Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Hiệu lực theo không gian của đạo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.96 KB, 97 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ QUẾ HƢƠNG

HIỆU LỰC THEO KHƠNG GIAN
CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ QUẾ HƢƠNG

HIỆU LỰC THEO KHƠNG GIAN
CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60.38.40

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ SƠN


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


3

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan rằng cơng trình nghiên cứu này là của riêng tôi,
không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng các thơng tin
trích dẫn trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả

Trần Thị Quế Hƣơng


4

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................1
Chƣơng1. LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC THEO KHƠNG GIAN CỦA
ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ ..................................................................8
1.1. Nhận thức chung về hiệu lực theo không gian của đạo luật hình sự .......8
1.1.1. Khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự ..............................................8
1.1.2. Khái niệm hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự ...................10
1.2. Cơ sở của quy định về hiệu lực theo không gian của đạo luật hình sự ...11
1.2.1. Nguyên tắc lãnh thổ ..............................................................................11
1.2.2. Nguyên tắc quốc tịch.............................................................................16
1.2.3. Nguyên tắc bảo vệ quốc gia ..................................................................20
1.2.4. Nguyên tắc theo pháp luật quốc tế .......................................................23

1.3. Quy định của pháp luật một số nƣớc về hiệu lực theo không gian của
đạo luật hình sự ........................................................................................30
1.3.1. Quy định của Bộ luật hình sự Cộng hịa Liên bang Đức về hiệu lực
theo khơng gian của đạo luật hình sự ....................................................30
1.3.2. Quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga về hiệu lực
theo khơng gian của đạo luật hình sự ....................................................41
1.3.3. Quy định của Bộ luật hình sự Thụy Điển về hiệu lực theo khơng gian
của đạo luật hình sự...............................................................................46


5

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ HIỆU LỰC THEO KHÔNG GIAN VÀ
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN ............................................56
2.1. Thực trạng quy định của Bộ luật hình sự về hiệu lực theo khơng gian
đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam .................................................................................56
2.1.1. Khái niệm lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phạm vi
hiệu lực theo khơng gian của Bộ luật hình sự và một số bất cập ............57
2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hiệu lực theo khơng gian
đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và một số bất cập ....................................................66
2.2. Thực trạng quy định của Bộ luật hình sự về hiệu lực theo khơng gian
đối với những hành vi phạm tội ngoài lãnh thổ nƣớc Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam .................................................................................75
2.3. Phƣơng hƣớng hồn thiện các quy định về hiệu lực theo không gian của
Bộ luật hình sự Việt Nam ........................................................................80
2.3.1. Phương hướng hồn thiện quy định về hiệu lực theo không gian
đối với hành vi thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam..................................81

2.3.2. Phương hướng hồn thiện quy định về hiệu lực theo khơng gian
đối với hành vi thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam .............................82
KẾT LUẬN .....................................................................................................87


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quy định về hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự là quy định
thuộc phần chung của Bộ luật hình sự Việt Nam nhằm xác định phạm vi áp
dụng của Bộ luật hình sự Việt Nam đối với những hành vi đƣợc quy định là
tội phạm. Trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, hiệu lực theo không
gian của đạo luật hình sự đƣợc quy định tại Điều 5 và Điều 6. Việc quy định
chính xác và xác định đúng trong thực tiễn phạm vi có hiệu lực của đạo luật
hình sự nói chung và hiệu lực của đạo luật hình sự về khơng gian nói riêng có
ý nghĩa rất to lớn về ngun tắc. Bởi vì điều đó có liên quan chặt chẽ với việc
xác định phạm vi của trách nhiệm hình sự; với việc quy định hành vi nguy
hiểm nào cho xã hội là tội phạm, hành vi nguy hiểm nào cho xã hội không
phải là tội phạm; với việc áp dụng hình phạt hay khơng áp dụng hình phạt đối
với những hành vi đó; với chức năng bảo vệ và phịng ngừa của đạo luật hình
sự, với nguyên tắc chủ quyền của nƣớc ta. Tuy nhiên, trong q trình nghiên
cứu, chúng tơi nhận thấy nội dung của quy định hiện hành về hiệu lực theo
không gian của đạo luật hình sự vẫn tồn tại một số bất cập, thiếu sót. Những
điểm bất cập, thiếu sót trong pháp luật hình sự về hiệu lực theo khơng gian có
thể kể ra nhƣ:
- Pháp luật hình sự Việt Nam chƣa quy định hiệu lực của đạo luật hình
sự Việt Nam đối với những hành vi phạm tội do những ngƣời nƣớc
ngồi hoặc ngƣời khơng có quốc tịch bất kể thƣờng trú hay không
thƣờng trú tại Việt Nam thực hiện ở ngồi lãnh thổ Việt Nam đã xâm

hại lợi ích của Việt Nam.
- Pháp luật hình sự Việt Nam chƣa quy định hiệu lực của đạo luật hình
sự Việt Nam đối với những hành vi phạm tội do ngƣời nƣớc ngồi,
ngƣời khơng có quốc tịch thực hiện ở ngồi lãnh thổ Việt Nam đã xâm
hại lợi ích của cơng dân Việt Nam hoặc các tổ chức xã hội hoặc tổ chức


2

tƣ nhân Việt Nam hoặc ngƣời nƣớc ngồi, ngƣời khơng có quốc tịch
cƣ trú tại Việt Nam.
- Pháp luật hình sự Việt Nam chƣa có quy định cụ thể về điều kiện chƣa
bị kết án ở nƣớc ngoài hoặc bị xử lý bằng quyết định của tịa án nƣớc
ngồi khi xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm xảy ra
ngoài lãnh thổ Việt Nam.
- Pháp luật hình sự Việt Nam chƣa ghi nhận quan điểm của Việt Nam về
nội hàm khái niệm lãnh thổ Việt Nam và vấn đề mở rộng lãnh thổ lên
tàu thuyền hoặc tàu bay mang quốc tịch Việt Nam. Cần quy định về
vấn đề này trong sự phù hợp với quy định của Nhà nƣớc Việt Nam về
luật biển và hàng không, đồng thời phải phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Pháp luật hình sự Việt Nam chƣa quy định khái niệm hành vi phạm tội
xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.
Trên thực tế, những bất cập này đã dẫn đến nhiều hậu quả, mà có thể kể
đến là khả năng xảy ra các hiện tƣợng tuy trái pháp luật hình sự Việt Nam,
xâm hại đến lợi ích của Việt Nam nhƣng các cơ quan bảo vệ pháp luật lại
khơng có cơ sở để xử lý (ví dụ nhƣ: hành vi chống phá Nhà nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các đối tƣợng phản động lƣu vong ở nƣớc
ngồi nói chung và các cá nhân ngƣời Mỹ gốc Việt nói riêng), từ đó gây tác
động tiêu cực đến công tác tuyên truyền pháp luật cũng nhƣ mục tiêu xây
dựng và tăng cƣờng ý thức pháp luật của ngƣời dân. Bên cạnh đó, hiệu quả áp

