BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI LIÊN KẾT
GIỮA CƠNG TY MẸ VÀ CƠNG TY CON
TRONG MƠ HÌNH NHĨM CƠNG TY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.50
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Huy Hồng
Học viên: Đặng Thị Tuyết Mai
Lớp: Cao học Luật Kinh tế
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2007
LỜI MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, những chỉ số phát triển kinh tế khá cao và ổn định trong những năm vừa qua,
cùng với sự kiện gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại thế giới) vào tháng 11/2006,
Việt Nam đã chứng tỏ là đất nước đã, đang và sẽ thu hút đầu tư nước ngoài. Để tăng
cường tập trung vốn, nguồn lực khoa học kỹ thuật, công nghệ… nhằm tăng khả
năng cạnh tranh với các tập đoàn, doanh nghiệp của nước ngồi, đã có nhiều mơ
hình nhóm cơng ty (tập đồn kinh tế, cơng ty mẹ - cơng ty con) của Nhà nước và tư
nhân được thành lập trong thời gian qua. Nhóm cơng ty là một thực thể kinh tế với
sự liên kết của các pháp nhân kinh tế độc lập, trong đó, mối liên kết giữa cơng ty mẹ
và công ty con là xương sống, quyết định sự tồn tại và hình hài của mơ hình.
Tuy nhiên, do loại hình này cịn khá mới và trong giai đoạn thử nghiệm, các
quy định pháp luật để điều chỉnh vẫn cịn chưa đầy đủ nên khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót, vướng mắc. Mặc dù đã được chính thức đưa vào Luật Doanh
nghiệp năm 2005 nhưng vấn đề này mới chỉ được đề cập ở dạng sơ khởi, với những
quy định cơ bản nhất. Trong khi đó, nhiều cơng ty mẹ - cơng ty con và tập đồn
kinh tế cả nhà nước lẫn tư nhân ngày càng tăng nhanh về số lượng và quy mơ, lại
phải tự tìm tịi, áp dụng những cách thức phù hợp để tồn tại và phát triển, điều này
không tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn. Ngồi ra, do thiếu sự điều chỉnh của
pháp luật, sẽ có những nhà quản trị cơng ty mẹ chọn lựa những cách hành xử không
đúng đắn, gây thiệt hại cho lợi ích của các cổ đơng thiểu số - là những nhà đầu tư
nhỏ, với tiếng nói khơng có nhiều trọng lượng trong cơng ty. Vì vậy, nghiên cứu
một cách tồn diện về sự liên kết giữa cơng ty mẹ và cơng ty con trong mơ hình
nhóm cơng ty từ thực tiễn những nhóm cơng ty đã được thành lập hiện nay, qua đó
đề xuất những định hướng hồn thiện pháp luật về vấn đề này là vơ cùng cần thiết.
Trang 2
Từ các lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài ”ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
MỐI LIÊN KẾT GIỮA CÔNG TY MẸ VÀ CƠNG TY CON TRONG MƠ
HÌNH NHĨM CƠNG TY” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2- Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về mối liên kết giữa
công ty mẹ và công ty con trong pháp luật hiện hành, đối chiếu với thực tiễn hoạt
động của các nhóm cơng ty. Qua đó, chỉ ra những điểm mạnh cần phát huy, các vấn
đề khó khăn vướng mắc cũng như những điểm mà pháp luật chưa đề cập, đồng thời,
đề xuất những giải pháp nhằm điều chỉnh các mối liên kết này trong khuôn khổ
pháp lý nhưng đồng thời vẫn khuyến khích và tạo điều kiện để mơ hình phát triển.
Với những mục đích này, đề tài có nhiệm vụ:
Một là, nghiên cứu về bản chất, các đặc điểm và cách thức hình thành nhóm
cơng ty cũng như những ưu, khuyết điểm và sự cần thiết phải áp dụng mơ hình này
vào điều kiện Việt Nam.
Hai là, nghiên cứu quy định của pháp luật về mối liên kết giữa công ty mẹ và
công ty con, phân tích những bất cập và điểm mạnh của pháp luật hiện hành.
Ba là, đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật, tạo điều kiện cho
nhóm cơng ty phát triển.
3- Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu về sự liên kết giữa công ty mẹ và công ty con
trong mô hình nhóm cơng ty (cả Nhà nước lẫn tư nhân), bao gồm: Quan hệ về sở
hữu (chi phối vốn), quan hệ liên kết thông qua hợp đồng kinh tế, quan hệ hợp tác
nghiên cứu khoa học, …
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu những cơng trình khoa học, quyển
sách, bài báo, tạp chí, đánh giá của các chuyên gia kinh tế, pháp lý trong và ngoài
nước, ý kiến của những nhà quản lý, các doanh nghiệp (trên các bài báo, tạp chí,
trang web…) về nhóm cơng ty (cơng ty mẹ - cơng ty con, tập đồn kinh tế) cũng
Trang 3
như sự liên hệ giữa công ty mẹ và công ty con. Tổng hợp những vấn đề này, đối
chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam, qua đó phát hiện ra những điểm bất
cập, những vấn đề mà pháp luật chưa đề cập đến cũng như những vướng mắc, khó
khăn trong q trình thực hiện pháp luật để đề xuất giải pháp hồn thiện.
4- Tình hình nghiên cứu:
Việc liên kết cơng ty dưới hình thức cơng ty mẹ - cơng ty con và tập đồn
kinh tế là vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Đã có một số quyển sách, đề tài
chuyên khảo về vấn đề này, như:
1. Vũ Huy Từ, "Mơ hình tập đồn kinh tế trong CNH-HĐH".
2. Nguyễn Đình Phan (chủ biên), "Thành lập và quản lý tập đoàn kinh tế ở
Việt Nam".
3. Trần Tiến Cường (chủ biên), "Lý luận và kinh nghiệm quốc tế về tập đoàn
kinh tế ứng dụng vào Việt Nam".
4. Luận án tiến sĩ của tác giả Đỗ Bình Trọng về “Hồn thiện tổ chức quản lý
doanh nghiệp Nhà nước theo mô hình cơng ty mẹ - cơng ty con trong điều kiện Việt
Nam (vận dụng vào Tổng cơng ty cơ khí xây dựng)”.
5. Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Dương Mỹ An về "Địa vị pháp lý của
các doanh nghiệp trong Tổng công ty Nhà nước theo mô hình cơng ty mẹ - cơng ty
con".
6. Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Trâm về "Mơ hình cơng
ty mẹ - cơng ty con và vấn đề chuyển đổi mơ hình hoạt động của các tổng cơng ty
Nhà nước hiện nay"…
Và ngồi ra, cịn nhiều bài viết, ý kiến của những nhà chuyên môn đăng trên
các tờ báo, tạp chí. Tuy nhiên, những quyển sách, bài viết, cơng trình nghiên cứu
này chỉ tập trung về khía cạnh kinh tế của tập đoàn kinh tế, hoặc về địa vị pháp lý
của các doanh nghiệp Nhà nước trong mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con, chưa tập
Trang 4
trung nghiên cứu chuyên sâu về sự liên kết giữa cơng ty mẹ và cơng ty con. Do đó,
có thể nói đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về đề tài này.
5- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Về mặt lý luận, luận văn tập trung nghiên cứu một cách khá đầy đủ về các
vấn đề lý luận cũng như phân tích thực trạng của việc liên kết giữa công ty mẹ và
công ty con.
Các nội dung và kết quả nghiên cứu được đề cập tại luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên và doanh nghiệp.
Các kiến nghị được đề ra có thể là những đề xuất, gợi ý cho việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về nhóm cơng ty.
6- Kết cấu của luận văn:
Luận văn bao gồm:
- Lời mở đầu.
- Phần nội dung với 02 chương:
CHƯƠNG 1: KHÁI QT VỀ MƠ HÌNH NHĨM CƠNG TY.
