BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
LÊ BÙI THỊ NGỌC
ĐỀ TÀI: VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ, MỘT SỐ KIỆN NGHỊ
ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH [2013]
LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành đề tài “Hoạt động vận động hành lang trong thương mại quốc tế,
một số kiến nghị áp dụng tại Việt Nam”, người viết đã cố gắng, nỗ lực tham khảo, xử lý
tài liệu để viết bằng chính khả năng của mình. Do đây là một đề tài rất mới và khó nên
tác giả đã phải tham khảo các nguồn tài liệu khác nhau (bằng tiếng Anh và tiếng Việt).
Khi tham khảo, tác giả cũng đã tuân thủ nghiêm túc về việc trích dẫn, ghi chú các
nguồn tài liệu theo đúng quy định. Bằng nỗ lực và sự trung thực của mình, tác giả xin
cam đoan và chịu trách nhiệm về những nội dung của khóa luận theo đúng những cam
kết nêu trên.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CFA
Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ
DOC
Bộ thương mại Hoa Kỳ
FARA
Đạo luật đăng ký đại diện nước ngoài
FRLA
Quy chế liên bang của đạo luật vận động hành lang
ITC
Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ
VASEP
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
VCCI
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
WTO
Tổ chức thương mại thế giới WTO
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VẬN ĐỘNG HÀNG LANG VÀ VẬN ĐỘNG HÀNH
LANG TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ. ................................................................. 8
1.1.
Khái quát về hoạt động vận động hành lang ................................................... 8
1.1.1.Lịch sử hình thành vận động hành lang.................................................................. 8
1.1.2.Khái niệm vận động hành lang.............................................................................12
1.1.3.Khái niệm các nhóm lợi ích có tổ chức.................................................................15
1.1.4.Khái niệm người vận động hành lang...................................................................19
1.2. Vai trò và hạn chế của vận động hành lang……………………………….. ... 24
1.2.1. Vai trò của vận động hành lang ........................................................................... 24
1.2.2. Hạn chế của vận động hành lang......................................................................... 26
1.3.
Vận động hành lang trong thƣơng mại quốc tế ............................................. 27
1.3.1. Vận động hành lang trong thương mại quốc tế ................................................... 28
1.3.2. Chủ thể thực hiện vận động hành lang trong thương mại quốc tế. ..................... 29
1.3.3. Chủ thể được vận động ........................................................................................ 30
1.3.4. Vai trò của vận động hành lang trong thương mại quốc tế ................................. 31
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH VẬN ĐỘNG
HÀNH LANG TẠI VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG NÀY TẠI
MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG THƢƠNG
MẠI QUỐC TẾ.............................................................................................................. 34
2.1. Thực trạng hoạt động vận động hành lang của các quốc gia trên thế giới ..... 35
2.1.1. Vận động hành lang tại Hoa Kỳ........................................................................... 35
2.1.2. Vận động hành lang tại Canada .......................................................................... 40
2.1.3. Vận động hành lang tại Trung Quốc ................................................................... 42
2.1.4. Vận động hành lang tại Anh ................................................................................ 43
2.1.5. Vận động hành lang tại Việt Nam ........................................................................ 45
2.2.
Vai trò của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá ba sa giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ. .................................................................................................................. 49
2.2.1. Tổng quan vụ kiện cá tra, cá ba sa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. ........................... 49
2.2.2. Hoạt động vận động hành lang được thể hiện trong vụ kiện cá tra, cá ba sa giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ ....................................................................................................... 54
2.3. Kiến nghị xây dựng chính sách về vận động hành lang ở Việt Nam ............... 61
2.3.1. Sự cần thiết của việc ban hành luật điều chỉnh vấn đề vận động hành lang ....... 61
2.3.2. Đề xuất ban đầu trong việc xây dựng mơ hình vận động hành lang tại Việt
Nam………………. .......................................................................................................... 63
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 69
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do lựa chọn đề tài
Vận động hành lang được biết đến như một khái niệm khá mới mẻ tại Việt Nam
nhưng lại rất quen thuộc ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Vận động hành lang
giữ một vai trò tất yếu trong đời sống xã hội tại một số quốc gia bởi lẽ không phải ở đâu
hoạt động này cũng được coi là hợp pháp. Nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước phát triển, vận động hành lang được xem là một ngành cơng nghiệp “tỷ đơ”,
ngành “cơng nghiệp khơng khói” đem lại lợi nhuận cao nên lĩnh vực này luôn được
xem là mảnh đất béo bở, thu hút được nhiều người tham gia và lựa chọn nó để gắn bó
và theo đuổi như một đam mê, nghề nghiệp1. Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu được xem là
thiên đường, miền đất hứa của vận động hành lang vì nó hoạt động với tần suất rất nhộn
nhịp và sầm uất tại nơi đây. Vận động hành lang mang lại những lợi ích to lớn, đặc biệt,
đem lại nguồn lợi ích vật chất đáng kể cho những tổ chức, cá nhân làm công việc vận
động, dưới tên gọi là những nhà vận động hành lang. Vận động hành lang hoạt động
trong khuôn khổ các quy định của pháp luật sẽ phát huy được hiệu quả to lớn, tác động
đến nhiều bên: Nhà nước, người bị tác động bởi các chính sách, pháp luật, tổ chức, cá
nhân thực hiện vận động...
Thực tiễn xã hội tại nước ta hiện nay, vận động hành lang thường được hiểu
gắn kèm với những ý nghĩa khá tiêu cực: dưới nhận thức của nhiều người vận động
hành lang là một hoạt động đi đêm, phi pháp với mục đích sử dụng tiền bạc mua chuộc
các cơ quan, người có thẩm quyền để họ ban hành những văn bản pháp luật, hoạch định
chính sách cho phù hợp với lợi ích của một nhóm người trong xã hội. Mặc khác, căn cứ
vào thực tiễn xã hội của nước ta, vấn nạn tham nhũng, hối lộ đã tồn tại và đang diễn ra
trên nhiều lĩnh vực, ở mức độ báo động và ngày càng gia tăng trầm trọng. Các hoạt
động tiêu cực này như một hiệu ứng hình ảnh, tác động xấu đến yếu tố tâm lý, tạo nên
cách nhìn thiếu thiện cảm từ phía dân chúng đối với vận động hành lang. Phải chăng
1
(truy cập ngày 26/06/2013)
2
bởi những lập luận này mà pháp luật Việt Nam hiện tại vẫn chưa thừa nhận, luật hoá
vận động hành lang, tạo những điều kiện cần và đủ cho hoạt động này đi vào thực tiễn.
