Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THÚY

CHUYỂN GIAO NGƢỜI ĐANG CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ

TP.HỒ CHÍ MINH, [2012]


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH HỐ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHUYỂN GIAO NGƢỜI ĐANG CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THÚY
KHỐ: 33 MSSV: 0855050230
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: Ths. NGƠ HỮU PHƢỚC

TP. HỒ CHÍ MINH, [2012]


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu độc lập của tơi.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong khóa luận này là trung thực và chƣa
từng đƣợc ai công bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trƣớc đây.

TP HCM, Ngày 31/7/2012
Nguyễn Thị Phƣơng Thúy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

CSNDVN

Cảnh sát nhân dân Việt Nam

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa



Hiệp định


TTTP

Tƣơng trợ tƣ pháp


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................ 2
3. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................. 2
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................................... 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ................................................................................... 4
Chƣơng 1 ........................................................................................................................ 5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHUYỂN GIAO NGƢỜI ĐANG CHẤP
HÀNH ÁN PHẠT TÙ .................................................................................................... 5
1.1.

Khái niệm về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù ......................... 5

1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động hợp tác quốc tế về chuyển
giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù ..................................................................... 5
1.1.2.

Khái niệm chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù ....................... 7

1.1.3.

Đặc điểm của chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù ................ 11


1.1.4.

Lợi ích của chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù .................... 13

1.2. Phân biệt chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù với trục xuất, đẩy trả,
nhận trở lại công dân và dẫn độ ................................................................................. 16
1.2.1.

Với trục xuất ............................................................................................... 16

1.2.2.

Với nhận trở lại công dân .......................................................................... 18

1.2.3.

Với dẫn độ ................................................................................................... 20

1.2.4.

Với đẩy trả ................................................................................................... 22

1.3.

Nguyên tắc của chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù ................... 23

1.3.1.

Nguyên tắc chủ quyền quốc gia .................................................................... 23


1.3.2.

Nguyên tắc có đi có lại ................................................................................. 24

1.3.3.

Nguyên tắc quốc tịch .................................................................................... 25

1.3.4.

Nguyên tắc tội phạm kép .............................................................................. 26


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 27
Chƣơng 2 ...................................................................................................................... 30
CHUYỂN GIAO NGƢỜI ĐANG CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG CÁC ĐIỀU
ƢỚC QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM ĐÃ KÝ KẾT VÀ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT
NAM .............................................................................................................................. 30
2.1. Chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù theo các Điều ƣớc quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết ...................................................................................................... 30
2.1.1.

Căn cứ chuyển giao..................................................................................... 31

2.1.2.

Điều kiện chuyển giao................................................................................. 31

2.1.3. Thủ tục chuyển giao ....................................................................................... 38
2.1.4. Hậu quả pháp lý ............................................................................................. 40

2.1.5.
2.2.

Những quy định khác ................................................................................. 43

Chuyển giao theo pháp luật Việt Nam ............................................................ 44

2.2.1.

Điều kiện tiếp nhận, chuyển giao .............................................................. 46

2.2.1.1. Ngƣời đang chấp hành hình phạt tù ở nƣớc ngồi có thể đƣợc tiếp
nhận về Việt Nam để thi hành hình phạt tù khi có đủ các điều kiện sau đây: 46
2.2.1.2. Ngƣời đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam đƣợc chuyển giao cho
nƣớc ngồi.............................................................................................................. 50
2.2.2.

Từ chối chuyển giao .................................................................................... 51

2.2.3.

Trình tự, thủ tục chuyển giao .................................................................... 52

2.2.4.

Tiếp tục thi hành hình phạt tại Việt Nam ................................................ 55

2.2.5.

Chi phí thực hiện ........................................................................................ 57


2.3. Tình hình thực hiện hoạt động chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
của Việt Nam ................................................................................................................ 57
2.3.1.

Kết quả thực hiện ....................................................................................... 57

2.3.2.

Những tồn tại, hạn chế ............................................................................... 59

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 63
KIẾN NGHỊ ................................................................................................................. 64
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 69


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh chung của thế giới hiện nay, tình hình tội phạm đang ngày càng trở
nên phức tạp hơn và nghiêm trọng hơn. Thực trạng này làm phƣơng hại đến cộng đồng
quốc tế nói chung và các quốc gia nói riêng. Phạm vi hoạt động của tội phạm hiện nay
không chỉ trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia mà nó cịn biến tƣớng, phát triển dƣới
các hình thức đa dạng khác, các băng nhóm tội phạm đã có nhiều chân rết ở các lãnh thổ
quốc gia khác nhau. Một thực tế cần phải xem xét là để đảm bảo cho sự ổn định và phát
triển của đất nƣớc thì trƣớc hết các quốc gia cần phải đảm bảo về an ninh, trật tự. Chính
vì thế, hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm đã trở thành một xu thế tất
yếu, khách quan. Bởi lẽ, hợp tác quốc tế sẽ giúp các quốc gia thống nhất các biện pháp
đấu tranh phịng chống tội phạm có hiệu quả, đẩy lùi sự gia tăng của tội phạm trên bình
diện quốc tế.
Trong điều kiện mở rộng giao lƣu và hội nhập quốc tế nhƣ hiện nay thì hợp tác

chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù ngày càng trở nên cần thiết. Mục đích cơ
bản và quan trọng nhất của hoạt động hợp tác chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt
tù chính là nhằm giúp cho ngƣời đƣợc chuyển giao có điều kiện cải tạo và tái hịa nhập
cộng đồng một cách tốt nhất. Về phƣơng diện lý luận, chuyển giao ngƣời đang chấp hành
án phạt tù là một trong những hình thức hợp tác tƣơng trợ tƣ pháp giữa các quốc gia. Trên
bình diện quốc tế, từ trƣớc đến nay đã có nhiều Điều ƣớc quốc tế song phƣơng và đa
phƣơng về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù đƣợc ký kết giữa các quốc gia
hoặc trong khn khổ các tổ chức quốc tế, điển hình nhƣ: Công ƣớc Beclin năm 1978 của
các nƣớc xã hội chủ nghĩa cũ về chuyển giao phạm nhân; Công ƣớc Riat về hợp tác pháp
luật năm 1983; Kế hoạch chuyển giao những tội phạm bị kết án trong phạm vi Khối Liên
Hiệp Anh năm 1986; Công ƣớc của Hội đồng Châu Âu năm 1983 về chuyển giao ngƣời
bị kết án; các hiệp định song phƣơng giữa Pháp – Camơrun năm 1974 về chuyển giao
phạm nhân quốc tế; giữa Hoa Kỳ - Mêxicô năm 1977 và giữa Hoa Kỳ - Canada năm 1978
1


về chuyển giao tù nhân;… Đối với Việt Nam, từ những năm 80 của thế kỷ XX, hợp tác
quốc tế về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù với các nƣớc đã đƣợc quy định
trong một số Hiệp định Tƣơng trợ tƣ pháp nhƣ Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia
đình và hình sự giữa Việt Nam và Hungary năm 1985; Hiệp định TTTP về các vấn đề dân
sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Ba Lan năm 1993 và các Hiệp định chuyên
ngành về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù nhƣ Hiệp định giữa Việt Nam và
Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ailen (năm 2008); giữa Việt Nam và Hàn Quốc (năm
2010)…Về phƣơng diện nội luật, lần đầu tiên vấn đề chuyển giao ngƣời đang chấp hành
án phạt tù đã đƣợc quy định trong Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 (có hiệu lực từ
01/7/2008) tại Chƣơng V từ Điều 49 đến Điều 60.
Tuy nhiên, về phƣơng diện khoa học pháp lý, vấn đề chuyển giao ngƣời đang chấp
hành án phạt tù còn khá mới mẻ, cần đƣợc nghiên cứu toàn diện hơn cả về lý luận và thực
tiễn hợp tác cũng nhƣ thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành. Chính vì vậy, tác giả
chọn đề tài “Chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù trong luật quốc tế và pháp luật

Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật của mình.
2. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu để làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn
vấn đề chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù trong pháp luật quốc tế và trong
pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định về chuyển giao ngƣời
đang chấp hành án phạt tù, khóa luận đƣa ra một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả thực hiện của hoạt động chuyển giao trên thực tế.
Xuất phát từ mục đích nêu trên, đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là lý luận về
chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù và thực trạng chuyển giao trong các Điều
ƣớc quốc tế song phƣơng và pháp luật Việt Nam.
3. Tình hình nghiên cứu
Trên bình diện quốc tế, vấn đề về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù đã
đƣợc nghiên cứu bởi một số các tác giả nhƣ:

2




“Giới thiệu về chuyển giao tù nhân quốc tế: Về nhà” của Luật sƣ ngƣời Mỹ_ Alan
Ellis1.



“Tội phạm – xu hƣớng và các vấn đề Tội phạm và Tƣ pháp hình sự” của David
Billes2.


Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu về chuyển giao
ngƣời đang chấp hành án phạt tù đƣợc công bố trong các tạp chí, sách tham khảo, chuyên

khảo của một số tác giả tiêu biểu nhƣ:


“Dẫn độ tội phạm, tƣơng trợ pháp lý về hình sự và chuyển giao phạm nhân quốc tế
trong phòng chống tội phạm” của PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm.



“Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lƣợng Cảnh sát
nhân dân Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh.



“Hoàn thiện cơ sở pháp lý về hợp tác quốc tế trong chuyển giao ngƣời bị kết án
phạt tù” của Nguyễn Ngọc Anh trên Tạp chí CAND số 07/2007.


Tuy nhiên, có một điểm chung là các cơng trình nghiên cứu này đều đƣợc thực
hiện trƣớc thời điểm mà Luật tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 đƣợc ban hành. Do đó các tác
giả nói trên chỉ dựa vào một số Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp trong đó có quy định về
chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù mà Việt Nam đã ký kết với các nƣớc để
nghiên cứu. Chính vì thế, việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc giới thiệu vấn đề chuyển
giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù với ý nghĩa là một thuật ngữ pháp lý hoặc chỉ khái
quát một số vấn đề lý luận cơ bản chung của vấn đề này.
Từ tình hình nghiên cứu nói trên, tác giả cho rằng nghiên cứu một cách cụ thể, chi
tiết các quy định của chế định chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù trong các

1

Xem nội dung bài viết tại: />2


Xem nội dung bài viết tại: />
3


Điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và pháp luật Việt Nam vẫn rất cần thiết cả về lý
luận và thực tiễn.

4. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả xác định phạm vi nghiên cứu của khóa luận là các quy định về chuyển giao
ngƣời đang chấp hành án phạt tù trong các Điều ƣớc quốc tế song phƣơng mà Việt Nam
đã ký kết và pháp luật Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc những mục đích đề ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo
đó, các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau đây đƣợc áp dụng: phƣơng pháp phân tích,
phƣơng pháp tổng hợp... Đặc biệt, các phƣơng pháp nghiên cứu đặc trƣng của khoa học
pháp lý nhƣ: phƣơng pháp phân tích quy phạm cụ thể, phƣơng pháp so sánh luật,... đƣợc
sử dụng phổ biến trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, những kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần làm rõ hơn,
cũng nhƣ bổ sung và phát triển lý luận về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
để phục vụ yêu cầu thực tiễn trong công tác hợp tác thực hiện chuyển giao ngƣời đang
chấp hành án phạt tù.
Về mặt thực tiễn, khóa luận đem đến cái nhìn tổng thể về chuyển giao ngƣời đang
chấp hành án phạt tù để trong chừng mực có thể sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chế định này trong thực tế. Ngồi ra, đề tài cịn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị
trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy nói chung cũng nhƣ có thể cung cấp thơng tin cho
việc tìm hiểu, nghiên cứu về pháp luật quốc tế đối với các cán bộ Công an, Kiểm sát, Tòa
án, Tƣ pháp, các cán bộ nghiên cứu pháp luật.


4


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHUYỂN GIAO NGƢỜI ĐANG CHẤP
HÀNH ÁN PHẠT TÙ
1.1.

Khái niệm về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù

1.1.1

Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động hợp tác quốc tế

về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
Trên thế giới, một trong những trƣờng hợp đầu tiên của chuyển giao ngƣời đang
chấp hành án phạt tù diễn ra vào thế kỷ thứ XIX khi một số quốc gia cho phép những
ngƣời phạm tội đƣợc thực hiện bản án tù hay tạm tha của mình ở nƣớc ngồi. Tuy nhiên,
cho đến năm 1951 thì Hiệp định đầu tiên về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
mới đƣợc ký kết giữa Libăng và Xyri. Hiệp định này ra đời cũng chính là cột mốc đánh
dấu cho sự hình thành và phát triển của việc chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
sau này trên thế giới. Đến năm 1952, Liên đoàn Arập và các nƣớc Ai Cập, Gioocđani,
Arập Xêút đã thông qua và phê chuẩn hiệp định chuyển giao ngƣời đang chấp hành án
phạt tù3.
Tiếp theo là Cơng ƣớc về tính hợp lệ quốc tế của các bản án hình sự của Hội đồng
Châu Âu. Cơng ƣớc này đƣợc ký vào ngày 20/5/1970, nhằm mục đích cho phép một nƣớc
thi hành các bản án hình sự của một nƣớc khác. Tuy nhiên, trên thực tế thì có rất ít quốc
gia phê chuẩn Cơng ƣớc này và cũng có rất ít phạm nhân đƣợc chuyển giao theo khn
khổ của Cơng ƣớc. Tiếp đó, Cơng ƣớc Châu Âu về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án

phạt tù đƣợc ký kết trong khuôn khổ của Hội đồng Châu Âu ngày 21/3/1983 và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/7/1985. Hiện nay, đã có 61 quốc gia thành viên tham gia
Cơng ƣớc và một số quốc gia không phải thành viên của Châu Âu cũng gia nhập nhƣ Hoa
Kỳ, Ô-xtrây-lia, Hàn Quốc,…

3

Nguyễn Xuân Yêm, Dẫn độ tội phạm, tƣơng trợ pháp lý về hình sự và chuyển giao phạm nhân quốc tế trong phịng
chống tội phạm, NXB Chính trị quốc gia (2000), tr.217-218.