CHƯƠNG 2: SỰ LIÊN KẾT GIỮA CÔNG TY MẸ VÀ CÔNG TY CON
TRONG MƠ HÌNH NHĨM CƠNG TY - THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN
THIỆN.
- Phần kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
Trang 5
CHƯƠNG 1
KHÁI QT VỀ MƠ HÌNH NHĨM CƠNG TY
1.1 Bản chất của mơ hình nhóm cơng ty
1.1.1 Khái niệm về nhóm cơng ty
1.1.1.1 Quan niệm của một số nước trên thế giới
Được hình thành vào rất sớm, từ nửa đầu thế kỷ 19 tại các nước Tây Âu và
Bắc Mỹ, tập đoàn kinh tế dần dần phát triển mở rộng ra các khu vực khác và được
coi là hình thức lý tưởng để phát triển kinh tế. Đến thế kỷ 20, kinh tế thế giới chứng
kiến sự phát triển hùng mạnh của những con rồng châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc), và
cùng với sự kiện này, keiretsu, chaebol là những từ dần dần trở nên quen thuộc trên
các phương tiện thơng tin đại chúng.
Để có một cái nhìn tồn diện về mối liên kết trong tập đoàn kinh tế, tác giả
chọn nghiên cứu về các tập đoàn kinh tế ở những nước khởi thủy của mơ hình này ở
khu vực châu Âu và Bắc Mỹ (Đức, Hoa Kỳ) và những nước châu Á đã áp dụng mơ
hình một cách thành công trong việc phát triển kinh tế (Nhật Bản, Hàn Quốc). Dĩ
nhiên, không thể không nhắc đến nước láng giềng Trung Quốc, vốn có nhiều điểm
tương đồng về xuất phát điểm, chế độ kinh tế, xã hội, đường lối phát triển…, và
cũng đang sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hóa, xây dựng
các tập đồn kinh tế mạnh như Việt Nam.
- Trung Quốc: Liên kết công ty tại nước này được khởi đầu từ những năm
1950 và thực hiện dưới hình thức tập đồn xí nghiệp. Công cuộc này đã dừng lại
trong giai đoạn cách mạng văn hóa và sau đó được tiếp tục vào đầu những năm 80
bằng sự ra đời của hàng loạt tập đoàn doanh nghiệp. Với sự giúp đỡ mạnh mẽ của
Trang 6
Nhà nước thông qua việc đề ra những chủ trương, chính sách hỗ trợ (giao nhiều
quyền tự chủ, cho phép thành lập cơng ty tài vụ…), tập đồn doanh nghiệp đã phát
triển nhanh chóng, từ 1.630 tập đồn vào thời điểm năm 1989 đã tăng lên thành
2.710 tập đoàn vào năm 2001. Trong những năm gần đây, nhiều tập đoàn doanh
nghiệp của Trung Quốc đã ngày càng phát triển và chứng tỏ thế mạnh ngay trên thị
trường nội địa cũng như thị trường thế giới, chẳng hạn như các tập đoàn: Kelong,
Huabao (sản phẩm điện tử gia dụng), TCL, Changhong (vô tuyến), Legend (tin
học)… Ngay trong xếp hạng các tập đồn hàng đầu châu Á năm 2005 của tạp chí
Fortune (Hoa Kỳ) 1, đã có 04 tập đồn là của Trung Quốc.
Tập đoàn doanh nghiệp ở Trung Quốc là thực thể kinh tế có kết cấu tổ chức
nhiều cấp, liên kết với nhau bằng quan hệ tài sản. Các doanh nghiệp trong tập đồn,
dù là doanh nghiệp nịng cốt hay các doanh nghiệp khác đều có tư cách pháp nhân
và độc lập với nhau. Doanh nghiệp nịng cốt gắn bó với các doanh nghiệp cịn lại
trong tập đồn thơng qua các hình thức như: nắm giữ cổ phần hoặc tỉ lệ vốn góp chi
phối, tham gia góp vốn (cổ phần hoặc vốn góp khơng chi phối), liên kết kinh doanh.
Có 06 hình thức tồn tại chủ yếu của tập đồn: tập đoàn tổng hợp nhiều cấp, tập đoàn
liên kết dây chuyền, tập đồn phối hợp đồng bộ, tập đồn hịa nhập nghiên cứu khoa
học và sản xuất kinh doanh, tập đoàn liên kết mạng lưới cùng ngành, tập đoàn cổ
phần. Tuỳ theo hình thức tồn tại mà doanh nghiệp nịng cốt chi phối các doanh
nghiệp khác trong tập đoàn với các cách thức khác nhau, có thể bằng việc chi phối
vốn, bằng hợp đồng liên kết nghiên cứu, sản xuất kinh doanh…, tuy nhiên, tất cả
đều trên cơ sở mục tiêu chung lớn nhất: Lợi nhuận.
- Nhật Bản: Tập đoàn kinh tế đã tồn tại ở Nhật Bản từ trước chiến tranh thế
giới thứ hai với tên gọi zaibatsu2, thông qua việc các nhà tài phiệt sở hữu công ty
nắm cổ phần, qua đó thâu tóm các cơng ty con. Phải gián đoạn một thời gian bởi
lệnh cấm của Chính phủ (bằng việc ban hành Luật cấm độc quyền, trong đó cấm
hình thức cơng ty nắm cổ phần hoạt động) và chỉ được tiếp tục cho phép phát triển
1
2
/>Zaibatsu có nghĩa là tài đoàn
Trang 7
trở lại vào hơn 50 năm sau, với tên gọi mới là keiretsu3, nhưng các tập đoàn tại Nhật
Bản đã ngày càng phát triển và thống trị nhiều lĩnh vực trên thị trường thế giới. Cho
đến nay, những tập đoàn nổi tiếng của Nhật như: Mitsubishi, Toshiba hay Sony,
Honda… đã bành trướng tại nhiều nước trên thế giới. Cũng theo xếp hạng của tạp
chí Fortune, trong số 10 tập đồn hàng đầu châu Á năm 2005 có 04 tập đồn là của
Nhật Bản.
Quan hệ công ty mẹ - công ty con tại Nhật Bản được hình thành khi một
cơng ty nắm trên 50% cổ phần của công ty khác, khi đó, cơng ty nắm cổ phần là
cơng ty mẹ, cơng ty bị nắm cổ phần là công ty con. Việc hình thành quan hệ cơng ty
mẹ - con được thực hiện thông qua 04 con đường: thành lập mới công ty mẹ - công
ty con; mua cổ phần của công ty khác với tỉ lệ trên 50%; công ty con nhận vốn góp
của cơng ty mẹ, đổi lại cơng ty mẹ nhận cổ phần của công ty con; trao đổi cổ phần
giữa các công ty.
Trong các trường hợp nêu trên, công ty mẹ đều chi phối công ty con thông
qua vốn, có nghĩa là: Khi nắm trên 50% cổ phần của cơng ty con, cơng ty mẹ có
quyền cử người tham gia vào Hội đồng quản trị của công ty con, và có quyền biểu
quyết dựa trên số cổ phần chi phối do mình nắm giữ. Và khi đó, cơng ty mẹ có thể
quyết định phương hướng sản xuất kinh doanh, quyết định việc bổ nhiệm nhà quản
lý của công ty con…
Pháp luật cũng đã quy định trách nhiệm của công ty mẹ với công ty con như:
Trường hợp công ty mẹ đưa ra chỉ thị, gây thiệt hại cho cơng ty con thì cơng ty mẹ
phải có trách nhiệm bồi thường. Nếu công ty con kinh doanh thất bại, sẽ xem xét lại
trách nhiệm của Hội đồng quản trị công ty mẹ. Và trong một số trường hợp, thành
viên của Hội đồng quản trị công ty mẹ sẽ bị truy cứu trách nhiệm khi: Khơng phân
tích đầy đủ các tài liệu, báo cáo do cơng ty con đệ trình, dẫn đến làm cho công ty
con bị phá sản, công ty mẹ không thu hồi được vốn đầu tư; Thành viên Hội đồng
quản trị công ty mẹ kiêm nhiệm việc quản lý tại công ty con, nhưng buông lỏng
3
Keiretsu gồm hai chữ ghép lại: kei có nghĩa là liên kết, retsu có nghĩa là trật tự, sắp xếp. Keiretsu có nghĩa
là tập đoàn.