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế
theo chiều sâu và chiều rộng nên thương mại đã có phần khởi sắc, đạt được những
thành tựu đáng kể. Thành công bước đầu tiên đánh dấu việc Việt Nam chính thức hội
nhập vào sân chơi chung của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực thương mại là nước ta
trở thành thành viên chính thức của WTO. Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của
WTO từ ngày 11/01/2007, là sự kiện quan trọng, mang tính bước ngoặt trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong thời gian qua, quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đã đem lại những kết quả tích cực và có những tác động sâu sắc đến kinh tế và
xã hội Việt Nam như: tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu dễ dàng hơn, dịng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngồi (FDI) tăng nhanh, môi trường kinh doanh được cải thiện và minh
bạch hơn, thể chế kinh tế theo định hướng thị trường được củng cố và hoàn thiện nhanh
hơn, thế và lực của Việt Nam trên trường thế giới ngày càng được nâng cao: (i) GDP
năm 2011 đạt xấp xỉ 120 tỷ USD, gấp gần 2,3 lần năm 2006 (53 tỷ USD); (ii) GDP đầu
người đạt trên 1.300 USD, gấp hơn 2 lần năm 2006 (640 USD); (iii) kim ngạch xuất
khẩu đạt 96,3 tỷ USD 2. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nhất định, Việt Nam còn
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức: rất ít doanh nghiệp Việt Nam có được
một tầm nhìn và chiến lược dài hạn, hoạt động kinh doanh theo thói quen cũ, chưa tìm
ra hướng mới, năng lực nghiệp vụ của các doanh nghiệp cịn hạn chế. Một khó khăn
khác mà các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên gặp phải khi mở rộng thị trường ra
nước ngồi chính là việc một vài thị trường xuất khẩu đã dựng lên các rào cản kỹ thuật
kiểm sốt chặt chẽ hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia nước sở tại. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp Việt Nam cịn gặp điêu đứng, thua lỗ nặng vì các vụ kiện tụng được thực
hiện bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ là một trong những
thị trường mang tính tiềm năng mà các doanh nghiệp Việt Nam hướng tới. Các sản
2
( truy cập
ngày 26/06/2013)
3
phẩm: nông sản, thủy sản, giày dép, may mặc... được sản xuất tại Việt Nam hầu như
đều xuất khẩu vào thị trường của các quốc gia này. Tuy nhiên, trong những năm vừa
qua, các doanh nghiệp Việt Nam liên tục bị kiện bởi doanh nghiệp của các quốc gia này
và bị áp thuế bán phá giá, gây thiệt hại đáng kể. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc
kém ưu thế của doanh nghiệp nước ta tại thị trường nước ngồi nhưng một trong những
ngun nhân chính được sử dụng để lý giải cho sự thất bại của các doanh nghiệp Việt
Nam tại thị trường ngoại địa chính là chúng ta chưa làm quen và áp dụng vận động
hành lang để tác động đến cơ quan, người có thẩm quyền của các nước sở tại nhằm
chiếm được những ưu thế nhất định trong vụ kiện. Trong khi đó, các đối tác làm ăn với
các doanh nghiệp nước ta chủ yếu là những nước được xem là quê hương, là miền đất
hứa, là thiên đường của vận động hành lang. Tại các quốc gia nêu trên, người dân đã rất
quen thuộc và ưa chuộng hoạt động vận động hành lang và họ xem đó là một điều tất
yếu, khơng thể thiếu trong đời sống chính trị xã hội. Từ sau vụ tranh chấp cá tra, cá
basa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thì các doanh nghiệp tại Việt Nam đã rút ra được nhiều
bài học đắt giá khi làm ăn tại thị trường nước này đồng thời tìm ra những nguyên nhân
dẫn đến thất bại trong vụ tranh chấp. Thêm một lần nữa, vận động hành lang đã khẳng
định vai trò của mình khi là một trong những yếu tố chính dẫn đến việc thua kiện của
các doanh nghiệp sản xuất cá tra, cá basa của Việt Nam khi nhập khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ. Cũng từ sau thất bại của vụ kiện này, các doanh nghiệp Việt Nam đã thận
trọng hơn trong việc tìm hiểu về văn hố pháp lý của nước sở tại nếu muốn mở rộng thị
trường kinh doanh trên phạm vi quốc tế. Cho đến thời điểm hiện tại, sau thực tiễn của
nhiều vụ tranh chấp thì vận động hành lang được xem là một trong những yếu tố quan
trọng mà các doanh nghiệp Việt Nam dành mối quan tâm hàng đầu trước khi thực hiện
hoạt động kinh doanh nhằm mục đích bảo vệ tối đa lợi ích của mình.
Thực tiễn trong những năm vừa qua, vận động hành lang đã manh nha và xuất
hiện tại Việt Nam3. Tuy nhiên, nước ta đến tại thời điểm này vẫn chưa thừa nhận vận
động hành lang và cũng chưa có những quy định mang tính pháp lý để hợp thức hoá
3
l ( truy cập
ngày 07/06/2013)
4
hoạt động này nên các doanh nghiệp thường vướng phải những khó khăn khi tiếp xúc
với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để đề đạt nguyện vọng, đóng góp ý kiến nhằm
bảo vệ tối đa lợi ích. Trong tương lai, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, sức
mạnh của tồn cầu hố thì Việt Nam có thể tiếp thu những điểm tiến bộ một cách chọn
lọc của các nước phát triển và thừa nhận vận động hành lang là hoạt động hợp pháp,
xây dựng khung pháp lý để điều chỉnh. Trong thời gian tới, vận động hành có xu hướng
phát triển tại Việt Nam bởi bắt nguồn từ tính chất của vận động hành lang vừa mang
tính tự nhiên, vừa mang tính tất yếu. Bản chất của vận động hành lang là một hoạt động
tích cực, tồn tại như một xu thế tất yếu của một xã hội dân sự nhưng nếu nhìn nhận, tiếp
cận nó từ mặt trái thì đây sẽ là là một hoạt động tiêu cực, “bóp méo tính dân chủ”, là
ngun nhân cho những vấn nạn tham nhũng, hối lộ sau hậu trường chính trị. Chính vì
tầm quan trọng và sự cần thiết của hoạt động này trong một xã hội dân sự nên vận động
hành lang cần phải được tìm hiểu một cách nghiêm túc và khoa học để làm sáng tỏ
được bản chất, vai trò và ý nghĩa của nó. Với thực tiễn xã hội tại Việt Nam hiện nay thì
vận động hành lang cần được luật hố để nó trở thành một hoạt động hợp pháp mang lại
lợi ích cho Nhà nước, công dân và các doanh nghiệp. Mặc dù, vận động hành lang
mang lại nhiều ý nghĩa và vai trò to lớn nhưng hoạt động này chỉ mang tính manh mún,
khơng cơng khai, chỉ tồn tại trong thực tiễn, chưa được quy định trong các văn bản pháp
luật để nó được hoạt động một cách hợp pháp. Từ những lý do trên, tôi quyết định chọn
đề tài “Hoạt động vận động hành lang trong thương mại quốc tế, một số kiến nghị áp
dụng tại Việt Nam” để làm đề tài cho khố luận tốt nghiệp trong đó cung cấp một cách
tổng quan nhất về vận động hành lang và vai trị của nó trong hoạt động thương mại
quốc tế đồng thời đưa ra những kiến nghị trong việc xây dựng chính sách vận động
hành lang tại Việt Nam.
2.
Mục tiêu và đối tƣợng nghiên cứu
Mục tiêu mà đề tài mong muốn đạt được là cung cấp cho người đọc một cách nhìn
tổng quan về vận động hành lang và vai trò của hoạt động này đối với thương mại quốc
tế. Bên cạnh đó, đề tài cũng hướng tới mục tiêu cung cấp cho người đọc những thông
tin về vận động hành lang tại một số quốc gia tiêu biểu về mặt lập pháp cũng như hoạt
5
động thực tiễn của nó tại các quốc gia này. Bên cạnh đó, đề tài cũng nêu ra được một số
kiến nghị về việc xây dựng mơ hình vận động hành lang tại Việt Nam trong bối cảnh
xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3.
Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vận động hành lang là một khái niệm mới mẻ đối với Việt Nam nên vấn đề này
đang là đề tài tiêu điểm thu hút sự quan tâm, chú ý của các chuyên gia, các nhà nghiên
cứu. Tuy nhiên, tính đến thời điểm này, các cơng trình khoa học, đề tài nghiên cứu về
vận động hành lang còn dừng lại ở số lượng khiêm tốn. Các tài liệu, cơng trình nghiên
cứu xoay quanh hoạt động vận động hành lang dưới hình thức tiếng Việt cịn rất ít, chủ
yếu nằm rải rác trong các bài báo cáo tại một cuộc hội thảo và các bài báo4. Các cơng
trình nghiên cứu, các bài hội thảo đăng trên các tạp chí chủ yếu nghiên cứu một cách
riêng lẻ từng khía cạnh của vận động hành lang, chưa tập trung một cách hệ thống, toàn
diện về vận động hành lang và những vấn đề phát sinh xung quanh nó. Bên cạnh đó,
các bài viết về vận động hành lang bằng tiếng nước ngoài tương đối nhiều nhưng chủ
yếu chỉ tập trung vào khái niệm của vận động hành lang cùng với vai trị của nó trong
hoạt động lập pháp. Thêm vào đó, cho đến nay, tại trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh vẫn chưa có đề tài, bài viết hay cơng trình nghiên cứu xoay quanh hoạt động
vận động hành lang. Chính tính mới của đề tài nên số lượng tài liệu liên quan đến vận
động hành lang còn rất hạn chế nên người viết cũng gặp khá nhiều khó khăn trong việc
tìm kiếm, thu thập và xử lý các thông tin để làm tài liệu tham khảo cho đề tài. Bên cạnh
đó, các tài liệu nước ngoài nằm rải rác chủ yếu trên các trang web nên tác giả cũng gặp
phải nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, hệ thống và dịch thuật. Chính vì sự hạn chế
về mặt tài liệu tham khảo nên đề tài sẽ cịn tồn tại nhiều thiếu sót, kính mong người đọc
thơng cảm và có những góp ý để đề tài được hồn thiện và mang tính khoa học hơn.
4.
Phạm vi nghiên cứu
Vận động hành lang là một hoạt động mới mẻ tại Việt Nam nên người viết trong
khả năng của mình chỉ nghiên cứu những vấn đề thuộc về bản chất của vận động hành
lang. Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả hy vọng góp phần vào việc làm rõ
4
Tác giả có liệt kê trong phần Danh mục tài liệu tham khảo.
6
hơn về bản chất của vận động hành lang và vai trị của nó đối với thương mại quốc tế.
Đồng thời, đề tài cũng mang đến cho người đọc một cách chung nhất về vận động hành
lang của các nước tiêu biểu trên thế giới trên hai bình diện pháp luật và thực tiễn. Đề tài
cũng cung cấp một cách khái quát những thông tin về thực trạng hoạt động vận động
hành lang và vai trò của vận động hành lang thông qua một vụ tranh chấp thương mại
cụ thể (vụ kiện cá tra, cá basa giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Hoa Kỳ) mà Việt
Nam đóng vai trị là bị đơn. Từ những phân tích, đề tài có đưa ra những đề xuất và kiến
nghị một số kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tiếp thu trong việc xây dựng văn bản
pháp luật quy định về hoạt động vận động hành lang.
5.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, người viết đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng
của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Khóa luận sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu giữa
pháp luật và thực tiễn của hoạt động vận động hành lang ở một số nước trên thế giới để
thấy được những nét khái quát nhất về vận động hành lang trên hai khía cạnh pháp luật
và thực tiễn ở các nước này, từ đó liên hệ tại Việt Nam. Ngồi ra, khóa luận cịn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp phân tích, tập hợp, tổng hợp, thống kê… để làm sáng tỏ những nội dung
nghiên cứu của khoá luận.
6.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài.
Khóa luận cung cấp cho người đọc những thông tin được chọn lọc về hoạt động
vận động hành lang, góp phần thay đổi cách nhìn tiêu cực từ mặt trái của vận động hành
lang. Với những phân tích tổng quan về vận động hành lang đi từ khái niệm, vai trò, ưu,
nhược điểm của vận động hành lang cũng như những khái niệm phái sinh sẽ giúp người
đọc hình dung một cách chung nhất về hoạt động này. Bên cạnh đó, đề tài đã đưa ra và
làm rõ hoạt động cũng như vai trò của vận động hành lang tại các nước tiêu biểu trên
trên thế giới nhằm hướng cho người đọc có sự liên tưởng và so sánh hoạt động này với
thực tế tại Việt Nam. Thơng qua đó, khóa luận đưa ra những đề xuất ban đầu, mang tính
tham khảo trong việc tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của các quốc gia trên thế
giới khi áp dụng mơ hình vận động hành lang vào thực tiễn xã hội Việt Nam. Với
7
những nỗ lực của mình trong đề tài lần đầu tiên được nghiên cứu tại trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, tác giả cũng hy vọng đề tài khơng những đóng góp những
kiến nghị có giá trị tham khảo đối với việc ứng dụng vận động hành lang vào mơi
trường tại Việt Nam, mà cịn có vai trị như một tài liệu có giá trị tham khảo khách
quan, trung thực, hiệu quả cho các đề tài nghiên cứu về vận động hành lang sau này.
8
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VẬN ĐỘNG HÀNG LANG VÀ VẬN ĐỘNG
HÀNH LANG TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ.
1.1. Khái quát về hoạt động vận động hành lang
1.1.1. Lịch sử hình thành vận động hành lang
Theo chuyên gia vận động hành lang Lionel Zetter, vận động hành lang là một
khái niệm đã xuất hiện từ thời xa xưa và là một trong những việc làm chuyên nghiệp
lâu đời nhất thế giới5. Từ khi xã hội có sự phân chia quyền lực, trong đó một cá nhân
hoặc một nhóm các cá nhân sử dụng quyền lực nhằm quản lý, điều hành xã hội, thì sẽ
có những cá nhân khác hoặc một nhóm lợi ích khác sẽ cố gắng thuyết phục họ sử dụng
quyền lực theo một cách riêng biệt nhằm phục vụ lợi ích cho một cá nhân hoặc một
nhóm người. Vận động hành lang vừa mang tính tự nhiên vừa mang xu thế tất yếu. Toà
án của những người Hy Lạp và Rơ-ma ln có những nhà vận động hành lang hay lui
tới6, họ là những người đi tìm kiếm sự đồng thuận của thượng nghị sĩ và những người
bình dân La Mã để ủng hộ hoặc phản đối những vấn đề nảy sinh vào thời điểm ấy. Cho
đến thời điểm này, vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc hình thành
thuật ngữ vận động hành lang.
