Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 97 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
-------------------

VÕ NGUYỄN TRÚC BẠCH

Đề tài:
CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2008 – 2012

GV HƢỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG

TP. HỒ CHÍ MINH, 2012


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
-------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Đề tài:
CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

SVTH: VÕ NGUYỄN TRÚC BẠCH
KHÓA: 33 MSSV:0855030107
GVHD: ThS. NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG



TP. HỒ CHÍ MINH, 2012


Lời cảm ơn
Sau bốn năm học, bản thân tôi đã tích lũy đƣợc nhiều kiến thức pháp lý và kỹ năng
phục vụ cho nghề nghiệp trong tƣơng lai. Môi trƣờng tại Đại học Luật TP.HCM đã cho tôi
nhiều cơ hội để học tập, trao đổi kinh nghiệm, phát huy những thế mạnh vốn có và đồng
thời khắc phục những yếu điểm theo thời gian. Song song đó là sự quan tâm, dạy dỗ và
chia sẻ rất đáng quý đến từ đội ngũ giảng viên của nhà trƣờng. Đây là hành trang giúp tôi
vững bƣớc trên con đƣờng sắp tới. Là sinh viên lớp Tiếng pháp AUF nhƣng tôi đã lựa
chọn đề tài của Khoa Luật Hình sự để làm Khóa luận tốt nghiệp. Với sự giúp đỡ, truyền
đạt và hƣớng dẫn một cách tận tình của Thạc sỹ.Nguyễn Thị Ánh Hồng_Giảng viên Khoa
Luật hình sự, tơi đã hồn thành đề tài nghiên cứu về “Các tội xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ trong pháp luật hình sự Việt Nam”. Đồng thời những tài liệu của nhiều tác giả cũng đã
mang đến cho tôi nhiều kiến thức nhằm bổ sung và làm phong phú hơn đề tài của mình.
Những tài liệu trích dẫn đã đƣợc ghi nhận rõ nguồn, tên tác giả, tác phẩm một cách trung
thực và chính xác. Bên cạnh đó phải kể đến sự ủng hộ, quan tâm và những lời nhận xét
đến từ gia đình cũng nhƣ những ngƣời bạn của tôi.
Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô Nguyễn Thị
Ánh Hồng cùng những ngƣời đã góp phần giúp tơi hồn thiện đề tài này.
Những thiếu sót là khơng thể tránh khỏi, vì lẽ đó rất mong nhận đƣợc những ý kiến
đóng góp thẳng thắn đến từ các đọc giả. Điều này sẽ giúp cho nội dung của đề tài đƣợc tốt
hơn.

Tác giả đề tài
Võ Nguyễn Trúc Bạch


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

STT

Tên đầy đủ

1

Bộ luật dân sự

Bộ luật dân sự 2005.

2

Bộ luật hình sự

Bộ luật hình sự năm 1999 đã đƣợc sửa đổi, bổ
sung năm 2009.

3

Bộ luật tố tụng hình sự

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (sửa đổi, bổ
sung năm 2011).

4

BTA


Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ
ngày 14 tháng 7 năm 2000.

5

TRIPS

Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thƣơng mại của quyền sở hữu trí tuệ.

6

Luật Sở hữu trí tuệ

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã đƣợc sửa
đổi, bổ sung theo Luật số: 36/2009/QH12.

7

PLHSVN

Pháp luật hình sự Việt Nam.

8

Thơng tƣ liên tịch số 01/2008

Thông tƣ liên tịch số 01/2008/TTLTTANDTC- VKSNDTC- BCA- BTP ngày
29/02/2008 của liên Bộ Toà án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ

Công an, Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ.

9

WIPO

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới .


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... 8
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ và những quy định về quyền sở hữu trí tuệ
trong pháp luật Việt Nam ........................................................................................ 12
1.1.1.Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ ...................................................................... 12
1.1.2.Những quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật Việt Nam ................. 14
1.1.2.1. Pháp luật dân sự .................................................................................. 15
1.1.2.2. Pháp luật hành chính ........................................................................... 18
1.1.2.3. Pháp luật hình sự ................................................................................ 19
1.1.2.4. Các Điều ƣớc quốc tế.......................................................................... 21
1.1.2.5. Sự phù hợp của pháp luật Việt Nam với các Điều ƣớc quốc tế quy định về
quyền sở hữu trí tuệ ......................................................................................... 26
1.2.Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở một số quốc gia
1.2.2.Cộng hòa nhân dân Trung Hoa .......................................................................... 27
1.2.3.Vƣơng quốc Thụy Điển ..................................................................................... 28
1.3. Khái niệm về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ .................................... 29
1.4.Lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ ............................................................................................................. 31

1.4.1.Bộ luật hình sự 1985 .......................................................................................... 32
1.4.2.Bộ luật hình sự 1999 .......................................................................................... 34
1.4.3.Bộ luật hình sự 1999 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2009) .................................. 37


CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PLHSVN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PLHSVN
VỀ CÁC TỘI PHẠM NÀY
2.1.Quy định của PLHSVN về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ .............. 40
2.1.1.Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp....... 41
2.1.1.1. Khái niệm về Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp (Điều 170) ................................................................................... 41
2.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý .......................................................................... 41
2.1.1.3. Hình phạt ............................................................................................ 47
2.1.2. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a) ............................. 49
2.1.2.1. Khái niệm về Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan ............ 49
2.1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý .......................................................................... 50
2.1.2.3. Hình phạt ............................................................................................ 57
2.1.3. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) ..................................... 59
2.1.3.1. Khái niệm về Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ................... 59
2.1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý .......................................................................... 59
2.1.3.2. Hình phạt ............................................................................................ 65
2.2.So sánh với các tội phạm khác có liên quan trong pháp luật hình sự hiện hành
2.2.1.Tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản (Điều 139) ....................................................... 67
2.2.2.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140) ..................................... 68
2.2.3.Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142) ........................................................... 69
2.2.4.Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156, 157, 158) ...................................... 70
2.2.5.Tội lừa dối khách hàng (Điều 162) .................................................................... 72
2.2.6.Tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, đĩa hình,
băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271) ............................................................ 73

2.3. Thực trạng vi phạm pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ và một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện quy định của PLHSVN về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ


2.3.1. Thực trạng vi phạm pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ ..................................... 75
2.3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của PLHSVN về các tội xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ .................................................................................................... 84
2.3.2.2. Hồn thiện những quy định của PLHSVN về các tội xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ ......................................................................................................... 84
2.3.2.3. Những kiến nghị khác ......................................................................... 88
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 93