5


Cho đến nay, Công ƣớc Châu Âu năm 1983 về chuyển giao ngƣời đang chấp hành
án phạt tù4 vẫn đƣợc nhiều quốc gia trên thế giới xem nhƣ là một Hiệp định mẫu để đàm
phán, xây dựng và ký kết Hiệp định song phƣơng, đa phƣơng về chuyển giao ngƣời bị kết
án phạt tù. Bên cạnh Công ƣớc Châu Âu năm 1983 về chuyển giao ngƣời đang chấp hành
án phạt tù cịn có một số các Hiệp định đa phƣơng liên quan đến việc chuyển giao ngƣời
đang chấp hành án phạt tù có hiệu lực tại các vùng khác nhau trên thế giới nhƣ: Công ƣớc
Béclin năm 1978 của các nƣớc Xã hội chủ nghĩa cũ về chuyển giao phạm nhân; Cơng ƣớc
Riát về hợp tác pháp luật năm 1983;…
Ngồi các hiệp định đa phƣơng về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
kể trên, một số nƣớc cũng tiến hành ký kết các Hiệp định song phƣơng để nhằm giải
quyết các vấn đề về chuyển giao phạm nhân khi tình hình các cơng dân của nƣớc mình
đang chịu án tù tại các quốc gia khác ngày một gia tăng, trong đó phải kể đến các nƣớc
nhƣ: Hoa Kỳ, Hunggari, Ba Lan, Tây Ban Nha, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ.
Đối với Việt Nam, trƣớc khi Luật tƣơng trợ tƣ pháp đƣợc ban hành, việc
chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nƣớc ngoài
mới chỉ đƣợc quy định trong các Hiệp định TTTP về vấn đề dân sự, gia đình
và hình sự mà Việt Nam ký kết với các nƣớc nhƣ: với Hung-ga-ri (năm 1985)

quy định về chuyển giao việc thi hành hình phạt tƣớc tự do tại Chƣơng III, từ
Điều 79 đến Điều 95; với Ba Lan (năm 1993) quy định về chuyển giao ngƣời
thi hành án phạt tù tại Chƣơng IV, từ Điều 79 đến Điều 85. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chƣa có văn bản hƣớng dẫn thực hiện các điều khoản về chuyển giao
ngƣời bị kết án phạt tù của các hiệp định nêu trên và trên thực tế chúng ta cũng
chƣa thực hiện việc chuyển giao ngƣời bị kết án phạt tù theo các hiệp định
này5.
Cũng trong khoảng thời gian này, “Việt Nam đã chuyển giao một số đối tƣợng bị
kết án phạt tù là ngƣời nƣớc ngoài, cụ thể là đã 4 lần chuyển giao ngƣời nƣớc ngoài bị kết
4

Xem nội dung Công ƣớc tại địa chỉ website: /> />17/5/2012).
5

6

(truy

cập

ngày


án phạt tù tại Việt Nam trong đó có 3 công dân Vƣơng quốc Thái Lan; 1 công dân Vƣơng
quốc Campuchia; 1 công dân CHDCND Lào; 1 công dân Cộng hịa Pháp”6. Tuy nhiên tại
thời điểm đó giữa Việt Nam và các nƣớc này chƣa hề có bất cứ một thỏa thuận nào liên
quan đến vấn đề chuyển giao phạm nhân mà việc chuyển giao này chỉ đƣợc thực hiện trên
cơ sở ngun tắc có đi có lại.
Tính từ năm 2008, kể từ sau khi Luật TTTP có hiệu lực đến nay, thực hiện chủ
trƣơng tiếp tục ký kết các Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp, Nhà nƣớc Việt Nam đã hoàn tất

việc đàm phán, ký kết 05 Hiệp định về chuyển giao ngƣời đang chấp hành hình phạt tù
với các nƣớc: Vƣơng quốc Anh và Bắc Ailen (có hiệu lực từ ngày 30 9 2009), với Ơxtrây-lia (có hiệu lực từ ngày 11 12 2009), Đại Hàn Dân Quốc (có hiệu lực từ ngày
30 8 2010), Vƣơng Quốc Thái Lan (có hiệu lực từ ngày 19 7 2010), n Độ (đã đàm phán
xong và hoàn thành thủ tục ký tắt ngày 19 6 2009 tại New Deli - n độ, hiện đang làm thủ
tục trình ký chính thức). Hiện Chính phủ ta đang tiến hành đàm phán 04 Hiệp định
chuyển giao ngƣời bị kết án phạt tù với các nƣớc Cộng hòa Séc, Liên Bang Nga, Tây Ban
Nha (đàm phán vòng 1 từ 11-15 7 2011) và Philippines. Việc đàm phán, ký kết các Hiệp
định về chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù nói trên có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong bối cảnh đất nƣớc ta đang hội nhập sâu rộng với quốc tế và khu vực, tạo cơ sở
pháp lý đẩy nhanh việc xử lý các yêu cầu tƣơng trợ tƣ pháp về chuyển giao ngƣời đang
chấp hành án phạt tù.

1.1.2.

Khái niệm chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù

Nhƣ đã đề cập, chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù là một sự kiện pháp
lý cịn hết sức mới mẻ, vì thế trong thực tế tồn tại rất ít các quan điểm về vấn đề này.
Thậm chí, thuật ngữ về tên gọi của vấn đề này còn đƣợc sử dụng một cách không thống
nhất trong luật quốc tế cũng nhƣ trong pháp luật Việt Nam.
Cụ thể, Hiệp định Tƣơng trợ tƣ pháp giữa Việt Nam và Hungary năm 1985 tại
Chƣơng III (từ Điều 79 đến Điều 95), sử dụng thuật ngữ “chuyển giao việc thi
6

Nguyễn Ngọc Anh, “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về hợp tác quốc tế trong chuyển giao ngƣời bị kết án phạt tù”, Tạp
chí Cơng an Nhân dân, Số 7/2007, tr.68-71.