Trang 8
quản lý, dẫn tới công ty con bị lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính; thành viên
Hội đồng quản trị công ty mẹ quyết định việc chuyển giao công việc kinh doanh của
công ty con (bán công ty), gây thiệt hại cho công ty mẹ… Với những quy định này,
pháp luật Nhật Bản đã điều chỉnh khá chặt chẽ từ con đường hình thành nhóm cơng
ty (cơng ty mẹ - công ty con), đến các hoạt động quản lý nhóm cơng ty cũng như
trách nhiệm của cơng ty mẹ trong việc quyết định các vấn đề quản lý cơng ty con.
- Hàn Quốc: Cũng có những nét tương đồng với keiretsu của Nhật Bản, các
chaebol4 của Hàn Quốc bao gồm nhiều cơng ty có mối quan hệ tài chính, chiến lược
kinh doanh và điều phối thống nhất. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong chaebol
thường do một hoặc các gia đình sáng lập chi phối bằng cách nắm giữ đa số cổ
phiếu. Do đó, tư tưởng gia trưởng và quan hệ huyết thống thống trị hoàn toàn trong
việc điều hành chaebol. Và như vậy, sự gắn bó giữa cơng ty mẹ và cơng ty con
trong tập đồn cũng chặt chẽ hơn ở các nước khác, mặc dù về hình thức các cơng ty
này đều là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân độc lập. Đặc trưng của mô hình
này là tính quyết đốn và phản ứng nhanh chóng trước những biến cố của thị trường
do quyền lực của tập đồn tập trung vào người sáng lập. Chính phủ cũng đã có
những chính sách hỗ trợ rất lớn cho các tập đồn thơng qua việc hỗ trợ vốn, hỗ trợ
cơng nghệ, chính sách ưu đãi, kể cả hạn chế đầu tư nước ngoài…
Các tập đoàn của Nhật Bản và Hàn Quốc thông thường khởi đầu từ lĩnh vực
thương mại hoặc ngoại thương. Ở giai đoạn đầu phát triển, chúng tiến hành chun
mơn hóa trong các hoạt động thương mại với một số sản phẩm nhất định. Qua quá
trình hoạt động, quy mô và cơ cấu kinh doanh dần dần được mở rộng, việc đa dạng
hóa các loại hình kinh doanh được thực hiện. Với những kinh nghiệm quản lý và
nguồn vốn tích lũy được từ các hoạt động kinh doanh thương mại, các tập đoàn dần
bành trướng hoạt động sang các ngành nghề, các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
khác. Từ lĩnh vực kinh doanh thương mại của ban đầu, chúng bổ sung thêm các
hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, sau đó tiếp đến các lĩnh vực sản xuất, tài chính,
ngân hàng. Đặc điểm của các tập đồn tại Nhật Bản và Hàn Quốc là chú ý phát triển
4
Chaebol trong tiếng Hàn có nghĩa là tài đồn - tập đồn tài chính.
Trang 9
mở rộng thị trường, xây dựng mạng lưới tiêu thụ quốc gia và quốc tế; sau đó, do
yêu cầu ngày càng cao của việc sản xuất, các hoạt động nghiên cứu khoa học, công
nghệ mới được tiến hành. Đối với các nước này, ngoại thương đóng vai trị rất quan
trọng, do đó, các tập đồn phát triển mạnh mẽ nhất vẫn là những tập đoàn kinh
doanh xuất nhập khẩu.
- Đức, Hoa Kỳ: Cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ
đã làm cho nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ, dẫn đến q trình tích tụ và
tập trung tư bản xuất hiện tại các nước này rất sớm, từ nửa cuối thế kỷ 19. Hiện
tượng chèn ép, thơn tính lẫn nhau, hoặc tự nguyện liên kết với nhau trong những
liên minh hay tổ hợp đã giúp các công ty phân chia thị trường và khai thác các tiềm
năng của mình trong một khối vững chắc hơn và rộng lớn hơn. Đồng thời, những
công ty nhỏ bị thơn tính, bị mua lại để nhập vào thành những cơng ty có quy mơ lớn
hơn, với mức đầu tư và phạm vi hoạt động rộng rãi hơn. Từ đó, các cartel,
association, group5 xuất hiện và ngày càng phát triển. Tất cả các cơng ty trong nhóm
cùng thỏa thuận để xây dựng và phối hợp thực hiện chiến lược phát triển chung của
nhóm, thoả thuận góp vốn, cung ứng sản phẩm, phân chia thị trường, thống nhất
phương thức kiểm sốt nội bộ… Một cơng ty mạnh nhất sẽ đóng vai trị trung tâm,
chi phối và bảo vệ các cơng ty khác khỏi sự chèn ép, thơn tính của các cơng ty
ngồi nhóm.
Các tập đồn kinh doanh của Mỹ, Đức chủ yếu khởi đầu từ các hoạt động sản
xuất, sau đó, thơng qua kết quả hoạt động sản xuất mới mở rộng hoạt động sang các
lĩnh vực khác như thương mại, vận tải, ngân hàng, bảo hiểm… Do đó, các tập đoàn
này chú trọng nhiều đến hoạt động nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học, cải tiến
công nghệ sản xuất…
Mặc dù có những đặc điểm chung như vậy nhưng thực tế các tập đoàn ở Mỹ
và Đức có những điểm khác biệt rất lớn. Chẳng hạn, ở Mỹ số lượng cổ đông của các
công ty thường lên đến hàng trăm hoặc có khi hàng triệu, mà chủ yếu là các nhà đầu
5
Cartel, association hay group đều có chung những nghĩa chính là: liên minh, liên kết, nhóm.
Trang 10
tư cá nhân. Sự phân phối cổ phần rất rộng rãi, những gói cổ phần lớn nhất chỉ ở tỉ lệ
khơng đến 10% và rất khó có tỉ lệ cổ phiếu để chi phối công ty. Sự phát triển cao
của thị trường chứng khốn làm cho đa số cổ đơng không bị ràng buộc vào công ty
và chỉ quan tâm đến việc chi trả lợi tức cổ phần hoặc mức tăng giá trên thị trường
của cổ phiếu do mình sở hữu. Nhà quản lý công ty luôn phải chịu áp lực phát triển
công ty bằng mọi giá để tăng giá trị cổ phiếu. Thị trường thanh tốn cổ phiếu chính
là một trong những nhân tố kiểm sốt bên ngồi đối với hoạt động của công ty, thay
cho các cổ đông nắm vốn góp hoặc cổ phần chi phối như ở các nước khác.
Trong khi đó, ở Đức, các cổ đơng, những kết cấu tài chính, những cơng nhân
có tổ chức, nhà nước đều được xem như là một bộ phận kết cấu của cơng ty và đều
có quyền lực nhất định với việc quản lý cơng ty. Vai trị người cơng nhân được đề
cao trong các tập đồn ở Đức, với việc quy định thành lập hội đồng giám sát với
50% thành viên là công nhân tại các công ty có trên 2.000 người làm việc. Cơng
nhân cũng có thể tác động vào công ty một cách gián tiếp thông qua tổ chức cơng
đồn bằng việc cơng đồn tham gia mua cổ phần của cơng ty. Các ngân hàng (trong
đó có 03 ngân hàng lớn nhất là Deutche Bank, Dresdner Bank và Commerzbank)
gần như kiểm sốt được các tập đồn kinh tế thông qua sự ủy thác của các chủ sở
hữu các cổ phần nhỏ trong những tập đoàn này. Đồng thời, việc cấp vốn cũng cho
phép các ngân hàng tham gia khá nhiều vào việc quản lý các tập đồn.