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu từ giai đoạn sơ khai con ngƣời chỉ tạo ra đƣợc các sản phẩm vật chất từ lao
động bằng chân tay, bằng cơ bắp thì dần dần con ngƣời đã biết sáng tạo ra những sản
phẩm của khối óc, của trí tuệ. Những sản phấm ấy đƣợc xem nhƣ một đòn bẩy thúc đẩy xã
hội loài ngƣời ngày càng tiến bộ và vƣợt ra khỏi khả năng vốn có. Chính khả năng sáng
tạo và tìm tịi khơng ngừng đã mở rộng chân trời hiểu biết cho nhân loại cũng nhƣ mang
đến những sản phẩm giúp đời sống của con ngƣời đƣợc tốt hơn. Có thể kể đến là các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học…hay các giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp…Trong giai đoạn hiện nay, các sản phẩm trí tuệ ngày càng gia tăng khơng chỉ về
mặt số lƣợng mà cả về chất lƣợng. Đó là những sản phẩm đƣợc tạo ra bởi hoạt động trí óc
và mang giá trị tri thức hàm chứa rất cao. Để cho ra đời đƣợc những sản phẩm nhƣ thế thì
phải mất rất nhiều “chất xám”, thời gian cũng nhƣ tiền bạc. Vì vậy, pháp luật đã có những
quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những ngƣời đƣợc xem là tác giả
hay chủ sở hữu của các sản phẩm đó. Quyền này đƣợc pháp luật gọi tên là quyền sở hữu
trí tuệ.
Quyền sở hữu trí tuệ nhận đƣợc sự bảo vệ từ các ngành luật khác nhau trong hệ

thống pháp luật Việt Nam. Bằng chứng là quyền này thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật dân sự, pháp luật hành chính và cả pháp luật hình sự. Mỗi ngành luật điều chỉnh
quyền sở hữu trí tuệ ở một khía cạnh, bằng cách thức riêng và nhằm những mục tiêu khác
nhau. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp hình sự vẫn cịn hạn chế so với các biện pháp
khác khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra. Theo những số liệu thống kê
thì đến nay vẫn chƣa có một hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nào bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Hay nói cách khác, quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ vẫn “nằm im trên giấy” sau khoảng 27 năm tính từ khi đƣợc ghi nhận
trong Bộ luật hình sự 1985 đến nay. Đây cũng là một trong những ngun nhân khiến cho
cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm về sở hữu trí tuệ gặp nhiều khó khăn vì biện
pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc đƣợc ghi nhận trong Bộ luật hình sự vẫn
1


chƣa đƣợc áp dụng vào thực tế. Do đó, việc xác định rõ ranh giới để xử lý hình sự với các
hình thức xử lý khác; các yếu tố cấu thành tội phạm; ƣu_ nhƣợc điểm của những quy định
trong pháp luật hình sự trong lĩnh vực này là một điều rất cần thiết trong thời điểm hiện
nay. Mặt khác giá trị của những đối tƣợng sở hữu trí tuệ là rất lớn, do đó những hành vi
xâm phạm chúng cịn có thể ảnh hƣởng đến trật tự quản lý kinh tế nói riêng, cả nền kinh tế
nói chung. Vì những lý do trên mà tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu và mong
muốn trả lời đƣợc những câu hỏi còn vƣớng mắc trên.
2. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm đƣợc xem là khá mới mẻ trong pháp luật
Việt Nam nói riêng và trong pháp luật quốc tế nói chung cả về mặt thời gian xuất hiện
cũng nhƣ số lƣợng của các quy định về lĩnh vực này. Hơn nữa, gắn liền với thực tiễn của
Việt Nam hiện nay đã có luật chuyên ngành về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Do đó, khi lựa chọn
đề tài này tác giả xin phép bám sát những đối tƣợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ đƣợc quy
định trong pháp luật dân sự Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ. Và thơng qua những nghiên
cứu đó sẽ đƣa ra sự so sánh, đối chiếu với nội hàm của những quy định trong các ngành
luật khác về cùng lĩnh vực. Trong bối cảnh Việt Nam ban hành Luật Sở hữu trí tuệ cũng là

một trong những bƣớc nhằm đƣợc gia nhập và trở thành thành viên của Tổ chức thƣơng
mại thế giới WTO, vì thế sự ảnh hƣởng của các Điều ƣớc quốc tế là không thễ chối cãi.
Thế nhƣng vẫn có một vài đối tƣợng sở hữu trí tuệ khơng đƣợc đề cập trong pháp luật Việt
Nam hoặc có đề cập nhƣng chỉ nêu chung chung. Vì vậy, tác giả sẽ khơng trình bày cũng
nhƣ nghiên cứu tất cả các đối tƣợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ theo nghĩa rộng nhất mà
chỉ tập trung vào những quy định của pháp luật trong nƣớc.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài này đƣợc tiến hành theo phƣơng pháp thu thập và tổng hợp các tài liệu có
liên quan bao gồm những văn bản quy định về lĩnh vực sở hữu trí tuệ và các sách, tạp chí,
bài viết … Sau khi hệ thống hết những tài liệu đã tìm đƣợc, sử dụng phƣơng pháp phân
tích và đối chiếu để chọn lọc ra những điểm giống cũng nhƣ khác nhau giữa các tài liệu

2


(nếu có) về cùng một vấn đề. Từ đó đƣa ra những đặc điểm chung nhất của nhóm các tội
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhằm xác định các tội phạm cụ thể theo quy định của Bộ
luật hình sự. Các tội phạm cụ thể này sẽ đƣợc phân tích các yếu tố cấu thành và đồng thời
đối sánh với nội hàm đƣợc pháp luật dân sự quy định về những vấn đề có liên quan. Dựa
trên những phân tích đó, tác giả sẽ đƣa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện những quy
định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
4. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Sau khi nghiên cứu, tác giả mong muốn rằng sẽ mang đến cho ngƣời đọc những
hình dung sơ lƣợc nhất về quyền sở hữu trí tuệ cũng nhƣ nội hàm, cách thức bảo vệ quyền
này trong pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó là những quy định về các tội xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ trong Bộ luật hình sự hiện hành với những phân tích cụ thể nhằm xác định rõ
các yếu tố cấu thành tội phạm, đối chiếu với những quy định của pháp luật dân sự, các
điều ƣớc quốc tế…về cùng lĩnh vực. Đồng thời, tác giả cũng xin đƣa ra một số kiến nghị
nhằm góp phần hồn thiện hơn những quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo vệ bằng biện pháp hình sự nói

riêng là vấn đề cấp thiết hiện nay. Trong khi biện pháp hình sự đã có những quy định cụ
thể trong Bộ luật hình sự thì trên thực tế nó vẫn chƣa lần nào đƣợc áp dụng cho một hành
vi vi phạm. Vì lẽ đó thơng qua đề tài này, tác giả hƣớng đến việc đƣa ra những ý kiến xoay
quanh quy định trong Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhằm nâng
cao khả năng áp dụng trong thực tế của những quy định này. Từ đó, phần nào có thể nâng
cao hiệu quả trong cơng tác đấu tranh, phịng chống, xử lý những hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ đang diễn ra hiện nay và đồng thời bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp
pháp của chủ thể quyền này.
5. Cơ cấu đề tài
Ngồi phần lời nói đầu và kết luận, nội dung đề tài đƣợc kết cấu từ hai chƣơng bao
gồm:

