BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
*** ***
VŨ THẾ HOÀI
PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI - THỰC
TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
Chun ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên
TP. Hồ Chí Minh - năm 2007
-2-
Lời cam đoan
Tơi tên là Vũ Thế Hồi – là tác giả Luận văn Thạc sĩ Luật học
với đề tài: “Pháp luật về bán đấu giá tài sản trong lĩnh vực thương mại -
Thực trạng và định hướng hoàn thiện” dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS. TS. Hà Thị Mai Hiên. Tơi xin cam đoan cơng trình này là kết quả
của q trình nghiên cứu nghiêm túc, khơng trùng lắp với các cơng trình
khoa học đã cơng bố. Các số liệu, thơng tin trong Luận văn là chính xác,
trung thực.
Tơi xin cam đoan hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả
-3-
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu .........................................................................................
3
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bán đấu giá tài sản ...
1.1. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản và pháp luật về bán đấu
giá tài sản ..............................................................................................
7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động bán đấu giá tài sản ......................
7
1.1.2. Các hình thức bán đấu giá tài sản..................................................
12
1.1.3. Quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản ...........................................
17
1.1.3.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản .....................
17
1.1.3.2. Nội dung quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản .........................
19
1.1.3.3. Khách thể của quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản..................
22
1.1.4. Khái niệm, nội dung và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về
bán đấu giá tài sản ..................................................................................
23
1.2. Quá trình điều chỉnh pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta .....
34
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật veà chế định
bán đấu giá tài sản ở nước ta ..................................................................
34
1.2.2. Các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản
trong lĩnh vực thương mại hiện nay ........................................................
36
1.3. Pháp luật về bán đấu giá tài sản của một số nước trên thế giới .....
39
1.3.1. Pháp luật của Trung Quốc quy định về bán đấu giá tài sản ...........
39
1.3.2. Bộ luật thương mại của nước cộng hòa Pháp quy định về bán đấu
giá tài sản ...........................................................................................
42
1.3.3. Luật bán đấu giá công khai của Canada .......................................
45
Chương 2: Thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp luật về bán
đấu giá tài sản trong lĩnh vực thương mại ở nước ta hiện nay ..........
47
2.1. Thực trạng pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản và thực
tiễn áp dụng ..........................................................................................
47
-4-
2.1.1. Thực trạng pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản .................
47
2.1.1.1. Sự chồng chéo trong quy định của các văn bản quy phạm pháp
luật về bán đấu giá tài sản.......................................................................
48
2.1.1.2. Có những “lỗ hổng” của pháp luật về hoạt động bán đấu giá
trong lĩnh vực thương mại ......................................................................
50
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bán đấu giá tài sản .......................
56
2.1.2.1. Thực trạng các tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản hiện nay ....
56
2.1.2.2. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
bán đấu giá tài sản hiện nay ....................................................................
58
2.1.2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu giá tài sản liên quan hoạt
động của các Ngân hàng thương mại khi xử lý các khoản nợ .................
62
2.1.2.4. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu
giá tài sản hiện nay .................................................................................
65
2.1.3. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn điều chỉnh pháp luật về BĐGTS ..............................
67
2.2. Những định hướng cơ bản xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
bán đấu giá tài sản trong lĩnh vực thương mại ...................................
70
2.2.1. Những thuận lợi và triển vọng hoạt động bán đấu giá tài sản trong
lĩnh vực thương mại ...............................................................................
70
2.2.2. Những định hướng cơ bản xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
bán đấu giá tài sản trong lĩnh vực thương mại ........................................
72
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về bán đấu
giá tài sản và tăng cường hiệu lực điều chỉnh pháp luật về bán đấu
giá tài sản ở nước ta hiện nay ....................................................................
74
Kết luận và kiến nghị ...........................................................................
87
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................
90
-5-
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động bán đấu giá tài sản (BĐGTS) là một loại hình dịch vụ mang
tính thiết thực và là nhu cầu thiết yếu trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động
này góp phần tạo ra nhiều loại hình giao dịch, mua bán tài sản đáp ứng nhu
cầu sản xuất, tiêu dùng của xã hội. Thông qua hoạt động bán đấu giá, tài sản
sẽ được người mua mua với một mức giá hợp lý và người bán tài sản sẽ bán
với một mức giá trên cơ sở sự cạnh tranh giữa những người mua. Theo Nghị
định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài
sản (Nghị định 05), thì việc BĐGTS chủ yếu thông qua các tổ chức doanh
nghiệp, nhằm tiến tới việc xã hội hóa ngày càng sâu sắc hoạt động vốn mang
tính dịch vụ thương mại này.
Tính đến cuối tháng 6 năm 2007 cả nước đã có 47 doanh nghiệp đăng
ký kinh doanh dịch vụ BĐGTS, trong đó Bộ tư pháp đã cấp thẻ Đấu giá viên
cho 111 cá nhân. Nhưng hiện nay, có nhiều doanh nghiệp kinh doanh khơng
thật sự hiệu quả vì có nhiều lý do khác nhau. Thực tiễn đòi hỏi phải đổi mới
mạnh mẽ hoạt động này, mà pháp luật của hầu hết các nước quy định đây là
một hoạt động thương mại, coi BĐGTS như một trong những hình thức mua
bán tài sản đặc thù trong các giao dịch dân sự - thương mại. Vì vậy, việc hồn
thiện pháp luật về hoạt động BĐGTS là cần thiết, nhằm tạo ra chuyển biến
tích cực và có những biện pháp thực tế để khuyến khích việc thành lập và
phát triển các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ BĐGTS.