1.1.1.2 Quan niệm của Việt Nam:
Khái niệm nhóm cơng ty bắt đầu được đề cập đến nhiều trên các bài báo, tạp
chí trong những năm gần đây. Vậy có thể hiểu như thế nào về nhóm cơng ty? Theo
cách hiểu đơn giản nhất, nhóm cơng ty là nhiều cơng ty độc lập, chúng tập hợp lại
với nhau bằng một cách thức nào đó và vì một mục đích nào đó.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đưa ra khái niệm nhóm cơng ty là: “tập hợp
các cơng ty có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, cơng nghệ, thị trường
Trang 11
và các dịch vụ kinh doanh khác”6. Nhóm cơng ty bao gồm các hình thức, đó là:
cơng ty mẹ - cơng ty con, tập đồn kinh tế và các hình thức khác.
Cơng ty mẹ - cơng ty con là hình thức nhóm cơng ty đơn giản nhất với tối
thiểu hai cơng ty, trong đó một cơng ty được coi là “mẹ” và một công ty được coi là
“con”. Cũng theo nghĩa đơn giản nhất, “mẹ” có nghĩa là có thể tạo ra “con”, hoặc có
thể ni dưỡng, có vai trị rất quan trọng với “con”. Công ty mẹ - công ty con không
phải là khái niệm xuất phát từ Việt Nam mà là sự chuyển ngữ từ tiếng Anh của mơ
hình của các cơng ty với tên gọi holding company. Trong đó holding company là
cơng ty chính, cơng ty nắm vốn, giữ cổ phần, vốn góp của các cơng ty khác; cịn
subsidiary company là cơng ty nhận vốn, do cơng ty nắm vốn (holding company)
điều khiển.
Từ tập đoàn trong tiếng Việt có rất nhiều nghĩa, đó là: nhóm những người có
chung những quyền lợi kinh tế, địa vị xã hội; nhóm những người có cùng một nghề
làm ăn chung; cơng ty làm chủ các xí nghiệp sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau,
thường với mục đích đa dạng hóa hoạt động và các nguồn lợi tức, tự mình khơng
sản xuất gì cả nhưng là tổ chức bao trùm nắm tồn bộ cổ phần7. Trong trường hợp
này, nghĩa thứ ba của từ này là phù hợp nhất, đề cập trực tiếp đến sự liên kết giữa
các đơn vị kinh doanh và mục đích của việc liên kết này.
Khơng phải đến bây giờ, khi liên kết công ty được coi là yêu cầu tối thượng
cho nền kinh tế thì pháp luật Việt Nam mới đề cập đến khái niệm này. Từ những
năm 1970, liên hiệp các xí nghiệp đã được thành lập ở nhiều nơi, theo mơ hình của
các nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, Đông Âu). Vào ngày 10/12/1978, Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 302/CP, trong đó quy định: “Liên hiệp xí
nghiệp là một tổ chức kinh doanh gồm các xí nghiệp có mối liên hệ mật thiết với
nhau trong một ngành kinh tế - kỹ thuật và là một cơ quan sản xuất kinh doanh”.
Liên hiệp xí nghiệp gồm các xí nghiệp sản xuất chính, các cơ sở sản xuất phụ và
phụ trợ, các tổ chức sản xuất kinh doanh, cơ sở nghiên cứu, cơ sở khoa học, cơ sở
6
7
Khoản 1 Điều 146 Luật Doanh nghiệp 2005
Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - thơng tin, năm 1999, tr.1508
Trang 12
đào tạo. Mục tiêu của việc thành lập các Liên hiệp xí nghiệp là để tăng cường quản
lý theo ngành kinh tế kỹ thuật, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ, tăng cường chỉ đạo kế hoạch pháp lệnh từ trên xuống,
đảm bảo các chính sách cân đối lớn của nhà nước. Thời điểm này, liên hiệp xí
nghiệp vừa có chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, vừa thực hiện một số nội
dung về quản lý ngành kinh tế kỹ thuật.
Trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các liên hiệp xí nghiệp
sản xuất theo kế hoạch do Nhà nước giao, trên cơ sở vật tư, trang thiết bị… được
phân bổ, sản phẩm làm ra cũng giao lại cho nhà nước để phân phối qua hệ thống
cửa hàng thương nghiệp theo giá do nhà nước định sẵn, đơn vị không được bán
cũng không được quyết định giá cả sản phẩm (mà thông thường, giá của sản phẩm
thấp hơn chi phí thực tế bỏ ra để làm ra nó). Việc tổ chức các xí nghiệp dưới hình
thức liên hiệp nhằm làm cho q trình phân cơng lao động và tổ chức sản xuất hợp
lý hơn chứ không nhằm vào mục đích tăng cường quy mơ vốn kinh doanh hay tăng
sức cạnh tranh bởi vì trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hầu như
khơng có sự cạnh tranh, việc sản xuất chỉ được thực hiện theo kế hoạch được phân
bổ sẵn từ cấp trên (và không được hợp lý lắm). Tuy nhiên, Liên hiệp khơng có khả
năng để thực hiện đồng thời hai chức năng trên, nhiều khi đã trở thành trở ngại cho
sự phát triển của các thành viên.
Để cải tiến hoạt động của các Liên hiệp xí nghiệp, Nghị định 27/HĐBT ngày
22/3/2989 được ban hành, nâng cao quyền và trách nhiệm của Liên hiệp, phân chia
chúng thành hai loại: Liên hiệp xí nghiệp chung được thành lập theo đề nghị của các
thành viên độc lập (tài sản không bao gồm tài sản cá doanh nghiệp thành viên) và
Liên hiệp hạch toán tập trung (do nhà nước thành lập, tài sản bao gồm tài sản của tất
cà các thành viên).
Luật công ty ban hành năm 1990 thể hiện tư duy pháp lý mới của nhà nước:
thừa nhận công ty như là một thực thể kinh tế độc lập, có quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh (nhưng vẫn còn hạn chế). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế cho việc
Trang 13
phát triển công ty mới (phải xin phép kinh doanh với thủ tục khá phức tạp) và chưa
có quy định về liên kết công ty (tư nhân). Thực tế trong giai đoạn này kinh tế tư
nhân chỉ mới manh nha phát triển, còn ở những bước sơ khai, cũng chưa có nhu cầu
về liên kết, tích tụ và tập trung vốn.
Làn gió đổi mới cùng với cơ chế thị trường đã mang lại sự phát triển cho đất
nước nói chung, nền kinh tế nói riêng. Trước sự phát triển vũ bão của các nền kinh
tế trên thế giới cũng như sự đầu tư của các tập đoàn nước ngoài, nhà nước đã nghĩ
đến việc tăng cường tập trung kinh tế thơng qua việc thành lập các tập đồn kinh tế
nhà nước với tiềm lực đủ mạnh để cạnh tranh lại với những tập đoàn nước ngoài.
Các tập đoàn kinh doanh nhà nước với tên gọi “tổng công ty 91” được thành lập
trên cơ sở nền tảng Quyết định số 91/QĐ-TTg ngày 07/3/1994 của Thủ Tướng
Chính phủ (v/v thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh).
Các tập đoàn kinh doanh được thành lập trong giai đoạn này được định nghĩa
như là “một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân”. Mang trong mình sứ mạng “tạo
điều kiện thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh…”, thậm chí
được kỳ vọng là “quả đấm thép” cho nền kinh tế, nhưng sau hơn một thập kỷ hoạt
động, những tập đồn kinh doanh này đã khơng đáp ứng được những yêu cầu đặt ra.