Theo quan điểm của nhiều chun gia, trong đó có ơng Đặng Văn Chiến, Phó
trưởng ban cơng tác lập pháp của Quốc hội Việt Nam, cho rằng Anh quốc chính là nơi
khởi thủy của vận động hành lang. Theo đó, vận động hành lang được lấy theo tên địa
điểm mà hoạt động này diễn ra đầu tiên trong lịch sử, đó là hành lang của Nghị viện
nước Anh, nơi mà trong thời gian nghỉ giải lao, các nghị sĩ thường trao đổi với đồng
nghiệp hoặc với bất kì người nào để tiếp thu ý kiến, bổ sung thông tin về những vấn đề
đang được thảo luận hoặc quyết định tại Nghị viện7. Lịch sử của khái niệm vận động
hành lang gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Nghị viện nước Anh. Trong cơ chế
5
Lionel Zetter , Lobbying – The art of political persuation, Hh (2008), tr. 21
Lionel Zetter , Lobbying – The art of political persuation, Hh (2008), tr. 23
7
Đặng Văn Chiến, “Tổng quan về vận động hành lang”, Tài liệu hội thảo: “Hội thảo Vận động hành lang: Thực
tiễn và pháp luật” , 2006, tr. 1
6
9
hai viện của nước Anh, thành viên Viện nguyên lão (Thượng viện) thông thường đại
diện cho quyền lợi của các lãnh chúa, quyền lợi của Hoàng gia và hưởng quyền lợi suốt
đời từ Hồng gia nên dân chúng ít được tiếp cận với họ. Để hoàn thiện khuyết điểm
này, Viện dân biểu được thành lập, được hiểu nguyên nghĩa là Nghị viện của thường
dân. Thành viên Viện dân biểu do nhân dân trực tiếp bầu ra, đại diện cho quyền, lợi ích
của dân chúng và khả năng được tái đắc cử trong nhiệm kì tiếp theo của họ ln phụ
thuộc vào sự tin cậy và ủng hộ từ phía cử tri. Họ là những người đại diện cho lợi ích
chính trị của nhiều đảng phái khác nhau, nhưng việc đại diện, thay mặt cho quyền lợi
của cử tri là một trong những nhiệm vụ được họ đặt lên hàng đầu bởi vì việc nhận được
tín nhiệm của cử tri đã bầu ra họ chính là yếu tố quan trọng, quyết định đến việc tái đắc
cử trong đợt bầu cử tiếp theo. Chính bởi lẽ đó nên họ ln tranh thủ, coi trọng sự ủng
hộ của cử tri và giữ mối liên hệ chặt chẽ với cử tri. Mỗi lần đến dự các kỳ họp, các vị
dân biểu thường dành thời gian đọc tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp tại phịng chờ
hoặc hành lang của Nghị viện, nơi có đặt các dãy ghế dài, bàn đọc… Theo quy định của
pháp luật về Nghị viện thì các nghị sĩ có thể ra ngồi phịng họp, tại các hành lang dọc
theo phịng họp để trao đổi với nhau hoặc với bất kỳ người nào nhằm bổ sung thông tin
một cách đầy đủ cho vấn đề cần bàn luận. Bên cạnh đó, cơng dân cũng được quyền có
mặt tại hành lang của tịa nhà Nghị viện để trình bày ý kiến, kiến nghị với các vị đại
biểu của mình. Chính vì vậy, cử tri hoặc người đại diện cho họ thường đến khu hành
lang này để gặp gỡ, bày tỏ quan điểm nhằm cung cấp thông tin, thuyết phục nghị sĩ bỏ
phiếu ủng hộ hoặc khơng ủng hộ những vấn đề, chính sách hoặc dự luật sẽ hoặc đang
được bàn thảo tại Nghị viện. Với những hoạt động nêu trên kết hợp với bối cảnh lịch sử
xã hội của nước Anh thời bấy giờ là nguồn gốc hình thành nên thuật ngữ vận động hành
lang (lobby).
Hiến pháp Hoa Kỳ đã tồn tại những điều khoản với nội dung ghi nhận và bảo vệ
quyền tự do ngơn luận của cơng dân, trong đó có quyền kiến nghị với Chính phủ, tiếp
xúc với các nghị sĩ để vận động họ ủng hộ hoặc phản đối với những chính sách, dự luật
sẽ hoặc đang được xem xét tại Nghị viện.8 Các quyền nêu trên đã được sử dụng bởi các
8
Donald E. deKieffer , The Citizen’s Guide to Lobbying Congress: Revised and updated, Chicago Review
10
nhà vận động hành lang trong suốt quá trình lịch sử của nước này. Vận động hành lang
được thực hiện ở mọi cấp của Chính phủ, đặc biệt là trong chính quyền tiểu bang vào
thế kỷ XIX, nhưng có xu hướng ngày càng phát triển trong chính phủ liên bang vào thế
kỷ XX9. Từ đó trở về sau, hoạt động vận động hành lang bắt đầu được nhiều người biết
đến và được thừa nhận rộng rãi. Cũng trong hoàn cảnh đó, xã hội Hoa Kỳ đã hình thành
một lớp người hoặc tổ chức chuyên nghiệp giữ vai trò trung gian, làm nhiệm vụ là cầu
nối giữa cử tri hoặc các nhóm lợi ích với các nghị sĩ nhằm tác động đến những chính
sách, dự luật. Những người này được gọi là các nhà vận động hành lang (lobbyist), họ
hoạt động với mục đích trong sáng và được thừa nhận trong Hiến pháp. Các nhà vận
động hành lang thông qua nhiều hình thức: các cuộc gặp gỡ khơng chính thức, chính
thức, viết thư, kiến nghị, mời các nghị sỹ đến những nhà hàng sang trọng… mà họ tham
gia vào quá trình hình thành các quyết định của nghị sĩ để họ đưa ra quyết định hoặc
ban hành chính sách tốt hơn cho người hoặc nhóm lợi ích mà mình đại diện.
Tại nhiều Nghị viện khác trên thế giới, nghề vận động hành lang cũng được thừa
nhận rộng rãi, điển hình như vận động hành lang ở Nghị viện Châu Âu. Phụ lục 9 của
quy tắc về thủ tục làm việc của Nghị viện châu Âu quy định 10 điểm về vận động hành
lang. Theo đó, vận động hành lang là hoạt động hợp pháp và các nhà vận động hành
lang được cấp giấy phép ra vào khu vực làm việc của Nghị viện để cung cấp thông tin
cho các nghị sĩ nhằm đạt lợi ích riêng của họ hoặc cho bên thứ ba. Nhà vận động hành
lang phải tuyệt đối tuân thủ đạo đức và tiêu chuẩn đối với người vận động hành lang,
không được lấy thông tin bằng bất cứ hành động không trung thực nào, không được
tuyên bố là có quan hệ chính thức với Nghị viện khi làm việc với bên thứ ba và phải
công khai các hoạt động có trả tiền cơng. Các nghị sĩ cũng phải làm bản công khai chi
tiết các hoạt động nghề nghiệp và không được nhận bất cứ quà tặng dưới dạng vật chất:
quà biếu hay tiền trong khi thi hành nhiệm vụ.