dụng quy định về hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự bị ảnh hƣởng
ít nhiều khi sự liên thơng cũng nhƣ phù hợp giữa quy định của Bộ luật hình sự
về hiệu lực theo không gian và các luật chuyên ngành có liên quan khác chƣa
đƣợc đảm bảo một cách triệt để.
Mặt khác, pháp luật hình sự các nƣớc cũng xây dựng các quy định về
hiệu lực theo không gian của đạo luật hình sự. Các quy định này, so với quy
định tƣơng ứng tại Điều 5 và Điều 6 Bộ luật hình sự Việt Nam, có một số
điểm tƣơng đồng và khác biệt. Qua q trình nghiên cứu, chúng tơi thấy rằng
những điểm khác biệt nên đƣợc phân tích, nghiên cứu một cách trực tiếp và


3

tồn diện hơn nhằm tìm ra xu hƣớng phát triển của khoa học pháp lý hình sự
các nƣớc về vấn đề này; từ đó xây dựng các cơ sở nhằm hồn thiện quy định
về hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự Việt Nam.
Vì những lý do kể trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Hiệu lực theo
khơng gian của đạo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề “Hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự” đƣợc đề cập
thành một tiểu mục trong chƣơng về đạo luật hình sự của các giáo trình Luật
hình sự Việt Nam, có thể kể nhƣ:
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của tác giả Lê Cảm (NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, năm 2003)
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung của tác giả Võ Khánh
Vinh (Đại học Huế, trung tâm đào tạo từ xa, NXB Cơng an nhân dân,
năm 2006)
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập I của Trƣờng đại học Luật Hà
Nội (NXB Cơng an nhân dân, năm 2005)
- Luật hình sự Việt Nam phần chung của tác giả Trần Thị Quang Vinh và

Vũ Thị Thúy (NXB Trẻ, năm 2008)
Trong các giáo trình này, vấn đề “Hiệu lực theo khơng gian của đạo
luật hình sự” đƣợc đề cập chủ yếu ở các nội dung cơ bản sau đây: các nguyên
tắc chi phối việc xây dựng quy định về hiệu lực của đạo luật hình sự theo
khơng gian, vấn đề hiệu lực của đạo luật hình sự đối với hành vi phạm tội xảy
ra trên lãnh thổ Việt Nam và xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Ngoài ra, đề tài “Hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự” đã
đƣợc nghiên cứu tập trung ở cấp độ luận văn cử nhân luật do tác giả Nguyễn
Thanh Thảo thực hiện vào năm 1999 tại Trƣờng đại học Luật TP Hồ Chí
Minh (khi đó thuộc Trƣờng đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh). Trong phạm
vi luận văn này, tác giả đã nêu ra một số vấn đề cơ bản về hiệu lực của đạo
luật hình sự, nhƣ: đạo luật hình sự có hiệu lực với ai, ở đâu, trong những


4

trƣờng hợp nào, đồng thời cố gắng tìm cách giải quyết xung đột giữa các quốc
gia khi có tranh chấp về khả năng áp dụng đạo luật hình sự của các nƣớc
khác nhau.
Vấn đề “Hiệu lực theo không gian của đạo luật hình sự” cũng đƣợc
phân tích trong một số bài viết nghiên cứu nhƣ bài “Hiệu lực của Bộ luật hình
sự về khơng gian” của tác giả Võ Khánh Vinh (tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 58, tháng 3 năm 1987) đề cập đến hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với
những hành vi phạm tội trên và ngồi lãnh thổ nƣớc Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Tuy các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên đã nêu ra đƣợc những nội
dung cơ bản của “Hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự”, nhƣng vấn
đề này vẫn cịn tồn tại một số khía cạnh chƣa đƣợc xem xét, phân tích và
nghiên cứu một cách toàn diện để đƣa ra các định hƣớng hoàn thiện về mặt
lập pháp. Do đó, trong phạm vi luận văn này, chúng tơi sẽ cố gắng tìm hiểu,

giải thích cặn kẽ, tiến đến xây dựng các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự về hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung và hình thức pháp lý của
các quy định về hiệu lực theo không gian trong Bộ luật hình sự nƣớc Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quy định tƣơng ứng một số quốc gia
khác nhƣ Cộng hòa Liên bang Đức, Liên bang Nga và Thụy Điển.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn nghiên cứu trên tổng thể các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về hiệu lực theo khơng gian của đạo
luật hình sự. Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật quốc tế
và pháp luật hình sự hiện hành của một số nƣớc (nhƣ Cộng hòa Liên bang
Đức, Liên bang Nga và Thụy Điển) về hiệu lực theo không gian và các quy
định của pháp luật quốc tế, từ đó xây dựng các kiến nghị hồn thiện cho pháp
luật hình sự Việt Nam về vấn đề này.