7



hành hình phạt tƣớc tự do”, Hiệp định Tƣơng trợ tƣ pháp giữa Việt Nam và Ba
Lan tại Chƣơng IV ( từ Điều 7 đến Điều 85), sử dụng thuật ngữ “chuyển giao
ngƣời thi hành án phạt tù”, Công ƣớc về “Chuyển giao ngƣời bị kết án” của
Hội đồng Châu Âu ngày 21/3/1983 sử dụng thuật ngữ “chuyển giao ngƣời bị
kết án”. Thuật ngữ “chuyển giao” cũng đƣợc quy định trong Qui chế Rome
1998 – Qui chế Tịa án hình sự quốc tế (viết tắt là ICC). Theo đó, “chuyển
giao” có nghĩa là việc một quốc gia chuyển một ngƣời cho Tòa án theo Qui
chế này. Tuy nhiên, “chuyển giao” theo Qui chế Rome 1998 là chuyển giao
người phạm tội nhƣng chƣa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và đƣợc thực hiện
trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia với Tịa án hình sự quốc tế nhằm
trừng phạt các cá nhân đã thực hiện các tội ác quốc tế nhƣ tội diệt chủng, tội
chống nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội xâm lƣợc nhƣng “quốc gia không
muốn hoặc không đủ khả năng tiến hành điều tra hoặc truy tố một cách thực
sự”( Điều 17 Qui chế Tòa án hình sự quốc tế - ICC)7.
Trong khi đó, theo pháp luật Việt Nam, Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007, tại
chƣơng V sử dụng thuật ngữ “chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù” cịn trong
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 lại sử dụng thuật ngữ “ chuyển giao người đang chấp
hành án phạt tù”8. Tuy nhiên, trong các Hiệp định Tƣơng trợ tƣ pháp mà Việt Nam đã ký
kết với một số nƣớc sau thời điểm Luật TTTP 2007 đƣợc ban hành nhƣ với Đại Hàn Dân
Quốc, Thái Lan, Ô-xtrây-lia, Vƣơng quốc Anh và Bắc Ai-Len thì lại sử dụng thuật ngữ
“chuyển giao người bị kết án phạt tù”. Chính vì sự khơng thống nhất trong cách sử dụng
thuật ngữ này ở cả các Điều ƣớc quốc tế lẫn trong pháp luật Việt Nam đã làm cho việc
tiếp cận vấn đề nảy sinh những vƣớng mắc. Do đó, trƣớc hết cần phải tìm ra một thuật
ngữ hợp lý để sử dụng cho vấn đề này. Tác giả cho rằng, thực ra giữa hai thuật ngữ
“chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù” và “chuyển giao người đang chấp hành
hình phạt tù” về cơ bản là khơng có sự khác nhau và việc sử dụng một trong hai thuật ngữ
7

Ngô Hữu Phƣớc, “Dẫn độ và các hình thức hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh phịng, chống tội phạm”, Tạp chí
khoa học pháp lý, số 2/2011, tr.48.

8
Điều 41 Luật Thi hành án hình sự năm 2010

8


này đều hợp lý, cũng nhƣ đều không làm thay đổi cách hiểu về vấn đề. Bởi vì, bản chất
việc hợp tác chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù giữa các quốc gia là nhằm mục
đích nhân đạo, tạo điều kiện cho họ đƣợc tiếp tục thi hành án phạt tù trong môi trƣờng
thuận lợi để cho họ cải tạo, tránh nguy cơ tái phạm, và tái hòa nhập với cộng đồng một
cách tốt nhất. Từ lập luận và phân tích ở trên, tác giả cho rằng sử dụng thuật ngữ “chuyển
giao người đang chấp hành án phạt tù” (sau đây gọi tắt là chuyển giao) là phù hợp hơn.
Theo tác giả Dƣơng Thị Bích Đào định nghĩa “Chuyển giao người đang chấp
hành hình phạt tù nói chung là việc một quốc gia thực hiện chuyển giao người nước
ngoài phạm tội đã bị Toà án của quốc gia đó kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật
về nước mà người bị kết án là công dân hoặc một nước khác đồng ý tiếp nhận để tiếp
tục thi hành bản án”9. Tác giả Nguyễn Ngọc Anh lại cho rằng: “Chuyển giao người
đang chấp hành án phạt tù là việc một quốc gia thực hiện chuyển giao người nước
ngồi phạm tội đã bị Tịa án của quốc gia đó kết án phạt tù và bản án đã có hiệu lực
pháp luật về nước mà người bị kết án là công dân trên cơ sở tự nguyện của người đó
để tiếp tục thi hành bản án theo Điều ước quốc tế hoặc nguyên tắc có đi có lại”10.
Khi tiếp cận các khái niệm trên chúng tôi thấy rằng:
Thứ nhất, theo tác giả Bích Đào thì đối tƣợng chuyển giao là ngƣời nƣớc ngồi
phạm tội đã bị Tịa án của quốc gia chuyển giao “kết án”, trong khi đó tác giả Ngọc Anh
lại cho rằng đối tƣợng chuyển giao là ngƣời nƣớc ngồi phạm tội đã bị Tịa án của quốc
gia chuyển giao “kết án phạt tù”. Chúng tôi thấy rằng việc sử dụng thuật ngữ “kết án” của
tác giả Bích Đào là chƣa thực sự rõ nghĩa và có thể gây hiểu lầm cho ngƣời tiếp cận. Bởi
vì việc “kết án” ngƣời phạm tội thì bản án dành cho họ có thể là án phạt cải tạo khơng
giam giữ, án phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình ...Trong khi đó, đối tƣợng của
chuyển giao chỉ có thể là ngƣời phạm tội bị “kết án phạt tù” (tù có thời hạn hoặc khơng

có thời hạn). Nhƣ vậy, việc sử dụng cụm từ “kết án phạt tù” của tác giả Ngọc Anh là hợp
lý hơn.
9

(truy cập ngày
21/5/2012)
10
Nguyễn Ngọc Anh, Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phịng chống tội phạm của lực lƣợng CSNDVN, NXB Chính
trị quốc gia (2001), tr.79

9


Thứ hai, ngƣời nƣớc ngoài phạm tội bị kết án phạt tù sẽ đƣợc chuyển giao đi đâu
hay nói cách khác thì nơi nào sẽ tiếp nhận họ? Cả hai khái niệm nêu trên đều chƣa xác
định đầy đủ về khía cạnh này, cụ thể tác giả Bích Đào thì cho rằng đối tƣợng chuyển giao
sẽ đƣợc chuyển đến quốc gia nơi mà họ là công dân hoặc một nƣớc khác đồng ý tiếp nhận
họ, trong khi đó tác giả Ngọc Anh lại cho rằng đối tƣợng chuyển giao sẽ đƣợc chuyển
giao đến nơi mà họ là công dân. Vấn đề này sẽ đƣợc phân tích rõ hơn và sâu hơn trong
Chƣơng II của khóa luận. Tuy nhiên, có thể xác định rằng, ngƣời nƣớc ngoài phạm tội bị
kết án phạt tù sẽ đƣợc chuyển giao đến quốc gia mà ngƣời đó là cơng dân hoặc quốc gia
nơi ngƣời đó đƣợc cƣ trú không thời hạn hoặc quốc gia nơi ngƣời đó có ngƣời thân
thích11.
Thứ ba, cơ sở pháp lý để thực hiện việc chuyển giao là gì? Ở khía cạnh này, tác
giả Bích Đào khơng đề cập đến. Để thực hiện việc chuyển giao, các quốc gia không thể tự
mình đƣa ra các quyết định đơn phƣơng. Do đó, hoạt động này cần phải có sự hợp tác,
phối hợp một cách đồng bộ giữa các quốc gia. Cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động này
chính là các Điều ƣớc quốc tế mà các quốc gia đã ký kết, pháp luật quốc gia hoặc trong
trƣờng hợp giữa các quốc gia hữu quan khơng có Điều ƣớc quốc tế quy định về chuyển
giao thì sẽ dựa trên nguyên tắc có đi có lại12.

