỉ thừa nhận một thành phần kinh tế duy nhất
là kinh tế tập thể, do nhà nước thống nhất điều hành quá trình từ sản xuất đến
phân phối sản phẩm. Khi đó, sự cạnh tranh sẽ khơng tồn tại. Tất nhiên, hành vi
thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế này được coi là đương
nhiên và không liên quan đến khái niệm hạn chế cạnh tranh. Như vậy, cạnh tranh
và hạn chế cạnh tranh với tư cách là những hành vi pháp lý chỉ xuất hiện khi
được nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện bởi những quy phạm pháp luật cụ
thể về cạnh tranh. Theo đó, hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ phải
được ghi nhận trong quy phạm pháp luật (đạo luật, án lệ...) là hành vi hạn chế
cạnh tranh; các chủ thể tham gia thị trường sẽ bị pháp luật điều chỉnh trong suốt
các giai đoạn của quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm và sẽ bị pháp luật
xử lý nếu vi phạm quy định này.
19


Nguyễn Như Phát - Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.5.


19

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một số đánh giá sau:
Một là, thỏa thuận ấn định giá được hình thành từ việc các doanh nghiệp
khai thác quyền tự do ấn định giá hàng hóa, dịch vụ. Mục đích của việc tiến hành
thỏa thuận ấn định giá cũng rất đa dạng, có thể nhằm ổn định giá trong điều kiện
thị trường đang biến động; hoặc tạo mặt bằng giá chung để hạn chế cạnh tranh,
bóc lột khách hàng; hoặc các doanh nghiệp liên kết để ngăn chặn những hành vi
thị trường từ các doanh nghiệp khác... Như vậy, khơng phải mọi thỏa thuận ấn
định giá đều có mục tiêu hạn chế cạnh tranh.
Hai là, về nguyên lý, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận ấn định giá chỉ
có thể gây hậu quả hạn chế cạnh tranh khi sức mạnh tổng hợp của họ đủ chi phối
thị trường. Nhận định này được chứng minh qua hai luận điểm: (1) khi có sức
mạnh thị trường, các doanh nghiệp có thể chi phối giá cả thị trường; (2) một khi
quyền lực thị trường tồn tại, khách hàng sẽ bị hạn chế quyền lựa chọn. Do đó,
doanh nghiệp có cơ hội bóc lột khách hàng bằng những mức giá phi cạnh tranh.
Ba là, pháp luật khi điều chỉnh về thỏa thuận ấn định giá cần tôn trọng
những nguyên tắc cơ bản sau: (1) không xâm phạm quyền tự do định giá của
doanh nghiệp. Việc cấm đoán các thỏa thuận ấn định giá không thể trở thành lý
do để nhà nước can thiệp vào quyền định giá của doanh nghiệp. Bởi lẽ, quyền tự
do định giá được coi là một trong những nguyên lý cơ bản để thị trường vận động
và phát triển. (2) Pháp luật cần có cơ chế sàng lọc những thỏa thuận có thể đem
lại tác dụng tích cực cho thị trường. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, bên
cạnh việc cấm đoán các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (trong đó có thỏa thuận ấn
định giá), pháp luật của họ còn xây dựng thủ tục và cơ chế miễn trừ để áp dụng

đối với những trường hợp thúc đẩy sự phát triển của thị trường hoặc để giải quyết
các bất ổn khách quan của nền kinh tế. (3) Không áp dụng nguyên tắc cấm mặc
nhiên đối với thỏa thuận ấn định giá. Theo đó, pháp luật chỉ cấm đốn và xử lý
khi thỏa thuận ấn định giá có khả năng gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh (chi
phối giá và bóc lột khách hàng).
Bốn là, pháp luật cạnh tranh nói chung, chế định về thỏa thuận ấn định giá
nói riêng có quan hệ chặt chẽ với pháp luật về kiểm sốt giá và các chính sách
bình ổn giá, quản lý giá trên thị trường. Trong quan hệ này, pháp luật kiểm sốt
giá và chính sách quản lý giá có vai trị thiết lập mơi trường hình thành và vận
hành giá ổn định. Trong điều kiện thị trường đang lạm phát và còn non trẻ, vai


×