5

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Về mục đích nghiên cứu, khi thực hiện đề tài này, chúng tơi mong
muốn nghiên cứu tìm ra hƣớng hồn thiện các quy định về hiệu lực theo
không gian của Bộ luật hình sự Việt Nam theo hƣớng mở rộng thẩm quyền tài
phán hình sự của Việt Nam đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt
Nam và ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Để đạt đƣợc mục đích đã đề ra, luận văn đặt ra những nhiệm vụ cụ thể
nhƣ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về hiệu lực theo không gian.
- Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc quy
định về hiệu lực theo không gian, luận văn đƣa ra những đề xuất, kiến

nghị hoàn thiện pháp luật hình sự hiện hành về chế định hiệu lực theo
không gian nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống
tội phạm và phù hợp với xu hƣớng phát triển của pháp luật hình sự các
nƣớc trên thế giới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phƣơng pháp luận, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp duy vật biện
chứng để có thể phân tích và có cái nhìn tổng quát về các quy định về hiệu lực
theo không gian của đạo luật hình sự trên thế giới và tại Việt Nam. Đồng thời
nghiên cứu các quy định này trong mối tƣơng quan qua lại với các quy định
của ngành luật khác, với yêu cầu do thực tiễn đặt ra để có thể hiểu rõ bản chất
của các quy định đang đƣợc nghiên cứu và tìm kiếm những kiến nghị hoàn
thiện khả thi và phù hợp nhất.
Ngoài ra, luận văn có sử dụng các phƣơng pháp cụ thể gồm phƣơng
pháp so sánh, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp nhằm tìm ra
những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa các quy định của Việt Nam và nƣớc
ngoài về hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự; từ đó nhận thức và
giải thích đƣợc ngun nhân sự tƣơng đồng và khác biệt đó; đồng thời tìm


6

kiếm những kinh nghiệm, những điểm mới, tiến bộ và phù hợp để góp phần
hồn thiện cho quy định tƣơng ứng của Việt Nam.
6. Đóng góp của luận văn
Hiện nay, Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành đang đƣợc đƣa ra thảo
luận và đánh giá hiệu quả áp dụng sau mƣời một năm có hiệu lực thi hành.
Bên cạnh những đóng góp to lớn cho việc đấu tranh phịng chống tội phạm,
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam vẫn cịn một số bất cập nhất định,
trong đó có bất cập về các quy định hiệu lực theo khơng gian của đạo luật
hình sự. Qua việc phân tích và nghiên cứu thực trạng quy định của Việt Nam

và kinh nghiệm lập pháp hình sự trên thế giới, luận văn đƣa ra các kiến nghị
nhằm hoàn thiện hơn các quy định về hiệu lực theo không gian của đạo luật
hình sự Việt Nam theo hƣớng mở rộng thẩm quyền tài phán hình sự của Việt
Nam phù hợp với xu hƣớng khách quan và pháp luật hình sự quốc tế.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
bố cục gồm hai chƣơng và sáu mục.
Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC THEO KHƠNG GIAN CỦA
ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức chung về hiệu lực theo không gian của đạo luật hình sự
1.2. Cơ sở của quy định về hiệu lực theo khơng gian của đạo luật
hình sự
1.3. Quy định của pháp luật một số nƣớc về hiệu lực theo khơng gian
của đạo luật hình sự
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ HIỆU LỰC THEO KHƠNG GIAN VÀ PHƢƠNG HƢỚNG
HỒN THIỆN
2.1. Thực trạng quy định của Bộ luật hình sự về hiệu lực theo
khơng gian đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


7

2.2. Thực trạng quy định của Bộ luật hình sự về hiệu lực theo
không gian đối với những hành vi phạm tội ngồi lãnh thổ nƣớc
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.3. Phƣơng hƣớng hoàn thiện các quy định về hiệu lực theo
khơng gian của Bộ luật hình sự Việt Nam



8

Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC THEO KHÔNG GIAN
CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức chung về hiệu lực theo khơng gian của đạo luật
hình sự
1.1.1. Khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “hiệu lực” có nghĩa là tác dụng đích thực
hoặc giá trị thi hành1. Nhƣ vậy, hiểu theo nghĩa thông thƣờng, hiệu lực của
đạo luật hình sự là tác dụng đích thực hay giá trị thi hành của đạo luật hình
sự. Trong khoa học luật hình sự hiện nay, có khá nhiều cách thể hiện khác
nhau về khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự.
Theo tác giả Trần Thị Quang Vinh và Vũ Thị Thúy, hiệu lực của đạo
luật hình sự “chỉ rõ giới hạn về không gian và thời gian của đạo luật đƣợc áp
dụng đối với những hành vi phạm tội”.2
Theo cuốn Mơ hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (phần chung)
của Viện nghiên cứu Nhà nƣớc và pháp luật, “hiệu lực của đạo luật hình sự là
sự hoạt động hiện thực của những quy phạm pháp luật đƣợc thể hiện trong
đạo luật đó, là sự biểu hiện trong thực tế năng lƣợng pháp lý của chúng. Khái
niệm hiệu lực của đạo luật hình sự về cơ bản bao hàm hiệu lực của đạo luật về
không gian và hiệu lực của đạo luật về thời gian, tức là khía cạnh làm sáng tỏ
các giới hạn về không gian và giới hạn về thời gian của việc áp dụng đạo luật
hình sự”.3 Nói một cách ngắn gọn, hiệu lực của đạo luật hình sự là giới hạn về
không gian và thời gian của việc áp dụng đạo luật hình sự.

1

Nguyễn Nhƣ Ý (2008), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.702


2

Trần Thị Quang Vinh, Vũ Thị Thúy (2008), Luật hình sự Việt Nam (phần chung), NXB Trẻ, tr.36

3

Viện nghiên cứu Nhà nƣớc và pháp luật (1993), Mơ hình lý luận về Bộ luật Hình sự Việt Nam
(phần chung), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.57


9

Trong khi đó, tác giả Phạm Văn Beo cho rằng hiệu lực của đạo luật
hình sự là “phạm vi tác động của đạo luật hình sự đƣợc xác định trong giới
hạn về không gian và thời gian cụ thể. Hiệu lực của đạo luật hình sự chính là
sự hiện thực hóa những quy phạm pháp luật hình sự đƣợc quy định trong đạo
luật hình sự”.4
Theo tác giả Lê Cảm, hiệu lực của đạo luật hình sự là thời điểm áp
dụng một hoặc nhiều quy phạm cụ thể của luật hình sự đối với hành vi phạm
tội tƣơng ứng đƣợc thực hiện bởi chủ thể nhất định trên một lãnh thổ nào đó
và trong một thời gian nào đó. Nhƣ vậy, từ định nghĩa khoa học của khái
niệm này cho thấy, nội hàm của nó là ở chỗ: đạo luật hình sự chỉ có hiệu lực
khi:
- Một hoặc nhiều quy phạm cụ thể đƣợc quy định tại một hoặc nhiều
điều khoản tƣơng ứng của pháp luật hình sự thực định;
- Việc áp dụng đạo luật hình sự chỉ diễn ra khi có sự kiện phạm tội, tức
là có hành vi phạm tội cụ thể đƣợc quy định tƣơng ứng trong luật đƣợc
thực hiện trong thực tế khách quan;
- Hành vi phạm tội phải do chủ thể nhất định thực hiện;

