BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
ĐỖ THỊ QUỲNH TRANG
CƠ CHẾ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGỒI TẠI VIỆT NAMSO SÁNH VỚI CƠNG ƢỚC NEW YORK 1958
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ
TP.HCM, 2013
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH HỐ CHÍ MINH
LỜI CÁM ƠN
Trước tiên, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Ngọc Lâm đã tận
tình hướng dẫn em trong suốt q trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Em muốn cảm ơn
cơ Nguyễn Lê Hồi – giảng viên khoa Luật Quốc tế đã giúp đỡ em trong q trình chọn
đề tài và hồn thiện đề cương khóa luận. Em gửi lời cám ơn đến các thầy, cô trong khoa
Luật Quốc tế đã tạo điều kiện giúp đỡ em hồn thành khóa luận này.
Tác giả khóa luận
Đỗ Thị Quỳnh Trang
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận là cơng trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của tác giả, song do trình
độ và thời gian có hạn, do vậy, khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Tác giả mong muốn các Thầy, Cơ giáo góp ý và chỉ bảo, giúp tác giả hồn thiện kiến
thức trong khóa luận cũng như trong công tác sau này.
Tác giả trân trọng và cảm ơn.
Tác giả khóa luận
Đỗ Thị Quỳnh Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự 2005 sửa đổi, bổ sung 2011
Công ước New
Công ước về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
York 1958
nước ngoài được ký kết tại New York ngày 10/6/1958
Luật TTTM 2010
Luật Trọng tài thương mại 2010
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGỒI .................................................. 5
1.1 Khái niệm cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài. .... 5
1.1.1 Khái niệm quyết định của trọng tài nước ngồi.............................................. 5
1.1.2 Khái niệm cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài………………………………………………………………………………12
1.2. Sự cần thiết về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
tại Việt Nam ........................................................................................................... 14
1.2.1 Hoàn thiện pháp luật về Trọng tài trong điều kiện hội nhập quốc tế ............ 14
1.2.2 Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các thương nhân ................................ 16
1.3. Cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngồi. ....... 17
1.3.1 Khái niệm cơ chế cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài........................................................................................................................ 17
1.3.2 Thẩm quyền của tòa án quốc gia đối với việc công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nước ngồi ................................................................................. 18
1.3.3 Điều kiện (ngun tắc; trình tự, thủ tục) công nhận và cho thi hành quyết định
của trọng tài nước ngoài ......................................................................................... 20
Chƣơng 2: CƠ CHẾ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA
TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VÀ HƢỚNG HỒN THIỆN ...................................................................................... 26
2.1 Các ngun tắc cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
................................................................................................................................. 26
2.1.1 Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài theo Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. ....................................................................... 26
2.1.2 Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài theo nguyên tắc
có đi có lại. .............................................................................................................. 28
2.1.3 Quyết định của trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi đã
được Tịa án Việt Nam cơng nhận và cho thi hành ................................................ 29
2.2 Thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài ....... 30
2.2.1 Yêu cầu về đơn và tài liệu gửi kèm theo đơn ................................................ 30
2.2.2 Thụ lý và xét đơn yêu cầu .............................................................................. 32
2.2.3 Phiên họp xét đơn yêu cầu ............................................................................. 33
2.2.4 Kháng cáo, kháng nghị .................................................................................. 34
2.3 Các trƣờng hợp không công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài ....................................................................................................................... 35
2.3.1 Trường hợp liên quan đến giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài ............... 36
2.3.2 Trường hợp liên quan đến tố tụng Trọng tài.................................................. 39
2.3.3 Các trường hợp khác ...................................................................................... 42
2.3.4 Hậu quả của việc không công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài............................................................................................................... 48
2.4 Định hƣớng hoàn thiện chế định công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nƣớc ngoài trong pháp luật Việt Nam ........................................................... 49
2.4.1 Hoàn thiện quy định của pháp luật về công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nước ngồi ................................................................................................ 49
2.4.2 Nâng cao trình độ nghiệp vụ của người thực thi pháp luật trong công nhận và
cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài ......................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 58
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam đã và đang đạt được những
thành tựu đáng kể, trong quá trình hội nhập, dịng chảy của hàng hố, dịch chuyển của
thương nhân qua biên giới quốc gia ngày càng tăng, nhiều thị trường, nhiều khối kinh tế
chung được hình thành. Trong bối cảnh chung đó, quan hệ thương mại giữa các thương
nhân mang quốc tịch khác nhau, chịu sự điều chỉnh của các hệ thống pháp luật khác
nhau ngày càng nhiều, dẫn đến nhiều tranh chấp thương mại cần phải được giải quyết.
Trên thực tế, bên cạnh việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tịa án, cịn có nhiều
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khác như hòa giải, thương lượng, Trọng
tài thương mại..., nhưng với những nguyên nhân và điều kiện khác nhau, phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài ngày càng chiếm ưu thế, đặc biệt là ở
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Ở Việt Nam, những năm gần đây, việc
giải quyết các tranh chấp thương mại bằng Trọng tài cũng đang có chiều hướng phát
triển, bởi những ưu điểm vốn có của phương thức này.
Một vấn đề đặt ra ở đây đó là cũng như bản án của Tịa án quốc gia, làm sao để
một quyết định giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước ngoài được thực thi tại một
quốc gia khác như các bên mong đợi bởi vì theo nguyên tắc, các quyết định của trọng
tài không đương nhiên có hiệu lực tại nước ngồi. Ngồi ra, việc quyết định trọng tài
nước ngồi có được thi hành như mong muốn của các bên hay khơng cịn phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố pháp lý khác nhau tại các quốc gia nơi được yêu cầu công nhận và
cho thi hành. Do vậy, vấn đề công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài
nước ngoài tại các nước khác nói chung và tại Việt Nam nói riêng, đang trở thành một
vấn đề mang tính thời sự, được các thương nhân cũng như các bên tham gia trong quan
hệ thương mại quốc tế quan tâm.