Từ những lập luận và phân tích ở trên, tác giả cho rằng: “Chuyển giao người đang
chấp hành án phạt tù là việc một quốc gia thực hiện chuyển giao người nước ngồi
phạm tội đã bị Tịa án của quốc gia dó kết án phạt tù và bản án đã có hiệu lực pháp
luật về quốc gia mà người bị kết án là công dân hoặc quốc gia nơi người đó được cư
trú khơng thời hạn hoặc quốc gia nơi người đó có người thân thích để tiếp tục thi
hành bản án trên cơ sở Điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia hoặc nguyên tắc có đi có
lại.”

11
12

Điều 50 Khoản 2 Điểm a Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007
Điều 4 Khoản 2 Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007

10


1.1.3.

Đặc điểm của chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù

Nghiên cứu các Điều ƣớc quốc tế và pháp luật Việt Nam về chuyển giao ngƣời
đang chấp hành án phạt tù có thể rút ra một số các đặc điểm về vấn đề này nhƣ sau:
Một là, chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù là một hoạt động tƣơng trợ
tƣ pháp và hoạt động này độc lập với tƣơng trợ tƣ pháp về hình sự, độc lập với tƣơng trợ
tƣ pháp về dân sự và độc lập với cả hoạt động dẫn độ. Tính độc lập ở đây đƣợc thể hiện
rõ thông qua Luật TTTP năm 2007, trong đó quy định tách riêng phần tƣơng trợ tƣ pháp
về dân sự - Chƣơng II; phần tƣơng trợ tƣ pháp về hình sự - Chƣơng III; phần dẫn độ Chƣơng IV và phần chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù - Chƣơng V. Trƣớc
đây, trong các Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp song phƣơng mà Việt Nam đã ký kết thƣờng
quy định bao gồm cả bốn vấn đề: dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao ngƣời đang

chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, hiện nay các quốc gia có xu hƣớng ký kết những Hiệp
định chuyên ngành quy định riêng về từng lĩnh vực cụ thể. Bởi mặc dù về bản chất thì cả
bốn lĩnh vực kể trên đều là các hình thức cụ thể hóa của hoạt động hợp tác tƣơng trợ tƣ
pháp giữa các quốc gia nhƣng giữa chúng lại tồn tại những khác biệt cơ bản.
Hai là, hoạt động chuyển giao là nhằm mục đích nhân đạo. Về cơ bản, việc
chuyển giao có lợi ích cho cả nƣớc chuyển giao, nƣớc nhận chuyển giao và ngƣời đƣợc
chuyển giao. Tuy nhiên, nhằm mục đích nhân đạo, quyền lợi của ngƣời đƣợc chuyển giao
ln đƣợc ƣu tiên. Thực chất, việc chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù là một
giải pháp khoan dung hơn cho ngƣời bị kết án. Đồng thời, việc chuyển giao sẽ khắc phục
đƣợc những khó khăn trong q trình cải tạo của ngƣời bị kết án, giúp họ đƣợc tiếp tục
thi hành bản án trong môi trƣờng tốt hơn và thuận lợi hơn.
Ba là, đối tƣợng của chuyển giao là ngƣời phạm tội đã bị Tòa án của nƣớc đƣợc
yêu cầu chuyển giao kết án phạt tù và đang chấp hành án phạt tù tại nƣớc này. Đây cũng
chính là một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt hoạt động chuyển giao ngƣời
đang chấp hành án phạt tù với các hình thức hợp tác quốc tế khác trong lĩnh vực đấu tranh
phòng chống tội phạm (nhƣ đẩy trả, dẫn độ…). Đối tƣợng của chuyển giao không phải là
những ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội nhƣng chƣa bị xét xử hoặc đã bị kết án bằng
11


bản án có hiệu lực pháp luật và đang trốn tránh thi hành ở nƣớc khác nhƣ dẫn độ hay trục
xuất, mà phải là đã bị kết án phạt tù tại nƣớc chuyển giao và hiện đang chấp hành bản án
tại nƣớc đó. Tuy nhiên, một số quốc gia nhƣ Thái Lan, Ôxtrâylia cũng quy định rằng: các
phạm nhân nƣớc ngoài sẽ phải thực hiện bản án tại nƣớc họ trong một thời gian tối thiểu
trƣớc khi đƣợc chuyển giao. Thời gian tối thiểu này thƣờng là 1/3 thời gian thi hành bản
án13. Có nghĩa là, ngƣời nƣớc ngồi vừa bị kết án phạt tù sẽ không đƣợc chuyển giao
ngay, họ phải thực hiện bản án trong một khoảng thời gian tối thiểu theo quy định của
nƣớc sở tại.
Bốn là, căn cứ để thực hiện việc chuyển giao dựa trên một trong những yêu cầu
của: nƣớc chuyển giao; nƣớc nhận chuyển giao; ngƣời đang chấp hành án phạt tù hoặc

thân nhân của họ. Các yêu cầu này đƣợc coi là điều kiện cần để xem xét việc thực thi
chuyển giao. Nhƣng để việc chuyển giao đƣợc thi hành trên thực tế thì điều kiện đủ là
phải có sự đồng thuận của cả ba bên: nƣớc yêu cầu, nƣớc tiếp nhận và ngƣời đang chấp
hành án phạt tù (hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ). Tuy nhiên, theo Nghị định thƣ bổ
sung Công ƣớc năm 1983 của Cộng đồng Châu Âu về chuyển giao ngƣời bị kết án
(Additional Protocol to the Convention on the Transfer of Sentenced Persons) kí ngày
18/12/1997 thì cũng khơng nhất thiết phải cần có sự đồng ý của ngƣời đƣợc chuyển giao
trong trƣờng hợp:
“- Có lệnh trục xuất có hiệu lực đối với ngƣời đang chấp hành hình phạt tù tại
nƣớc bị kết án, ngƣời bị kết án sẽ bị chuyển giao về quốc gia gốc (country of origin) để
họ tiếp tục thi hành hình phạt;
- Ngƣời bị kết án bỏ trốn từ quốc gia bị kết án đến quốc gia gốc để lẩn tránh việc
thi hành hình phạt đã tuyên đối với họ, quốc gia gốc (country of origin) phải thi hành
hình phạt thay mặt quốc gia kết án.”14

13

Nguyễn Xuân Yêm (2000), chú thích số 3, tr.233
(truy cập ngày
21/5/2012).
Xem nội dung Nghị định thƣ này tại địa chỉ website: />14