- Về mặt không gian, hành vi phạm tội phải đƣợc thực hiện trên một lãnh
thổ nào đó; và
- Về mặt thời gian, điều khoản trong bộ luật hình sự đƣợc áp dụng phải
trong thời gian hành vi phạm tội đƣợc thực hiện bị khởi tố, điều tra,
truy tố và xét xử, tức là thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự chủ
thể của tội phạm theo luật định vẫn còn.5
Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trƣờng đại học Luật Hà
Nội, hiệu lực của đạo luật hình sự đƣợc xem xét dƣới hai khía cạnh: một là,
hiệu lực của đạo luật hình sự về khơng gian (tức là đạo luật hình sự có hiệu
4

Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam, quyển 1 (phần chung), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.98
5
Xem: Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung), NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, tr.218


10

lực ở những nơi nào và đối với ai); hai là, hiệu lực của đạo luật hình sự về
thời gian (tức là đạo luật hình sự có hiệu lực từ lúc nào).6
Tuy có cách diễn đạt khác nhau nhƣng các tác giả đều thống nhất rằng
hiệu lực của đạo luật hình sự là phạm vi tác động về khơng gian và thời gian
của đạo luật hình sự hoặc khả năng đƣợc áp dụng trên thực tế các quy định
của đạo luật hình sự đối với tội phạm xảy ra trong không gian và thời gian
đƣợc xác định.
1.1.2. Khái niệm hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự
Hiệu lực theo không gian là một trong hai thành tố cấu thành nên
nội hàm khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự. Trong khoa học pháp lý hình

sự có khá nhiều cách thể hiện khái niệm về hiệu lực theo khơng gian của đạo
luật hình sự. Theo tác giả Trần Thị Quang Vinh và Vũ Thị Thúy, hiệu lực của
đạo luật hình sự theo khơng gian tức là hiệu lực đối với hành vi phạm tội xảy
ra ở khu vực nào và đối với ai.7 Hay nói cách khác, đạo luật hình sự quốc gia
có hiệu lực đối với hành vi phạm tội đƣợc thực hiện trong một không gian
nhất định và một số ngƣời nhất định.
Tác giả Đào Trí Úc cho rằng hiệu lực theo không gian tức là hiệu lực
đƣợc xác định trên những phạm vi lãnh thổ nhất định.8
Theo tác giả Lê Cảm, hiệu lực của đạo luật hình sự theo khơng gian là
thời điểm áp dụng một hoặc nhiều quy phạm cụ thể của luật hình sự đối với
hành vi phạm tội tƣơng ứng đƣợc thực hiện bởi chủ thể nhất định trên một
lãnh thổ nào đó. Nhƣ vậy, bản chất pháp lý của vấn đề hiệu lực của đạo luật
hình sự theo khơng gian là áp dụng một hoặc nhiều điều luật cụ thể đƣợc quy
định trong pháp luật hình sự của nơi tội phạm đƣợc thực hiện.9
6

Xem: Trƣờng đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập I, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, tr.32
7
Xem: Trần Thị Quang Vinh, Vũ Thị Thúy (2008), Luật hình sự Việt Nam (phần chung), NXB Trẻ, tr.36
8
Xem: Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam, quyển I - Những vấn đề chung, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr.393
9

Xem: Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, tr.219


11


Nhƣ vậy, trên cơ sở tổng hợp các cách thể hiện khái niệm đã nêu, có
thể định nghĩa hiệu lực theo khơng gian của đạo luật hình sự là phạm vi tác
động về khơng gian của đạo luật hình sự hoặc khả năng đƣợc áp dụng trên
thực tế các quy định của đạo luật hình sự đối với tội phạm xảy ra trong không
gian đƣợc xác định và gắn liền với một số ngƣời nhất định.
1.2. Cơ sở của quy định về hiệu lực theo khơng gian của đạo luật
hình sự
Trong khoa học pháp lý nói chung, các nguyên tắc của pháp luật đƣợc
hiểu là những nguyên lý, tƣ tƣởng chỉ đạo, cơ bản, là “kim chỉ nam”, mang
tính chất xuất phát điểm, phản ánh quy luật và cấu trúc của một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định và liên hệ chặt chẽ, mật thiết với bản chất của kiểu pháp
luật tƣơng ứng với hình thái kinh tế - xã hội đó. Các nguyên tắc của pháp luật
nói chung có vai trị rất quan trọng trong việc chỉ đạo, định hƣớng và áp dụng
vào toàn bộ các quá trình của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Các nguyên tắc cịn
thể hiện tính tồn diện, linh hoạt và có ý nghĩa bao quát, quyết định nội dung
của pháp luật.10
Tƣơng tự nhƣ việc xây dựng các quy định pháp luật nói chung, việc
xây dựng các quy định về hiệu lực theo khơng gian trong pháp luật hình sự
của các quốc gia cũng đƣợc dựa trên những nguyên tắc nhất định. Các nguyên
tắc này đƣợc thừa nhận rộng rãi trong khoa học pháp lý hình sự và đƣợc áp
dụng phổ biến trong các chế định về hiệu lực theo không gian của đạo luật
hình sự các quốc gia trên thế giới, bao gồm bốn nguyên tắc: nguyên tắc lãnh
thổ, nguyên tắc quốc tịch, nguyên tắc bảo vệ quốc gia và nguyên tắc theo
pháp luật quốc tế.
1.2.1. Nguyên tắc lãnh thổ
Lãnh thổ quốc gia là một phần Trái Đất, bao gồm vùng đất, vùng nƣớc,
vùng trời và vùng lịng đất hồn tồn thuộc chủ quyền một quốc gia.
Trong quan hệ giữa các quốc gia, lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
10


Xem: Trƣờng đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, NXB Tƣ Pháp,
tr.347-348


