BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG GIỮA CHA MẸ VÀ CON SAU
KHI VỢ CHỒNG LY HƠN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
GVHD: TH.S TRẦN THỊ HƯƠNG
SVTH: LÊ HUYỀN KIM
MSSV: 0955020070
NIÊN KHÓA: 2009 – 2013
TP HCM – 2013
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết tác giả xin chân thành cảm
ơn quý thầy cô trường Đại học luật TP.HCM- những người thầy, người cô đã truyền
đạt cho tác giả vốn kiến thức quý báu trong suốt bốn năm đại học.
Đặc biệt, tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn Thạc sỹ
Trần Thị Hương, người đã tận tình định hướng, chỉ bảo tác giả hồn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Đồng thời, cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn bên cạnh động viên, giúp
đỡ tác giả trong q trình thực hiện khóa luận.
Cuối cùng, cảm ơn thư viện trường Đại học Luật TP. HCM; Chi cục thi hành
án dân sự huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước; Tịa án nhân dân huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước và Tịa án nhân dân quận Phú Nhuận (TP.HCM) đã nhiệt
tình giúp đỡ tác giả trong quá trình tìm tài liệu.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Luật HN&GĐ
Luật hôn nhân và gia đình
2. BLDS
Bộ luật dân sự
3. NLHVDS
Năng lực hành vi dân sự
4. TAND
Tòa án nhân dân
5. TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
6. TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
7. NĐ
Nghị định
8. NQ
Nghị quyết
9. HN&GĐ
hơn nhân và gia đình
10. CMT8
Cách mạng tháng tám
11. Cơ quan THADS
Cơ quan thi hành án dân sự
12. THA
thi hành án
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG ........5
1.1. Khái niệm cấp dưỡng ...........................................................................................5
1.2. Cơ sở hình thành nghĩa vụ cấp dưỡng..................................................................8
1.3. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng .....................................................................10
1.4. Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám
1945 đến năm 2000. ..................................................................................................14
1.4.1. Thời kì 1945 đến 1959 ..............................................................................15
1.4.2. Thời kì 1959 – 1986..................................................................................16
1.4.3. Thời kì 1986 – 2000..................................................................................17
CHƢƠNG 2. NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG GIỮA CHA, MẸ VÀ CON SAU KHI
VỢ CHỒNG LY HÔN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM ....................................................................................19
2.1 Ly hơn và hậu quả pháp lý của ly hôn đối với con .............................................19
2.2. Chế định cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn theo Luật
hôn nhân và gia đình 2000 ........................................................................................21
2.2.1. Chủ thể được cấp dưỡng khi cha, mẹ ly hôn ............................................21
2.2.2. Mức cấp dưỡng .........................................................................................28
2.2.3. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ............................................32
2.2.4. Vấn đề thay đổi và tạm ngừng thực hiện cấp dưỡng ................................37
2.2.5. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ..........................39
2.2.6. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng .................................................................41
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHĨA VỤ
CẤP DƢỠNG GIỮA CHA MẸ VÀ CON SAU KHI VỢ CHỒNG LY HƠN ...44
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật hơn nhân và gia đình về nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn ............................................................44
3.1.1. Về việc phân chia nghĩa vụ cấp dưỡng ....................................................45
3.1.2 Về quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ......................................46
3.1.3. Về mức cấp dưỡng ....................................................................................47
3.1.4. Về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng .......................................48
3.1.5. Về chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng .............................................................53
3.1.6. Vấn đề thi hành án cấp dưỡng .................................................................54