1
Ở Việt Nam, sau gần 20 năm gia nhập và thực hiện Công ước New York 1958
và thực thi những quy định về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam theo những quy định mới của BLTTDS 2005 sửa đổi, bổ sung năm
2011 và Luật Trọng tài thương mại 2010 trên thực tế đã xuất hiện và tồn tại một số vấn
đề cần xem xét dưới góc độ lý luận và thực tiễn thi hành trên thực tế.
Với những lý do trên, cho thấy việc nghiên cứu vấn đề công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài là rất quan trọng và cần thiết
trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu để làm khóa luận tốt nghiệp
cử nhân luật, tác giả đã chọn đề tài “Cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nước ngoài của Việt Nam - so sánh với Công ước New York 1958 ” làm đề
tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.
Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích làm sáng tỏ hơn các quy định
pháp
luật về vấn đề công nhận và cho thi hành quyết
định của
của
trọng tài nước
ngồi tại Việt Nam, đồng thời tìm hiểu về các quy định về vấn đề này được quy định tại
Cơng ước New York 1958, qua đó có sự so sánh và tìm ra những bất cập trong quy định
của pháp luật Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy
định của pháp luật Việt Nam.
Từ mục đích nghiên cứu được đặt ra, tác giả chỉ đề cập đến trong phạm vi nghiên
cứu đó là những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam và Công ước New York 1958
về công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài. Trong thực tiễn, tác giả chỉ
xem xét trong phạm vi phán quyết của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh
phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VIAC) và vấn đề công nhận và thi hành
quyết định của trọng tài nước ngoài theo các bản án của Tịa kinh tế Tịa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh mà tác giả có cơ hội được tiếp cận.
2
Tình hình nghiên cứu của đề tài
3.
Như tác giả đã đề cập ở trên, vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của
trọng tài nước ngoài đang là một trong những vấn đề quan trọng nổi lên hiện nay của
ngành tư pháp nói riêng và của cả quốc gia nói chung. Chính vì thế, đã có rất nhiều luật
gia, học giả quan tâm và nghiên cứu về vấn đề này1.
Việc nghiên cứu về vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam đã nhận được sự quan tâm và nghiên cứu kỹ lưỡng. Tuy nhiên,
các cơng trình này chỉ mới phân tích các quy định về cơng nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nước ngoài một cách đơn lẻ, từ các quy định của pháp luật Việt Nam
hay từ Cơng ước New York 1958 mà chưa có việc so sánh một cách hệ thống. Cơng
trình của tác giả tập trung vào việc so sánh giữa các quy định cụ thể của Công ước New
York 1958 và pháp luật Việt Nam để từ đó nhìn nhận các điểm cịn hạn chế trong pháp
luật Việt Nam, qua đó đề xuất hướng hoàn thiện cho những quy định của pháp luật.
Phƣơng pháp nghiên cứu
4.
Về phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên đường lối của Đảng và
Nhà nước, pháp luật Việt Nam trong giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngoài ra để nghiên cứu đề tài, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh..., nghiên cứu qua sách, báo và tạp chí, những bài
bình luận khoa học pháp lý về việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam và những quy định về vấn đề này trong Công ước New York
1958.
1
Các bài viết: (i) “Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi, quyết định của trọng tài nước ngoài” của tác giả TS. Nơng Quốc Bình; (ii) “Một số vấn đề về cơng
nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam” của tác gia
PTS. Hoàng Phước Hiệp; (iii) “Bàn về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt
Nam qua một vụ kiện”, của tác giả Đặng Trung Hà năm 2003; (iv) “Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, quyết định của trọng tài nước ngoài và những vấn đề đặt ra trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Đặng Trung Hà; (v) “Ý nghĩa của việc công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nước ngồi tại Việt Nam” và bài viết “Về cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nước ngoài theo Cơng ước Niu C”của tác giả Nguyễn Trung Tín
3
5.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Qua nghiên cứu, đề tài đã tìm hiểu quy định của pháp luật Việt Nam và Công
ước New York 1958 về vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài, đề tài đã làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến cơng
nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Đề tài chỉ ra
một số điểm còn bất cập trong thực tiễn thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam, qua đó đề xuất một số giải pháp hồn thiện cho chế định này.
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho quá trình nghiên cứu và học
tập cho những ai quan tâm đến vấn đề công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
nước ngồi tại Việt Nam.
6.
Kết cấu của khóa luận
Ngồi lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận cịn có 02 chương:
Chương I: Tổng quan về cơ chế cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nước ngồi
Chương II: Cơ chế cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam và hướng hoàn thiện.