Trước thực trạng đó, mặc dù Chính phủ và các Bộ, ngành đã ban hành
những văn bản nhằm khắc phục kịp thời những hạn chế của pháp luật về
BĐGTS, tạo cơ sở pháp lý tốt hơn cho hoạt động này. Tuy nhiên, thực tiễn
luôn vận động và biến đổi, các quan hệ này ngày càng phức tạp và đặc biệt
với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế địi hỏi pháp luật phải đồng bộ và hồn
chỉnh. Do vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu một cách có hệ thống các quy
-6-
định của pháp luật về BĐGTS nói chung và bán đấu giá trong lĩnh vực thương
mại nói riêng, qua đó kiến nghị điều chỉnh những điểm chưa phù hợp là rất
cần thiết. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Pháp luật về bán đấu giá tài sản
trong lĩnh vực thương mại - Thực trạng và định hướng hoàn thiện" để làm
Luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nước ta đang trong thời kì quá độ, xây dựng nền kinh tế thị trường nên
pháp luật về BĐGTS trong lĩnh vực thương mại cũng chưa hoàn thiện, chưa
đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn. Trong thời gian vừa qua, đã có một số
bài viết, các cơng trình nghiên cứu đóng góp cho việc xây dựng và hồn thiện
pháp luật trong lĩnh vực này. Điển hình như Luận văn Thạc sĩ của tác giả Đặng
Thanh Hoa với đề tài "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định bán đấu
giá tài sản trong thi hành án dân sự“; Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Văn
Sĩ với đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản – từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh”; một số bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí
Dân chủ và pháp luật số "Chuyên đề về bán đấu giá tài sản“ năm 2006; tài
liệu tập huấn nghiệp vụ "Bán đấu giá tài sản“ của Bộ Tư pháp ban hành tháng
8/2006... Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS) và Luật thương mại năm 2005
(Luật thương mại) được ban hành đã thể hiện được rất nhiều điểm mới tiến
bộ, khắc phục được một số hạn chế của pháp luật trước đây. Thực tiễn, đây là
một hoạt động rất đa dạng và có rất nhiều triển vọng. Tuy nhiên, việc tìm hiểu
và nghiên cứu để tìm ra những bất cập để hoàn thiện pháp luật là vấn đề luôn
được đặt ra, nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Một số công trình, bài viết nói trên, mỗi tác giả nghiên cứu dưới những
góc độ khác nhau và có những kiến nghị đề xuất khắc phục những hạn chế
còn tồn tại, nhưng chưa ai đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện thực trạng
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về BĐGTS trong lĩnh vực thương
mại. Từ thực tiễn sôi động của nền kinh tế thị trường, tác giả nhận thấy nhu
cầu khách quan của xã hội cần sự điều chỉnh pháp luật một cách có hiệu quả
-7-
về hoạt động này. Điều đó đã thơi thúc tác giả chọn đề tài này nhằm đáp ứng
những đòi hỏi bức xúc của lý luận cũng như thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
- Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu những quy định của pháp luật về
BĐGTS trong lĩnh vực thương mại, thực trạng áp dụng pháp luật và hoạt
động thực tiễn trong lĩnh vực này nhằm phát hiện những hạn chế còn tồn tại
và đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bán đấu
giá tài sản trong lĩnh vực thương mại.
+ Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật trong lĩnh vực này, qua đó phân tích những hạn chế, bất cập còn tồn tại.
+ Đề xuất kiến nghị một số giải pháp nhằm thống nhất và hoàn thiện
pháp luật về BĐGTS trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật về BĐGTS
trong lĩnh vực thương mại – hoạt động kinh doanh dịch vụ bán đấu giá của
các doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực trạng áp
dụng pháp luật, có đối chiếu với quy định của pháp luật trước đây và tham
khảo pháp luật về BĐGTS của một số nước tiên tiến trên thế giới. Tìm hiểu
và nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật của hoạt động này trong thời gian
vừa qua, đặc biệt là thực tiễn đầy sôi động tại Tp. Hồ Chí Minh - một trung
tâm kinh tế, thương mại lớn nhất nước ta. Từ đó đưa ra một số kiến nghị
nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả điều chỉnh pháp
luật về BĐGTS ở nước ta theo định hướng coi đây là một loại hình dịch vụ
thương mại đặc thù trong xã hội.
-8-
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai thực hiện việc nghiên cứu đề tài này, tác giả vận dụng
phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế hàng hố nhiều thành
phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; về đẩy
mạnh xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị
trường có tính chất đặc thù của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp thống kê, so sánh, lịch sử - cụ thể,
phân tích và tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
BĐGTS đã có mặt ở Việt Nam khá lâu, nhưng bán đấu giá hàng hóa
với tính chất là hành vi thương mại của thương nhân thì mới được ghi nhận
trong pháp luật những năm gần đây. Vì vậy, các quy định pháp luật điều
chỉnh hoạt động này còn chưa hồn chỉnh. Luận văn sẽ là cơng trình nghiên
cứu có giá trị tham khảo cho những người làm cơng tác pháp luật, hoạt động
thực tiễn về BĐGTS; những người có nhu cầu quan tâm tìm hiểu việc xây
dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật, tăng cường hiệu quả điều chỉnh của
pháp luật về BĐGTS trong lĩnh vực thương mại trong thời gian tới.
Tuy nhiên, Luận văn cũng khó tránh khỏi một số hạn chế nhất định, tác
giả rất mong nhận được sự góp ý tận tình của quý độc giả để bản Luận văn
này sẽ được hoàn thiện hơn.
7. Bố cục của Luận văn
Luận văn bao gồm các phần sau đây:
Lời mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bán đấu giá tài sản
Chương 2: Thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá
tài sản trong lĩnh vực thương mại ở nước ta hiện nay
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
-9-
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT
BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
1.1. Khái quát chung về bán đấu giá và pháp luật về bán đấu giá tài sản
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động bán đấu giá tài sản
1.1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản
- Khái niệm tài sản:
Theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005: Tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản. Nhìn chung, tài sản được chia thành hai loại là
động sản và bất động sản. Bất động sản bao gồm đất đai, nhà cửa, các tài sản
gắn liền với đất đai và những tài sản khác theo quy định của pháp luật. Động
sản là những tài sản không phải là bất động sản (Điều 174). Pháp luật quy
định việc trao đổi, mua bán tài sản theo nguyên tắc chung là bình đẵng, tự
nguyện, thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm thông qua hợp đồng. Khi một tài
sản được đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường thì được gọi là hàng hóa.
Hàng hóa, theo nghĩa hẹp là vật chất tồn tại có hình dạng xác định
trong khơng gian và có thể trao đổi, mua bán được; theo nghĩa rộng, hàng
hóa là tất cả những gì có thể trao đổi, mua bán được (Từ điển Bách khoa toàn
thư mở Wikipedia). Trong Kinh tế chính trị Mác – Lênin, hàng hóa cũng được
định nghĩa là sản phẩm của lao động thơng qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa
có thể là tài sản hữu hình như sắt thép, quyển sách hay ở dạng vơ hình như
sức lao động. Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Khi đưa
ra ngoài thị trường để trao đổi, mua bán thì giá trị của hàng hóa thể hiện qua
giá trị trao đổi hay là giá cả của hàng hóa.