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về cấp dưỡng giữa cha mẹ và con
sau khi vợ chồng ly hôn ............................................................................................58
3.2.1. Hồn thiện các quy định của pháp luật hơn nhân gia đình về nội dung..59
3.2.2. Tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật ..................................................65
KẾT THÚC ..............................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC BẢN ÁN
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng cùng với những trào lưu tiến bộ về khoa
học cơng nghệ có phần khơng tương xứng với sự phát triển văn hóa, xã hội đã làm
đổ vỡ, mờ nhạt một số hệ thống giá trị tinh thần, đạo đức ở nhiều nước trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Khơng ít những gia đình Việt Nam đang gặp nhiều bế tắc,
thậm chí tan vỡ đã kéo theo sự suy thoái về các định hướng giá trị, ảnh hưởng phần
nào đến sự phát triển của thế hệ trẻ. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
gặp khơng ít khó khăn, khúc mắc và những vấn đề nan giải. Theo điều tra do Vụ
Gia đình thuộc Ủy Ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trước đây, nay thuộc Bộ Văn
Hóa, Thể Thao và Du Lịch (Bộ VHTTDL), phối hợp với Tổng cục thống kê (GSO),
Viện nghiên cứu Gia đình và Giới cùng sự hỗ trợ của UNICEF thực hiện vào năm
2006 cho thấy trong những năm gần đây tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam đang có xu hướng
gia tăng1. Hệ quả cịn lại sau các cuộc ly hôn là sự tổn thương tâm lý nặng nề ở
những đứa trẻ vô tội. Nếu khi hôn nhân tồn tại sự ra đời của con trẻ là kết tinh cho
tình yêu và hạnh phúc thì sau ly hơn, con cái chỉ cịn là gánh nặng với những bậc
cha, mẹ vô tâm, thiếu trách nhiệm. Lúc này họ chỉ muốn nhanh chóng vứt bỏ quá
khứ để tạo lập gia đình mới, tìm kiếm hạnh phúc mới. Làm thế nào để bảo vệ quyền
lợi của con sau khi cha mẹ ly hôn đã, đang và sẽ là một vấn đề nhức nhối trong xã
hội. Nhận thức được vấn đề trên, từ lâu pháp luật HN&GĐ đã đặt ra nghĩa vụ đóng
góp phí tổn ni dưỡng con dành cho cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con. Cho
đến khi Luật HN&GĐ 2000 ra đời thì quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong
gia đình mà đặc biệt là nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ con mới được điều chỉnh
một cách toàn diện. Đây được xem như một bước tiến quan trọng trong việc đảm
bảo quyền lợi của con. Tuy nhiên, sự tương quan giữa quy định của pháp luật và
1
Trích Ấn phẩm các Cơ quan Liên Hiệp Quốc, “Kết quả điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006 - Báo cáo
tóm tắt”. Kết quả của điều tra về gia đình lần đầu tiên được tiến hành trên phạm vi tồn quốc tại Việt Nam
được cơng bố vào Thứ Năm, ngày 26 tháng 6, tại lễ công bố chính thức được tổ chức tại Trung Tâm Hội nghị
Quốc tế tại Hà Nội.
2
thực tiễn áp dụng quy định đó cịn là một khoảng cách rất lớn. Thực tế cho thấy khi
bản án, quyết định ly hôn được tuyên theo đúng quy định của pháp luật khơng có
nghĩa là quyền lợi của con hoàn toàn được đảm bảo. Xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, điển hình do bất cập trong các quy định của pháp luật, sự thiếu
đồng bộ giữa các cơ quan, ban ngành trong công tác thi hành án trên thực tế và do ý
thức kém của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Sự trì trệ, trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa cha mẹ với con khi vợ chồng ly hơn đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích chính đáng của con. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra giải pháp hoàn thiện nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn để bảo vệ quyền lợi của
trẻ là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp thiết.
Chính vì những lí do đó, tác giả quyết định chọn đề tài “Nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hơn” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận
tốt nghiệp của mình. Với đề tài này, tác giả mong muốn trên cơ sở nghiên cứu, phân
tích những quy định của pháp luật hiện hành, kết hợp với việc tìm hiểu thực trạng
áp dụng các quy định đó nhằm tìm ra khó khăn, vướng mắc. Qua đó đề xuất giải
pháp góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình về
nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi Luật HN&GĐ 2000 ra đời chính thức ghi nhận chế định cấp dưỡng
thành một chương độc lập đến nay đã hơn 12 năm. Trong suốt q trình đó nghĩa vụ
cấp dưỡng đã trở thành một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu
từ mức độ khái quát đến mức độ chuyên sâu. Từ Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Văn
Vi (2004), “chế định cấp dưỡng trong pháp luật dân sự Việt Nam”; khóa luận tốt