4
Chƣơng 1:
TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGỒI
1.1
Khái niệm cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài
1.1.1 Khái niệm quyết định của trọng tài nước ngồi
Trong thời đại tồn cầu hóa hiện nay, các quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa
các quốc gia trên thế giới đang ngày càng phát triển, đặc biệt là các hoạt động thương
mại quốc tế và trong quá trình hoạt động, các tranh chấp thương mại thường xảy ra và
để giải quyết các tranh chấp này, trong thực tiễn cũng có nhiều phương thức để giải
quyết. Trong những năm gần đây, các chủ thể tham gia quan hệ thương mại, đặc biệt
trong lĩnh vực thương mại có yếu tố nước ngoài, các bên thường lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài, bởi tính phù hợp của nó trong các
quan hệ thương mại “tư” giữa các thương nhân. So với Tòa án, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm2 như: nhanh chóng; mềm dẻo, linh hoạt;
đảm bảo bí mật kinh doanh; được công nhận và thi hành cao, đặc biệt đối với các quốc
gia là thành viên của Công ước về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài được ký kết tại New York ngày 10/6/1958 (Công ước New York 1958)…Trọng
tài là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mang tính tài phán, tuy nhiên,
tính tài phán của Trọng tài thương mại khác với của Tịa án quốc gia vì xét về nội hàm
của hai cơ quan tài phán này là khác nhau. “Khơng giống như Tịa án quốc gia, khơng
có Hội đồng Trọng tài cố định để giải quyết tranh chấp thương mại mà ở đó cùng có
một số trọng tài viên nhất định giải quyết nhiều vụ. Trọng tài là một phương thức giải
quyết tranh chấp tư, dựa trên thỏa thuận giữa các bên”3. Tuy nhiên, cũng giống như việc
2
Về vấn đề này đã có nhiều tài liệu đề cập và phân tích chi tiết. Do vậy, trong khóa luận tác giả chỉ xin liệt kê
mà khơng phân tích.
3
Trung tâm thương mại quốc tế UNCTAD CNUCED – Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, “Trọng tài và
các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Giải quyết các tranh chấp thương mại như thế nào?”, 2003, tr.65
5
giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án, vấn đề đặt ra là làm sao để thực thi được
các quyết định giải quyết tranh chấp của Trọng tài một cách triệt để, khi mà quyết định
đó phải thi hành ở một quốc gia không phải quốc gia mà Trọng tài đã ra quyết định
hoặc quốc gia mà Trọng tài mang quốc tịch. Điều này đặt ra nhu cầu về công nhận và
cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài trong bối cảnh của sự phát triển các
quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay.
Các quốc gia trên thế giới một mặt ghi nhận các quy định về công nhận và cho
thi hành quyết định của trọng tài nước ngồi trong pháp luật nước mình, mặt khác đã
tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề này như:
Công ước liên Mỹ về trọng tài thương mại quốc tế được ký kết tại Panama ngày
30/01/1975, Công ước châu Âu về trọng tài thương mại được ký kết tại Geneve ngày
21/4/1961, Công ước Ả Rập được ký kết tại Amman ngày 14/4/1987, Công ước về
công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài được ký kết tại New
York ngày 10/6/1958... Nhận thức được tầm quan trọng của việc quy định về chế định
công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, những năm vừa qua,
Nhà nước Việt Nam đã tăng cường ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc
gia khác và trong các Hiệp định đó đều có ghi nhận vấn đề này4. Ngày 28 tháng 7 năm
1995, Chủ tịch nước đã ban hành Quyết định số 453/QĐ-CTN gia nhập Công ước New
York 1958, đánh dấu một bước quan trọng đối với chế định công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Sau đó khơng lâu, vào ngày 14 tháng
9 năm 1995 Ủy ban thường trực Quốc hội khóa IX đã thơng qua Pháp lệnh công nhận
và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngồi, Pháp lệnh đã nhận góp một phần
quan trọng ban đầu vào việc hồn thiện mơi trường pháp lý về vấn đề này cho pháp luật
Việt Nam. Ngày 15/6/2004, Bộ luật tố tụng dân sự đã được Quốc hội khóa XI thơng
qua tại kỳ họp thứ năm đã pháp điển hóa pháp các nội dung của Pháp lệnh trên trong
4
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Nga (ký ngày 25/8/1987), Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (ký ngày 06/7/1998), Hiệp định tương trợ tư
pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa (ký ngày 19/10/1998)....
6
phần thứ sáu của Bộ luật. Ngoài ra, ngày 17/6/2010, Quốc Hội đã ban hành Luật Trọng
tài thương mại (Luật TTTM 2010) đã hoàn thiện thêm hệ thống pháp luật Việt Nam về
Trọng tài thương mại nói chung và bổ sung vào chế định công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nước ngoài về thi hành phán quyết của trọng tài nước ngồi nói
riêng.
Những nỗ lực hồn thiện pháp luật trên của Nhà nước Việt Nam đã tạo ra một
môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế quốc tế trong quá trình hội nhập và
là một trong những bước tiến về mặt pháp luật. Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian áp
dụng vào thực tiễn, thì các quy định này vẫn cịn một số vấn đề chưa thống nhất với
Công ước New York 1958 và tồn tại một số bất cập như:
Thứ nhất, trong các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự chưa xác định rõ loại
quyết định nào của trọng tài nước ngồi được xem xét cơng nhận và cho thi hành tại
Việt Nam. Công ước New York quy định: “Công ước này áp dụng đối với việc công
nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một Quốc
gia khác với Quốc gia nơi có u cầu cơng nhận và cho thi hành quyết định trọng tài
đó, xuất phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân. Cơng ước cịn được
áp dụng cho những quyết định trọng tài không được coi là quyết định trong nước tại
Quốc gia nơi việc công nhận và cho thi hành chúng được yêu cầu”5. Như vậy, cách
xác định quyết định của trọng tài nước ngoài sẽ dựa vào hai quy tắc: (i) các quyết định
trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một Quốc gia khác với Quốc gia nơi có u cầu
cơng nhận và cho thi hành quyết định trọng tài đó hoặc những quyết định trọng tài
không được coi là quyết định trong nước tại Quốc gia nơi việc công nhận và cho thi
hành chúng được yêu cầu; (ii) quyết định đó là quyết định giải quyết các tranh chấp
phát sinh giữa các thể nhân hay pháp nhân.