3


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Chƣơng 1 nhằm giới thiệu một cách khái quát về các tội xâm phạm quyền này đƣợc
quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam. Đầu tiên là xác định đƣợc khái niệm quyền sở
hữu trí tuệ để dựa vào đó xác định các quy định của pháp luật liên quan đến quyền này.
Pháp luật Việt Nam cũng nhƣ pháp luật quốc tế đều có những quy định về quyền sở hữu
trí tuệ. Những quy định đó bao gồm nội dung, cách thức xác lập, chủ sở hữu…của quyền
sở hữu trí tuệ. Một trong các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đƣợc đề cập đến chính
là biện pháp hình sự. Để thực hiện biện pháp này, pháp luật hình sự đã đƣa ra những quy
định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà cụ thể là Bộ luật hình sự. Theo thời
gian, những quy định cũng đã có sự thay đổi nhất định về đối tƣợng tác động của tội
phạm, hành vi khách quan…và cả số lƣợng các điều luật.
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PLHSVN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PLHSVN
VỀ CÁC TỘI PHẠM NÀY
Nội dung của chƣơng 2 chủ yếu xoay quanh các quy định của Bộ luật hình sự Việt

Nam hiện hành về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Các tội phạm này sẽ đƣợc trình
bày và phân tích chi tiết về khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và hình phạt. Song song đó là
so sánh các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với một số tội phạm khác có những điểm
tƣơng đồng nhất định đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự. Sau cùng, đề tài phản ánh về
thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và đồng thời đƣa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm quyền này.

4


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ và những quy định về quyền sở hữu trí tuệ
trong pháp luật Việt Nam
1.1.1.Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu đời, nó gắn liền với quá trình
con ngƣời hình thành sự tƣ hữu đối với những tài sản do mình tạo ra. Quyền sở hữu hiểu
một cách đơn giản là quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Quyền
sở hữu bao gồm ba loại quyền gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Dần già, tài sản đƣợc hình thành từ nhiều nguồn hơn, có thể nhận đƣợc từ tặng cho, thừa
kế, mua bán… Đồng thời tài sản cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn và đƣợc phân
thành hai nhóm là động sản và bất động sản. Thế nhƣng tùy theo quan điểm của mỗi quốc
gia mà việc chọn lựa, sắp xếp các loại tài sản vào hai nhóm này cũng có sự khác nhau
trong quy định pháp luật của các nƣớc.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài ngƣời, những sản phẩm đƣợc tạo ra không
đơn thuần chỉ là đáp ứng cho nhu cầu về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần. Họ đã
sử dụng trí tuệ, khối óc cùng với đơi tay để tạo ra những sản phẩm hết sức đặc biệt không
chỉ để phục vụ cho nhu cầu của riêng mình mà đơi khi là cịn cho cả nhân loại. Một trong
những yếu tố khiến loại sản phẩm này trở nên đặc biệt chính là ở yếu tố "vơ hình”. Tuy
những tài sản đó mang tính chất trừu tƣợng nhƣng chúng đã có những đóng góp rất to lớn
cho cuộc sống của chúng ta. Chúng có thể là những tác phẩm văn học, nghệ thuật… hay

những phát minh, sánh chế của các nhà khoa học về nhiều lĩnh vực… và chúng ta gọi
chung đó là những sản phẩm của trí tuệ. Những sản phẩm đó có thể đƣợc thể hiện dƣới
một dạng vật chất cụ thể, hữu hình nhƣng đơi khi chỉ dừng lại ở các ý tƣởng đƣợc hình
thành trong suy nghĩ của ngƣời sáng tạo ra nó. Vậy quyền sở hữu trí tuệ có phải chỉ đặt ra
đối với các hình thức vật chất ấy hay khơng? Hơn nữa, tại sao quyền sở hữu trí tuệ lại
khơng có quy định về quyền chiếm hữu? Bởi lẽ để tạo ra một sản phẩm trí tuệ là cả một
q trình và khơng ít cơng sức, giá trị của nó đƣợc khẳng định bởi hàm lƣợng tri thức nằm
bên trong nó. Vì thế quyền sở hữu trí tuệ đƣợc pháp luật bảo vệ không chỉ dành cho những
sản phẩm vật chất cụ thể mà còn là sự bảo vệ cho những gì đƣợc xem là sản phẩm của sự

5


sáng tạo bên trong các sản phẩm vật chất cụ thể đó. Và để bảo vệ đƣợc thành quả lao động
của trí tuệ, pháp luật đã mang đến cho ngƣời tạo ra chúng hay sở hữu chúng những quyền
nhất định và ta gọi nó là quyền sở hữu trí tuệ.
Mặc dù có rất nhiều các hiệp định và cơng ƣớc quốc tế về sở hữu trí tuệ nhƣng
hiện nay vẫn chƣa có một định nghĩa chính thức nào về quyền sở hữu trí tuệ, do đó tác giả
xin trình bày một số các khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ nhằm tìm ra điểm chung nhất
giữa các quan điểm nhƣ sau:
Căn cứ Điều 2 của Công ƣớc Stockholm_ Công ƣớc thành lập Tổ chức Sở hữu trí
tuệ thế giới (WIPO) ký ngày 14/7/1967 quy định: “Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên
quan đến các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các cuộc biểu diễn của nghệ sĩ
biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế trong tất cả các
lĩnh vực sáng tạo của con người; các khám phá khoa học; các kiểu dáng công nghiệp; các
nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và các tên thương mại; bảo hộ chống lại sự cạnh
tranh không lành mạnh; và tất cả các quyền khác nảy sinh từ kết quả của hoạt động trí tuệ
thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghiệp”. Định nghĩa này đƣợc
đƣa ra bằng cách liệt kê các phạm trù thuộc nội hàm của quyền sở hữu trí tuệ.
Thơng qua các đối tƣợng của quyền này, ta có thể đƣa ra định nghĩa về quyền sở