12

bởi đó là một trong bốn bộ phận cấu thành khơng thể thiếu và có quan hệ
mật thiết với nhau của một quốc gia bất kỳ (lãnh thổ xác định, dân cƣ ổn định,
chính phủ và khả năng quan hệ quốc tế). Trên hết, “lãnh thổ là cơ sở để
duy trì ranh giới quyền lực nhà nƣớc đối với một cộng đồng dân cƣ nhất định,
đồng thời tạo dựng và duy trì một trật tự pháp lý quốc tế hịa bình và ổn định
trong quan hệ giao lƣu quốc tế”11. Theo pháp luật quốc tế, mỗi quốc gia có
chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối với lãnh thổ của mình.
Theo quy chế pháp lý về lãnh thổ quốc gia đƣợc thừa nhận trong luật
quốc tế, quốc gia sẽ thực hiện quyền tài phán đối với mọi công dân, tổ chức,
kể cả ngƣời nƣớc ngồi, ngƣời khơng có quốc tịch và tổ chức quốc tế hiện
đang ở trong phạm vi lãnh thổ quốc gia (trừ trƣờng hợp pháp luật quốc gia
hoặc điều ƣớc quốc tế mà quốc gia tham gia hoặc ký kết có quy định khác)
nếu các cá nhân, tổ chức này thực hiện hành vi phạm tội trên lãnh thổ quốc
gia. Nói cách khác, trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền lực
tối cao, trong đó có thẩm quyền tài phán hình sự quốc gia. Trên cơ sở đó,
nguyên tắc lãnh thổ đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự và
an ninh cộng đồng trên lãnh thổ quốc gia. Theo ngun tắc này, quốc gia có
thẩm quyền tài phán hình sự là quốc gia nơi hành vi tội phạm đƣợc thực hiện,
bất kể ngƣời có hành vi phạm tội đó là cơng dân sở tại, ngƣời khơng có quốc
tịch hay là ngƣời nƣớc ngồi. Nhƣ vậy, tịa án có quyền xử lý hành vi
phạm tội và ngƣời phạm tội nêu trên là tòa án của quốc gia nơi hành vi
tội phạm đƣợc thực hiện trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Áp dụng vào quy định về hiệu lực theo không gian của pháp luật

hình sự quốc gia, nguyên tắc lãnh thổ đóng vai trị quan trọng mang tính
quyết định vì nó chi phối cơ bản nội dung của các quy định nêu trên. Cụ thể,
hiệu lực theo không gian thƣờng đƣợc chia làm hai trƣờng hợp: đối với
tội phạm xảy ra trên lãnh thổ quốc gia và đối với tội phạm xảy ra ngoài
lãnh thổ quốc gia. Sự chi phối của nguyên tắc lãnh thổ thể hiện ở chỗ: nội
dung của nguyên tắc này là cơ sở lý luận đầu tiên và duy nhất cho việc xây
11

Xem: Trƣờng đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật quốc tế, NXB Công an nhân dân, tr. 155


13

dựng quy định về hiệu lực của đạo luật hình sự quốc gia đối với tội phạm xảy
ra trên lãnh thổ quốc gia đó. Theo đó, quốc gia giành quyền tài phán hình sự
tuyệt đối đối với mọi tội phạm đƣợc thực hiện trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia, trừ một số trƣờng hợp đặc biệt do pháp luật quốc tế quy định.
Ngun tắc lãnh thổ có vai trị rất quan trọng trong lập pháp hình sự,
bởi lẽ sự thể hiện của nó trong luật hình sự quốc gia ln đƣợc đề cập bằng
những điều khoản đầu tiên trong phần quy định về hiệu lực. Nội dung nguyên
tắc lãnh thổ đƣợc thể hiện trong đạo luật hình sự quốc gia bằng phƣơng thức
quy định nhƣ sau: tội phạm nào đƣợc thực hiện trên lãnh thổ quốc gia nào đều
bị xét xử hoặc chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự quốc gia đó. Cụ
thể, ngay Điều 1 Chƣơng 2, Bộ luật hình sự Thụy Điển đã quy định về hiệu
lực đối với tội phạm xảy ra trên lãnh thổ Thụy Điển nhƣ sau: “Tội phạm được
thực hiện trên lãnh thổ Thụy Điển bị xét xử theo pháp luật Thụy Điển tại tòa
án Thụy Điển.” Hoặc trong Chƣơng 2 về hiệu lực của Luật hình sự về thời
gian và khơng gian, Bộ luật hình sự Liên bang Nga đã khẳng định quyền tài
phán của Liên bang Nga đối với hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Liên
bang Nga ngay sau các quy định về hiệu lực về thời gian: “Người nào thực

hiện hành vi phạm tội trên lãnh thổ Liên bang Nga thì người đó chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này”. Quy định về hiệu lực theo
khơng gian của luật hình sự Việt Nam cũng không là ngoại lệ khi quy định
hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ
Việt Nam ngay tại điều luật đầu tiên của Chƣơng II: “Bộ luật hình sự được áp
dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Mở rộng nguyên tắc lãnh thổ trong việc xác định thẩm quyền tài phán
hình sự, một số nhà nghiên cứu luật quốc tế còn khẳng định: quốc gia mà tàu
thuyền mang cờ hoặc quốc gia mà phƣơng tiện bay hàng khơng hoặc vũ trụ
mang quốc tịch cũng có thẩm quyền tài phán nếu hành vi tội phạm đó đƣợc
thực hiện trên phƣơng tiện bay hoặc tàu thuyền của quốc gia đó.


14

Trong một số bài viết, nội dung này còn đƣợc gọi tên là nguyên tắc luật
mang cờ12 hoặc nguyên tắc cờ phương tiện13. Đây là nội dung đƣợc thừa nhận
trong tập quán quốc tế và về sau đƣợc ghi nhận trong rất nhiều điều ƣớc quốc
tế đa phƣơng và song phƣơng. Theo đó, quốc gia có quyền tuyệt đối trong
việc thực hiện biện pháp giám sát đối với tàu thuyền mang quốc tịch nƣớc
mình.
Cụ thể, căn cứ vào các cơng ƣớc quốc tế mà cụ thể là Công ƣớc Geneve
về biển cả năm 1958, Luật biển quốc tế năm 1982 và Công ƣớc Tokyo về các
hành vi phạm tội và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay năm 1963,
lãnh thổ quốc gia cịn có thể đƣợc mở rộng hơn ngoài vùng đất liền, hải đảo,
vùng biển nội thủy, lãnh hải và vùng trời. Các tàu thuyền và tàu bay mang
quốc tịch của quốc gia, theo các công ƣớc này, cũng đƣợc coi là một phần
lãnh thổ không thể tách rời và theo đó, quốc gia mà tàu mang quốc tịch có
thẩm quyền tài phán.