5
ĐIều I Công ước New York 1958
7
Công ước New York đã xác định quyết định của Trọng tài dựa trên cơ sở kết hợp
cả tiêu chí “quốc tịch” của Trọng tài và tiêu chí “lãnh thổ” nơi quyết định Trọng tài
được ban hành6.
Tiêu chí “lãnh thổ” quy định rằng, nếu một quyết định của trọng tài được tun
khơng phải tại quốc gia có u cầu cơng nhận và cho thi hành quyết định đó, bất kể là
trọng tài của nước nào, thì đó là quyết định của trọng tài nước ngồi. Tiêu chí “quốc
tịch” của Trọng tài được hiểu là, một quyết định được tuyên trong lãnh thổ nước có u
cầu cơng nhận và cho thi hành nhưng pháp luật nước đó khơng coi đó là quyết định của
trọng tài trong nước, thì đó là quyết định của trọng tài nước ngoài.
Ngoài ra, cách xác định quyết định của trọng tài nước ngồi cịn kết hợp với yếu
tố “tư cách chủ thể của các bên tranh chấp”. Theo Công ước, chỉ các tranh chấp giữa
các cá nhân hay pháp nhân mới là các tranh chấp thuộc đối tượng của Cơng ước…”. Vì
thế, những tranh chấp giữa các bên mà trong đó một bên khơng phải là cá nhân hoặc
pháp nhân sẽ không phải là các tranh chấp thuộc diện xem xét của Công ước”7.
Hiện tại, khác với Công ước New York 1958, pháp luật Việt Nam sử dụng hai
thuật ngữ “Phán quyết của trọng tài nước ngoài” và “Quyết định của trọng tài nước
ngoài”. Trước khi Luật TTTM 2010 có hiệu lực, thì khái niệm “quyết định của trọng tài
nước ngoài” được xác định dựa vào quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 2, Điều
342 BLTTDS quy định: “Quyết định của trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên
ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do
các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp
luật kinh doanh, thương mại, lao động”. Quy định này đã tồn tại trong Điều 1 Pháp
lệnh Công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài năm 1995, “Quyết định
của trọng tài nước ngoài” được hiểu là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt
Nam của Trọng tài do các bên thoả thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ
6
Viện Khoa học xét xử- Tòa án nhân dân tối cao- Chuyên đề “Pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam Bản án, Quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài”, số 4/2009,tr 6.
7
Nguyễn Trung Tín, “Về cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngồi theo Cơng ước Niu
C năm 1958”, Tạp chí Nhà Nước và pháp luật, số 5/2002, tr.26
8
các quan hệ pháp luật thương mại. “Quyết định của trọng tài nước ngồi” cịn bao gồm
quyết định của Trọng tài được tuyên tại lãnh thổ Việt Nam, nhưng không do Trọng tài
Việt Nam tuyên.” Theo cách quy định của Pháp lệnh, thì một quyết định của trọng tài sẽ
được xem là quyết định của trọng tài nước ngoài nếu thỏa mãn hai điều kiện: (i) được
tuyên ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam nhưng không do Trọng tài
Việt Nam tuyên; và (ii) tranh chấp được giải quyết phát sinh từ các quan hệ pháp luật
thương mại.
Sau đó, BLTTDS đã pháp điển hóa Pháp lệnh, theo đó, một quyết định trọng tài
sẽ được coi là quyết định của trọng tài nước ngoài nếu thỏa mãn hai dấu hiệu: (i) quyết
định đó được tuyên bởi “Trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải
quyết tranh chấp” bất kể rằng quyết định đó được tuyên ngoài lãnh thổ Việt Nam hay
trong lãnh thổ Việt Nam; và (ii) tranh chấp được giải quyết bởi quyết định đó “phát
sinh từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao động”8.
Khác với các nguyên tắc xác định của Công ước New York 1958, Bộ luật tố tụng
dân sự Việt Nam dựa vào yếu tố “quốc tịch” để xác định đó có phải là quyết định của
trọng tài nước ngồi hay khơng mà khơng quan tâm tới việc quyết định đó được tun
trong hay ngồi lãnh thổ Việt Nam, cách xác định này đã tồn tại nhiều vướng mắc và
không thống nhất với Công ước New York 1958 tuy nhiên vấn đề này đã được Luật
TTTM 2010 khắc phục.
Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: “Phán quyết của trọng tài nước ngoài
là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong
lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn”9. Và
“Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung
8
Đỗ Hải Hà, “Bàn về khái niệm Quyết định của trọng tài nước ngoài theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004”, Tạp
chí khoa học pháp lý, số 5/2007,
/>d=335:bvknqcttnn&Itemid=110, truy cập ngày 14/6/2013.