hữu trí tuệ nhƣ sau: “ Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với tài sản vơ hình là
thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể, được pháp luật quy
định bảo hộ” hay “Sở hữu trí tuệ là việc sở hữu các tài sản về trí tuệ, đó là những sản
phẩm được tạo ra từ q trình lao động trí óc của con người, đó có thể là các tài sản vơ
hình hoặc hữu hình và việc xác định đâu là một tài sản thuộc sở hữu trí tuệ thì phải dựa
vào các điều kiện nhất định của từng loại tài sản được liệt kê trong nội hàm của sở hữu trí
tuệ theo quy định của hệ thống pháp luật phù hợp.”[21]
Qua một số khái niệm vừa đƣợc nêu ra, chúng ta dễ dàng thấy rằng việc định nghĩa
về quyền sở hữu trí tuệ thật sự khơng đơn giản. Vì lẽ đó, tơi xin đƣa ra khái niệm nhƣ sau :
“Quyền sở hữu trí tuệ là những quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản
phẩm được tạo ra bởi trí óc và tùy thuộc vào quy định của mỗi hệ thống pháp luật mà
6


nội hàm của các đối tượng thuộc quyền này sẽ có sự khác nhau.” Theo quan điểm cá
nhân, tơi cho rằng việc liệt kê các quyền thuộc quyền sở hữu trí tuệ và các đối tƣợng thuộc
quyền này là một cách quy định không khả thi. Nguyên nhân là do bản chất của các đối
tƣợng này đều xuất phát từ khả năng sáng tạo của con ngƣời mà vốn dĩ đó là thứ mà chúng
ta khơng thể kiểm sốt hay nhận thức đƣợc hết. Có thể sự liệt kê ấy sẽ làm triệt tiêu mọi ý
tƣởng mới hoặc nó sẽ trở thành một “gọng kìm” hạn chế sự sáng tạo của con ngƣời. Thậm
chí điều đó có thể khiến cho xã hội loài ngƣời ngày càng thụt lùi, lạc hậu hơn nữa. Vì thế
việc quy định mở và để cho thực tế quyết định phạm vi của các đối tƣợng thuộc quyền sở
hữu trí tuệ là một điều thích hợp. Vấn đề thứ hai cần lƣu ý chính là việc xác định quyền
này thuộc về đối tƣợng nào cũng rất cần thiết. Không hẳn ngƣời sáng tạo ra sản phẩm trí
tuệ ấy sẽ có tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đối với chúng hay chủ sở hữu quyền sở hữu trí
tuệ cũng thế. Do đó, chúng ta nên sử dụng thuật ngữ chủ thể quyền sở hữu trí tuệ sẽ đầy đủ
hơn. Tùy thuộc đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ mà chúng ta sẽ có các cách thức khác nhau
để xác định ngƣời nào là tác giả, ngƣời nào là chủ sở hữu.
1.1.2.Những quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật Việt Nam
Trong bối cảnh chung của thế giới, Việt Nam nhận thức đƣợc tầm quan trọng của

việc phải đƣa ra những quy định về sở hữu trí tuệ nhằm hội nhập tốt hơn và đồng thời việc
hoàn thiện dần các quy định về sở hữu trí tuệ cũng là một bƣớc trong lộ trình xin gia nhập
vào Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO của Việt Nam. Hơn nữa, mỗi quốc gia không đứng
một cách riêng lẻ mà đều tồn tại bên cạnh những mối quan hệ quốc tế với các quốc gia
khác, các tổ chức khu vực hay thậm chí là những tổ chức thế giới. Vì thế, Việt Nam cũng
đã trở thành thành viên của rất nhiều các Điều ƣớc quốc tế, tổ chức quốc tế về sở hữu trí
tuệ. Có thể là cùng một quan hệ phát sinh thế nhƣng có nhiều nguồn luật có thể dùng để áp
dụng đối với quan hệ đó. Ngày nay, để điều chỉnh một quan hệ pháp luật thì khơng chỉ đơn
giản là căn cứ vào pháp luật quốc gia mà tùy thuộc vào những trƣờng hợp cụ thể khác mà
ngƣời ta còn phải lựa chọn hoặc áp dụng những hệ thống pháp luật khác ngồi pháp luật
của quốc gia ấy. Do đó, trong quy định về áp dụng pháp luật của Việt Nam ở một số lĩnh
vực nhất định đều có quy định về các trƣờng hợp xác định luật áp dụng nhƣ Điều ƣớc
quốc tế, pháp luật nói chung hay luật chuyên ngành… Và lĩnh vực sở hữu trí tuệ cũng
7


không phải là ngoại lệ của quy luật này. Tại Điều 5 Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định nhƣ
sau về áp dụng pháp luật:
1. Trong trƣờng hợp có những vấn đề dân sự liên quan đến sở hữu trí tuệ khơng đƣợc
quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.
2. Trong trƣờng hợp có sự khác nhau giữa quy định về sở hữu trí tuệ của Luật Sở hữu
trí tuệ với quy định của luật khác thì áp dụng quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
3. Trong trƣờng hợp Điều ƣớc quốc tế mà Cộng hoàn xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác với quy định của Luật Sở hữu trí tuệ thì áp dụng quy
định của Điều ƣớc quốc tế đó.
Qua đó, ta nhận thấy rằng những quy định về quyền sở hữu trí tuệ của pháp luật Việt
Nam khơng chỉ là pháp luật quốc gia mà cịn có các Điều ƣớc quốc tế_Việt Nam là thành
viên.

1.1.2.1.Pháp luật dân sự

* Bộ luật dân sự 2005:
Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản
mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập
của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ đó và có hiệu lực pháp lý trên toàn bộ lãnh
thổ Việt Nam. Ngày 28/10/1995, tại kỳ họp thứ 8, Quốc Hội khóa IX đã thơng qua Bộ
Luật dân sự 1995 chính thức thiết lập chế độ pháp lý cao nhất cho việc xác lập, bảo hộ và
thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Theo sau đó là hàng loạt các văn bản pháp luật
quy định chi tiết về các đối tƣợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ. Tháng 5 năm 2005, tại kỳ
họp thứ 7, Quốc Hội khóa XI, đã thông qua Bộ Luật dân sự 2005 thay thế cho Bộ Luật dân
sự 1995. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cũng nhƣ ban hành mới, các quy định về
quyền sở hữu trí tuệ ln có mặt xun suốt trong Bộ luật dân sự.
Trong Bộ luật dân sự 2005 quyền sở hữu trí tuệ đƣợc quy định tại Phần sáu Quyền
sở hữu trí tuệ và quyền chuyển giao cơng nghệ. Quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật dân sự
bao gồm: quyền tác giả (mục 1 chƣơng XXXIV); quyền liên quan đến quyền tác giả (mục
8