Mua bán hàng hóa là một trong những hoạt động thương mại cơ bản
trong xã hội. Theo khái niệm thương mại truyền thống thì: thương mại là hoạt
- 10 -
động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ giữa hai hay nhiều đối
tác thông qua thị trường. Thị trường sẽ bao gồm hai đối tượng: người bán và
người mua. Hai đối tượng này sẽ gặp nhau tại một nơi mà người Việt Nam
gọi là “chợ”, tiếng Anh thì gọi là “market”, gặp nhau rồi thì “thuận mua vừa
bán” và quan trọng là giao dịch phải bằng tiền hoặc những thứ gì đó có thể
quy ra tiền. Thơng thường, việc mua bán hàng hóa diễn ra một cách đơn giản
là các bên thỏa thuận với nhau về giá cả, chất lượng, giao hàng... và diễn ra
giữa người bán và một số người mua. Việc thỏa thuận giữa họ thơng thường
khơng được cơng khai, người mua ít được biết mức giá mà đối thủ cạnh tranh
mua với mình trả cho người bán. Trong khi đó, nếu bán đấu giá thì ngun tắc
là thơng báo và được tổ chức mua bán một cách công khai. Những người
tham gia đấu giá mua tài sản đều nắm rõ mức giá mà người mua khác đưa ra,
từ đó có sự lựa chọn mức giá để mua phù hợp và người bán chỉ bán tài sản ở
mức giá cao nhất có thể.
- Khái niệm bán đấu giá tài sản:
Bán đấu giá là một quá trình mua và bán bằng cách đưa ra món hàng
cần đấu giá, ra giá và sau đó bán món hàng cho người trả giá cao nhất (theo
Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia). Theo Luật thương mại Việt Nam
năm 2005, quy định: "Đấu giá hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó
người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán
hàng hóa cơng khai để chọn người mua trả giá cao nhất’ (Điều 185). Người
mua tài sản là người trả giá cao nhất sau khi khơng cịn người mua nào khác
trả giá cao hơn. Theo cách bán đấu giá truyền thống, người tham gia mua tài
sản thông qua đấu giá phải đóng một khoản tiền đặt trước theo quy định dựa
vào tỷ lệ giá trị tài sản, khoản tiền này nhằm ràng buộc người đã đăng ký phải
mua tài sản nếu trúng đấu giá, trường hợp trúng đấu giá mà khơng mua thì
khơng được quyền nhận lại khoản đặt trước này. Còn đối với những người
tham gia đấu giá mà khơng trúng thì sẽ được quyền nhận lại khoản tiền đặt
trước này.
- 11 -
Về phương diện kinh tế, BĐGTS là một hoạt động dịch vụ thương mại.
Một cuộc đấu giá là phương pháp xác định giá trị của món hàng chưa biết giá
hoặc giá trị thường thay đổi. Trong một số trường hợp, có thể tồn tại một mức
giá tối thiểu hay còn gọi là giá sàn, nếu sự ra giá khơng đạt đến được giá sàn
thì món hàng sẽ khơng được bán, nhưng người đưa món hàng ra đấu giá vẫn
phải trả phí cho người tổ chức việc bán đấu giá tùy theo sự thỏa thuận giữa
các bên. Trong ngữ cảnh của cuộc đấu giá, một từ vựng tiếng Anh thường
được dùng là bid hay auction, nghĩa là giá đề nghị. Đấu giá có thể áp dụng
cho nhiều loại mặt hàng khác nhau: đồ cổ, bộ sưu tập (tem, tiền cổ), tác phẩm
nghệ thuật, bất động sản, các mặt hàng đã qua sử dụng, sản phẩm thương mại
(cá, tôm), giống ngựa đua thuần chủng hay các cuộc bán đấu giá cưỡng ép (tài
sản bảo đảm, tài sản phát mãi...).
Như vậy, chúng ta có khái niệm đầy đủ về hoạt động BĐGTS như sau:
Bán đấu giá tài sản là phương thức bán hàng đặc biệt, trong đó, người bán tự
mình hoặc thuê tổ chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa một cách
cơng khai tại một địa điểm và thời gian đã thông báo trước để những người
muốn mua đến trả giá. Quyền mua hàng hóa sẽ thuộc về người trả giá cao
nhất. Quan hệ đấu giá hàng hóa cũng có bản chất kinh tế và bản chất pháp lí
của nó. Nếu đấu thầu được xem là phương thức để bên mua lựa chọn người
cung cấp hàng hóa, dịch vụ phù hợp, thì ngược lại, đấu giá là phương thức để
bên bán xác định người mua hàng. Dưới tác động của quy luật cung – cầu,
bán đấu giá hàng hóa tồn tại như là một yêu cầu khách quan của nền kinh tế
thị trường. Trên thị trường, quan hệ cung – cầu về các loại hàng hóa, dịch vụ
ít khi ở trạng thái cân bằng mà thường hay thay đổi, biến động. Khi cung vượt
quá cầu thì thị trường dành cho người mua quyền lựa chọn (đấu thầu). Còn
khi cầu lớn hơn cung thì thị trường thuộc về người bán được quyền lựa chọn
người mua (đấu giá). Song nếu đấu thầu hàng hóa, dịch vụ thường được áp
dụng khá phổ biến thì bán đấu giá hàng hóa thường chỉ áp dụng cho những thị
trường mang tính cục bộ hoặc đối với một số loại hàng hóa đặc thù nhất định.
- 12 -
Về phương diện pháp lí, đấu giá hàng hóa là một hành vi pháp lí, do có
sự khác nhau về chủ thể, mục đích mà đấu giá hàng hóa có thể là một hành vi
dân sự thơng thường hoặc là một hoạt động thương mại độc lập của các
thương nhân. Đối tượng của bán đấu giá là tài sản - hàng hóa được phép lưu
thơng trên thị trường. Quan hệ BĐGTS là một quan hệ pháp luật, được xác
lập dưới những hình thức pháp lí nhất định, đó là hợp đồng ủy quyền bán đấu
giá tài sản được xác lập giữa người có hàng hóa và tổ chức bán đấu giá.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động bán đấu giá tài sản
Hoạt động bán đấu giá tài sản là một hoạt động thương mại dịch vụ
trong nền kinh tế thị trường, có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, đấu giá hàng hóa là hoạt động bán hàng (có thể) thông qua
trung gian. Trong quan hệ đấu giá hàng hóa, trừ trường hợp người bán đấu giá
(người có hàng hóa) tự mình tổ chức bán đấu giá, các trường hợp khác, ngồi
bên bán, bên mua cịn có sự tham gia của bên trung gian là người làm dịch vụ
bán đấu giá. Bên bán là chủ sở hữu của hàng hóa hoặc người được chủ sở hữu
ủy quyền hoặc là người có trách nhiệm, lợi ích liên quan đến hàng hóa bán
đấu giá. Bên mua là những tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua hàng hóa và đáp
ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật để tham gia trả giá. Người làm
dịch vụ bán đấu giá là những tổ chức được người có quyền bán hàng hóa ủy
quyền tiến hành bán đấu giá.