9
Khoản 12 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010
9
vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài”10. Nhưng Luật lại không đề cập đến khái
niệm “quyết định của trọng tài nước ngoài” mà chỉ đưa ra khái niệm “quyết định trọng
tài là quyết định của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp11. Tại
Điều 1 của Luật TTTM 2010 quy định phạm vi điều chỉnh của Luật này đã quy định rõ:
“Luật này quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại, các hình thức trọng tài, tổ
chức trọng tài, Trọng tài viên; trình tự, thủ tục trọng tài; quyền nghĩa vụ và trách
nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài; thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động
trọng tài; tổ chức và hoạt động của Trọng tài của nước ngoài tại Việt Nam, thi hành
phán quyết trọng tài.” Như vậy, các phán quyết của trọng tài nước ngoài là các quyết
định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp tuyên tại Việt
Nam sẽ được xem xét và thi hành theo các quy định của Luật TTTM 2010 chứ không
đặt ra thủ tục công nhận và cho thi hành theo các quy định của Công ước New York
1958 và Bộ luật tố tụng dân sự. Còn đối với các “quyết định của trọng tài nước ngồi”
được hiểu theo Cơng ước New York 1958 và Bộ luật tố tụng dân sự thì Tịa án có thẩm
quyền công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Như đã phân tích ở trên, vì các phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
được điều chỉnh bởi Luật TTTM 2010 nên Công ước New York và Bộ luật tố tụng dân
sự sẽ điều chỉnh cơ chế công nhận và cho thi hành các “quyết định của trọng tài nước
ngoài” được Trọng tài nước ngoài tuyên ngoài lãnh thổ Việt Nam và có u cầu cơng
nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Như vậy, cách xác định “quyết định của trọng tài
nước ngoài” trong Bộ luật tố tụng dân sự kết hợp với cách xác định các “phán quyết
trọng tài nước ngoài” trong Luật TTTM 2010 đã thống nhất với Cơng ước New York
1958. Tuy nhiên, điểm cịn thiếu sót của pháp luật Việt Nam đó là chưa quy định cụ thể
loại quyết định nào của trọng tài nước ngồi được xem xét cơng nhận và cho thi hành
tại Việt Nam.
10
11
Khoản 19 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010
Khỏa 9 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010
10
Công ước New York không quy định quyết định của trọng tài nước ngoài bao
gồm những loại nào. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung của Công ước và pháp luật của các
quốc gia về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngồi thì quyết
định đó phải là quyết định về thực chất vụ kiện (quyết định về toàn bộ vụ kiện hoặc một
phần vụ kiện), thường là phán quyết cuối cùng của Trọng tài được đưa ra trong quá
trình giải quyết tranh chấp. Trong một số trường hợp quyết định của Trọng tài cũng có
thể là quyết định về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.12
Trung tâm Thương mại quốc tế (UNCTAD) cũng đưa ra khái niệm quyết định
trọng tài như sau: “Quyết định trọng tài là quyết định do hội đồng trọng tài ban hành
nhằm giải quyết chung thẩm các vấn đề được đưa ra hội đồng trọng tài giải quyết. Hội
đồng trọng tài có thể quyết định tất cả các vấn đề trong một quyết định trọng tài hoặc
ban hành một hoặc nhiều quyết định “từng phần” hoặc “tạm thời” trước khi ban hành
quyết định cuối cùng”13. Như vậy, theo cách định nghĩa này thì quyết định của trọng tài
cũng bao gồm các quyết định giải quyết tranh chấp cuối cùng và các quyết định giải
quyết “từng phần” hay “tạm thời”. Thiết nghĩ, Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam nên bổ
sung quy định về chế định công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài áp dụng đối với quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp hay là với tất cả các
quyết định trong quá trình giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài.
Thứ hai, về dấu hiệu tranh chấp được giải quyết bởi quyết định đó phát sinh
từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao động. Đây là một điểm mới và
tiến bộ của Bộ luật tố tụng dân sự so với Pháp lệnh công nhận và cho thi hành quyết
định trọng tài nước ngoài 1995, điều này giúp cho việc công nhận và cho thi hành các
quyết định của trọng tài nước ngoài được mở rộng hơn tại Việt Nam. Tuy nhiên, điểm
còn tồn tại ở đây là khi gia nhập Công ước New York, tại Quyết định số 453/QĐ-CTN
ngày 28 tháng 7 năm 1995 của Chủ tịch nước về việc gia nhập Công ước New York
1958 tuyên bố bảo lưu ba điều đối với Công ước: (i) Công ước chỉ áp dụng đối với việc
12
Xem Viện Khoa học xét xử (2009), chú thích số 6, tr.7
Trung tâm thương mại quốc tế UNCTAD CNUCED – Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam,(2003), chú
thích số 3, tr.142
13
11
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài được tuyển
tại lãnh thổ quốc gia là thành viên của Công ước này. Đối với quyết định của trọng tài
nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước,
Công ước được áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại; (ii) chỉ áp dụng
Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thương mại; (iii) việc
giải thích Cơng ước trước Tồ án hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Như vậy, phạm vi áp dụng của Công ước New York 1958 được pháp luật Việt
Nam quy định chỉ thu hẹp lại trong lĩnh vực thương mại. Chính vì thế, các quyết định
khác khơng thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước sẽ được xác định theo pháp luật
Việt Nam. Điều này dẫn đến việc không thống nhất áp dụng các quy định pháp luật cho
các quyết định của trọng tài nước ngoài ở các lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, hiện nay
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi các hoạt động
thương mại, mà mở rộng ra các lĩnh vực khác như lao động, dân sự...chính vì vậy, việc
bảo lưu này đã làm hạn chế các quyết định nước ngồi được cơng nhận tại Việt Nam
theo Cơng ước New York 1958 rất nhiều.
1.1.2. Khái niệm công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài
Theo các định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt thì các khái niệm được đưa ra như
sau: “Công nhận là việc thừa nhận trước mọi người là hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc
hợp với thể lệ luật pháp”14. “Thi hành là làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính
thức quyết định”15. Xem xét các khái niệm này dưới góc độ lý luận về việc công nhận
và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, có thể hiểu rằng
“cơng nhận” là việc thừa nhận giá trị pháp lý của quyết định đó, cịn “cho thi hành” có
nghĩa là cho phép cưỡng chế việc thực thi quyết định đó trên thực tế.