2 chƣơng XXXIV); quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng (chƣơng
XXXV). Nhƣ vậy, quyền sở hữu trí tuệ đã có mặt trong Bộ luật dân sự hay nói cách khác
quyền sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự. Ta thấy rằng cách thức
mà Bộ luật dân sự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là đƣa ra những quy định định về khái
niệm; đối tƣợng quyền; nội dung quyền; thời điểm phát sinh, cách xác lập và hiệu lực của
quyền đối với các loại đối tƣợng thuộc quyền đã đƣợc liệt kê bên trên. Tuy nhiên cần lƣu ý
là trong 18 điều luật từ Điều 736- Điều 753 Bộ luật dân sự vẫn chƣa quy định nhƣ thế nào
là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng nhƣ các biện pháp xử lý đối với những
hành vi đó.
Trong Bộ luật dân sự các quyền sở hữu trí tuệ đƣợc quy định theo phân loại nội
hàm của quyền sở hữu trí tuệ. Nói cách khác, nội dung quyền đƣợc quy định chung cho
các đối tƣợng cùng thuộc một nhóm đối tƣợng quyền bao gồm quyền tác giả, quyền liên

quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Sau
đó, thơng qua những quy định chung thì Bộ luật dân sự đã cụ thể hóa một cách riêng biệt
cho từng đối tƣợng. Tức là quy định theo hƣớng từ cái chung đến cái riêng rồi từ cái riêng
đến cái đơn nhất của từng đối tƣợng cụ thể. Do đó, các đối tƣợng cùng thuộc một nhóm
đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ thì có sự phân định khác nhau một vài điểm về nội dung
quyền của chủ thể quyền đối với chúng.
* Luật chuyên ngành: Luật sở hữu trí tuệ
Năm 2003, Luật Sở hữu trí tuệ đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình làm luật của Quốc
Hội và nhận đƣợc rất nhiều ý kiến cũng nhƣ quan điểm khác nhau. Mặt khác, sự ra đời của
văn bản luật này cũng là hoạt động cần thiết trong lộ trình xin gia nhập Tổ chức thƣơng
mại thế giới WTO của Việt Nam trong giai đoạn đó. Vì thế khơng thể hỗn việc cho ra đời
một văn bản chuyên ngành về sở hữu trí tuệ. Ngày 29/11/2005, tại kỳ họp thứ 10, Quốc
Hội khóa X, Luật Sở hữu trí tuệ đã đƣợc ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/2006. Từ vị
trí là một chế định trong Bộ Luật dân sự, những quy định về sở hữu trí tuệ đã hình thành
một ngành luật độc lập_ ngành luật sở hữu trí tuệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hay
nói cách khác, đây là lần đầu tiên Việt Nam có một đạo luật riêng về sở hữu trí tuệ ở tầm
vóc là một đạo luật. Nó đã quy định một cách đầy đủ và trọn vẹn về những vấn đề liên

9


quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay. Luật sở hữu trí tuệ đã ra đời trên
cơ sở tiếp thu những quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ Luật dân sự cũng nhƣ
trong các Điều ƣớc quốc tế có liên quan. Đây là văn bản thể hiện rõ sự hội nhập cũng nhƣ
dần hoàn thiện hệ thống pháp luật nƣớc ta khi gặp gỡ bạn bè trên trƣờng quốc tế.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ:
“ Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao
gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và
quyền đối với giống cây trồng”.
Ta thấy rằng nội hàm của quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật dân sự và Luật Sở hữu

trí tuệ là hồn tồn trùng khớp với nhau. Đó chỉ là sự cụ thể hóa và những quy định nhằm
để quyền này đƣợc thực hiện đồng thời đƣợc bảo vệ tốt hơn trong thực tế. Thế nhƣng có
một điểm khác nhau đáng lƣu ý giữa Luật Sở hữu trí tuệ và Phần thứ sáu Bộ Luật dân sự
chính là đối tƣợng điều chỉnh của hai văn bản luật này. Trong khi Bộ luật dân sự chỉ đƣa
ra các quy định liên quan đến nội dung của quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng thì Luật sở hữu trí tuệ
cịn quy định thêm về các trình tự, thủ tục xác lập quyền và cách thức thực thi quyền. Tức
là Luật Sở hữu trí tuệ vừa là luật nội dung vừa là luật hình thức.
Ngồi ra, tại “Phần thứ năm: Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ” đã có nhiều quy định về
các biện pháp chế tài nhằm xử lý những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ và tùy
tính chất, mức độ của hành vi mà xác định loại chế tài phù hợp. Quy định này đƣợc hƣớng
dẫn cụ thể tại Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hƣớng dẫn
thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà
nƣớc về sở hữu trí tuệ nhƣ sau:
1. Biện pháp dân sự đƣợc áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm
gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện
pháp hình sự.
2. Biện pháp hành chính đƣợc áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm thuộc một trong
các trƣờng hợp quy định tại Điều 211 của Luật Sở hữu trí tuệ, theo yêu cầu của chủ thể
10


quyền sở hữu trí tuệ, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, tổ chức,
cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm hoặc do cơ quan có thẩm quyền chủ động phát hiện.
3. Biện pháp hình sự đƣợc áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm trong trƣờng hợp
hành vi đó có yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Trong trƣờng hợp cần thiết, cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền có thể áp dụng các
biện pháp sau đây: biện pháp khẩn cấp tạm thời; biện pháp kiểm sốt hàng hóa xuất, nhập
khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ; biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính

theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật có liên quan

1.1.2.2.Pháp luật hành chính
Trong giai đoạn đầu khi hình thành những quy định về quyền sở hữu trí tuệ thì biện
pháp hành chính đã đƣợc xác định là một trong ba chế tài cơ bản để xử lý các hành vi xâm
phạm quyền này. Nghị định 140/1991/HĐBT về xử lý buôn bán hàng giả, NĐ
57/1997/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đo lƣờng chất lƣợng hàng hóa là
những văn bản quy định riêng biệt về việc xử lý ngay khi Bộ luật dân sự 1995 chƣa đƣợc
ban hành. Và tiếp tục trong những giai đoạn sau đó với sự ra đời của Bộ luật dân sự 1995,
Bộ luật dân sự 2005 và cả Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì pháp luật hành chính vẫn ln tồn
tại các văn bản quy định nhằm xử lý những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Văn
bản chung nhất có thể nói đến chính là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ln dành một
phần cho các quy định về xử lý những hành vi xâm phạm và chúng cũng đƣợc cụ thể hóa
một cách chuyên biệt cho những đối tƣợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ trong một số văn
bản đơn lẻ khác nhƣ: Nghị định số 47/2009/NĐ-CP về việc quy định xử phạt vi phạm
hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan ban hành ngày 13/5/2009; Nghị định
97/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp; Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa…Tại các văn bản này pháp luật hành
chính đã đƣa ra những quy định về hành vi bị xử lý hành chính, chủ thể có thẩm quyền xử
lý, mức phạt tiền…tƣơng ứng với từng hành vi. Các cơ quan chức năng đƣợc trao quyền
thực hiện các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp
11