Như vậy, quan hệ bán đấu giá có thể diễn ra giữa các đối tượng sau:
+ Người có hàng hóa (chủ sở hữu của hàng hóa) – người mua;
+ Người có hàng hóa – người bán hàng hóa (được chủ sở hữu hàng hóa
ủy quyền bán hàng hóa hoặc có quyền bán hàng hóa theo quy định của pháp
luật) – người mua.
+ Người có hàng hóa – người bán đấu giá (thương nhân kinh doanh
dịch vụ đấu giá hàng hóa) – người mua.
Hai là, đối tượng của bán đấu giá có thể là những hàng hóa thương mại
thơng thường, tuy nhiên, do tính chất đặc thù của việc bán hàng theo phương
- 13 -
thức này mà khơng phải hàng hóa nào cũng được các chủ sở hữu quyết định
bán bằng phương thức đấu giá. Tài sản trong đấu giá rất đa dạng tùy theo nhu
cầu của chủ sở hữu và theo quy định của pháp luật. Mọi tài sản đều có thể tổ
chức bán đấu giá như: đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm, phương tiện
giải trí, bất động sản, đồ dùng gia đình, hàng tiêu dùng, thiết bị văn phịng,
máy tính, tài sản cơng... Các tài sản bán đấu giá bao gồm tài sản để thi hành
án theo quy định về thi hành án; tài sản là tang vật phương tiện vi phạm hành
chính bị tịch thu sung công qũy nhà nước; tài sản bảo đảm theo quy định của
pháp luật về giao dịch có bảo đảm; tài sản thuộc cá nhân, tổ chức có yêu cầu
bán đấu giá; hàng hóa lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng
không, đường bộ lưu giữ tại Việt Nam; tài sản nhà nước phải tổ chức bán đấu
giá theo quy định về xử lý tài sản cơng... Chính vì vậy, hầu hết chỉ những
hàng hóa có đặc thù về giá trị cũng như giá trị sử dụng mới được cân nhắc để
lựa chọn bán theo phương thức đấu giá. Những hàng hóa này rất khó xác định
giá trị thực của nó so với các loại hàng hóa thơng thường khác. Do vậy, người
bán chỉ đưa ra một mức giá làm cơ sở để người mua tham khảo (giá khởi
điểm hoặc giá sàn), còn giá bán thực tế do những người tham dự cuộc bán đấu
giá xác định trên cơ sở có sự cạnh tranh với nhau. Giá bán thực tế có thể cao
hơn hoặc thấp hơn mức giá mà người bán đưa ra ban đầu.
Ba là, về hình thức pháp lí của quan hệ bán đấu giá có thể được thiết
lập dưới một dạng đặc biệt đó là hợp đồng ủy quyền bán đấu giá - là văn bản
được xác lập giữa người bán hàng và người làm dịch vụ tổ chức bán đấu giá.
Nó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy quyền bán
bán đấu giá. Còn văn bản bán đấu giá thực chất là hợp đồng mua bán hàng
hóa, được xác lập giữa các bên liên quan (người mua hàng và tổ chức kinh
doanh dịch vụ bán đấu giá). Văn bản này là cơ sở pháp lí để xác lập quyền và
nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa, đồng thời là căn cứ
để xác lập quyền sở hữu của người mua hàng đối với hàng hóa bán đấu giá.
- 14 -
So với các phương thức bán hàng khác, bán đấu giá hàng hóa đem lại
lợi ích cho cả người bán hàng và người mua hàng. Nó tạo cơ hội bình đẵng
cho những người mua hàng cùng tham gia trả giá, qua đó xác định được một
mức giá cạnh tranh có lợi nhất cho người bán hàng. Nhờ việc tổ chức đấu giá
mà hàng hóa đem bán sẽ đến tay những người mua có tiềm năng và xác định
đúng giá trị thực của chúng. Bán đấu giá còn tập trung được cung và cầu về
các loại hàng hóa vào một thời điểm nhất định, giúp cho việc xác lập quan hệ
mua bán diễn ra nhanh chóng, thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Nếu
hình thành được những thị trường bán đấu giá chuyên nghiệp thì sẽ là động
lực rất tốt để thúc đẩy quan hệ trao đổi thương mại hàng hóa phát triển, nhất
là đối với các quốc gia có những mặt hàng thế mạnh của mình.
1.1.2. Các hình thức bán đấu giá tài sản
Bán đấu giá tài sản là một quy trình phức tạp, quy trình này có thể tiến
hành theo nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng hàng hóa, mục
đích và điều kiện tổ chức cuộc bán đấu giá. Vì vậy, có nhiều cách thức phân
loại đấu giá hàng hóa khác nhau.
- Phân loại theo mặt hàng đấu giá, thì bán đấu giá bao gồm:
+Đấu giá trao đổi: gồm những người mua hàng rất chuyên nghiệp, họ
giám sát lẫn nhau để không ai có thể lừa lọc được.
+ Đấu giá lẻ: thường áp dụng đối với các tác phẩm nghệ thuật hay các
món hàng riêng lẻ.
+ Đấu giá sĩ: thường áp dụng đối với các bộ sưu tập hay các lô hàng
cùng chủng loại.
- Phân loại theo hình thức đấu giá:
+ Đấu giá kiểu Anh: đây là hình thức khá cổ điển và được nhiều người
biết đến. Những người tham gia trả giá công khai với nhau, giá đưa ra sau bao
giờ cũng cao hơn giá đưa ra trước đó. Cuộc đấu giá kết thúc khi không ai đưa
ra được giá cao hơn hoặc khi đạt tới giá trần, khi đó người ra giá cao nhất sẽ
được mua món hàng đó với giá mà mình đã trả. Người bán có thể đặt ra giá
- 15 -
sàn (gọi là giá thấp nhất - giá khởi điểm), nếu người điều khiển không thể
nâng giá cao hơn mức giá sàn thì việc đấu giá có thể thất bại.