14
15
Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2000, tr.209
Từ điển Tiếng Việt(2000), chú thích số 13, tr.510
12
“Một quyết định có thể được cơng nhận mà khơng được thi hành”16. Trên thực tế
có những quyết định của trọng tài nước ngoài các bên tranh chấp chỉ yêu cầu được cơng
nhận và có những quyết định có cả yêu cầu công nhận và cho thi hành. Về nguyên tắc,
việc “công nhận” và “cho thi hành” là hai chế định độc lập trong quy định của pháp luật
các nước và Việt Nam, việc công nhận một quyết định trọng tài có thể độc lập, nhưng
muốn quyết định trọng tài đó được thi hành thì nó phải được cơng nhận. Tiền đề của
việc thi hành quyết định chính là sự cơng nhận quyết định đó, điều này có thể được giải
thích: việc cho thi hành một quyết định trọng tài, ln đi kèm với việc cơng nhận quyết
định đó. Một cơ quan nhà nước của bất kỳ quốc gia nào cũng khơng thể cho thi hành
một quyết định mà mình không công nhận hoặc chưa công nhận. Đối với quyết định
của trọng tài nước ngồi nếu khơng mang tính tài sản thì chỉ có thể cơng nhận và khơng
cần phải thi hành, nhưng đối với quyết định trọng tài nước ngồi giải quyết các tranh
chấp mang tính “thương mại” – yếu tố tài sản ln có trong quyết định của trọng tài, thì
việc cơng nhận và cho thi hành hầu hết được đặt ra. Do vậy, một quyết định của trọng
tài nước ngoài muốn được cho thi hành tại một quốc gia khác thì trước hết phải được
cơng nhận tại quốc gia đó.
Mặt khác, một quyết định của trọng tài nước ngồi được cơng nhận cũng khơng
đồng nghĩa với việc nó được đương nhiên được cho phép thi hành tại quốc gia đó. Vậy
nên, khi xem xét khái niệm này, có thể gồm hai khái niệm đó là “cơng nhận” và “cơng
nhận và cho thi hành”.
Mục đích của việc cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài được thể
hiện ngay trong mục đích của các bên khi đưa tranh chấp ra trọng tài. Tuy nhiên, nếu
tách rời phần “cơng nhận” ra khỏi phần “thi hành” thì chúng ta thấy giữa chúng có sự
khác biệt về mục đích. Đối với cơng nhận, mục đích ở đây thể hiện ở chỗ, sự công nhận
được sử dụng nhằm ngăn ngừa trường hợp một bên tranh chấp kia lại kiện cáo tiếp về
16
Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế, Phịng thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam dịch, 2009, tr.525.
13
chính vụ việc đã được trọng tài giải quyết. Trong khi đó việc thi hành lại đóng vai trị
như một công cụ hữu hiệu để buộc bên thua kiện phải thực hiện những hành vi bất lợi
cho mình mà bên đó đã khơng tự nguyện thực thi. Việc cưỡng chế bên phải thực hiện
quyết định của trọng tài có thể bằng nhiều cách khác nhau (như tịch thu tài sản, phong
tỏa tài sản ngân hàng…).17
1.2
Sự cần thiết về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài tại Việt Nam
1.2.1 Hoàn thiện pháp luật về trọng tài trong điều kiện hội nhập quốc tế
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, các quan hệ thương mại ngày càng
phát triển. Đi kèm với sự phát triển đó là các tranh chấp thương mại cũng phát sinh
nhiều hơn. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức Trọng tài thương mại
đã và đang trở thành một phương thức giải quyết phổ biến được các bên tranh chấp lựa
chọn. Tại Việt Nam trong những năm gần đây, theo như thống kê của Trung tâm trọng
tài quốc tế Việt Nam, bên cạnh phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VIAC)
tổng số các vụ tranh chấp mà trung tâm giải quyết từ năm 2005 đến năm 2011 tăng
đáng kể qua từng năm và trong số đó các tranh chấp có yếu tố nước ngoài được giải
quyết chiếm phần lớn:
Năm
2005
2006 2007 2008 2009
2010
2011
Total
Tổng số vụ tranh chấp
27
36
30
58
48
63
83
345
Tranh chấp trong nƣớc
2
7
9
23
22
37
31
131
25
29
21
35
26
26
52
214
Tranh chấp có yếu tố
nƣớc ngồi
Các số liệu này cho thấy rằng, tranh chấp thương mại quốc tế lựa chọn Trọng tài
là phương thức giải quyết tranh chấp đang ngày càng gia tăng và chiếm được sự tin
tưởng của nhiều thương nhân. Chính vì thế việc hồn thiện các quy định pháp luật về
17
Nguyễn Trung Tín, “Về khái niệm cơng nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài kinh tế”, Tạp chí
khoa học pháp lý, số 3/2001,
/>id=63:tcso3-2001&Itemid=62, truy cập ngày 14/6/2013
14
công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngồi nhận được sự quan tâm
khơng chỉ trong nước mà còn đối với các quốc gia khác, các thương nhân nước ngoài.
Việc pháp luật của một quốc gia công nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nước ngoài mang một ý nghĩa rất lớn trong quan hệ hợp tác quốc tế. Qua đó khẳng
định với bạn bè quốc tế rằng Việt Nam đã sẵn sàng tham gia vào các quan hệ quốc tế
với một thái độ thiện chí, tơn trọng chủ quyền quốc gia khác, tơn trọng thẩm quyền tư
pháp của các cơ quan có thẩm quyền nước ngồi. Ngồi ra cịn có ý nghĩa khẳng định
chủ quyền lãnh thổ của chính mình, thơng qua việc để được công nhận và cho thi hành
ở nước ta, thì các quyết định của trọng tài nước ngồi phải được Tịa án có thẩm quyền
của Việt Nam cơng nhận và cho thi hành.