12


1.1.4. Lợi ích của chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
Nhƣ đã đề cập, mục đích nhân đạo đối với ngƣời bị kết án là cơ sở, là động cơ để
các quốc gia tham gia ký kết, hợp tác cùng nhau trong việc thực hiện việc chuyển giao
ngƣời đang chấp hành án phạt tù. Điều này trƣớc hết là xuất phát từ lợi ích của ngƣời bị
chuyển giao trong nỗ lực bảo vệ quyền lợi cho họ. Tuy nhiên cũng khơng thể khơng nhắc

đến những mục đích khác mà các quốc gia hƣớng đến khi tiến hành hoạt động này. Đó
chính là những lợi ích nhất định đối với cả quốc gia chuyển giao lẫn quốc gia nhận
chuyển giao.
Trước hết, đối với người bị kết án phạt tù. Theo quy định của pháp luật của các
nƣớc, ngƣời bị kết án phạt tù sẽ bị cách ly khỏi xã hội, phải chịu sự quản lý chặt chẽ,
nghiêm ngặt của một cơ quan nhà nƣớc chuyên trách trong một môi trƣờng đặc biệt, đó là
các nhà tù. Nhà tù là một môi trƣờng rất hà khắc đối với những ngƣời bị kết án, đặc biệt
là đối với ngƣời nƣớc ngoài.
Rào cản đầu tiên mà những phạm nhân nƣớc ngoài gặp phải đó là vấn đề về ngơn
ngữ. Đã là tội phạm thì hầu hết ngƣời phạm tội hiểu biết rất hạn chế về pháp luật cũng
nhƣ trình độ học vấn thấp, do đó khả năng họ thơng thạo một ngơn ngữ khác ngồi ngơn
ngữ mẹ đẻ là điều khó có thể xảy ra. Chính vì thế, họ sẽ gặp khơng ít những khó khăn
trong việc chấp hành các nội quy, quy định của trại giam. Hơn thế nữa, việc giao tiếp với
các phạm nhân khác cũng nhƣ với nhân viên nhà tù, quản giáo sẽ bị cản trở khi công cụ
giao tiếp là ngôn ngữ trong trƣờng hợp này không phát huy đƣợc tác dụng. Bên cạnh đó,
một vấn đề khác phát sinh đối với phạm nhân nƣớc ngoài là một số nƣớc khơng cho phép
các phạm nhân nƣớc ngồi đƣợc hƣởng những quyền lợi nhất định mà các phạm nhân của
nƣớc mình đƣợc hƣởng nhƣ quy định về thăm ni, tại ngoại có giám sát. Ngồi ra, vai
trị của gia đình phạm nhân bị hạn chế khi ngƣời thân của họ bị giam giữ ở một nơi cách
xa và tách biệt, họ khơng có điều kiện thuận lợi để thăm nom, gần gũi động viên do
những cách biệt về địa lý mang lại. Cuối cùng là các vấn đề về văn hóa, phong tục tập
qn nƣớc ngồi khơng phù hợp với lối sinh hoạt, suy nghĩ của phạm nhân nƣớc ngồi bị
giam giữ tại đây, từ đó ảnh hƣởng không nhỏ đến việc đáp ứng các nhu cầu về tôn giáo,
13


tín ngƣỡng cũng nhƣ làm gia tăng thêm sự căng thẳng trong nhà tù. Mặt khác, khi hệ
thống nhà tù, trại giam không đủ điều kiện về cơ sở vật chất cộng với những thành kiến
đối với ngƣời nƣớc ngoài của các bạn tù và nhân viên quản giáo thì vấn đề khơng an tồn
về sức khỏe, tính mạng của các phạm nhân nƣớc ngoài là điều tất yếu xảy đến15.

Trƣớc những khó khăn, bất lợi mà ngƣời bị giam giữ tại nƣớc ngoài gặp phải, việc
chuyển giao sẽ tạo môi trƣờng thuận lợi về mặt vật chất cũng nhƣ tinh thần trong đó có sự
động viên của gia đình và bạn bè, có sự hịa hợp về ngơn ngữ, văn hóa, có chế độ quyền
lợi đầy đủ,…giúp họ tích cực cải tạo, sửa chữa sai lầm. Việc chuyển giao ngƣời bị kết án
về quê hƣơng của họ cũng làm giảm gánh nặng về tài chính cho gia đình. Do đó, giúp đỡ
cho các phạm nhân có điều kiện thuận lợi để tiếp thụ những tác động giáo dục, cải tạo để
có thể nhanh chóng trở lại với cuộc sống đời thƣờng lành mạnh, giảm thiểu nguy cơ tái
phạm, trở thành ngƣời có ích cho xã hội sau một thời gian bị giam giữ biệt lập khỏi đời
sống chung của xã hội là rất quan trọng và là mục đích hàng đầu của việc chuyển giao.
Thứ hai, đối với nước chuyển giao, việc giam giữ các phạm nhân nƣớc ngoài đã
đặt ra nhiều mối quan tâm cần phải giải quyết so với việc giam giữ phạm nhân là chính
cơng dân của nƣớc mình. Quốc gia nơi có những phạm nhân ngƣời nƣớc ngoài bị giam
giữ sẽ phải đối mặt với những vấn đề liên quan đến chi phí quản lý hành chính, vấn đề về
an ninh của hệ thống nhà tù cũng nhƣ tính hiệu quả của các chƣơng trình giáo dục cải tạo
tại đây. Trƣớc tiên, với những phạm nhân nói những ngơn ngữ khác nhau, có phong tục
tập quán, quan điểm văn hóa và chế độ ăn uống khác nhau thì việc làm tăng thêm chi phí
quản lý tại những nơi giam giữ là điều không thể tránh khỏi. Cũng chính những khác biệt
này đã dẫn đến hệ quả là sự mâu thuẫn, căng thẳng giữa các phạm nhân trong nhà tù, đe
dọa đến trật tự, an ninh của hệ thống nhà tù. Sau cùng, mục tiêu cải tạo phạm nhân của
quốc gia sở tại không phải lúc nào cũng đạt đƣợc khi các chƣơng trình giáo dục, dạy nghề
đƣợc đặt ra trở nên không phù hợp với những phạm nhân nƣớc ngoài- những ngƣời chịu
ảnh hƣởng của các nền văn hóa và điều kiện sống khác nhau. Do đó, có thể họ sẽ khơng
đƣợc hƣởng quyền lợi từ các chƣơng trình cải tạo này và khi trở về nƣớc, họ khó có thể
15

Xem Nguyễn Xuân Yêm (2000), chú thích số 3, tr.209-216.