bao gồm: thanh tra chuyên ngành về Sở hữu công nghiệp thuộc Bộ khoa học công nghệ và
các Sở Khoa học công nghệ và môi trƣờng; Cục Quản lý thị trƣờng thuộc Bộ Công
thƣơng, các Chi cục và Đội quản lý thị trƣờng; Cảnh sát kinh tế; Tổng cục Hải quan và hải
quan tại các cửa khẩu…Các chế tài hành chính đƣợc quy định nhƣ: phạt tiền, tƣớc quyền
sử dụng giấy phép kinh doanh, tịch thu tang vật, phƣơng tiện vi phạm hành chính, buộc

loại bỏ các yếu tố vi phạm, …

1.1.2.3.Pháp luật hình sự
Với vai trị là một đạo luật quy định về tội phạm và hình phạt, pháp luật hình sự là
một trong những đạo luật ra đời sớm nhất trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên
thế giới. Pháp luật hình sự là một trong những cơng cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh
phịng ngừa và chống tội phạm; góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích
của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức; góp phần duy trì trật tự an
tồn xã hội, trật tự quản lý kinh tế; bảo đảm cho mọi ngƣời đƣợc sống trong một mơi
trƣờng xã hội và sinh thái an tồn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Đồng thời, pháp
luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nƣớc vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội
công bằng, văn minh. Pháp luật hình sự đƣa ra cơ chế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân trƣớc những hành vi đƣợc xem là tội phạm đƣợc quy định trong văn
bản cụ thể là Bộ luật hình sự.
Quyền sở hữu trí tuệ đƣợc chúng ta đề cập là một trong những quyền của công dân
đƣợc pháp luật bảo vệ. Trong quy định của các ngành luật khác cũng đã ghi nhận những
biện pháp bảo vệ quyền này nhƣ pháp luật dân sự, pháp luật hành chính mà tác giả đã trình
bày ở trên. Thế nhƣng, trong thực tế có những hành vi nếu chỉ áp dụng biện pháp dân sự
hay hành chính thì khơng sẽ đủ sức răn đe. Vì vậy, biện pháp hình sự cũng đƣợc ghi nhận
là một trong những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bên cạnh các biện pháp khác. Cụ
thể quy định tại Phần thứ năm Luật sở hữu trí tuệ, các nhà làm luật đã đƣa ra rất nhiều
biện pháp nhằm bảo vệ quyền này và trong số đó có biện pháp hình sự. Tuy nhiên Luật Sở

12


hữu trí tuệ khơng quy định cụ thể hành vi xâm phạm nào thì bị áp dụng chế tài hình sự, chỉ
quy định cá nhân thực hiện những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu

thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì thế muốn áp dụng chế tài hình sự
chúng ta phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự để xem hành vi vi phạm đó đã
cấu thành tội phạm hay chƣa. Khi một ngƣời thực hiện một hành vi đã đƣợc quy định
trong Bộ Luật hình sự thì sẽ bị áp dụng chế tài hình sự, vì hành vi này khơng chỉ xâm
phạm lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ mà đã xâm phạm đến lợi ích của tồn xã hội,
vi phạm chính sách tội phạm của nhà nƣớc. Rõ ràng, đối với những hành vi xâm phạm ở
mức độ cao, ảnh hƣởng đến nhiều đối tƣợng và mang tính chất nguy hiểm thì biện pháp
hình sự là biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ triệt để nhất. Trải qua các giai đoạn, trong
Bộ luật hình sự ln có quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhƣng phạm vi
áp dụng, đối tƣợng áp dụng có sự thay đổi qua các văn bản. Việc sắp xếp các tội phạm này
vào chƣơng nào là dựa trên cơ sở xác định khách thể bị xâm hại của tội phạm đó.
Ngồi ra, trong pháp luật hình sự cịn có những quy định về tố tụng hình sự nhằm
xác định các trình tự, thủ tục khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội hoặc
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong những trƣờng hợp cần thiết.
1.1.2.4.Các Điều ƣớc quốc tế
Hiện nay các quốc gia khơng chỉ tồn tại riêng rẽ một mình mà cịn có mối quan hệ
với các quốc gia khác. Do đó việc xuất hiện ngày càng nhiều các điều ƣớc quốc tế đa
phƣơng và song phƣơng là một điều tất yếu. Điều đó khơng chỉ giúp cho mối quan hệ gữa
các quốc gia tốt hơn mà còn giúp cho hệ thống pháp luật của các nƣớc “xích lại” gần nhau
hơn. Thơng qua đó, tạo nên một mơi trƣờng pháp lý với những nét tƣơng đồng nhất định
để thuận lợi hơn cho các quốc gia khi hợp tác với nhau trong các lĩnh vực. Trên con đƣờng
hội nhập vào nền kinh tế thế giới, cũng giống nhƣ những quốc gia khác, Việt Nam cũng đã
trở thành thành viên của những Điều ƣớc quốc tế. Ta có thể xem đó là luật giữa các quốc
gia nhằm tạo nên một sự tƣơng đồng nhất định về mặt pháp lý nhằm bảo vệ tốt nhất những
vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Mặt khác, pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt

13


Nam là một chế định khá mới mẻ vì vậy để cho ra đời những quy định phù hợp thì việc

dựa vào các Điều ƣớc quốc tế là hết sức cần thiết.
* Điều ƣớc quốc tế đa phƣơng
Điều ƣớc quốc tế đa phƣơng là thỏa thuận giữa các chủ thể luật quốc tế ( trên hai
chủ thể) về một hoặc một số vấn đề nhất định. Một chủ thể có thể là thành viên của điều
ƣớc quốc tế đa phƣơng bằng cách ký kết hoặc xin gia nhập và đồng thời là thành viên của
nhiều điều ƣớc (nếu điều ƣớc tham gia trƣớc đó khơng cấm).
Việt Nam đã tham gia vào các Điều ƣớc quốc tế đa phƣơng về quyền sở hữu trí tuệ
từ khá lâu trong lịch sử. Nếu hai Công ƣớc đầu tiên về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là Cơng
ƣớc Paris 1883 về quyền sở hữu công nghiệp và Công ƣớc Berne 1886 về quyền tác giả,
thì Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ƣớc Paris từ ngày 08/3/1949 dƣới thời Bảo
Đại và đã từng là thành viên của Công ƣớc Berne dƣới thời Pháp thuộc. Hiện nay số lƣợng
các Điều ƣớc đa phƣơng mà Việt Nam là thành viên cũng tăng lên, có thể kể đến nhƣ
Cơng ƣớc Rome năm 1961 về bảo hộ ngƣời biểu diễn, nhà xuất bản, ghi âm và tổ chức
phát sóng; Hiệp ƣớc hợp tác quốc tế về bằng sáng chế năm 1970 (PCT); Công ƣớc UPOV
năm 1961 về bảo hộ giống cây trồng mới… Qua một số điều ƣớc Việt Nam đã tham gia và
những điều ƣớc quốc tế khác về sở hữu trí tuệ, rõ ràng hiện nay có rất nhiều điều ƣớc đã
đƣợc ký kết và điều chỉnh nhiều khía cạnh xung quanh quyền sở hữu trí tuệ. Có những
điều ƣớc đƣa ra những quy định chung cho các đối tƣợng thuộc quyền hoặc quy định
chuyên biệt cho một đối tƣợng hay một nhóm đối tƣợng nhất định. Tuy nhiên, những thỏa
thuận này đều xác định cách thức bảo vệ đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ bằng cách cho
phép pháp luật của các quốc gia thành viên đƣợc quy định những biện pháp xử lý với bất
kì hành vi xâm phạm nào.
Việc WIPO ra đời với tƣ cách là một trong các cơ quan chuyên môn của WTO cũng
là yếu tố giúp cho những điều ƣớc này theo những tiêu chuẩn chung nhất. Hiệp định về
các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) năm 1994 trong
khn khổ các văn kiện của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) ra đời trên sự tổng hợp
những quy định từ những điều ƣớc mà WIPO đang giám sát. Cũng nhƣ những điều ƣớc

14



quốc tế khác về thƣơng mại, TRIPS cũng đƣa ra những nguyên tắc cơ bản gồm nguyên tắc
đối xử công dân hay gọi là nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc đối xử tối huệ quốc.
Đây là nguyên tắc mà các thành viên khi tham gia vào điều ƣớc phải thực hiện đối với
những thành viên khác của điều ƣớc.
Tại Chƣơng III hiệp định đã đƣa ra những quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ
và riêng về chế tài hình sự theo Điều 61 TRIPS:“Các Thành viên phải quy định những thủ
tục tố tụng hình sự và hình phạt cần được áp dụng ít nhất trong các trường hợp cố ý làm
hàng giả nhãn hiệu hàng hố hoặc vi phạm bản quyền với quy mơ thương mại. Những chế
tài có thể áp dụng phải bao gồm tù giam và/ hoặc phạt tiền đủ để răn đe xâm phạm, phù
hợp với mức hình phạt áp dụng đối với tội phạm có mức độ nặng nhẹ tương ứng. Trong
những trường hợp thích hợp, những biện pháp chế tài có thể áp dụng cũng phải bao gồm
cả việc thu giữ, tịch thu và tiêu huỷ hàng hoá vi phạm và bất kỳ nguyên liệu và phương
tiện nào sử dụng chủ yếu để thực hiện tội phạm. Các Thành viên có thể quy định những
thủ tục hình sự và các hình phạt áp dụng cho những trường hợp khác vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ, đặc biệt là trường hợp cố ý vi phạm và vi phạm với quy mô thương mại”. Từ
đây đối chiếu với quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật hình
sự, ta thấy rằng pháp luật Việt Nam đã đáp ứng đƣợc những yêu cầu đặt ra từ TRIPS khi
xác định biện pháp hình sự là một trong những chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ.
Ngồi ra, tại Cơng ƣớc Geneve năm 1971 về bảo hộ nhà xuất bản, ghi âm chống
việc sao chép không đƣợc phép cũng ghi nhận tại Điều 4 và Điều 6 về biện pháp hình sự là
một trong những cách thức để quốc gia thành viên bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Tóm lại, TRIPS và những điều ƣớc quốc tế khác về lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã phần
nào giúp định hƣớng cho Việt Nam khi đƣa ra những quy định về lĩnh vực mới này. Qua
đó, tạo nên những quy định nhằm bảo hộ, thực thi một cách tốt nhất và có hiệu quả nhất
quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế tri thức hiện nay. Hiển nhiên khi tham gia vào các
điều ƣớc quốc tế thì các quốc gia phải thực hiện những gì đã cam kết và họ hồn tồn có
thể lựa chọn bảo lƣu những điều khoản mà họ cho rằng không phù hợp hoặc đi ngƣợc lại
nguyên tắc pháp lý của nƣớc mình. Thế nhƣng, chính những điều ƣớc quốc tế là một bƣớc


15


hỗ trợ cho việc phát triển sự hợp tác giữa cá quốc gia khi có nét tƣơng đồng những quy
định về quyền sở hữu trí tuệ nói riêng cũng nhƣ những lĩnh vực khác nói chung.
*Điều ƣớc quốc tế song phƣơng
Điều ƣớc quốc tế song phƣơng là thỏa thuận giữa hai chủ thể luật quốc tế về một
hoặc một số vấn đề nào đó cần đƣợc điều chỉnh. Với xu hƣớng phát triển ngày càng đa
dạng các mối quan hệ thì giữa những chủ thể của luật quốc tế ngày càng hình thành nhiều
những thỏa thuận song phƣơng. Điều này một mặt giúp cho các quốc gia tạo thành những
hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho nhau mặt khác giúp cho sự tƣơng thích về trình độ lập
pháp giữa họ dần dần đƣợc kéo giảm. Việt Nam hiện nay cũng đã kí kết rất nhiều hiệp
định song phƣơng với các quốc gia khác về nhiều lĩnh vực và một trong số đó chính là
những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Có thể kể đến nhƣ hiệp định song phƣơng với
Thụy Điển, Thụy Sỹ, Nhật Bản…Trong đề tài này tác giả khơng trình bày hết tất cả những
hiệp định song phƣơng liên quan đến sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và các nƣớc mà chỉ tập
trung vào các hiệp định với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Hiệp định với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ:


Hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1997 về thiết lập quan hệ quyền tác giả;



Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 14 tháng 7 năm 2000 (BTA);
Nhìn chung những quy định đã đƣợc nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam về

quyền tác giả đều phù hợp với những gì đã đƣợc kí kết trong Hiệp định Việt Nam - Hoa
Kỳ năm 1997 về thiết lập quan hệ quyền tác giả. Từ việc tƣơng đồng về nội dung quyền và

đối tƣợng thuộc quyền, hiệp định đã tạo tiền đề định hƣớng cho việc ra đời những quy
định trong pháp luật Việt Nam về sau nhƣ Bộ luật dân sự 2005 hay Luật Sở hữu trí tuệ
2005.
BTA đã đề cập đến nhiều khía cạnh thƣơng mại bao gồm hàng hóa, dịch vụ, sở
hữu trí tuệ và đầu tƣ. Bên cạnh những thuận lợi do Hiệp định mang đến cũng mang theo
cả những khó khăn, thách thức khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Với 18
điều đƣợc quy định tại Chƣơng II BTA ta nhận thấy rằng Hiệp định đã dành cho quyền
16


sở hữu trí tuệ một phần riêng, cụ thể là một trong bảy chƣơng của BTA. Nhìn chung,
những thỏa thuận giữa hai quốc gia về nội dung quyền hay thực thi quyền đều tƣơng đối
phù hợp với những quy định của pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật Sở hữu trí tuệ.
Các biện pháp chế tài mà BTA đề cập đều có mặt trong quy định của pháp luật Việt Nam
nhƣ: biện pháp hành chính, biện pháp dân sự, biện pháp hình sự…
Đặc biệt là quy định của BTA về thủ tục tố tụng hình sự và hình phạt tại Khoản 1
Điều 14 Chƣơng II: “Mỗi Bên quy định các thủ tục tố tụng hình sự và hình phạt được áp
dụng ít nhất trong các trường hợp cố ý làm giả nhãn hiệu hàng hoá hoặc xâm phạm
quyền tác giả hoặc quyền liên quan nhằm mục đích thương mại. Mỗi Bên quy định rằng
các hình phạt có thể được áp dụng bao gồm phạt tù hoặc phạt tiền hoặc cả hai, đủ để
ngăn ngừa xâm phạm, phù hợp với mức hình phạt áp dụng đối với tội danh có mức độ
nghiêm trọng tương tự.” và Khoản 3 Điều 14 Chƣơng II:“Mỗi Bên có thể quy định rằng,
trong những trường hợp thích hợp, các cơ quan tư pháp của Bên đó có thể áp dụng các
hình phạt hình sự đối với hành vi xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, ngồi
những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều này, khi các hành vi đó được thực
hiện một cách cố ý và nhằm mục đích thương mại”. Khi đối chiếu quy định này vào Bộ
luật hình sự hiện hành thì rõ ràng là quy định của Việt Nam tại Điều 170a và Điều 171 đã
đáp ứng đƣợc yêu cầu để đạt đƣợc thỏa thuận. Tuy vậy, cũng cần chú ý là BTA yêu cầu
xác định các chế tài hình sự ln có mặt đối với mọi loại đối tƣợng thuộc quyền nhƣng
trong Bộ luật hình sự Việt Nam thì số lƣợng đối tƣợng này có phần hẹp hơn.

Hơn nữa, tuy có đƣợc những sự phù hợp với hiệp định khi ký kết và trong giai
đoạn thực hiện hiệp định nhƣng cũng cần lƣu ý rằng vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ
trong hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn chƣa có đƣợc sự quan tâm đúng mức. Sau khi ký
kết hiệp định, Việt Nam đã tham gia vào cá điều ƣớc quốc tế cũng nhƣ ban hành nhiều
văn bản pháp luật nhằm thực hiện tốt các thỏa thuận nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ nói
chung. Thế nhƣng những quy định này chỉ mới dừng lại ở mức đáp ứng yêu cầu về hình
thức mà việc ứng dụng thực tiễn là khá hạn chế. Vì thế đặt ra một vấn đề là những quy
định sau khi có mặt cịn phải đƣợc áp dụng trong thực tiễn nhằm đạt đƣợc mục đích và
hiệu quả nhƣ mong muốn. Đây cũng là một trong những động lực để giúp nƣớc ta vững
17


càng hơn khi gia nhập nền kinh tế thế giới đồng thời hoàn thiện những quy định của hệ
thống pháp luật trong nƣớc bằng con đƣờng tiếp thu, kế thừa những quy định trong các
điều ƣớc quốc tế.
1.1.2.5.Sự phù hợp của pháp luật Việt Nam với các Điều ƣớc quốc tế quy định về
quyền sở hữu trí tuệ
Sau khi tìm hiểu các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu
trí tuệ và đối chiếu với những quy định trong các điều ƣớc quốc tế, có thể đƣa ra những
đánh giá nhƣ sau:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam đã đáp ứng đƣợc một cách tƣơng đối các yêu cầu liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ đƣợc đặt ra trong những điều ƣớc quốc tế. Cách thức quy
định về nội dung quyền, đối tƣợng quyền hay biện pháp thực thi quyền có khác nhau
nhƣng xét về mặt nội hàm thì khơng mấy khác biệt với các điều ƣớc quốc tế. Tuy nhiên
một số đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ đƣợc các điều ƣớc quốc tế chú trọng vẫn chƣa có
mặt trong pháp luật quốc gia hoặc có nhƣng chỉ quy định chung chung mà khơng có gì
khác biệt hơn so với những đối tƣợng khác. Cách quy định của pháp luật Việt Nam là quy
định theo từng nhóm đối tƣợng nhƣ quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng; trong khi các Điều ƣớc quốc
tế lại quy định theo từng đối tƣợng cụ thể. Từ đó tạo nên sự chuyên biệt cho từng loại đối

tƣợng đồng thời giúp cho việc ứng dụng vào thực tiễn cũng dễ dàng hơn.
Thứ hai, các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã đƣợc ghi nhận trong pháp
luật Việt Nam là phù hợp với các điều ƣớc quốc tế. Đặc biệt là biện pháp hình sự áp dụng
đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã đƣợc quy định trong pháp luật Việt
Nam mà cụ thể là Bộ luật hình sự. Điều này thể hiện sự thích nghi với quan điểm của các
điều ƣớc khi xác định biện pháp hình sự là một trong số những biện pháp nhằm bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ ba, khả năng ứng dụng của những quy định trong pháp luật Việt Nam vẫn chƣa
cao mà hầu nhƣ chỉ mới dừng lại ở mức độ đáp ứng về hình thức. Có rất nhiều ngun
nhân ảnh hƣởng đến vấn đề này thế nhƣng sự đáp ứng bƣớc đầu cũng góp phần tạo tiền đề
cho sự ứng dụng tốt hơn về sau.
18


×