Bên cạnh đó, việc hồn thiện chế định này trong hệ thống pháp luật quốc gia còn
tạo ra một hành lang pháp lý thích hợp cho cơng cuộc hợp tác kinh tế, pháp luật... với
các quốc gia khác, tạo sự yên tâm cho các quốc gia, thương nhân nước ngoài muốn đầu
tư vào Việt Nam. Việc các quyết định của trọng tài nước ngoài được tạo điều kiện xem
xét công nhận và cho thi hành bước đầu tạo được niềm tin từ các chủ đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam, chứng minh rằng pháp luật Việt Nam sẽ đảm bảo cho họ một môi trường
pháp lý vững mạnh để thực hiện các hoạt động đầu tư, qua đó thúc đẩy kinh tế phát
triển. Một số các Hiệp định thương mại song phương ký giữa Việt Nam với các nước có
điều khoản quy định về việc các bên được phép chọn trọng tài nước ngồi…(ví dụ,
Hiệp định với Úc về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 5/3/1993). Những điều khoản
này đặt ra vấn đề là Việt Nam cần phải công nhận và cho thi hành các quyết định của
trọng tài nước ngồi, vì nếu chúng ta cho phép giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
nước ngoài mà không công nhận và cho thi hành các quyết định đó thì việc cho phép
chọn trọng tài đó trở nên khơng cịn nhiều ý nghĩa.
Ngồi ra, việc cơng nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài nước ngồi
cịn góp phần khơng nhỏ vào q trình hồn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về Tư
pháp quốc tế Việt Nam, quan hệ dân sự, lao động, thương mại có yếu tố nước ngồi.
Thêm vào đó các chế định pháp luật về trọng tài, trọng tài nước ngoài cũng sẽ hoàn
15
thiện hơn về mặt nội dung và hình thức. Việc quy định cơ chế thi hành “phán quyết của
trọng tài nước ngoài” trong Luật TTTM 2010 đã khắc phục đáng kể một số hạn chế của
Bộ luật dân sự trước đó về chế định này. Theo đó thì các phán quyết của trọng tài nước
ngoài được tuyên ở Việt Nam sẽ được áp dụng các quy định của Luật TTTM 2010 để
thi hành tạ Việt Nam. Như vậy, các quyết định của trọng tài nước ngoài tuyên ngoài
lãnh thổ Việt Nam sẽ được áp dụng các quy định về công nhận và cho thi hành các
quyết định đó theo Cơng ước New York 1958 và Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, để các quy định trong các văn bản không chồng chéo và dễ dàng áp
dụng trong thực tiễn, thì việc sửa đổi, bổ sung và hồn thiện các quy định về công nhận
và cho thi hành các “quyết định của trọng tài nước ngoài” trong Bộ luật tố tụng dân sự
là một việc rất cần thiết hiện nay và mang ý nghĩa quan trọng.
1.2.2. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các thương nhân
Trong thời đại kinh tế tồn cầu như hiện nay, các thương nhân ln mong muốn
có một mơi trường pháp lý hồn thiện để có thể yên tâm hơn vào việc phát triển kinh
doanh của mình. Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hiện nay cũng là một
trong những yếu tố tạo nên quyền tự do kinh doanh của doanh nhân. Lựa chọn Trọng tài
thương mại để giải quyết tranh chấp, các bên luôn băn khoăn liệu rằng quyết định giải
quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài có được thực thi có hiệu quả trên thực tế hay
khơng. Đối với việc lựa chọn trọng tài nước ngoài để giải quyết tranh chấp, các bên còn
phải xem xét liệu rằng quyết định đó có được cơng nhận và cho thi hành tại quốc gia
mà các bên mong muốn thi hành quyết định đó. Điều này phụ thuộc một phần quan
trọng vào chế định công nhận và cho thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của
trọng tài nước ngoài ở các quốc gia mà các bên mong muốn quyết định đó được công
nhận và cho thi hành. Việc pháp luật các quốc gia tạo điều kiện thuận lơi cho các quyết
định của trọng tài nước ngồi được cơng nhận và cho thi hành tại nước mình, sẽ tạo một
niềm tin cho các doanh nhân nước ngồi khi lựa chọn kinh doanh vì đã có các quy định
pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện các quyết định giải quyết tranh chấp thương mại
mà họ đã lựa chọn trọng tài nước ngoài giải quyết.
16
Nếu sau khi tranh chấp được giải quyết bởi trọng tài nước ngồi nhưng quyết
định giải quyết tranh chấp đó lại không được công nhận và cho thi hành tại quốc gia mà
bên yêu cầu mong muốn, như vậy việc lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ
không còn nhiều ý nghĩa như các bên mong muốn ban đầu. Chính vì vậy, việc cơng
nhận hiệu lực pháp lý của quyết định trọng tài và cưỡng chế thi hành trên thực tế đã
đảm bảo cho các bên tranh chấp môt cơ chế để yên tâm về việc lựa chọn giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài của mình. Nếu được tự do kinh doanh, tự do lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp, để rồi quyết định giải quyết đó khơng được cơng nhận và
cho thi hành thì việc đó trở nên vô nghĩa và quyền lợi của các bên khơng được đảm bảo.
Như vậy, việc hồn thiện chế định pháp luật về công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài là để đảm bảo cho việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
của các bên trong quan hệ thương mại được thừa nhận, qua đó bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của các bên được bảo vệ một cách tốt nhất.