14



hòa nhập trở lại với cuộc sống tại đất nƣớc mình. Tóm lại, thực hiện chuyển giao ngƣời
đang chấp hành án phạt tù sẽ giúp cho các quốc gia giải quyết đƣợc các vấn đề nêu trên16.
Thứ ba, đối với nước nhận chuyển giao, mục tiêu đầu tiên đƣợc đặt ra khi các
nƣớc này tham gia vào các hiệp định chuyển giao là nhằm tăng cƣờng cải tạo, giúp đỡ
phạm nhân sau khi trở về nƣớc có thể tìm đƣợc cơng ăn việc làm ổn định, từ đó họ có thể
dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng. Để đạt đƣợc mục tiêu này thì nhất thiết việc giám sát các
phạm nhân sau khi họ đƣợc tha khỏi nơi giam giữ phải đƣợc đặt ra. Việc này sẽ chỉ đƣợc
thông qua hoạt động chuyển giao. Bởi lẽ, nếu khơng có những hiệp định này thì những
ngƣời phạm tội thƣờng bị trục xuất về nƣớc mình sau khi họ đã chấp hành xong bản án.
“Việc giám sát những ngƣời phạm tội sau khi họ đƣợc thả khỏi nơi giam giữ sẽ đạt đƣợc
mục đích bảo vệ cộng đồng nơi những phạm nhân này sống. Bảo vệ cộng đồng rõ ràng là
một trong những mục tiêu quan trọng để đảm bảo việc thi hành pháp luật”17.
Không những thế, việc cung cấp các dịch vụ lãnh sự cho cơng dân của mình đang
bị giam giữ tại nƣớc ngoài cũng là một vấn đề gây khó khăn cho các nhà chức trách ngoại
giao. Do đó, “đây lại là mối quan tâm về tài chính đối với các nƣớc nếu họ cần phải tăng
thêm các dịch vụ về lãnh sự để đáp ứng nhu cầu cho một số lƣợng lớn phạm nhân là cơng
dân của mình đang bị giam giữ ở nƣớc ngoài” 18. Ngoài ra, thông qua việc tiếp nhận phạm
nhân trở về, các quốc gia này có thể dễ dàng kiểm sốt đƣợc tình hình tội phạm của nƣớc
mình bằng việc tiến hành cơng tác thống kê, phân loại tội phạm. Từ đó, phƣơng hƣớng
phòng chống tội phạm sẽ đƣợc đƣa ra sao cho phù hợp với tình hình cụ thể.
Nhƣ vậy, trƣớc những lợi ích thiết thực mà hoạt động chuyển giao ngƣời đang
chấp hành án phạt tù mang lại, các quốc gia đã ngày càng quan tâm hơn đến việc tham
gia vào các Hiệp định chuyển giao song phƣơng cũng nhƣ đa phƣơng về lĩnh vực này.
Các Hiệp định này một mặt giúp các quốc gia đồng thời giải quyết đƣợc các mối quan

16

Xem Nguyễn Xuân Yêm (2000), chú thích số 3, tr.209-211
17


18

Xem Nguyễn Xuân Yêm (2000), chú thích số 3, tr.214
Xem Nguyễn Xuân Yêm (2000), chú thích số 3, tr.212.

15


tâm khác nhau về hợp tác và thi hành pháp luật, mặt khác nó cũng góp phần thúc đẩy mối
quan hệ quốc tế giữa các nƣớc tham gia ký kết hiệp định.

1.2. Phân biệt chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù với trục xuất, đẩy trả,
nhận trở lại công dân và dẫn độ
Chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù là một lĩnh vực còn rất mới trong
đời sống pháp luật quốc tế, do đó trong thực tế hiện nay vẫn cịn có khơng ít những quan
điểm đã đồng nhất hoặc nhầm lẫn giữa hoạt động này với các hình thức hợp tác quốc tế
khác trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm nhƣ với dẫn độ, đẩy trả, trục xuất,…
Để tránh những nhầm lẫn trong quá trình nghiên cứu cũng nhƣ trong thực tiễn áp dụng,
cần phải làm rõ những khác biệt giữa các hình thức này.

1.2.1. Với trục xuất
Theo quy định của pháp luật các nƣớc nói chung, trục xuất là một biện pháp đƣợc
áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài nhằm ngăn ngừa khả năng họ quay trở lại quốc gia sở
tại và tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. “Giữa chuyển giao ngƣời đang chấp hành án
phạt tù và trục xuất có điểm chung là đây đều là hành vi đƣa một ngƣời nƣớc ngoài ra
khỏi lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, hai hình thức này lại có một số điểm khác biệt cơ bản
sau đây”19:
Thứ nhất, nếu chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù một q trình mang
tính hai chiều, tức có sự “chuyển đi” và “nhận về” thì trục xuất chỉ là q trình mang tính
một chiều. Bản chất của chuyển giao nằm ở chỗ muốn thực hiện nó thì phải có sự đồng

thuận của cả ba bên: bên chuyển giao, bên tiếp nhận và ngƣời đƣợc chuyển giao. Trong
khi đó, trục xuất lại là một biện pháp cho phép quốc gia áp dụng nó đƣợc tồn quyền
quyết định mà không phải phụ thuộc vào sự đồng ý của hai chủ thể cịn lại. Chính vì thế
mà trình tự, thủ tục trục xuất cũng tƣơng đối đơn giản hơn so với trình tự, thủ tục của

19

Ngơ Hữu Phƣớc, “Dẫn độ và các hình thức hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm”, Tạp chí
khoa học pháp lý, số 2/2011, tr.51.

16


chuyển giao20. Tuy nhiên, cũng chính vì tính một chiều của mình mà trục xuất đơi khi lại
bộc lộ sự kém hiệu quả trong quá trình hợp tác giữa các quốc gia về lĩnh vực đấu tranh
phòng chống tội phạm. Trên thực tế, nƣớc sở tại sẽ đƣa kẻ bị trục xuất ra sân bay hoặc ra
khỏi cửa khẩu của mình là hết trách nhiệm, khơng cần quan tâm đến việc đối tƣợng bị
trục xuất này sẽ quay lại nƣớc nào. Và điều này vơ hình chung đã gây khó khăn cho nƣớc
mà ngƣời đó là cơng dân khi muốn truy tìm đối tƣợng đó21.
Thứ hai, về đối tƣợng, nếu đối tƣợng của chuyển giao là ngƣời đã bị kết án phạt tù
và đang chấp hành bản án đó tại quốc gia sở tại thì đối tƣợng bị trục xuất lại là ngƣời
nƣớc ngồi bị kết án (khơng nhất thiết phải bị kết án phạt tù)22 hoặc ngƣời nƣớc ngoài vi
phạm pháp luật ở nƣớc sở tại và bị buộc phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc này23. Nhƣ vậy, xét ở
khía cạnh này thì đối tƣợng bị trục xuất có phạm vi rộng hơn đối tƣợng của chuyển giao.
Thứ ba, trong khi chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù đƣợc áp dụng
dƣới hình thức là một biện pháp tƣơng trợ tƣ pháp quốc tế giữa các nƣớc trong lĩnh vực
đấu tranh phịng chống tội phạm thì trục xuất có thể là biện pháp xử lý hành chính (do các
cơ quan hành pháp thực hiện) nhƣ trục xuất những ngƣời nhập cảnh, di cƣ bất hợp pháp
về lại nƣớc mà họ đã xuất cảnh và cũng có thể là một hình phạt do Tịa án tun phạt đối
với ngƣời nƣớc ngồi phạm tội24. Do đó, khác với chuyển giao, trục xuất không chỉ thuộc

thẩm quyền của cơ quan Công an mà còn thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà
nƣớc25.
Thứ tư, về mục đích, nếu chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù nhằm mục
đích nhân đạo khi quốc gia sở tại hợp tác với các quốc gia khác để tạo điều kiện thuận lợi
cho những ngƣời nƣớc ngoài phạm tội đƣợc trở về quê hƣơng và tiếp tục thi hành bản án