+ Đấu giá kiểu Hà Lan: trong một sàn đấu giá kiểu Hà Lan truyền
thống, người điều khiển ban đầu sẽ đưa ra giá cao, rồi thấp dần cho tới khi có
người mua chấp nhận mức giá đó hoặc chạm đến mức giá sàn định bán ra.
Người mua đó sẽ mua món hàng với mức giá đưa ra cuối cùng. Hình thức này
đặc biệt hiệu quả khi cần bán đấu giá nhanh món hàng nào đó (chẳng hạn như
bán hàng cần thanh lý), vì có những cuộc mua bán khơng cần đến lần trả giá
thứ hai, một ví dụ tiêu biểu là việc bán hoa Tulip. Kiểu đấu giá này cịn để sử
dụng để mơ tả đấu giá trực tuyến khi một số món hàng đồng nhất được bán
đồng thời cho một số người cùng ra giá cao nhất.
+ Đấu giá kín theo giá thứ nhất: tất cả mọi người tham gia cùng đặt giá
đồng thời, không ai biết mức giá của ai cả, người ra giá cao nhất là người mua
được món hàng đó.
+ Đấu giá kín theo giá thứ hai (đấu giá Vickrey): tương tự như đấu giá
kín theo giá thứ nhất, tuy nhiên người thắng chỉ phải mua món hàng với mức
giá cao thứ hai chứ khơng phải giá cao nhất do mình đưa ra.
+ Đấu giá câm (khơng dùng lời nói): đây là một hình thức biến thể của
đấu giá kín, thường dùng trong các cuộc đấu giá từ thiện, liên quan đến việc
mua một tập hợp các món hàng giống nhau, người tham gia sẽ đặt giá vào
một tờ giấy đặt kế món hàng, họ có thể được biết hoặc khơng được biết có
bao nhiêu người tham gia và giá của họ đưa ra. Người trả giá cao nhất sẽ được
mua món hàng đó với giá mà mình đã đặt.
+ Đấu giá kiểu thầu (đấu thầu): hình thức này trao đổi giữa người bán
và người mua. Người mua đưa ra bản yêu cầu báo giá cho một loại hàng hóa
nào đó (hoặc có thể là dịch vụ) và các nhà cung cấp sẽ đưa ra giá thấp dần với
mong muốn dành lấy gói thầu đó. Vào cuối buổi đấu giá, người ra giá thấp
nhất sẽ thắng cuộc.
- 16 -
+ Đấu giá nhượng quyền: đây là hình thức đấu giá dài vô hạn định,
dành cho những sản phẩm có thể được tái bản (như bản thu âm, phần mềm,
công thức làm thuốc...), người đấu giá đặt công khai giá lớn nhất của họ (có
thể điều chỉnh hoặc rút lại), người bán có thể xem xét kết thúc cuộc đấu giá
bất cứ lúc nào khi chọn được mức giá vừa ý. Những người thắng cuộc là
những người đặt giá bằng hoặc cao hơn giá được chọn và sẽ nhận được phiên
bản của sản phẩm.
+ Đấu giá ra giá duy nhất: trong hình thức này, người đấu giá sẽ đưa ra
giá không rõ ràng và được cung cấp một phạm vi ra giá mà họ có thể đặt giá.
Một mức giá duy nhất có thể cao nhất hoặc thấp nhất từ các mức giá được ra
giá sẽ thắng cuộc. Ví dụ, nếu một cuộc đấu giá quy định mức giá cao nhất là
10; năm giá cao nhất là 10, 10, 9, 8, 8 thì 9 sẽ là mức giá thắng cuộc vì là
người ra giá duy nhất đạt giá cao nhất. Hình thức này phổ biến trong các cuộc
đấu giá trực tuyến.
+ Đấu giá mở: đây là hình thức được sử dụng trên thị trường chứng
khoán và trao đổi hàng hóa. Việc mua bán diễn ra trên sàn giao dịch và người
giao dịch đưa ra giá bằng lời ngay tức thì. Những giao dịch đồng thời có thể
diễn ra ở nơi khác trong sàn mua bán. Tuy nhiên, hình thức này dần dần được
thay thế bởi hình thức thương mại điện tử.
+ Đấu giá giá trần: hình thức đấu giá này có giá bán ra xác định trước,
người tham gia có thể kết thúc cuộc đấu giá bằng cách đơn giản là chấp nhận
ngay mức giá này. Mức giá này do người bán (hoặc người có hàng hóa bán)
xác định. Người đấu giá có thể chọn để ra giá hoặc sử dụng ln mức giá trần.
Nếu khơng có người chọn giá trần thì cuộc đấu giá sẽ kết thúc với người trả
mức giá cao nhất.
+ Đấu giá tổ hợp: trong một số trường hợp, sự định giá của người mua
là một tập hợp món hàng với số lượng và chủng loại khác nhau (gọi là một tổ
hợp). Ví dụ, nếu bánh xe đạp và khung xe được bán rời ra trong một cuộc đấu
giá, thì đối với người ra giá một tổ hợp bao gồm một bánh xe hoặc một khung
- 17 -
xe chẳng có giá trị gì cả, nhưng hai bánh xe và một khung xe đạp thì lại đáng
giá đến 200.000 VND chẳng hạn. Nếu bị buộc phải mua từng phần trong
những cuộc đấu giá khác nhau, người ra giá có thể gặp trường hợp ối oăm:
thắng được một số món được rao bán trước nhưng lại thua khi đấu những món
được rao bán sau; mặt khác, thua ngay trong cuộc đấu giá đầu tiên thì chắc
chắn anh ta sẽ khơng có được tổ hợp mong muốn. Tình thế này có thể được
giải quyết bằng cách bán tất cả các món hàng đồng thời và cho phép người
mua đăng ký và ra giá cho cả một tổ hợp các món hàng. Sự ra giá theo tổ hợp
như vậy sẽ đề nghị một giá để trả cho tất cả các món hàng trong tổ hợp, nếu
thắng thì có được một tổ hợp, ngược lại sẽ không phải mua bất cứ món gì
trong tổ hợp hàng hóa đó.