nghiệp của Phan Thị Thúy Hiền (2004),“Một số vấn đề về cấp dưỡng cho con khi
cha mẹ ly hôn”; Lê Thị Hồng Thắng (2006) “Những quan hệ pháp luật giữa cha
mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn”; Đặng Thị Thanh Nhàn (2012), “Bảo vệ quyền
lợi của con khi cha mẹ ly hôn” cho đến số lượng lớn các bài viết được đăng tải trên
sách, báo, tạp chí chuyên ngành như: “Về mức cấp dưỡng nuôi con chung trong
giải quyết vụ việc ly hôn” của Th.s Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Duy Phượng trong
3
Tạp chí TAND (2012), “Bàn về chế định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với
con theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000” của Phạm Xuân Linh trong Tạp chí
dân chủ và pháp luật (2006), “Một số vấn đề về cấp dưỡng nuôi con trong thi hành
án” của Đinh Cơng Tráng in trong tạp chí TAND (2003)... Tuy nhiên, những
nguyên cứu về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con khi vợ chồng ly hôn- một
trường hợp cấp dưỡng cụ thể, vẫn còn nhiều hạn chế và chưa có sự chuyên sâu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: quy định của pháp luật hơn nhân và gia
đình, các văn bản pháp luật khác có liên quan đến vấn đề cấp dưỡng giữa cha mẹ và
con sau khi vợ chồng ly hôn và thực tiễn áp dụng các quy định đó trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu vấn đề nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ
chồng ly hôn trong quan hệ hơn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với nhau
mà không đề cập đến quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình đi sâu vào nghiên cứu các quy phạm pháp luật về nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hơn trong pháp luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam, tác giả đã áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin
cùng với việc sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài là nguồn tư liệu có ý nghĩa phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu đối
với các bạn sinh viên đang muốn tìm hiểu về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và
con sau khi vợ chồng ly hôn.
4
Đồng thời với những phân tích về bất cập, vướng mắc và kiến nghị hồn thiện
pháp luật sẽ đóng góp phần nào cho công tác tiếp thu ý kiến sửa đổi, xây dựng pháp
luật trong tương lai liên quan đến vấn đề cấp dưỡng.
6. Bố cục đề tài:
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài được
chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nghĩa vụ cấp dưỡng
Chương 2: Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn
theo quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn. Một
số kiến nghị hoàn thiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con khi vợ chồng ly
hôn.
5
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG
1.1. Khái niệm cấp dƣỡng
Theo Từ điển tiếng Việt thì “cấp dưỡng là cung cấp cho người già hoặc yếu
những thứ cần thiết cho đời sống”2. Theo nghĩa rộng, có thể coi cấp dưỡng như một
loại trợ cấp dành cho những người khó khăn, cơ nhỡ. Nghĩa vụ này phù hợp với
truyền thống đạo đức “lá lành đùm lá rách” của dân tộc, cũng là chính sách xã hội
mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu qua các thời kì.
Luật HN&GĐ 2000 chính thức có hiệu lực là một bước tiến mới trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình. Một trong những thay đổi tiến bộ đó là việc lần đầu tiên
có một định nghĩa hồn chỉnh, thống nhất về cấp dưỡng được ghi nhận trong đạo
luật. Theo đó, “cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản
khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có
quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng trong trường hợp người đó là
người chưa thành niên, là người đã thành niên mà khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định
của Luật này”3. Định nghĩa trên đã xác định một cách rõ ràng nhất về chủ thể,
phương thức, mục đích cấp dưỡng. Qua khái niệm này ta thấy rằng nghĩa vụ cấp
dưỡng không chỉ là trách nhiệm đạo đức thông thường, việc thực hiện mang tính
chất tự nguyện là chính, mà giờ đây nó đã trở thành một trách nhiệm pháp lý bắt
buộc, được đặt ra khi người có nghĩa vụ ni dưỡng khơng trực tiếp chăm sóc, ni
dưỡng người được ni dưỡng. Thay vào đó, người có nghĩa vụ ni dưỡng phải
chu cấp một khoản tiền hoặc tài sản khác cho người được nuôi dưỡng nhằm đáp
ứng nhu cầu sống thiết yếu của họ. Nói cách khác là khi người có nghĩa vụ ni
dưỡng khơng thực hiện nghĩa vụ này thì họ chuyển sang thực hiện một nghĩa vụ
thay thế là nghĩa vụ cấp dưỡng.
Dưới góc độ luật học, hai khái niệm ni dưỡng và cấp dưỡng có mối quan hệ
phái sinh, có thể thay thế cho nhau trong những hồn cảnh nhất định. Vì vậy, cần có
2
3
Nguyễn Lân, “Từ điển tiếng việt” NXB TP.HCM, năm 2000.
Khoản 11 Điều 8 Luật HN&GĐ 2000.