Theo Cơng ƣớc Tokyo năm 1963, các hành vi vi phạm luật hình sự và
các hành vi, dù có phải là hành vi phạm tội hay khơng, có thể hoặc gây nguy
hiểm tới an toàn của tàu bay hoặc của ngƣời hoặc tài sản trên tàu bay, hoặc
gây nguy hiểm cho trật tự và kỷ luật trên tàu bay đều bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo luật hình sự của quốc gia mà tàu bay mang quốc tịch - quốc gia
đăng ký tàu bay. Địa điểm phạm tội là trên bất kỳ tàu bay nào đƣợc đăng ký
tại một quốc gia ký kết, trong khi tàu bay đó đang bay hoặc đang ở trên vùng
biển khơi hoặc tại bất kỳ nơi nào khác ngoài lãnh thổ quốc gia đăng ký.
Đối với tàu thuyền mang quốc tịch của quốc gia, Điều 92 Công ƣớc
Luật biển năm 1982 quy định: trên biển cả, tàu thuyền mang quốc tịch của
một quốc gia chịu sự tài phán duy nhất của quốc gia đó, trừ những trƣờng hợp
đặc biệt. Những trƣờng hợp đặc biệt nói trên bao gồm trƣờng hợp nghi ngờ
12

Xem: Nguyễn Trƣờng Giang (2011), “Một số điều ƣớc quốc tế liên quan đến việc bảo đảm an ninh và
phịng, chống tội phạm trên biển”, Trang thơng tin điện tử về Biên giới lãnh thổ, Cơ quan chủ quản: Uỷ ban
Biên giới quốc gia - Bộ Ngoại giao, < tr.8
13
Xem: Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2011), “Về phần chung Bộ luật Hình sự Cộng hịa Liên bang Đức”,
Tạp chí Luật học, Đặc san tháng 9 năm 2011: “Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hịa Liên bang Đức”, tr.21


15

tàu đó thực hiện cƣớp biển, bn bán nơ lệ… (Điều 110 Công ƣớc Luật biển
năm 1982) và không bao gồm trƣờng hợp đƣa ngƣời di cƣ bất hợp pháp.
Mặt khác, đối với vùng biển ngoài biển cả, căn cứ vào Điều 32, tiểu
mục C Luật biển quốc tế năm 1982 về các quy tắc áp dụng cho các tàu chiến
và các tàu thuyền khác của nhà nƣớc đƣợc dùng vào những mục đích khơng
thƣơng mại, các tàu chiến của quốc gia hoặc tàu khác của nhà nƣớc đƣợc

dùng vào những mục đích khơng thƣơng mại (gọi là tàu qn sự) có treo quốc
kỳ của quốc gia đang có mặt ở vùng lãnh hải hoặc cảng biển của một quốc gia
khác hoặc ở vùng biển cả cũng đƣợc xem là một phần lãnh thổ có chủ quyền
đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia đó. Nói một cách ngắn gọn, các tàu quân sự
mang cờ quốc gia, bất kể có mặt ở đâu, đều đƣợc xem làm một phần lãnh thổ
của quốc gia đó và theo đó có chủ quyền đầy đủ và tuyệt đối.
Khơng chỉ có các tàu chiến và tàu của nhà nƣớc dùng cho những mục
đích khơng thƣơng mại, các tàu buôn và tàu nhà nƣớc dùng vào mục đích
thƣơng mại (gọi là tàu dân sự) cũng đƣợc trao cho quyền chủ quyền ở một
mức độ nhất định. Theo đó, các tàu này cũng đƣợc xem là lãnh thổ của quốc
gia và có các quyền miễn trừ tài phán trong một số trƣờng hợp đặc biệt.
Theo quy định tại Điều 27 Công ƣớc Luật biển 1982, so với các tàu
quân sự, các tàu dân sự mang một quy chế pháp lý khác, theo đó, các tàu dân
sự mang quốc tịch một quốc gia chỉ đƣợc hƣởng quyền miễn trừ tài phán hình
sự trong một số trƣờng hợp luật định. Tức là, khi có một hành vi phạm tội xảy
ra trên một tàu dân sự nƣớc ngoài trong lãnh hải quốc gia ven biển thì quốc
gia ven biển đó khơng đƣơng nhiên có thẩm quyền tài phán hình sự. Bộ luật
hình sự của quốc gia chỉ có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phạm tội đó
khi xảy ra các trƣờng hợp quy định tại Điểm a, b, c, d Khoản 1 Điều 27 Công
ƣớc Luật biển 1982, mà các trƣờng hợp này có nội dung cơ bản thuộc nguyên
tắc bảo vệ quốc gia và nguyên tắc theo pháp luật quốc tế.
Phân tích các Tiểu mục B Điều 27 và Tiểu mục C Điều 32 nêu trên cho
thấy quy chế pháp lý quốc tế thừa nhận việc áp dụng quy chế pháp lý lãnh thổ
quốc gia đối với các tàu chiến hoặc tàu khác của nhà nƣớc đƣợc dùng vào


16

mục đích khơng thƣơng mại có treo cờ quốc gia (chủ quyền đầy đủ và
tuyệt đối) và đối với các tàu bn hoặc tàu nhà nƣớc dùng vào mục đích