Press (2007)
A noted lottery mandead; career of Charles T. Howard, of Lousiana company, The New York Times (1885)
9
11
Bên cạnh quan điểm thừa nhận vận động hành lang tại nhiều quốc gia thì cũng tồn tại
những nước từ chối việc tiếp nhận hoạt động vận động hành lang vì bắt nguồn từ nhận
thức khơng thực tế về dân chủ. Tại điều 3 của Hiến pháp nước Pháp quy định “quan hệ
giữa Nhà nước và công dân phải là quan hệ trực tiếp và nó khơng được các tập đồn tư
nhân trung gian xen vào”10. Chính bởi những nhận thức đã nêu trên nên nghề vận động
hành lang đến bây giờ vẫn chưa được thừa nhận tại Pháp vì nó chưa thuyết phục và
chiếm được niềm tin của cơng chúng nước này. Bởi lẽ, những tuyên bố về lợi ích cá
nhân thường được coi là đáng ngờ do trái ngược với lợi ích chung của dân tộc. Bên
cạnh đó, các khái niệm về nhóm lợi ích cộng đồng ở Pháp được hiểu với nghĩa có sự
khác nhau so với hệ thống pháp luật Anglo-Saxon. Bởi lẽ, theo cách hiểu của các nước
Anh-Mỹ thì nhóm lợi ích được nhìn nhận là “sự tổng hồ các lợi ích của cá nhân” thì
tư duy người Pháp lại định nghĩa nó là “biểu hiện của sự chung ý chí cả cộng đồng”
như Rousseau đưa ra giả thuyết trong cuốn sách “Khế ước xã hội” năm 1762. Bên cạnh
đó, Luật Le Chapelier năm 1791 của Pháp có những quy định cấm phường hội, tổ chức
cơng đồn và các tổ chức khác tham gia vào hoạt động chính trị11. Chính bởi lẽ đó nên
pháp luật của Pháp cho đến nay vẫn thể hiện một cách cơng khai việc thiếu coi trọng
vai trị của các nhóm lợi ích trong xã hội.
Bên cạnh quan điểm thừa nhận nước Anh là cái nôi của vận động hành lang cũng
tồn tại quan điểm cho rằng Washington mới chính là nguồn gốc ra đời của thuật ngữ
này. Theo Loinel Zetter, tác giả cuốn sách “Vận động hành lang, nghệ thuật thuyết
phục chính trị” cho rằng vận động hành lang có nguồn gốc từ Washington. Theo quan
điểm của riêng tác giả thì từng tồn tại một bản ghi trong đó thể hiện rằng nguồn gốc của
thuật ngữ này ra đời tại Washington. Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, những người
muốn lấy được sự ảnh hưởng của tổng thống Ulysses S Grant thường nhóm họp tại
hành lang của khách sạn Willard và cố tìm cách thu hút sự chú ý của ngài để ngài quan
tâm tới một số lĩnh vực đặc biệt liên quan đến lợi ích của họ12. Cho đến thế kỉ XIX, vận
10
11
12
(truy cập ngày 17/06/2013)
Eric Schell, About Lobbying in Frane, 2011
Lionel Zetter , Lobbying – The art of political persuation, Hh (2008), tr. 17
12
động hành lang ở Washington phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ đến mức độ nó được
xem là tiền thân của vận động hành lang ngày nay. Các thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ khơng
chỉ hài lịng với những nhà vận động hành lang mà còn cung cấp cho họ những thông
tin, vấn đề đang diễn ra tại thời điểm đó. Cho đến đầu thế kỉ XX thì vận động hành lang
ở Hoa Kỳ phát triển xa hơn nhờ vào các công cụ trợ giúp: báo, đài, công nghệ thông tin.
Năm 1928, Thượng viện đã ban hành dự thảo luật yêu cầu những người vận động hành
lang phải đăng kí với Thư kí của Thượng viện và Thư kí của Hạ viện. Tuy nhiên, Nghị
viện đã ngăn cản điều luật này và chỉ đến đầu năm 1946 khi Quốc hội thông qua quy
định về hoạt động vận động hanh lang thì điều luật này mới được thơng qua. Chính vì
vậy, Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ chính là cái nôi của vận động hành lang. Bên
cạnh việc cho rằng Hoa Kỳ là cái nôi của vận động hành lang thì tác giả Loinel Zetter
cũng khơng phủ nhận vai trị của nước Anh trong việc hình thành nên khái niệm vận
động hành lang.
1.1.2. Khái niệm vận động hành lang
Khái niệm vận động hành lang được nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích và định nghĩa
dưới nhiều góc độ. Vận động hành lang được khám phá dưới góc độ đa chiều, theo đó,
vấn đề này được nhìn nhận từ các chun gia vận động hành lang, các nhà nghiên cứu
và theo từ điển. Theo từ điển, khái niệm này được nhìn nhận dưới hai góc độ: danh từ
và động từ. Hành lang (lobby) được hiểu dưới hình thức danh từ “nghĩa là hành lang ở
Nghị viện, người hoạt động chính trị ở hành lang hoặc người hoạt động chính trị ở hậu
trường”. Vận động hành lang (lobby) hiểu với hình thức động từ với nghĩa “vận động ở
hành lang, đưa ra hoặc thông qua một đạo luật ở Nghị viện, hoặc lui tới hành lang
Nghị viện tranh thủ lá phiếu của nghị sĩ”13.
Theo đó, vận động hành lang là việc thuyết phục người được vận động ban hành
chính sách theo ý muốn của người vận động, phục vụ cho lợi ích của khách hàng hay
cho chính bản thân của họ. Vấn đề cần vận động có thể là một dự luật hoặc đơn giản chỉ
để yêu cầu nghị sĩ tiếp xúc thường xuyên hơn với một nhóm cử tri nào đó. Nói một
cách khái qt thì vận động hành lang là đưa ra chính kiến của một nhóm lợi ích đối với
13
( truy cập 03/05/2013)
13
một chính sách của Nhà nước và tác động để biến đổi chính sách đó theo nhu cầu của
nhóm lợi ích.
Bên cạnh cách hiểu vận động hành lang theo từ điển thì vận động hành lang cịn
được nhìn nhận theo quan điểm của các chuyên gia. Theo tác giả Bryan Cassidy, vận
động hành lang là “q trình thơng tin đến các công chức và nhà lập pháp để các biện
pháp được cân nhắc tốt hơn với hy vọng giảm những tác động khơng mong muốn đến
các chính sách, pháp luật”14. Bên cạnh đó, vận động hành lang cịn được hiểu là “hoạt
động thuyết phục mà các chủ thể thực hiện nhằm gây ảnh hưởng đến q trình ban
hành chính sách của cơ quan Nhà nước”15. Vận động hành lang còn là “q trình nhằm
gây ảnh hưởng lên chính phủ và các thiết chế nhằm mục tiêu gây ảnh hưởng đến tác
động của các cơ quan Nhà nước”16 hay vận động hành lang là “các hoạt động thông
tin, bằng văn bản hoặc lời nói, cho một cơng chức để gây tác động đến chính sách,
pháp luật hay các quyết định hành chính”17 .