Mặc dù được mệnh danh là tập đoàn kinh doanh nhưng chúng chỉ là sự cơ cấu lại
các tổng cơng ty đã có sẵn và thêm các thành viên mới, được bố trí thêm vốn đầu tư,
do đó mới có tên gọi là “tổng cơng ty 91”. Mối quan hệ giữa tổng công ty và các
công ty thành viên vẫn là mối quan hệ của những cá thể trong một tổ chức, trong đó,
tổng cơng ty là cơ quan hành chính trung gian, tiếp nhận nguồn vốn đầu tư từ nhà
nuớc và phân phối lại cho các thành viên, giữa chúng khơng có sự gắn kết thật sự,
chỉ đơn thuần là quan hệ phân phối vốn. Và vì là quan hệ tổ chức nên tổng cơng ty
chỉ có thẩm quyền với các thành viên theo tơn chỉ và điều lệ của tổ chức đó. Hội
đồng quản trị của tổng cơng ty khơng có quyền bổ nhiệm các chức danh quản lý
quan trọng của các doanh nghiệp thành viên và dĩ nhiên là càng không thể định đoạt
số phận của các thành viên.
Trang 14
Kế thừa những quy định của pháp luật trước đây và nhằm điều chỉnh kịp thời
những vấn đề đã và đang phát sinh trong quá trình liên kết doanh nghiệp, tạo cơ sở
pháp lý cho việc hình thành và phát triển của mơ hình nhóm cơng ty, luật Doanh
nghiệp 2005 chính thức đưa quy định về nhóm cơng ty thành một chương riêng biệt,
với bốn điều (từ điều 146 đến điều 149). Trong đó, một điều đưa ra khái niệm về
nhóm cơng ty, một điều định nghĩa riêng về tập đồn kinh tế, cịn hai điều cịn lại
quy định về quyền và trách nhiệm của công ty mẹ và công ty con trong mơ hình này
cũng như quy định về báo cáo tài chính của nhóm. Đây chỉ là những quy định cơ
bản nhất, là sự thừa nhận của nhà nước với mơ hình mới này.
Luật Doanh nghiệp 2005 đã chính thức xác định khái niệm nhóm cơng ty là:
“tập hợp các cơng ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế,
cơng nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác”8. Khái niệm này đã thể hiện
bản chất của nhóm cơng ty: là sự liên kết giữa các công ty độc lập, hay nói cách
khác, khẳng định nhóm cơng ty khơng có tư cách pháp nhân. Đây cũng là sự phát
triển trong tư duy của nhà lập pháp so với quy định về tổng cơng ty có tư cách pháp
nhân trước đây. Việc thừa nhận cơ cấu nhóm cơng ty trong luật doanh nghiệp là phù
hợp với quy luật phát triển của thị trường, góp phần tăng niềm tin của nhà đầu tư;
tạo cơng cụ khắc phục các điểm yếu của nhóm công ty, bảo vệ quyền lợi của các cổ
đông thiểu số và chủ nợ. Quy định của luật đã xác định rõ hơn quyền hợp pháp của
công ty mẹ với công ty con chỉ hạn chế trong quyền của thành viên góp vốn hay cổ
đơng; cịn lại các giao dịch khác đều phải thực hiện theo nguyên tắc thương mại như
hai chủ thể pháp lý độc lập. Điều này giúp doanh nghiệp có thể mở rộng và đa dạng
hóa quy mô kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý để các bên liên quan giám sát, ngăn ngừa,
hạn chế và xử lý các giao dịch tư lợi nội bộ trong nhóm cơng ty.
Mặc dù có những quan điểm chưa đồng nhất nhưng nhìn chung, Việt Nam
cũng như nhiều nước trên thế giới đều nhìn nhận nhóm cơng ty hay tập đồn kinh tế
là sự liên kết giữa các cơng ty có tư cách pháp nhân độc lập. Trong đó có một cơng
ty giữ vai trị chi phối các cơng ty kia về vốn, về khoa học công nghệ, về chiến lược
8
Khoản 1 Điều 146 Luật Doanh nghiệp 2005
Trang 15
phát triển… Và mục đích của việc liên kết cũng là mang lại lợi nhuận và hiệu quả
kinh tế chung cho nhóm.
1.1.2 Phân biệt các khái niệm của nhóm cơng ty
Một nhóm cơng ty đơn giản nhất thường gồm có hai công ty: công ty mẹ và
công ty con. Các nhóm cơng ty có quy mơ lớn hay tập đồn kinh tế thường gồm:
công ty mẹ, các công ty con, các công ty liên kết.
Công ty mẹ là doanh nghiệp được tổ chức và đăng ký theo pháp luật Việt
Nam, nắm giữ tồn bộ vốn điều lệ ở cơng ty khác hoặc nắm giữ tỉ lệ cổ phần chi
phối, vốn góp chi phối của cơng ty khác, có quyền chi phối đối với cơng ty đó.
Cơng ty mẹ giữ vai trị rất quan trọng, là trung tâm hoạch định chính sách, chiến
lược phát triển, tìm thị trường, xây dựng và phát triển sản phẩm, điều phối vốn, tập
trung hoạt động nghiên cứu và áp dụng khoa học… Công ty mẹ có thể đơn sở hữu
hoặc đa sở hữu, và được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: cơng ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Nó có thể thực hiện một trong hai
hoặc cả hai chức năng: quản lý và kinh doanh vốn đầu tư ở các công ty khác, trực
tiếp thực hiện việc sản xuất kinh doanh. Trường hợp công ty mẹ không trực tiếp
quản lý việc đầu tư vào các công ty con thì sẽ có một cơng ty tài chính trong nhóm
chun thực hiện cơng việc này.
Pháp luật Việt Nam quy định 03 trường hợp để một công ty được coi là cơng
ty mẹ của một cơng ty khác. Đó là: Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ
phần phổ thơng đã phát hành của cơng ty đó; Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp bổ
nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc của cơng ty đó; Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của cơng ty
đó9. Với quy định này, có thể hiểu cơng ty mẹ là công ty sở hữu vốn chi phối (với tỉ
lệ trên 50%) của cơng ty khác, hoặc có những quyền tối cao đối với cơng ty đó, như
quyền bổ nhiệm những chức danh quan trọng nhất của công ty, quyền sửa đổi điều
9
Điểm a Khoản 15 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005
Trang 16
lệ (là văn bản quan trọng nhất của công ty). Như vậy, nếu có tiềm lực, khả năng,
một cơng ty có thể làm cơng ty mẹ của nhiều cơng ty khác.
Công ty con là doanh nghiệp được tổ chức và đăng ký theo pháp luật Việt
Nam hoặc pháp luật nước ngồi, do cơng ty mẹ nắm giữ tồn bộ hoặc một phần vốn
điều lệ và bị cơng ty đó chi phối. Cơng ty con cũng có thể đa hoặc đơn sở hữu, và
tồn tại dưới hình thức: cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Ở đây đặt ra một vấn đề, vậy một cơng ty có thể là công ty con của nhiều
công ty mẹ không. Trước hết, phân tích trường hợp đầu tiên luật đề cập đến là việc
sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc cổ phần phổ thơng đã phát hành. Nếu đã có một
cơng ty sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc cổ phần của một cơng ty thì khơng cịn
một cơng ty nào khác có thể sở hữu đủ lượng vốn hoặc cổ phần có thể chi phối nó
nữa. Thứ hai, hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần), hội đồng thành viên (đối
với công ty trách nhiệm hữu hạn) là cơ quan duy nhất có quyền bổ nhiệm các thành
viên hội đồng quản trị, giám đốc hoăc tổng giám đốc cơng ty. Ở đây có thể hiểu
cơng ty mẹ có khả năng chi phối việc ra quyết định của hội đồng quản trị và hội
đồng thành viên. Trường hợp thứ ba, cũng chỉ hội đồng quản trị hoặc hội đồng
thành viên là có thẩm quyền sửa đổi điều lệ cơng ty. Do đó, ở trường hợp thứ hai và
thứ ba, công ty mẹ đều chi phối việc ra quyết định của cơ quan cao nhất của công ty
con: hội đồng quản trị và hội đồng thành viên.