- Theo Luật thương mại Việt Nam năm 2005, xác định:
+ Đấu giá theo phương thức trả giá lên: nhân viên điều hành bán đấu
giá nêu lên giá khởi điểm của lô hàng hay tài sản bán đấu giá. Sau đó, những
người mua sẽ trả giá nâng dần lên theo từng mức mặc cả nhất định. Người trả
giá cao nhất theo sự kết luận của nhân viên điều hành đấu giá sẽ được quyền
mua lơ hàng hoặc tài sản đó. Hình thức này được áp dụng phổ biến nhất trong
các cuộc đấu giá vì nó có lợi cho cả bên mua và bên bán. Bên mua được chủ
động đề xướng giá đặt mua nên quan hệ mua bán mang tính tự nguyện rất
cao. Cịn bên bán thường được lợi về giá cả vì ln có sự cạnh tranh trả giá
cao hơn giá khởi điểm mà mình đưa ra.
+ Đấu giá theo phương pháp hạ giá xuống: là hình thức mà tại cuộc
bán đấu giá, nhân viên điều hành đấu giá nêu lên mức giá khởi điểm cao nhất,
rồi sau đó hạ dần từng nấc một để người mua đặt giá. Nếu khơng có người
mua nào đặt giá thì lại hạ tiếp xuống mức thấp hơn. Cứ như thế cho đến khi
có người chấp nhận mua ở mức giá nào đó thì hàng hóa được bán cho người
đó. Hình thức này chủ yếu áp dụng đối với một số loại hàng hóa mà thực sự
nó khơng hấp dẫn với cả người mua lẫn người bán hàng. Người mua do tâm lí
ln lo sợ để tuột mất cơ hội mua hàng vào tay người khác nên vội vàng chấp
- 18 -
nhận mức giá mà chưa chắc đã là hợp lí. Cịn người bán thì cũng khơng được
cảm thấy thỏa mãn về giá cả vì rất ít khi có người mua nào chấp nhận ngay
mức giá khởi điểm.
- Căn cứ vào hình thức biểu đạt trong cuộc bán đấu giá:
+ Đấu giá dùng lời nói: là hình thức mà trong phiên bán đấu giá, nhân
viên điều hành đấu giá dùng lời nói của mình để đưa ra giá khởi điểm. Những
người mua sẽ đặt giá cũng bằng lời nói hoặc bằng việc làm dấu hiệu để người
điều hành đấu giá biết. Hình thức đấu giá của mọi người mua đều công khai,
người trả giá cao nhất được xác định ngay và cuộc đấu giá có thể nhanh
chóng kết thúc.
+ Đấu giá khơng dùng lời nói: là hình thức mà việc trả giá của người
mua không được thể hiện bằng lời nói hoặc việc làm dấu hiệu mà được viết ra
giấy hoặc thơng qua một hình thức nào đó sẽ thông báo cho nhân viên điều
hành đấu giá biết. Nhân viên điều hành sẽ thông báo mức giá cao nhất qua
mỗi lần trả giá trên cơ sở so sánh các mức giá chấp nhận mà họ được thông
báo. Việc đấu giá kéo dài cho tới lần trả giá mà không có ai trả cao hơn giá đã
trả cao nhất của lần trả giá liền kề trước đó. Tuy thủ tục có phức tạp và làm
mất nhiều thời gian hơn nhưng hình thức này hạn chế được tình trạng chạy
đua giữa những người mua nâng giá lên cao một cách quá đáng so với giá trị
thực của hàng hóa, vì mỗi người mua sẽ không biết mức giá mà người mua
khác trả trong mỗi lần trả giá.
Tóm lại, theo Luật thương mại Việt Nam, việc đấu giá hàng hóa được
thực hiện theo một trong hai phương thức cơ bản sau đây:
+ Phương thức trả giá lên là phương thức bán đấu giá, theo đó người trả
giá cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng;
+ Phương thức đặt giá xuống là phương thức bán đấu giá, theo đó
người đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp
hơn mức giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.
- 19 -
1.1.3. Quan hệ pháp luật về bán đấu giá tài sản
Cũng giống như các quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật về bán
đấu giá tài sản bao gồm các yếu tố: chủ thể, nội dung và khách thể.
1.1.3.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản
Chủ thể của quan hệ pháp luật BĐGTS là các cá nhân, tổ chức tham gia
vào quá trình mua và bán tài sản thơng qua đấu giá, gồm các chủ thể sau đây:
- Người bán tài sản:
Người bán tài sản là chủ sở hữu hàng hóa hoặc người được chủ sở hữu
hàng hóa ủy quyền bán, người có quyền bán hàng hóa của người khác theo
quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 186 Luật thương mại) hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong những trường bán đấu giá cưỡng chế (bán đấu giá
tài sản để thi hành án, tài sản tịch thu sung công qũy nhà nước do vi phạm
pháp luật hành chính; bán đấu giá tài sản công…) theo quy định của pháp
luật. Như vậy, người bán hàng hóa ở đây cần phân biệt với người tổ chức bán
đấu giá hàng hóa. Người bán hàng hóa đứng ra kí hợp đồng dịch vụ bán đấu
giá hàng hóa với tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá hoặc người bán hàng
có thể là một trung gian, làm cơng việc cầu nối giữa người có hàng hóa (chủ
sở hữu hàng hóa) và người tổ chức bán đấu giá hàng hóa. Trong trường hợp là
một bên trung gian, người bán hàng hóa có thể đóng vai trị thay mặt người có
hàng hóa thiết lập các quan hệ với tổ chức bán đấu giá hàng hóa vì quyền lợi
của người có hàng hóa. Mặt khác, người bán hàng hóa cũng có thể là những
người khơng có quan hệ trực tiếp, không nhận được sự đồng thuận của người
có hàng hóa nhưng lại có quyền bán hàng hóa (bán tài sản bảo đảm). Quyền
này có thể phát sinh từ những quan hệ pháp lí, những thỏa thuận trước đó giữa
người có quyền bán hàng hóa và chủ sở hữu hàng hóa hoặc có thể phát sinh
theo quy định của pháp luật.
- Người tổ chức dịch vụ bán đấu giá hàng hóa:
Người tổ chức bán đấu giá có thể là doanh nghiệp chuyên bán đấu giá
hoạt động theo Luật doanh nghiệp hoặc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản
- 20 -
– một đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp. Theo Luật thương mại, thì người tổ
chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh hoạt động dịch vụ đấu giá
hoặc là người bán hàng của mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức
đấu giá (khoản 1 Điều 186).