Vận động hành lang, một khái niệm nhìn tưởng chừng đơn giản nhưng lại được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ cùng với những cách cảm nhận khác nhau. Sở dĩ, vận
động hành lang được nghiên cứu một cách nghiêm túc và mang tính khoa học vì vai trị,
sự ảnh hưởng ngày một cao của vận động hành lang đối với sự phát triển kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia. Dưới góc độ của các chuyên gia vận động như Bryan Cassidy,
Kosteck, Charles Miller… thì vận động hành lang là hoạt động gây ảnh hưởng đến tiến
trình hình thành, hoạch định chính sách. Bên cạnh đó, vận động hành lang cịn là “hoạt
động có hệ thống và được thực hiện một cách khơng chính thức để tác động đến những
người có thẩm quyền ra quyết định”18. Như vậy, hoạt động vận động hành lang không
phải là một hoạt động riêng rẻ, mang tính bộc phát mà mang tính hệ thống. Mục đích
của vận động hành lang là tác động lên những người có thẩm quyền ban hành một dự
án luật, một chính sách có ảnh hưởng đến lợi ích của một nhóm người, một hiệp hội hay
14
Bryan Cassidy, European Lobbying Guide- A guide on whom and how to lobby, Thorogood (1999).
Kostecki, Business Advocacy in the global trading system – How business organisation may shape trade policy,
Tecgnical Paper June ITC (2005)
16
Charles Miller, Practical techniques for afective lobbying, Thorogood, (1998).
17
Lobbyist, Government and Pulic Trust, OECD, (2009)
18
BBO, Hướng dẫn vận động hành lang, Dự án Mitowa, (2006), tr 4/41.
15
14
là một liên minh. Tính khơng chính thức của hoạt động trên thể hiện vận động hành
lang không phải là một thủ tục cần phải có theo luật định khi ban hành một dự án luật
hay một chính sách. Mặc dù vậy nhưng vận động hành lang đóng góp một vai trị to lớn
trong việc hình thành nên những bản dự luật hay những chính sách phù hợp với lợi ích
của xã hội, tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Pháp luật của nhiều quốc gia cũng có những cách tiếp cận riêng về vận động hành
lang. Theo đó, vận động hành lang “là một trong những hoạt động hợp pháp được pháp
luật ghi nhận, với mục đích tiếp cận với Quốc hội, các cơ quan của Chính phủ và chính
quyền địa phương vì lợi ích của công dân”19. Vận động hành lang là hoạt động được
thừa nhận hợp pháp tại đất nước Canada và được Nhà nước bảo vệ bằng những quy
phạm pháp luật của đạo luật vận động hành lang năm 1985. Mục đích của vận động
hành lang là tiếp cận với những cơ quan Nhà nước để thực hiện việc gây ảnh hưởng đến
họ trong việc đưa ra những chính sách, pháp luật phục vụ cho lợi ích của cơng chúng.20
Bên cạnh đó, pháp luật Hoa Kỳ cũng có cách tiếp cận vận động hành lang, theo đó đây
là hoạt động cố gắng ảnh hưởng đến việc thông qua hoặc bãi bỏ bất kỳ dự thảo luật nào
của cơ quan lập pháp của bang Washington hay sự chấp nhận hoặc chối bỏ bất kỳ luật
lệ, tiêu chuẩn, thuế địa phương hay văn bản của bất kỳ cơ quan chính quyền nào theo
đạo luật thủ tục hành chính Nhà nước, chương 34.05 RCW.
Như vậy, mục đích cuối cùng của vận động hành lang theo quy định pháp luật của
các quốc gia là quá trình gây ảnh hưởng của các cá nhân, tổ chức làm công việc vận
động hành lang đến các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc ban hành hoặc không
ban hành một dự thảo luật, một chính sách nhằm phục vụ lợi ích cho các nhóm người
trong xã hội.
Vận động hành lang ngày càng có vai trị quan trọng đối với sự phát triển kinh tế,
xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua vận động hành lang, các nhà lập pháp, các quan
chức Chính phủ và những người có thẩm quyền khác sẽ nắm bắt được nhu cầu của các
nhóm lợi ích trong xã hội để kịp thời ban hành những văn bản pháp luật, các chính sách
19
20
Điều 1 Luật về đạo đức và tính minh bạch trong vận động hành lang của Quebec, Canada
( truy cập ngày 17/06/2013)
15
phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của công chúng. Chính điều này, vận động hành
lang cần được nghiên cứu một cách sâu rộng trên tất cả các khía cạnh có liên quan,
trong đó khái niệm vận động hành lang cũng là một trong những yếu tố được các nhà
nghiên cứu tìm hiểu một cách nghiêm túc. Vận động hành lang tiếp cận theo nhiều
hướng khác nhau: theo từ điển, ý kiến của các nhà phân tích, ý kiến của các chuyên gia
vận động hành lang và quy định của pháp luật. Mặc dù cách thể hiện có sự khác nhau
về từ ngữ, cách sắp xếp các câu chữ nhưng tất cả đều có sự thống nhất về bản chất, mục
đích của vận động hành lang.
Tóm lại, từ những phân tích ở trên, tác giả tạm thời đề xuất khái niệm về vận động
hành lang “là những hoạt động có hệ thống với mục đích tiếp cận, thuyết phục, gây ảnh
hưởng và cuối cùng là tác động đến quá trình ra quyết định của cơ quan lập pháp,
hành pháp, các nghị sĩ, quan chức và những người có thẩm quyền khác trong bộ máy
Nhà nước để họ ủng hộ hoặc phản đối chính sách, dự luật, chương trình, kế hoạch… vì
lợi ích của cộng đồng, các nhóm lợi ích hoặc của cá nhân”
1.1.3. Khái niệm các nhóm lợi ích có tổ chức
Thừa nhận vai trò của vận động hành lang trong sự phát triển kinh tế, xã hội cũng
đồng nghĩa với việc thừa nhận sự tồn tại, phát triển và vai trị của các nhóm lợi ích. Tuỳ
thuộc vào tình hình văn hố, chính trị, pháp lý của từng quốc gia, vùng lãnh thổ mà vai
trị của các nhóm lợi ích được ghi nhận dưới những khía cạnh khác nhau. Ở tại các quốc
gia thừa nhận vận động hành lang như một xu hướng tất yếu của xã hội dân chủ thì ghi
nhận những lợi ích tích cực của các nhóm lợi ích đem lại. Nếu tiếp cận vận động hành
lang bằng mặt trái khi cho rằng vận động hành lang là việc dùng tiền bạc, thế lực gây
ảnh hưởng đến các nhà lập pháp, người có thẩm quyền ban hành các chính sách, dự án
luật nhằm phục vụ cho các nhà tư bản thì các nhóm lợi ích có tổ chức có ảnh hưởng tiêu
cực đến chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Vận động hành lang được xem như xu thế tất yếu của một xã hội dân chủ và ngày
càng khẳng định vai trị to lớn của mình trong việc đóng góp, gây ảnh hưởng đến việc
ban hành các chính sách, dự thảo pháp luật phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của cơng
chúng. Theo đó, các nhóm lợi ích là cầu nối giữa cơng dân và Nhà nước, giữa các cá
16
nhân với các cơ quan Nhà nước, hoạt động của các nhóm lợi ích giúp cho người có
chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước sáng tỏ được những nguyện vọng, quan
điểm xã hội về một dự thảo luật, chính sách trước khi quyết định. Bên cạnh đó, các
nhóm lợi ích cịn thúc đẩy tính tích cực của dân cư trong đời sống chính trị; thơng báo
cho các thành viên của mình về các quyết định của Nhà nước đã được thơng qua hoặc
đang được soạn thảo, giải thích cho các thành viên của mình và những người khác biết
rằng làm như thế nào để có thể tác động đến việc thơng qua các quyết định đó và thúc
đẩy sự tác động đó. Với chức năng này thì việc xây dựng Nhà nước pháp quyền tại các
quốc gia sẽ mang tính khả thi cao, tăng cường tính pháp chế.