Mối quan hệ mẹ - con cũng chỉ là tương đối và chỉ đúng khi nghiên cứu hai
công ty riêng biệt. Khi nghiên cứu nhiều công ty trong thị trường với những mối
quan hệ phức tạp chúng ta sẽ không thể xác định được trật tự liên kết giữa chúng.
Bởi vì, cơng ty A là công ty mẹ của công ty B, nhưng bản thân nó, do q trình đầu
tư, góp vốn… có thể lại là công ty con của công ty C. Đến đây, ta có thể nghĩ cơng
ty B là cháu của công ty C. Nhưng trong thực tế, công ty C có thể lại là cơng ty mẹ
của cơng ty B và chi phối bởi công ty B. Trong trường hợp này, ta chỉ có thể kết
luận về mối quan hệ mẹ - con giữa các công ty này trong từng mối liên kết riêng
biệt.
Trang 17
Cơng ty liên kết là cơng ty mà ở đó công ty mẹ chỉ sở hữu tỉ lệ vốn không chi
phối (dưới 50%). Công ty mẹ thực hiện quyền của mình với cơng ty liên kết hạn chế
hơn với cơng ty con, chỉ căn cứ vào tỉ lệ vốn góp và trên cơ sở điều lệ cơng ty. Theo
phân tích ở trên, có thể kết luận một cơng ty có thể là công ty liên kết của nhiều
công ty khác. Một trường hợp khác cũng được coi là công ty liên kết, đó là cơng ty
mẹ khơng nắm giữ cổ phần, vốn góp nhưng cơng ty đó tự nguyện liên kết bằng thoả
thuận liên kết, và tự nguyện chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ với công ty
mẹ. Vấn đề đặt ra ở đây là, một công ty có thể chịu sự chi phối của hai cơng ty khác
nhau, một thông qua hợp đồng, và một thông qua vốn khơng? Câu trả lời ở đây là,
có thể, nhưng thông thường khi đã chịu sự chi phối về vốn thì cơng ty đó sẽ khơng
được chấp thuận để chịu sự chi phối của một công ty khác nữa bằng công cụ hợp
đồng, nếu mâu thuẫn về quyền lợi. Trường hợp chỉ thỏa thuận bằng hợp đồng ở
những vụ việc giao dịch nhất định và có lợi cho cơng ty đó thì có thể sẽ được chấp
thuận.
Khái niệm về công ty mẹ, công ty con và công ty liên kết của luật như nêu
trên có những điểm chưa hợp lý, đó là:
Trước hết, cả ba yêu cầu mà luật đề cập đến để một công ty trở thành công ty
mẹ đều nhằm mục đích đảm bảo cơng ty mẹ có thể chi phối được cơng ty con. Và
đặc biệt là chi phối quá trình ra những quyết định quan trọng của công ty con. Tuy
nhiên, để một công ty có thể chi phối một cơng ty khác có nhiều cách thức, không
nhất thiết chỉ thông qua công cụ vốn. Do đó, việc quy định sở hữu trên 50% vốn của
công ty con là không cần thiết.
Trường hợp công ty mẹ đầu tư vào một công ty liên kết với số vốn khơng chi
phối, cơng ty con của nó cũng đầu tư vào cơng ty đó với số vốn khơng chi phối.
Nhưng tổng số vốn của công ty mẹ và công ty con đầu tư vào công ty liên kết lại
hơn 50%, như vậy, cơng ty này có là cơng ty con của tập đồn khơng, hay chỉ là
cơng ty liên kết? Nếu xét về những khái niệm công ty mẹ - cơng ty con như nêu trên
thì đây khơng phải là công ty con, nhưng nếu xem xét nguồn gốc của vốn đều từ
Trang 18
công ty mẹ, và với tỉ lệ vốn chi phối như trên thì cơng ty này có nghĩa vụ thực hiện
chiến lược của công ty mẹ và chiến lược của công ty con – cũng là chiến lược
chung của tập đồn, thì đây chính là cơng ty con.
1.1.3 Sự hình thành của nhóm cơng ty
Nhóm cơng ty có thể được hình thành bằng nhiều cách thức khác nhau như:
thơn tính công ty (công ty mẹ mua các công ty con); chia tách công ty; công ty mẹ
bỏ vốn thành lập các công ty con; các công ty độc lập tự nguyện liên kết (thông qua
hợp đồng liên kết, hợp đồng hợp tác kinh doanh, các văn bản thỏa thuận…); con
đường hành chính (Nhà nước ra quyết định thành lập đối với tập đoàn của Nhà
nước)… Cho dù được thành lập với con đường nào đi nữa thì nhóm cơng ty vẫn là
những cơng ty có tư cách pháp nhân độc lập, hoạt động vì mục tiêu chung của
nhóm.
Con đường thứ nhất để thành lập nhóm cơng ty là cơng ty mẹ bỏ toàn bộ
hoặc một phần vốn để thành lập công ty mới. Do yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất,
phát triển sản phẩm, hoặc phát triển thị trường mới, công ty mẹ thành lập công ty
con để thực hiện những dự án này, nhằm giảm rủi ro chung (nếu có) cho nhóm và
mang thêm hiệu quả kinh tế. Đây là hình thức thành lập cơng ty xuất hiện sớm nhất.
Cơng ty mẹ có thể đầu tư 100% hoặc chỉ tham gia góp một phần vốn để thành lập
cơng ty con. Trường hợp cơng ty mẹ chỉ góp một phần vốn thì phần vốn này có thể
ở nhiều tỉ lệ khác nhau: đa số, chi phối, không chi phối. Thông lệ hiện nay ở nhiều
nước trên thế giới, công ty mẹ không sở hữu trên 50% vốn của công ty con mà nó
tìm cách liên kết, tập hợp cổ phần của những cổ đông nhỏ để tạo ra liên minh sở
hữu một tỉ lệ phiếu đủ để chi phối cơng ty con.
Một cách thức nữa để thành lập nhóm cơng ty là q trình mua, thơn tính các
cơng ty đang tồn tại trên thị trường. Đây là một quá trình diễn ra khá bình thường và
thường xuyên tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới, và đơn
giản là việc một cơng ty có tiềm năng về vốn, các nguồn lực khác tiến hành mua
hồn tồn, sát nhập các cơng ty khác hoặc mua cổ phần chi phối của cơng ty đó. Khi
Trang 19
đó, cơng ty bỏ vốn ra mua, sát nhập sẽ là công ty mẹ, các công ty bị mua, bị chi
phối vốn, bị sát nhập là công ty con. Tuy nhiên ở Việt nam, công việc này chưa phổ
biến, với số lượng cơng ty được mua bán, thơn tính là rất ít và chỉ mới tăng trưởng
trong những năm gần đây. Theo số liệu báo cáo của hãng kiểm toán
Pricewaterhouse Cooper (PwC), trong năm 2006 cả nước có 32 vụ mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp với tổng giá trị là 245 triệu USD, tăng gần gấp đôi so năm 2005
chỉ với 18 vụ, có tổng giá trị là 61 triệu USD10. Và theo số liệu của Tổng Cục
Thống kê, từ tháng 1 đến tháng 9/2007, cả nước đã có đến 46 vụ mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp thành công, với tổng giá trị 626 triệu USD, tăng 200% so năm 200611.