20

Xem Nghị định số 97 2006 NĐ-CP ngày 15 9 2006 quy định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất theo thủ tục
hành chính và Chƣơng V Luật Tƣơng trợ tƣ pháp 2007
21
Xem Nguyễn Xuân Yêm (2000), chú thích số 3, tr.86.
22
Xem Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
23
Xem Điều 17 Nghị định số 21 2001 NĐ-CP ngày 28/5/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh
Nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngồi tại Việt Nam
24
Ngơ Hữu Phƣớc, “Dẫn độ và các hình thức hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh phịng, chống tội phạm”, Tạp chí
khoa học pháp lý, số 2/2011, tr.52.
25
Điều 5 Nghị định số 15 2009 NĐ-CP ngày 13/02/2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
97 2006 NĐ-CP ngày 15 9 2006 quy định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất theo thủ tục hành chính

17


trong mơi trƣờng tốt hơn thì trục xuất lại nhằm mục đích chủ yếu là để bảo vệ chủ quyền
quốc gia, hay đúng ra thì biện pháp trục xuất đƣợc đƣa ra để quốc gia sở tại có thể bảo vệ
xã hội nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức và cơng dân quốc gia

mình nói riêng dƣới sự xâm hại của các hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời nƣớc ngoài
trên đất nƣớc họ.
Thứ năm, về cơ sở pháp lý, nếu chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở pháp luật quốc tế (các điều ƣớc quốc tế) và pháp luật quốc
gia hoặc dựa trên nguyên tắc có đi có lại thì trục xuất hồn tồn dựa vào pháp luật của
nƣớc trục xuất26. Theo pháp luật Việt Nam, chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù
là một hình thức tƣơng trợ tƣ pháp, đƣợc quy định tại chƣơng V của Luật tƣơng trợ tƣ
pháp năm 2007. Cụ thể, Điều 49 Khoản 2 Luật TTTP có ghi nhận: cơ sở pháp lý của việc
chuyển giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù chính là các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam
là thành viên, trƣờng hợp chƣa có điều ƣớc quốc tế liên quan thì việc chuyển giao sẽ đƣợc
thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan dựa trên nguyên tắc có đi có
lại. Trong khi đó, theo quy định của BLHS năm 1999, trục xuất là một trong những hình
phạt do Tịa án áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngồi phạm tội và nó có thể đƣợc áp dụng là
hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số
97 2006 NĐ-CP ngày 15 9 2006 quy định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất theo thủ
tục hành chính, trục xuất cịn là một biện pháp đƣợc áp dụng để xử lý những trƣờng hợp
ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hành chính.

1.2.2. Với nhận trở lại cơng dân
Ngày nay, xu hƣớng di cƣ ngày càng có chiều hƣớng gia tăng, nhất là đối với đại
bộ phận dân cƣ của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi,…Những ngƣời dân
này thƣờng thông qua con đƣờng du lịch để nhập cảnh và sau đó cƣ trú bất hợp pháp trên
lãnh thổ của quốc gia khác. Thực trạng này có thể gây ra một số khó khăn nhƣ gây mất ổn
26

Ngơ Hữu Phƣớc, “Dẫn độ và các hình thức hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm”, Tạp chí
khoa học pháp lý, số 2/2011, tr.52

18



định về an ninh, trật tự cho nƣớc sở tại. Do đó, để giải quyết vấn đề này, các quốc gia hữu
quan thƣờng ký kết các Hiệp định về “nhận trở lại công dân”.
Xét trên phƣơng diện pháp lý quốc tế, nhận trở lại cơng dân có thể đƣợc hiểu là
hành vi của một nƣớc tiếp nhận trở lại những cơng dân của mình – những ngƣời đã nhập
cảnh và cƣ trú bất hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia khác. Mặc dù giữa chuyển
giao ngƣời đang chấp hành án phạt tù và nhận trở lại công dân có một số điểm giống
nhau nhƣ: cả hai đều là hình thức hợp tác quốc tế giữa các quốc gia và đều đƣợc thực
hiện dựa trên cơ sở các điều ƣớc quốc tế có liên quan; đối tƣợng của chuyển giao và nhận
trở lại công dân đều là công dân của nƣớc tiếp nhận27. Tuy nhiên, giữa chuyển giao ngƣời
đang chấp hành án phạt tù và nhận trở lại công dân có những điểm khác biệt cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, về căn cứ, nếu chuyển giao là một biện pháp tƣơng trợ tƣ pháp đƣợc
thực hiện khi có sự yêu cầu của: nƣớc chuyển giao; nƣớc nhận chuyển giao hoặc theo yêu
cầu của ngƣời đang chấp hành án phạt tù hay thân nhân của họ với điều kiện bắt buộc là
phải có sự đồng thuận của cả ba bên thì nhận trở lại công dân là một thủ tục chỉ đƣợc thực
hiện trên cơ sở yêu cầu của nƣớc chuyển giao.
Thứ hai, về đối tƣợng, nếu đối tƣợng của chuyển giao ngƣời đang chấp hành án
phạt tù là ngƣời nƣớc ngoài đã bị kết án phạt tù và đang chấp hành án tại quốc gia sở tại
thì đối tƣợng trong nhận trở lại công dân là công dân của nƣớc tiếp nhận nhƣng đã bị
quốc gia chuyển giao trục xuất vì lý do họ cƣ trú bất hợp pháp trên lãnh thổ quốc gia
này28. Nhƣ đã đề cập ở trên, trục xuất là một biện pháp có phần hạn chế khi chỉ mang tính
một chiều. Do đó, có thể thấy rằng với việc các quốc gia cam kết nhận trở lại cơng dân
sau khi các cơng dân này vì cƣ trú bất hợp pháp tại một quốc gia khác mà bị trục xuất là
một biện pháp bổ sung cho phần thiếu sót của biện pháp trục xuất. Thật vậy, các công dân
đƣợc nhận trở lại lúc này nằm trong tầm kiểm soát của nƣớc tiếp nhận và đƣợc nƣớc tiếp
nhận tạo điều kiện về làm việc cũng nhƣ sinh sống ổn định trên q hƣơng mình.
27

Ngơ Hữu Phƣớc, “Dẫn độ và các hình thức hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh phịng, chống tội phạm”, Tạp chí

khoa học pháp lý, số 2/2011, tr.51
28
Xem thêm các Hiệp định về nhận trở lại công dân mà Việt Nam đã ký kết với các nƣớc nhƣ: Slôvakia (năm 2005),
Thụy Sỹ (năm 2006), Thụy Điển (năm 2008).

19


×