Trên thế giới, đặc biệt ở các nền dân chủ phát triển, các nhóm lợi ích đã tồn tại từ
lâu, ngày càng có tác động và ảnh hưởng lớn tới việc hoạch định chính sách, phát triển
đất nước của các quốc gia. Các nhóm lợi ích là một trong số các chủ thể tham gia vào
mơi trường chính trị trong nước của một quốc gia; là nơi tập hợp các cá nhân và tổ chức
chia sẻ những lợi ích nhất định, hoạt động với mục đích sử dụng nhóm gây áp lực tác
động tới chính quyền nhằm tạo ra các quyết định, chính sách có lợi nhất cho họ bằng
các biện pháp khác nhau trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Các nhóm lợi ích
thường sử dụng biện pháp vận động hành lang (lobby) như là một công cụ hữu hiệu để
tác động có hiệu quả nhất tới các chính sách, pháp luật của chính quyền. Trên thế giới,
các hoạt động vận động hành lang phổ biến bao gồm điều trần trước một phiên họp của
các nhà lập pháp để kiến nghị, chất vấn chính thức và khơng chính thức, gửi những kết
quả nghiên cứu hay thông tin kỹ thuật tới các quan chức có liên quan, tìm cách quảng
bá một chủ đề, soạn thảo những dự luật có thể được đệ trình lên cơ quan lập pháp, tổ
chức chiến dịch viết thư gửi các nhà lập pháp, thậm chí tài trợ tài chính cho các ứng cử
viên tranh cử vào các cơ quan lập pháp. Chính tầm quan trọng của các nhóm lợi ích
trong đời sống chính trị, xã hội nên vấn đề này đã được các chuyên gia tìm hiểu, nghiên
cứu từ thế kỉ XIX. Các nhóm lợi ích là sản phẩm của hệ thống kinh tế tự do và của hệ
thống chính trị - xã hội đa dạng21. Sự xuất hiện nhiều nhóm lợi ích có tổ chức ln gắn
21
Võ Khánh Vinh, “Các nhóm lợi ích có tổ chức, vận động hành lang và sự hình thành chính sách của Nhà nước”
Bài viết hội thảo, Hội thảo: “Vận động hành lang: Thực tiễn và pháp luật”, 2006, tr. 3
17
liền với việc hình thành và phát triển của các giai cấp cơ bản của xã hội tư bản. Tuỳ vào
từng chủ thể gắn liền với lợi ích của mình thì mục đích của việc tham gia vào các nhóm
lợi ích của mỗi người là khác nhau. Nguồn gốc ra đời của các nhóm lợi ích nằm ở chính
mục tiêu cuối cùng mà họ theo đuổi. Những mục tiêu đó có thể là: (i) các nhóm lợi ích
ra đời nhằm bảo vệ những lợi ích của họ về kinh tế; (ii) các nhóm lợi ích cũng là sản
phẩm của các phong trào xã hội, phát triển qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử đất
nước; (iii) các nhóm lợi ích ra đời nhằm tìm kiếm lợi ích từ chính phủ trong lĩnh vực
kinh tế và cả lĩnh vực chính trị, tinh thần. Nhờ có sự xuất hiện và tồn tại của các nhóm
lợi ích mà các thành phần của xã hội có được khả năng đại diện một cách đầy đủ nhất
các lợi ích của mình trong hoạt động của Nhà nước. Bởi lẽ, dù cho Nhà nước được tổ
chức một cách chặt chẽ, chun mơn hố cao thì việc nắm bắt được tất cả các nhu cầu,
lợi ích tồn tại trong xã hội của các tầng lớp, thành phần xã hội …cũng sẽ hạn chế.
Mục đích của các nhóm lợi ích hướng đến là cố gắng tìm cách hướng tới là bảo
vệ một cách có hệ thống tối đa nhất các lợi ích của mình trong xã hội. Tuy nhiên, khơng
phải nhóm lợi ích nào cũng có ảnh hưởng đến việc ban hành các dự thảo luật, các chính
sách mà chỉ những nhóm lợi ích có tổ chức mới có thể thực hiện được vai trị gây ảnh
hưởng của mình đến những cơ quan, người có thẩm quyền. Thơng thường, các nhóm
lợi ích có tổ chức có ba dấu hiệu: (i) một là phần lớn các nhóm đó là các yếu tố của xã
hội dân sự; (ii) hai là các liên minh, hiệp hội đó được thành lập để tạo ra sợi dây liên
kết, phối hợp với nhau để bảo vệ lợi ích chung của họ, có sự quản lý chặt chẽ và có tính
tổ chức cao; (iii) ba là thơng thường các nhóm lợi ích đó bảo vệ các lợi ích xã hội cụ thể
được đặt ra bằng cách sử dụng các cách thức mà Nhà nước cho phép.
Các nhóm lợi ích được phân thành hai nhóm: các nhóm lợi ích xã hội và các nhóm
lợi ích đặc thù. Các nhóm lợi ích xã hội có tổ chức đó là các liên minh, hiệp hội hoạt
động một cách công khai đối với tất cả mọi người. Các nhóm đó đại diện cho những lợi
ích rộng lớn, nhiều phương diện, khơng mang tính chất thương mại, đại diện cho nhiều
thành phần của các giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội. Các nhóm lợi ích nêu
18
trên thơng thường được đặt trong tình trạng khơng được thuận lợi vì khơng thu hút
được sự quan tâm của nhiều người và khó khăn về mặt tài chính để đầu tư cho các cuộc
vận động. Chính vì vậy, tầm ảnh hưởng của nhóm này tác động đến các cơ quan người
có thẩm quyền trong việc ban hành luật, hoạch định chính sách khơng cao và có phần
hạn chế. Các nhóm lợi ích đặc thù có tổ chức là các liên minh, liên hiệp những người
thuộc các phạm trù xã hội nhất định (những người sản xuất, kinh doanh, những công
chức, các bác sỹ, các nhà giáo, các cựu chiến binh…)22. Các nhóm này bao gồm các tổ
chức cơng sở, công nhân, nghề nghiệp, dân tộc và các tổ chức có mục đích khác. Ngược
lại với các nhóm lợi ích xã hội, nhóm các lợi ích đặc thù có những thế mạnh nhất định,
đặc biệt là nguồn lực tài chính, bộ máy ổn định và có trình độ nghề nghiệp cao, có khả
năng giải quyết một cách nhanh chóng tất cả những vấn đề nảy sinh nên có tác động lớn
trong việc gây ảnh hưởng đến quá trình ban hành dự thảo luật hay chính sách của cơ
quan lập pháp, quan chức Chính phủ hay những người có thẩm quyền khác. Nhìn
chung, các nhóm lợi ích nào có tiềm lực kinh tế càng mạnh cộng với mối liên hệ với cơ
quan Nhà nước, người có thẩm quyền càng cao thì có nhiều khả năng tác động lên
chính sách của chính quyền càng khả thi và đạt được hiệu quả cao.