1.3 Cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
1.3.1 Khái niệm cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngồi
Về mặt pháp lý và chính thống thì khơng có khái niệm “cơ chế.” Theo Từ điển
Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học biên soạn và xuất bản năm 2003 thì “cơ chế là cách
thức mà theo đó một q trình được thực hiện”.
Về phương diện khoa học, nhiều cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến khái niệm
"cơ chế”. Trong cuốn Sổ tay về phát triển, thương mại và WTO, các nhà khoa học cho
rằng “cơ chế là một phương thức, một hệ thống các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho
sự vận động của một sự vật hay hiện tượng”. Một quan điểm cụ thể hơn về cơ chế được
đề cập trong cuốn Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ
chức thương mại thế giới - World Trade Organization (Nxb Lao động xã hội năm
2006). Theo các tác giả của cuốn sách này thì nói đến cơ chế bao giờ cũng gồm hai mặt:
bên ngoài (thể hiện ở cách thức tổ chức nên nó) và bên trong (sự tổ chức và hoạt động
17
ngay trong nội tại của sự vật, hiện tượng). Nói cách khác, cơ chế là hệ thống các mối
quan hệ hữu cơ, liên quan đến cách thức tổ chức, hoạt động, cách thức tồn tại và phát
triển của sự vật, hiện tượng. Cơ chế là một quá trình, một hệ thống, là tổng thể các yếu
tố tạo nên sự hoạt động của sự vật, hiện tượng18.
Như vậy có thể hiểu “Cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài
nước ngồi là cách thức mà theo đó q trình cơng nhận và cho thi hành quyết định đó
được thực hiện”.
1.3.2 Thẩm quyền của tịa án quốc gia đối với việc công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nước ngoài
Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các quốc gia
khác, chủ yếu các nước trao thẩm quyền xem xét việc công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nước ngồi cho Tịa án19. Tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 3,
Điều 30 và khoản 2, Điều 32 của BLTTDS về thẩm quyền chung của Tòa án thì Tịa án
nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định về
kinh doanh, thương mại và lao động của Trọng tài nước ngồi. Theo quy định tại Điều
34 BLTTDS thì Tịa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền
giải quyết các u cầu cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết định dân sự
của Trọng tài nước ngồi. Thẩm quyền cơng nhận và cho thi hành quyết định của trọng
tài nước ngoài theo lãnh thổ được quy định tại điểm e khoản 2, Điều 35 BLTTDS đó là
Tịa án nơi người phải thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc,
nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người
phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành quyết
định của trọng tài nước ngoài. Các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ như trên, đang
18
, truy cập ngày 12/5/2013
Điều 54 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Nga (ký ngày 25/8/1987), Điều 48 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (ký ngày 06/7/1998), Điều 18 Hiệp
định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa (ký ngày 19/10/1998)....
19
18
đặt ra một số vấn đề tồn tại về mặt thực tiễn vì cịn chưa rõ ràng và thiếu các văn bản
hướng dẫn.
Thứ nhất, về vấn đề nơi cư trú của người phải thi hành quyết định hay trụ sở của
cơ quan tổ chức phải thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài. Ở đây, luật chỉ quy
định chung chung, không đề cập rõ là nơi cứ trú hay nơi đặt trụ sở vào thời điểm nào.
Bởi vì một cá nhân có thể có nhiều nơi cư trú khác nhau và một tổ chức có thể di
chuyển trụ sở nhiều lần.
Trong thực tiễn pháp lý thì trụ sở hay nơi cư trú để xác định Tòa án lãnh thổ có
thẩm quyền là trụ sở hay nơi cư trú vào thời điểm yêu cầu công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nước ngồi. Xin dẫn ví dụ liên quan đến tranh chấp giữa công
ty Tyco và Leighton. Sau khi có được quyết định của Trọng tài Úc, Tyco đã yêu cầu
công nhận và cho thi hành quyết định này tại Việt Nam. Hồ sơ đã được chuyển đến Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng, nơi Leighton đã từng có trụ sở. Nhưng ngày 30-72001, Tịa án Đà Nẵng đã lại trả hồ sơ vì Leighton “đã chuyển trụ sở chính vào 123
đường Lê Lợi,quận 1, thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định chuẩn y số
669/GPDDC7 ngày 22-5-2001 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng”. Ngày 2-82001, hồ sơ được gửi đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Tại Quyết định số
82/QĐTT ngày 25-5-2002, Tịa án Tp. Hồ Chí Minh đã nhận định: “Căn cứ theo quy
định tại các Điều 3,4,10,11 Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết
định của trọng tài nước ngồi, nhận thấy có đủ điều kiện pháp lý cần thiết để Tòa án
nhân dân Tp. Hồ Chí Minh thụ lý hồ sơ và giải quyết vụ việc”20.
Thứ hai, Tịa án nơi có tài sản liên quan đến việc công nhận và cho thi hành.
Trường hợp đặt ra là cá nhân, tổ chức có tài sản ở nhiều nơi khác nhau và xét theo quy
định tại điều này thì Tịa án nơi nào cũng có thẩm quyền xem xét đơn cơng nhận và cho
thi hành. Ví dụ như trong trường hợp trên, cơng ty Leighton là bên phải thi hành quyết
20
TS. Đỗ Văn Đại – PGS.TS. Mai Hồng Quỳ, “Tư pháp quốc tế Việt Nam, Quan hệ dân sự, lao động ,thương
mại có yếu tố nước ngồi”, NXB Chính trị Quốc gia, 2010, tr.267-268.
19