thƣơng mại (trong một số trƣờng hợp). Việc thừa nhận các tàu mang cờ
quốc gia là một phần lãnh thổ quốc gia có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định hiệu lực theo khơng gian của Bộ luật hình sự quốc gia. Khi coi các tàu
mang cờ quốc gia là một phần lãnh thổ quốc gia thì các hành vi phạm tội xảy
ra trên các tàu mang cờ quốc gia, về nguyên tắc, cũng là xảy ra trên lãnh thổ
quốc gia, và theo đó, phải thuộc phạm vi hiệu lực theo khơng gian của Bộ luật
hình sự quốc gia đó.
Việc thừa nhận rộng rãi phần lãnh thổ quốc gia đƣợc mở rộng ra các
tàu thuyền mang cờ quốc gia hoặc các phƣơng tiện bay hàng không hoặc
vũ trụ mang quốc tịch quốc gia đã làm xuất hiện các khái niệm “lãnh thổ mở
rộng”, “lãnh thổ bay”, “lãnh thổ bơi”,… Các khái niệm này thực chất để chỉ
lãnh thổ quốc gia theo góc độ chủ quyền quốc gia về phƣơng diện pháp lý
trong những trƣờng hợp đặc biệt đƣợc phân tích ở trên.
Về nguyên tắc, tất cả các hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ một
quốc gia đều bị xử lý theo pháp luật hình sự của quốc gia đó. Tuy nhiên, vẫn
tồn tại một ngoại lệ dành cho các đối tƣợng đặc biệt đƣợc hƣởng quyền miễn
trừ. Các đối tƣợng đƣợc miễn trừ nêu trên chính là các đối tƣợng đƣợc hƣởng
các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ƣu đãi, miễn trừ về lãnh sự. Các
quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ƣu đãi, miễn trừ về lãnh sự này đƣợc
quy định trong Công ƣớc Vienna năm 1961 về quan hệ ngoại giao và Công
ƣớc Vienna năm 1963 về quan hệ lãnh sự.
1.2.2. Nguyên tắc quốc tịch
Theo chế định dân cƣ trong luật quốc tế, quốc tịch là một khái niệm
chính trị - pháp lý quan trọng chỉ mối liên hệ pháp lý hai chiều, đƣợc xác lập
giữa cá nhân với một quốc gia nhất định, có nội dung là tổng thể các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của ngƣời đó với quốc gia mà họ mang quốc tịch cũng nhƣ
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của quốc gia đối với cơng dân nƣớc mình.


17


Nội dung mối quan hệ ràng buộc giữa một ngƣời với nhà nƣớc mà họ là
công dân là: một ngƣời khi là công dân của một quốc gia bất kỳ phải chịu sự
chi phối và tác động về mọi mặt bởi chính quyền nhà nƣớc mà họ mang quốc
tịch. Bất kể họ đang cƣ trú ở trên hay ở ngoài lãnh thổ quốc gia mà mình là
cơng dân, họ có nghĩa vụ tôn trọng và chấp hành pháp luật của quốc gia mà
mình là cơng dân đó.
Trong khoa học luật hình sự quốc tế nói chung và từng quốc gia trên
thế giới nói riêng, nguyên tắc quốc tịch áp dụng cho các quy định về thẩm
quyền tài phán hình sự của bộ luật hình sự quốc gia đƣợc chia làm hai loại:
nguyên tắc quốc tịch chủ động và nguyên tắc quốc tịch bị động. Mỗi quốc gia,
tùy thuộc vào mức độ và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của quốc
gia mình, lựa chọn áp dụng một trong hai hoặc kết hợp cả hai loại này.
1.2.2.1. Nguyên tắc quốc tịch chủ động
Nguyên tắc quốc tịch chủ động có nội dung: Quốc gia có thẩm quyền
tài phán là quốc gia mà cá nhân thực hiện hành vi phạm tội hoặc bị tình nghi
thực hiện tội phạm mang quốc tịch, bất kể hành vi phạm tội đƣợc thực hiện tại
bất kỳ nơi nào. Nói cách khác, nguyên tắc quốc tịch chủ động căn cứ vào
quốc tịch của ngƣời thực hiện hành vi phạm tội để xác định quốc gia có thẩm
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc quốc tịch chủ động cũng
đóng vai trị quan trọng trong việc chi phối quy định về hiệu lực theo không
gian của luật hình sự quốc gia.
Nếu nguyên tắc lãnh thổ là nguyên tắc chủ đạo nhằm xác định thẩm
quyền tài phán hình sự của quốc gia đối với những hành vi phạm tội trên lãnh
thổ quốc gia đó, thì ngun tắc quốc tịch chủ động là một trong các nguyên
tắc đƣợc vận dụng trƣớc tiên để xác định hiệu lực của đạo luật hình sự đối với
hành vi phạm tội ngồi lãnh thổ quốc gia. Theo đó, đạo luật hình sự quốc gia
đƣợc áp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự tội phạm đƣợc thực hiện ngồi
lãnh thổ quốc gia đó chính là đạo luật hình sự của quốc gia mà ngƣời phạm
tội là công dân. Nguyên tắc quốc tịch chủ động đƣợc thể hiện trong các quy

phạm pháp luật hình sự quốc gia cụ thể qua các dấu hiệu nhƣ: tại Điểm a


18

Khoản 3 Điều 5 Bộ luật hình sự Cộng hịa Liên bang Đức: “Nếu người thực
hiện tội phạm là người Đức và có nguồn sống của mình trong phạm vi hiệu
lực theo không gian của luật này”; hoặc tại Khoản 1 Điều 12 Bộ luật hình sự
Liên bang Nga: “Cơng dân Liên bang Nga […] thực hiện hành vi phạm tội
bên ngồi lãnh thổ Liên bang Nga […] thì chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định của bộ luật này”; hoặc tại Khoản 1 Điều 2 Chƣơng 2 Bộ luật hình sự
Thụy Điển: “Nếu người phạm tội là: Cơng dân Thụy Điển hoặc người nước
ngoài cư trú tại Thụy Điển”.
1.2.2.2. Nguyên tắc quốc tịch bị động
Nguyên tắc quốc tịch bị động ra đời trƣớc thực tế rằng nguyên tắc quốc
tịch chủ động sẽ khơng thể có cơ hội đƣợc áp dụng hoặc sẽ gặp khó khăn
trong việc áp dụng nếu ngƣời phạm tội là ngƣời khơng có quốc tịch hoặc đa
quốc tịch. Ngƣợc lại với nguyên tắc quốc tịch chủ động, nguyên tắc quốc tịch
bị động chú ý đến mối quan hệ giữa quốc gia thực hiện quyền xét xử với nạn
nhân là công dân nƣớc này.
Trong khoa học pháp lý hình sự cũng nhƣ thực tế lập pháp hình sự trên
thế giới, nguyên tắc quốc tịch bị động ngày càng đƣợc chấp nhận rộng rãi ở
các mức độ khác nhau từ các nƣớc theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa
đến các nƣớc thuộc hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Mỹ và Anh là các nƣớc đã
từng phản đối việc áp dụng nguyên tắc này trong quá khứ, nhƣng trƣớc sự
phát triển các quan hệ quốc tế trong điều kiện hiện đại, cùng với việc xảy ra
rất nhiều hành vi nguy hiểm gây thiệt hại lớn và hàng loạt về tính mạng, sức
khỏe, tài sản cơng dân, hoặc để tạo cơ sở xử lý các tội phạm khủng bố, sát hại
quan chức ngoại giao, các quốc gia này đã phải có sự nhìn nhận lại và thay
đổi quan điểm.