Trên thực tế, đây là hình thức khơng được pháp luật nhiều nước trên thế giới
khuyến khích do dễ dẫn đến tập trung, hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
Con đường thứ hai để hình thành nhóm cơng ty là việc công ty mẹ tự chia
tách một hoặc nhiều bộ phận của nó để thành lập cơng ty mới. Khi đó, khơng những
cơng ty mẹ nắm giữ 100% vốn của cơng ty con mà nó cịn nắm được tồn thể bộ
máy của công ty con. Một cách thức nữa để thành lập mơ hình nhóm cơng ty là các
cơng ty độc lập tự nguyện liên kết với nhau thông qua hợp đồng, thỏa thuận. Công
ty mẹ và công ty con đều là các thực thể pháp lý độc lập, được thành lập theo quy
định pháp luật về doanh nghiệp, có đầy đủ năng lực pháp lý để ký kết các hợp đồng
và nhất là bình đẳng trước pháp luật, do đó, đều có thể ký kết hợp đồng một cách
bình đẳng với nhau. Có hai dạng hợp đồng giữa cơng ty mẹ và cơng ty con, đó là:
Hợp đồng hoặc thỏa thuận chi phối, theo đó cơng ty con quyết định đặt mình
vào vị trí chịu sự điều khiển, chi phối hoặc lãnh đạo của cơng ty mẹ. Khi đó, cơ
quan quản trị cơng ty con có trách nhiệm tn thủ và thực hiện tất cả các chỉ thị của
công ty mẹ vì mục đích chung của nhóm, của cơng ty mẹ hoặc một cơng ty khác
trong nhóm, dù việc tn thủ này có thể gây thiệt hại cho chính nó. Và để bù đắp
lại, cơng ty mẹ sẽ bồi thường cho công ty con tương ứng với thiệt hại nó đã có hoặc
những lợi nhuận lẽ ra nó đã có được nếu khơng hành xử theo chỉ đạo của công ty
10
11
/> />
Trang 20
mẹ. Cũng có trường hợp các cơng ty tự nguyện thỏa thuận với nhau để liên kết lại
dưới sự lãnh đạo của một công ty nhằm cùng xây dựng và thực hiện chiến lược phát
triển chung của nhóm, hoặc thực hiện một dự án nhất định, hoặc hoặc phân chia thị
phần… Trong trường hợp chỉ thỏa thuận để thực hiện dự án hoặc phân chia thị
phần, sau khi hoàn tất thỏa thuận, việc liên kết chấm dứt thì khơng có sự thành lập
nhóm.
Hợp đồng chuyển giao lợi nhuận, hoặc chuyển lỗ, theo đó, cơng ty con
chuyển một phần hoặc tồn bộ lợi nhuận hoặc khoản lỗ của nó cho cơng ty mẹ.
Công ty mẹ sẽ lập báo cáo chung của nhóm, tính tốn thuế thu nhập chung của
nhóm sau khi đã lấy những khoản lãi của công ty này khấu trừ cho những khoản lỗ
của cơng ty khác trong nhóm. Trong trường hợp này, thuế thu nhập được tính trên
cơ sở tổng hợp thu nhập của tất cả các công ty trong nhóm. Các cơng ty con vẫn là
những pháp nhân độc lập nhưng tập đoàn được coi như là một khối thống nhất.
Và cách thức cuối cùng để thành lập tập đồn là dựa trên quyết định hành
chính của nhà nước, trên cơ sở gom các tổng công ty, công ty nhà nước trong một
hoặc nhiều lĩnh vực (chẳng hạn ở Trung Quốc và Việt Nam với việc thành lập các
tập đồn kinh tế nhà nước). Một tổng cơng ty có tiềm lực mạnh, có sản phẩm và thị
trường sẽ được chỉ định làm công ty mẹ, các công ty thành viên của nó trở thành
cơng ty con. Nhà nước có thể gom thêm một số Viện, trung tâm nghiên cứu hoặc
những công ty nhà nước khác để đưa vào tập đồn. Trong q trình hoạt động, cơng
ty mẹ sẽ tiếp tục thành lập thêm các công ty con hoặc đầu tư vốn vào các công ty
liên kết. Cách thức này đang bị nhiều lời chỉ trích là thành lập tập đồn một cách
cưỡng ép, khơng tn thủ quy luật của thị trường về điều kiện liên kết kinh tế và
đầu tư chi phối lẫn nhau. Nhưng trong điều kiện Việt Nam, với mong muốn chấn
chỉnh hoạt động của các tổng công ty nhà nước, nhằm củng cố hệ thống kinh tế chủ
đạo này và mang lại sự phát triển nhanh, mạnh cho nền kinh tế thì cần phải có sự tác
động của nhà nước.
Trang 21
1.1.4 Đặc điểm của nhóm cơng ty
Dựa trên những chi tiết khái qt về mơ hình nhóm cơng ty như nêu trên,
chúng ta có thể rút ra được một số đặc điểm của mơ hình này, đó là:
Thứ nhất, nhóm cơng ty là tập hợp những cơng ty có tư cách pháp nhân độc
lập với nhau, trong đó, mỗi cơng ty đều được thành lập và hoạt động theo quy định
của pháp luật, không chịu trách nhiệm trước pháp luật hay nghĩa vụ trước bên thứ
ba với tư cách nhóm.
Thứ hai, liên kết giữa các cơng ty trong nhóm được thực hiện thông qua mối
quan hệ về vốn, về hợp đồng hợp tác, liên kết về khoa học kỹ thuật, công nghệ, sản
xuất, kinh doanh, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển, hay mục tiêu tối thượng là lợi
nhuận. Mức độ liên kết giữa các cơng ty có thể chặt chẽ, khá chặt chẽ hay không
chặt chẽ, phụ thuộc vào mức độ chi phối của công ty mẹ với các công ty con hoặc
phụ thuộc vào nội dung hợp đồng (thỏa thuận) giữa các công ty.
Thứ ba, số lượng thành viên và quy mơ của nhóm cơng ty rất đa dạng, nhưng
tối thiểu phải là 02 cơng ty, trong đó có 01 cơng ty mẹ và 01 cơng ty con. Về quy
mơ, khơng có sự hạn chế về quy mơ của nhóm cơng ty. Nhiều tập đồn kinh doanh
trên thế giới hiện nay có quy mơ rất lớn và phạm vi hoạt động trải rộng tại nhiều
nước trên thế giới, ví dụ như tập đồn dầu khí Petronas của Malaysia có 121 cơng ty
trên tồn thế giới, trong đó cơng ty mẹ nắm 100% vốn của 55 cơng ty (có 28 cơng ty
hoạt động ở nước ngồi), trên 51% vốn của 27 công ty và dưới 50% vốn của 39
công ty. Chiều sâu của các liên kết trong nhóm khơng hạn chế, thông qua việc đầu
tư vốn từ công ty này dây chuyền sang cơng ty khác, có thể có công ty mẹ, công ty
con, công ty cháu, công ty chắt…
Thứ tư, sở hữu của nhóm cơng ty là sở hữu hỗn hợp của nhiều chủ, nhưng
trong đó có một chủ (cơng ty mẹ) có phần vốn góp lớn nhất, chi phối về mặt tài
chính của nhóm. Trong nhóm có thể có sở hữu nhà nước (của những cơng ty nhà
nước, cơng ty cổ phần có vốn góp của nhà nước..) , sở hữu tập thể (của các công ty),
sở hữu tư nhân (của các cá nhân cổ đông) hoặc cả sở hữu tư bản nước ngoài.
Trang 22
Thứ năm, liên kết trong nhóm cơng ty có thể là liên kết ngang của các doanh
nghiệp trong cùng ngành nghề hay liên kết dọc giữa các công ty trong đó mỗi cơng
ty giữ một vai trị quan trọng trong q trình nghiên cứu, sản xuất.