Như vậy, thuật ngữ người tổ chức đấu giá hàng hóa được đặt ra đối với
cả trong trường hợp người tổ chức bán đấu giá là một thương nhân lấy hoạt
động kinh doanh dịch vụ tổ chức bán đấu giá hàng hóa làm nghề nghiệp của
mình. Có thể nói, về bản chất, người tổ chức bán đấu giá là người tiến hành
các công việc cụ thể của một cuộc bán đấu giá hàng hóa. Trong trường hợp
người bán khơng tự mình tổ chức bán đấu giá hàng hóa mà thuê một người tổ
chức bán đấu giá chuyên nghiệp tiến hành bán đấu giá thì giữa hai người này
phải hình thành một hợp đồng dịch vụ tổ chức bán đấu giá trước khi các công
việc liên quan đến đấu giá hàng hóa được tiến hành.
- Người điều hành cuộc bán đấu giá:
Người điều hành cuộc đấu giá có thể là đấu giá viên hoặc khơng phải là
đấu giá viên. Trong trường hợp đấu giá các tài sản đặc thù thì người bán đấu
giá tài sản có thể cử hoặc thuê người không phải là đấu giá viên để điều hành
cuộc BĐGTS (hoặc trong các trường hợp người có tài sản tự mình tổ chức
bán đấu giá). Tuy nhiên, họ phải bảo đảm các yêu cầu về việc điều hành đấu
giá và am hiểu tính đặc thù của các tài sản đưa ra bán đấu giá.
Theo Luật thương mại, người điều hành đấu giá là người tổ chức đấu
giá hoặc người được tổ chức đấu giá ủy quyền điều hành bán đấu giá (khoản 2
Điều 187). Người điều hành chính là người xuất hiện chủ yếu và điều khiển
các phiên bán đấu giá theo một trình tự được pháp luật quy định với những
điều kiện bán hàng do người bán hàng đưa ra.
- Người mua hàng hóa:
Người mua hàng hóa chính là người tham gia đấu giá hàng hóa, bao
gồm tổ chức, cá nhân đăng kí tham gia cuộc đấu giá (khoản 1 Điều 187 Luật
thương mại). Về đối tượng đăng kí mua hàng hóa, trên ngun tắc nhà nước
- 21 -
khuyến khích sự cạnh tranh rộng rãi có lợi cho người bán hàng trong hoạt
động bán đấu giá. Tuy nhiên, để bảo vệ tính trung thực và hợp pháp của các
cuộc bán đấu giá, pháp luật vẫn cấm một số đối tượng sau không được quyền
tham gia đấu giá (Điều 198 Luật thương mại):
+ Người khơng có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi
dân sự theo quy định của BLDS hoặc người tại thời điểm đấu giá không nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình.
+ Những người làm việc trong tổ chức bán đấu giá hàng hóa; cha, mẹ,
vợ, chồng, con của những người đó.
+ Người đã trực tiếp thực hiện việc giám định hàng hóa bán đấu giá;
cha, mẹ, vợ, chồng, con của những người đó.
+ Những người khơng có quyền mua hàng hóa đấu giá theo quy định
của pháp luật.
1.1.3.2. Nội dung của quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản
Nội dung quan hệ pháp luật về BĐGTS bao gồm các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể tham gia vào quan hệ này:
* Quyền và nghĩa vụ của người bán tài sản:
Trong quan hệ đấu giá tài sản, người bán hàng hóa, với tư cách độc lập
với người tổ chức bán đấu giá, có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Quyền của người bán hàng hóa (Điều 191 Luật thương mại):
+ Nhận tiền hàng đã bán đấu giá và khoản chênh lệch thu được trong
trường hợp người trả giá rút lại giá đã trả hoặc nhận lại hàng hóa trong trường
hợp bán đấu giá khơng thành;
+ Giám sát việc tiến hành tổ chức bán đấu giá.
- Nghĩa vụ của người bán hàng hóa (Điều 192 Luật thương mại):
+ Giao hàng hóa cho người tổ chức đấu giá, tạo điều kiện để người tổ
chức đấu giá, người tham gia đấu giá xem xét hàng hóa và cung cấp đầy đủ,
chính xác, kịp thời các thơng tin cần thiết liên quan đến hàng hóa đấu giá;
+ Trả thù lao dịch vụ tổ chức bán đấu giá.
- 22 -
Về nguyên tắc, người bán hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá phải
thỏa thuận về thù lao dịch vụ đấu giá hàng hóa trên cơ sở quy định về thu phí
đấu giá do Bộ Tài chính hoặc UBND cấp tỉnh ban hành. Trong trường hợp
cuộc đấu giá thành công, thù lao dịch vụ đấu giá được xác định theo giá của
loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời
điểm cung ứng, thị trường địa lí, phương thức thanh tốn và các điều kiện
khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ; trong trường hợp đấu giá không thành,
người bán hàng phải trả mức thù lao bằng 50% của mức thù lao xác định theo
thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền bán đấu giá.
Ngoài ra, trong trường hợp giữa người bán hàng hóa và người tổ chức
bán đấu giá hàng hóa khơng có thỏa thuận về chi phí liên quan đến cuộc đấu
giá thì người bán hàng phải chịu chi phí vận chuyển hàng hóa đến địa điểm đã
thỏa thuận và chi phí bảo quản hàng hóa trong trường hợp khơng giao hàng
hóa cho người tổ chức đấu giá bảo quản (khoản 1 Điều 212 Luật thương mại).
* Quyền và nghĩa vụ của người tổ chức bán đấu giá hàng hóa:
Người tổ chức bán đấu giá hàng hóa trong trường hợp khơng phải là
người bán hàng hóa, có những quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Quyền của người tổ chức đấu giá (Điều 189 Luật thương mại):
+ Yêu cầu người bán hàng cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các
thơng tin cần thiết liên quan đến hàng hóa được bán đấu giá, tạo điều kiện cho
người tổ chức đấu giá hoặc người tham gia đấu giá kiểm tra hàng hóa đấu giá
và giao hàng hóa được bán đấu giá cho người mua hàng trong trường hợp
người tổ chức đấu giá không phải là người bán hàng đấu giá;
+ Xác định giá khởi điểm trong trường hợp người tổ chức đấu giá là
người bán hàng đấu giá hoặc được người bán hàng ủy quyền;
+ Tổ chức cuộc đấu giá;
+ Yêu cầu người mua hàng thực hiện việc thanh toán;
+ Nhận thù lao dịch vụ đấu giá do người bán hàng trả.
- Nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá (Điều 190 Luật thương mại):
- 23 -
+ Tổ chức đấu giá hàng hóa theo đúng nguyên tắc, thủ tục do pháp luật
quy định và theo phương thức đấu giá thỏa thuận với người bán hàng;
+ Thơng báo, niêm yết cơng khai, đầy đủ, chính xác các thơng tin cần
thiết có liên quan đến hàng hóa đấu giá;
+ Bảo quản hàng hóa đấu giá khi được người bán hàng giao giữ;
+ Trưng bày hàng hóa, mẫu hàng hóa hoặc tài liệu giới thiệu về bán
hàng hóa cho người tham gia đấu giá xem xét;
+ Lập văn bản đấu giá hàng hóa và gửi đến người bán hàng, người mua
hàng và các bên có liên quan;
+ Giao hàng hóa đấu giá cho người mua phù hợp với hợp đồng tổ chức
dịch vụ đấu giá hàng hóa;
+ Làm thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa bán đấu giá phải
đăng kí quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác với người bán hàng;
+ Thanh toán cho người bán hàng tiền hàng đã bán, kể cả khoản tiền
chênh lệch thu được từ người rút lại giá đã trả gây thiệt hại cho người bán
hàng hoặc trả lại hàng hóa không bán được cho người bán hàng theo thỏa
thuận. Trường hợp khơng có thỏa thuận thì phải thanh tốn tiền cho người bán
chậm nhất là ba ngày làm việc sau khi nhận được tiền của người mua hàng
hoặc phải trả lại hàng hóa trong thời hạn hợp lý sau cuộc đấu giá.
Ngoài ra, trong trường hợp giữa người bán hàng hóa và người tổ chức
bán đấu giá hàng hóa khơng có thỏa thuận về chi phí liên quan đến việc bán
đấu giá thì người tổ chức đấu giá chịu chi phí bảo quản hàng hóa được giao,
chi phí niêm yết, thông báo, tổ chức bán đấu giá và các chi phí có liên quan
khác (khoản 2 Điều 212 luật thương mại).
* Người điều hành đấu giá: có quyền, nghĩa vụ theo quy định của
người tổ chức bán đấu giá hàng hóa trong trường hợp người điều hành là
người của tổ chức bán đấu giá; hoặc là theo thỏa thuận giữa người điều hành
và người tổ chức bán hàng hóa trong các trường hợp khác.
- 24 -
* Người mua hàng hóa:
Người mua hàng hóa có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Quyền của người mua hàng hóa:
+ Tham gia trả giá; được quyền mua hàng hóa nếu đạt những điều kiện
trong cuộc bán đấu giá;
+ Được quyền nhận lại tiền đặt cọc trong trường hợp khơng mua được
hàng hóa đấu giá;
+ Được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với những sai sót về
thơng tin về hàng hóa của người tổ chức bán đấu giá.
- Nghĩa vụ của người mua hàng hóa:
+ Đặt cọc để đăng kí mua hàng theo yêu cầu của người tổ chức bán đấu
giá; tham gia trả giá;
+ Chịu mọi chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá nếu đã được chọn là
người mua hàng mà lại từ chối mua hàng dẫn đến cuộc bán đấu giá không
thành công.
1.1.3.3. Khách thể của quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản
Khách thể của quan hệ pháp luật về BĐGTS là những lợi ích vật chất,
lợi ích tinh thần nhằm thỏa mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc
cá nhân khi tham gia vào quan hệ này. Nghĩa là vì chúng mà các chủ thể xác
lập quan hệ BĐGTS, thúc đẩy họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Khách thể của quan hệ pháp luật BĐGTS phản ánh lợi ích mà các chủ thể
hướng tới nhằm đạt được khi tham gia vào quan hệ này. Đây là một yếu tố
không thể thiếu của của quan hệ pháp luật BĐGTS. Vì vậy, sự quan tâm
nhiều hay ít của chủ thể đối với khách thể là động lực thúc đẩy sự phát sinh,
tồn tại hay chấm dứt quan hệ pháp luật về BĐGTS.
Khi tham gia vào quan hệ pháp luật về BĐGTS, người bán tài sản
muốn đạt được lợi ích thiết thực là thực hiện quyền bán hàng và mong muốn
bán với giá cao nhất tương xứng với giá trị và giá trị sử dụng của tài sản.
Người mua hàng hóa thì mong muốn mua được tài sản mình cần mua với mức
- 25 -
giá hợp lý có sự cạnh tranh với người mua khác và sau đó là để xác lập quyền
sở hữu đối với tài sản đã mua được thông qua bán đấu giá. Tổ chức kinh
doanh dịch vụ bán đấu giá muốn thực hiện quyền kinh doanh dịch vụ này, qua
đó tổ chức bán đấu giá bán được tài sản và để thu được chi phí bán đấu giá, có
lợi nhuận để phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình.
1.1.4. Khái niệm, nội dung và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
về bán đấu giá tài sản
1.1.4.1. Khái niệm pháp luật về bán đấu giá tài sản
Pháp luật về BĐGTS là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh hoạt động BĐGTS, được
thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. Trong hệ thống các quy
định pháp luật dân sự - thương mại, pháp luật về BĐGTS là một chế định
pháp luật mua bán hàng hóa đặc thù trong hệ thống các quy định pháp luật về
mua bán hàng hóa nói chung, là cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động bán đấu
giá trong nền kinh tế thị trường.
Trên thị trường, khi một tài sản được đưa ra trao đổi, mua bán thì được
gọi là hàng hóa, tài sản được bán đấu giá theo quy định chung trong BLDS tại
các Điều 456, 457, 458, 459 và Luật thương mại. Để quy định chi tiết hoạt
động BĐGTS, Chính phủ đã ban hành Nghị định 05, Bộ tư pháp đã ban hành
Thông tư hướng dẫn thực hiện số 03/2005/TT-BTP ngày 4/5/2005. Bán đấu
giá đã có mặt ở Việt Nam từ khá lâu nhưng bán đấu giá với tính chất là hành
vi thương mại của thương nhân thì mới được ghi nhận trong pháp luật những
năm gần đây. Vì vậy, hoạt động bán đấu giá hàng hóa ở nước ta chưa phát
triển mạnh, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động này cũng chưa hoàn
chỉnh, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này chưa nhiều. Các
hoạt động đấu giá tài sản thuộc lĩnh vực thương mại được điều chỉnh thống
nhất theo Luật thương mại (từ Điều 185 đến Điều 213), Nghị định số 05 của
Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành của các Bộ, ngành có liên quan.