Mặt khác, một số điều ƣớc quốc tế về lĩnh vực hình sự cũng khẳng định
nguyên tắc quốc tịch bị động, tiêu biểu nhƣ Công ƣớc Tokyo về an ninh hàng
không quốc tế đã quy định về việc xác định thẩm quyền tài phán căn cứ vào
quốc tịch của ngƣời bị hại: “Điều 4: Một quốc gia ký kết không phải là quốc
gia đăng ký tàu bay không được can thiệp vào tàu bay đang bay để thực hiện


19

quyền tài phán hình sự của mình đối với các hành vi phạm tội thực hiện trên
tàu bay trừ các trường hợp sau đây: b) hành vi phạm tội do cơng dân hoặc
người thường trú của quốc gia đó được thực hiện hoặc chống lại họ”.
Nội dung của nguyên tắc quốc tịch bị động là quốc gia có thẩm quyền
xét xử hình sự là quốc gia mà nạn nhân bị các hành vi phạm tội xâm hại là
công dân của quốc gia đó. Theo đó, quốc tịch của ngƣời bị hại trở thành một
căn cứ để xác định hiệu lực theo khơng gian của luật hình sự quốc gia đối với
một hành vi phạm tội nhất định. Khi xây dựng quy định về hiệu lực theo
không gian, nguyên tắc quốc tịch bị động là nguyên tắc tiếp theo sau nguyên
tắc quốc tịch chủ động đƣợc vận dụng để xác định hiệu lực của đạo luật hình
sự đối với hành vi phạm tội ngồi lãnh thổ quốc gia. Vì vậy, đạo luật hình sự
quốc gia đƣợc áp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm đƣợc
thực hiện ngồi lãnh thổ quốc gia đó chính là đạo luật hình sự của quốc gia
mà ngƣời bị hại là cơng dân.
Trong một số trƣờng hợp, nguyên tắc quốc tịch bị động cịn đƣợc quốc
gia áp dụng mở rộng ra ngồi đối tƣợng mang tƣ cách cơng dân. Theo đó,
ngƣời bị hại là ngƣời khơng có quốc tịch thƣờng trú tại quốc gia hoặc ngƣời
nƣớc ngoài thƣờng trú tại quốc gia cũng trở thành căn cứ để xác định hiệu lực
của đạo luật hình sự quốc gia đang thƣờng trú theo nguyên tắc này. Nguyên
tắc quốc tịch bị động đƣợc thể hiện trong các quy phạm pháp luật hình sự
quốc gia cụ thể qua các dấu hiệu nhƣ: tại Khoản 6 Điều 5 Bộ luật hình sự

Cộng hịa Liên bang Đức: “nếu hành vi nhằm chống lại người Đức mà người
này có chỗ ở hoặc nơi lưu trú thường xuyên trong nước”; hoặc tại Khoản 3
Điều 12 Bộ luật hình sự Liên bang Nga: “nếu tội phạm xâm hại đến lợi ích
của công dân Liên bang Nga hoặc của người không có quốc tịch thường trú
tại Liên bang Nga”; hoặc tại Khoản 5 Điều 3 Chƣơng 2 Bộ luật hình sự Thụy
Điển: “trực tiếp chống lại công dân Thụy Điển, tổ chức xã hội hoặc tổ chức
tư nhân Thụy Điển hoặc người nước ngoài cư trú tại Thụy Điển”.


20

1.2.3. Nguyên tắc bảo vệ quốc gia
Bảo vệ quốc gia là vấn đề luôn đƣợc các quốc gia quan tâm, vì trật tự
cơng cộng quốc gia có ổn định hay khơng đều có tác động, ảnh hƣởng trực
tiếp đến sự tồn vong cũng nhƣ các quyền lợi và lợi ích sống cịn, đến uy tín và
vị thế của mỗi quốc gia đó trên trƣờng quốc tế. Do đó, nguyên tắc bảo vệ
quốc gia đã đƣợc hình thành trong việc phân định thẩm quyền tài phán hình
sự. Sự ra đời của nguyên tắc bảo vệ quốc gia là sự cần thiết để bảo vệ quốc
gia trƣớc hành vi bất hợp pháp của ngƣời nƣớc ngồi, nhất là khi hành vi này
khơng đƣợc coi là hành vi bất hợp pháp tại quốc gia nơi nó đƣợc thực hiện.14
Trong trƣờng hợp áp dụng nguyên tắc này để phân định thẩm quyền tài
phán hình sự của quốc gia, các dấu hiệu phân định thẩm quyền tài phán hình
sự khác nhƣ nơi thực hiện hành vi phạm tội hay dấu hiệu quốc tịch của thủ
phạm hoặc ngƣời bị hại khơng đƣợc quan tâm từ góc độ quốc gia có lợi ích bị
xâm hại. Nói cách khác, quốc gia có các lợi ích bị hành vi phạm tội trực tiếp
xâm hại (trật tự công cộng quốc gia, ổn định chính trị của mỗi quốc gia, uy
tín, vị thế, sự tồn vong hoặc các quyền và lợi ích sống cịn khác) có quyền tài
phán đối với tội phạm kể cả khi hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ quốc gia
mình và do ngƣời nƣớc ngồi thực hiện, nhƣng xâm phạm nghiêm trọng và
gây thiệt hại cho an ninh quốc gia.

Nguyên tắc này đòi hỏi phải xử lý theo luật hình sự của quốc gia đối
với những ngƣời nƣớc ngồi và ngƣời khơng có quốc tịch, khi những ngƣời
này tuy không sinh sống trên lãnh thổ quốc gia và phạm tội ở nƣớc ngoài
nhƣng đã thực hiện hành vi phạm tội xâm hại đến lợi ích của quốc gia, nhƣ
xâm phạm đến quốc thể, gây phƣơng hại cho an ninh, nền độc lập, thống nhất
hoặc toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của quốc
gia, ví dụ nhƣ tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, tội gián điệp,
tội làm tiền giả... 15 Do đó, khi xây dựng quy định về hiệu lực theo không
14

15

Xem: Nguyễn Thị Thuận (2006), Luật hình sự quốc tế, NXB Cơng an nhân dân, tr.88.

Xem: Đào Trí Úc (2006), Luật hình sự Việt Nam, quyển I-Những vấn đề chung, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr.403


×