Thứ sáu, cơng ty mẹ trong nhóm cơng ty có cả hai chức năng cơ bản: vừa
tiến hành hoạt động kinh doanh, vừa thực hiện việc đầu tư tài chính hoặc kinh
doanh vốn đầu tư vào các công ty khác. Trách nhiệm của công ty mẹ với công ty
con là trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn hoặc cổ phần mà công ty mẹ nắm
giữ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp phá hạn trách nhiệm, khi đại diện của công ty
mẹ tại công ty con hành xử khơng có sự tách bạch rõ ràng, minh bạch giữa công
việc của công ty và công việc của cá nhân; hoặc chi phối, kiểm soát, điều hành công
ty vào các hoạt động bất hợp pháp, gây thiệt hại cho người khác; hoặc lợi dụng hình
thức pháp nhân (chịu trách nhiệm hữu hạn) của công ty để tìm cách chia nhỏ vốn
nhằm mục đích lừa đảo12.
Để có thể tìm hiểu rõ hơn về nhóm cơng ty, chúng ta có thể tìm hiểu những
sự khác biệt giữa cơng ty mẹ - cơng ty con và tập đồn kinh tế. Ngay trên tên gọi
chúng ta có thể nhận biết được sự khác nhau giữa hai loại hình này là về quy mơ,
hay nói cách khác là độ lớn của chúng.
Cơng ty mẹ - cơng ty con là nhóm cơng ty có quy mơ nhỏ, đơn giản, được
hình thành khi một công ty nắm giữ tỉ lệ cổ phần của cơng ty khác từ 51% trở lên,
khi đó quan hệ mẹ - con xuất hiện. Và chỉ với hai công ty, đã có thể hình thành
nhóm cơng ty gồm cơng ty mẹ - cơng ty con. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp
2005 đưa ra định nghĩa: “tập đoàn kinh tế là nhóm cơng ty có quy mơ lớn”, với định
nghĩa này, có thể hiểu sự phân biệt giữa nhóm cơng ty và tập đồn kinh tế là ở quy
mơ hoạt động của nó. So với nhóm cơng ty, tập đồn kinh tế có quy mơ rất lớn,
khơng những về vốn, mà còn về số lượng thành viên, số lượng người lao động,
doanh thu, phạm vi hoạt động
12
Trần Đình Hảo, Thương gia theo thương luật Hoa Kỳ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2002, tr.34, 35
Trang 23
Tập đồn kinh tế thơng thường hoạt động ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực do
đặc thù của nó là sự kết hợp của nhiều công ty khác nhau ở nhiều ngành nghề khác
nhau, và cũng do số lượng vốn của nó lớn, có khả năng đầu tư vào hoạt động ở
nhiêu lĩnh vực. Nhóm cơng ty chỉ hoạt động trên một hoặc một số lĩnh vực nhất
định.
Tập đoàn kinh tế cũng đa dạng hơn nhóm cơng ty về hình thức sở hữu, với
gần như đầy đủ tất cả những loại hình sở hữu: nhà nước, tập thể, cá nhân trong
nước, cá nhân nước ngồi…, do nó là tập hợp của nhiều công ty đa dạng sở hữu:
công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần với các cổ đông trong nước và cổ
đơng nước ngồi. Ngồi ra, về hình thức tổ chức quản lý, tập đoàn kinh tế cũng đa
dạng hơn cũng do nó là tập hợp của nhiều loại hình cơng ty với nhiều hình thức và
mơ hình quản lý khác nhau.
Tuy nhiên, mặc dù luật đưa ra tiêu chí phân biệt giữa tập đồn kinh tế và
nhóm cơng ty theo “quy mơ lớn” như trên nhưng thực tế khơng có văn bản nào
hướng dẫn cách thức xác định tiêu chí “lớn” này là về cơ cấu tổ chức, số lượng
thành viên, giá trị thương hiệu, lượng vốn hay địa bàn hoạt động. Qua tham khảo
các tập đoàn trên thế giới ta có thể thấy, tập đồn kinh tế có quy mơ rất lớn khơng
chỉ về vốn, mà cịn về số lượng công ty thành viên, số lượng lao động, doanh thu,
phạm vi hoạt động. Chẳng hạn, tập đồn tài chính Oversea Chinese Banking
Corporation (một trong những tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực này ở Singapore và
Malaysia) có tổng tài sản vào khoảng 134 tỉ đô la Singapore (tương đương 90 tỉ đô
la Mỹ), với trên 310 chi nhánh và văn phòng đại diện tại 15 quốc gia và vùng lãnh
thổ13. Hay tập đồn HSBC Holdings có tổng tài sản gần 1.277 tỉ đơ la Mỹ, trong đó
vốn chủ sở hữu là hơn 67 tỉ đô la Mỹ, sở hữu 9.500 văn phịng với 260.000 nhân
viên, có mặt tại 76 quốc gia và vùng lãnh thổ14. So với các tập đồn này thì tiêu chí
vốn để xác định tập đồn kinh doanh (tổng công ty 91) trước đây là 1.000 tỉ đồng,
13
Số liệu công bố tại hội thảo “Xây dựng mơ hình tập đồn tài chính ngân hàng tại Việt nam” do Ngân hàng
Nhà nước tổ chức ngày 28/8/2006 tại Hà Nội
14
Nguồn: />
Trang 24
cũng như vốn của các tập đoàn kinh tế được thành lập gần đây (PVN với
76.177.961 triệu đồng15, tương đương 4,76 tỉ đô la Mỹ, VNPT với 36.955.000 triệu
đồng16, tương đương 2,3 tỉ đô la Mỹ) là quá khiêm tốn.
Trước đây, khi Nghị định 139/2007/NĐ-CP (v/v hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật Doanh nghiệp) chưa ra đời, đã có một số ý kiến hy vọng văn
bản này sẽ hướng dẫn tiêu chí để xác định tập đồn kinh tế. Nhưng thực tế văn bản
này cũng khơng đưa ra tiêu chí nào để phân biệt giữa cơng ty mẹ - cơng ty con và
tập đồn kinh tế. Tuy nhiên, tập đồn kinh tế hay nhóm cơng ty đều khơng có tư
cách pháp nhân, việc liên kết giữa chúng nhằm phục vụ mục tiêu phát triển chung
của các công ty thành viên, và sự phát triển chung này có được do khả năng nội sinh
của nó cả về vốn, trình độ cơng nghệ, năng lực quản trị, kỹ năng của người lao
động…, chứ không phụ thuộc vào danh xưng. Do đó, việc xác định tiêu chí để phân
biệt hai loại hình này thật ra có vẻ khơng cần thiết.
1.2 Ưu và nhược điểm của mơ hình nhóm cơng ty và sự cần thiết của nó
trong xu thế hội nhập kinh tế
1.2.1 Ưu và nhược điểm của mơ hình
1.2.1.1 Ưu điểm
Ưu điểm đầu tiên và rõ nét nhất của mơ hình nhóm cơng ty là khả năng thu
hút nguồn vốn lớn trong thời gian nhanh chóng với chi phí thấp. Thơng qua việc
phát hành cổ phiếu hoặc q trình góp vốn thành lập các cơng ty trong nhóm, nhóm
có thể thu hút được nhiều nguồn vốn không chỉ trong nước mà cịn ở nước ngồi.
Mà vốn đầu tư là yếu tố tối quan trọng cho việc đầu tư phát triển cơng ty, giúp
nhóm cũng dễ dàng hơn trong việc thực hiện việc cải tiến máy móc, trang thiết bị
khoa học kỹ thuật hiện đại…, đầu tư mở rộng sản xuất ở quy mô lớn hơn nhằm
mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ngồi ra, cơng ty mẹ cũng có thể huy động vốn
15
Số liệu vốn vào thời điểm 01/01/2006, theo Quyết định số 36/2007/QĐ-TTg v/v phê duyệt điều lệ tổ chức
và hoạt động của PVN
16
Số liệu vốn vào thời điểm 01/01/2006, theo Quyết định số 265/2006/QĐ-TTg v/v phê duyệt điều lệ tổ chức
và hoạt động của VNPT
Trang 25