Nhìn chung, số lượng các nhóm lợi ích tồn tại trong xã hội phụ thuộc vào chế độ
chính trị, tình hình kinh tế - văn hoá - xã hội của mỗi quốc gia. Ngày nay, Hoa Kỳ tồn
tại hơn 22.000 nhóm lợi ích có tổ chức, được hình thành trên cơ sở lợi ích về kinh tế,
sắc tộc, tơn giáo, giới tính...23 và hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau như thương
mại, tiêu dùng, nhân quyền, bảo vệ môi trường. Các nhóm lợi ích về kinh tế cũng có
tầm ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ đối với các chính sách của Hoa Kỳ vì các nhóm lợi ích
này có thế mạnh rất lớn về tài chính, yếu tố quan trọng trong việc gây ảnh hưởng, tác
động đến các chính sách của Hoa Kỳ. Ngày nay, cùng với xu thế hội nhập thương mại
tồn cầu, các cơng ty Hoa Kỳ đang mở rộng hoạt động của mình ra thị trường các nước
nhằm tìm kiếm lợi ích tối đa. Tuy nhiên, một thực tế tồn tại là đơi khi lợi ích của doanh
Võ Khánh Vinh, “Các nhóm lợi ích có tổ chức, vận động hành lang và sự hình thành chính sách của Nhà
nước”, Bài viết hội thảo Hội thảo: “Vận động hành lang: Thực tiễn và pháp luật”, 2006, tr.4
22
23
truy cập ngày 16/06/2013)
19
nghiệp lại mâu thuẫn với chính lợi ích của Nhà nước. Một minh chứng thực tế cho sự
mâu thuẫn đó là việc Hoa Kỳ cấm vận kinh tế Việt Nam, không cấp PNTR cho Trung
Quốc trước đây đã từng làm ảnh hưởng tiêu cực tới cơ hội đầu tư, kinh doanh của các
công ty Hoa Kỳ nên giới doanh nghiệp Hoa Kỳ đã từng vận động hành lang địi chính
quyền Hoa Kỳ chấm dứt cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và cấp quy chế PNTR cho
Trung Quốc, đồng thời ủng hộ nước này gia nhập WTO. Hoạt động các nhóm lợi ích ở
Hoa Kỳ cực kì phong phú và đa dạng với việc các nhóm người liên kết với nhau và có
sự tương tự nhau về cơng việc, đẳng cấp, quan điểm chung và họ cố gắng liên kết với
nhau để tác động đến cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền trong việc hoạch định
chính sách, đường lối để mang lại lợi ích cho nhóm người mà mình đại diện hoặc cho
chính họ. Các nhóm lợi ích ra đời rất sớm ở Hoa Kỳ, đa dạng và ngày càng gia tăng về
số lượng cũng như quy mô, tổ chức. Điều này có thể được giải thích bởi sự đa dạng của
các hoạt động kinh tế, chính trị cũng như sự phong phú về mặt xã hội của Hoa Kỳ.
Thêm vào đó, hệ thống chính trị Hoa Kỳ cũng đặc biệt mở rộng đối với hoạt động của
các nhóm lợi ích, coi đó như một phương tiện thể hiện tự do dân chủ.
Tóm lại, từ những phân tích ở trên, tác giả tạm thời đề xuất khái niệm về nhóm lợi
ích “là các cộng đồng xã hội (các liên minh xã hội) sử dụng các nhóm gây áp lực để tác
động đến các cơ quan Nhà nước hoặc đến những người có chức vụ, quyền hạn của cơ
quan đó nhằm đạt được những lợi ích tích cực cho bản thân”
1.1.4. Khái niệm ngƣời vận động hành lang
Nghiên cứu về vận động hành lang đòi hỏi chúng ta phải có một cái nhìn tồn
diện, làm rõ tất cả những khái niệm, bản chất có liên quan đến vấn đề này. Một trong
những khái niệm cần làm rõ khi nghiên cứu những khía cạnh của vận động hành lang
một cách khoa học là cách hiểu về người vận động hành lang. Nếu ví vận động hành
lang là cách thức, phương tiện để tác động đến các nhà lập pháp, các quan chức Chính
phủ thì người vận động hành lang chính là người điều khiển phương tiện trên để nó hoạt
động một cách chính xác, đúng đắn và mang lại hiệu quả cao. Tại Hoa Kỳ, các thượng
nghị sỹ sau khi nghỉ hưu một năm có thể làm nghề vận động hành lang nên họ đã duy
trì được mối quan hệ và tạo dựng được uy tín để có thể thực hiện các hoạt động này một
20
cách chuyên nghiệp và hiệu quả. Các chuyên gia và tổ chức vận động hành lang chuyên
nghiệp tại Hoa Kỳ phải tuân thủ nghĩa vụ đăng ký hoạt động với cơ quan có thẩm
quyền. Họ phải thực hiện chế độ báo cáo hai lần một năm về các nội dung hoạt động và
vụ việc mà mình tham gia vận động hành lang. Riêng đối với các hoạt động vận động
hành lang đại diện cho các chính phủ nước ngồi, theo quy định của FARA, phải báo
cáo trực tiếp cho Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ. Theo quy định của Đạo luật về cơng khai hố
hoạt động vận động hành lang năm 1995 điều chỉnh các mối quan hệ của hoạt động vận
động hành lang cả trong và ngồi nước có những quy định: “bắt buộc những người hoạt
động vận động hành lang phải đăng ký, phải cơng khai hố các khách hàng, các cuộc
tiếp xúc, cơng khai hố các vấn đề vận động và số tiền công được chi trả…”. Bên cạnh
đó, Đạo luật cũng quy định rõ, bất cứ ai được trả tiền để vận động các nhà lập pháp và
các quan chức chính phủ đều được coi là người làm công việc vận động hành lang, nếu
người ấy dùng ít nhất 20% thì giờ của mình để đại diện cho thân chủ trong thời gian sáu
tháng24. Như vậy, từ những quy định của pháp luật Hoa Kỳ, người vận động hành lang
có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng để trở thành người vận động thì họ
phải dành ít nhất là 20% thời gian của mình kết hợp với những cách thức do pháp luật
quy định bao gồm việc lên kế hoạch, chuẩn bị, nghiên cứu, tìm kiếm thơng tin có chủ
định, thực hiện vận động đúng thời điểm, phối hợp với hoạt động vận động của những
người khác. Những người vận động hành lang sẽ có các cuộc tiếp xúc với những cơ
quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và những quan chức có thẩm quyền bằng cách trao
đổi thư từ, mời tham gia hội thảo kể cả cuộc gặp gỡ trực tiếp tại những nhà hàng sang
trọng25. Tại đây, họ sẽ với tư cách là những người đại diện cho khách hàng nhằm: (i)
thiết lập, sửa đổi hoặc thông qua pháp luật Liên bang (bao gồm cả dự thảo luật); (ii)
thiết lập, sửa đổi hoặc thông qua quy tắc Liên bang, quyết định của Chính phủ hoặc bất
kỳ chương trình, chính sách nào khác của Chính phủ Hoa Kỳ; (iii) quản lý thực thi
chương trình, chính sách Liên bang (bao gồm cả đàm phán hoặc quản lý một hợp đồng,
khoản trợ cấp, khoản vay, giấy phép); (iv) đề cử hoặc xác nhận cá nhân vào các vị trí
24
25
truy cập ngày 06/5/2013)
truy cập ngày 06/5/2013)