6
sự phân biệt rõ ràng về ranh giới giữa hai khái niệm trên để tránh sự nhầm lẫn
khơng đáng có trong quá trình áp dụng pháp luật gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
của các đối tượng cần được bảo vệ.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia đình Việt
Nam được quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ 2000: “Cha mẹ có nghĩa vụ
ni dạy con thành cơng dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm
sóc, ni dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ơng
bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau”.
Tuy nhiên, như thế nào là nuôi dưỡng, pháp luật hơn nhân và gia đình chưa có sự
giải thích. Về cơ bản, nghĩa vụ nuôi dưỡng bao gồm hành vi cung cấp các lợi ích
vật chất đáp ứng nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở, đi lại và hành vi chăm lo về mặt
tinh thần như hỗ trợ, giúp đỡ, chia sẻ buồn vui cho người được nuôi dưỡng. Nhìn từ
góc độ đạo đức, trách nhiệm ni dưỡng như một nhu cầu tình cảm tất yếu giữa các
thành viên trong gia đình. Khi được đặt trong các mối quan hệ xã hội khác, trách
nhiệm đó cịn chịu ảnh hưởng của luân lý và đạo đức. Sự hòa nhập giữa đạo lý và
tình cảm đã làm nên những đặc trưng về đạo đức giữa vợ và chồng, cha mẹ và con,
ông bà và cháu, giữa anh chị em với nhau. Nhìn từ góc độ luật học, ni dưỡng đã
trở thành một trách nhiệm pháp lý đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật.
So sánh điểm giống và khác nhau giữa hai khái niệm nuôi dưỡng và cấp
dưỡng tác giả thấy: trước hết, quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng phát sinh giữa
những người có mối quan hệ gia đình thơng qua ba căn cứ: quan hệ huyết thống,
hôn nhân hoặc ni dưỡng. Trong đó, chủ thể được ni dưỡng và cấp dưỡng có
chung nét tương đồng là người chưa thành niên, người đã thành niên bị tàn tật, mất
NLHVDS, không có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình. Điểm
quan trọng để phân biệt nghĩa vụ cấp dưỡng và nuôi dưỡng là yếu tố về không gian.
Giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng phải “khơng sống chung” với
nhau. Chính vì khơng sống chung nên người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải đóng góp
một phần chi phí để phụ giúp người trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng người được cấp
dưỡng trong việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của những người đó.
Như thế nào là “khơng sống chung”, vấn đề này Luật HN&GĐ 2000 và các văn
7
bản hướng dẫn chưa có sự giải thích. Thực tế hình thành ba quan điểm khác nhau về
khái niệm “sống chung”, cụ thể là:
Quan điểm thứ nhất: những người sống chung là những người có cùng nơi
đăng ký hộ khẩu thường trú.
Quan điểm thứ hai: chỉ coi là sống chung khi họ cùng sinh sống thường xuyên
dưới một mái nhà và không phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.
Quan điểm thứ ba: việc xác định thế nào là sống chung với nhau không phụ
thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú mà căn cứ vào việc giữa các
thành viên trong gia đình cùng tiến hành hoạt động kinh tế, cùng sử dụng nguồn tài
chính chung để đảm bảo nhu cầu vật chất hằng ngày của họ. Do đó những người
được coi là sống chung khi họ có cùng quỹ tiêu dùng trong sinh hoạt.
Với ba quan điểm trên tác giả thấy quan điểm thứ ba là phù hợp hơn cả. Trong
thực tế có nhiều người cùng nơi đăng ký hộ khẩu thường trú nhưng mọi sinh hoạt
đều riêng biệt. Chẳng hạn trường hợp vợ chồng ly hôn nhưng thực tế vẫn chung nơi
đăng ký thường trú, khi đó người cha (mẹ) theo quyết định, bản án khơng trực tiếp
ni con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị
tàn tật, mất NLHVDS, khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản tự ni
mình. Như vậy, việc cùng nơi đăng ký thường trú chưa đủ cơ sở khẳng định giữa họ
có mối quan hệ chung sống với nhau. Theo quan điểm thứ hai, sống chung là khi
các thành viên cùng sinh sống thường xuyên dưới một mái nhà, quan điểm này vẫn
có điểm chưa hợp lý. Khơng ít trường hợp do hồn cảnh khách quan các thành viên
trong gia đình phải sống cách xa, song giữa họ vẫn có sự quan tâm, chăm sóc, ni
dưỡng nhau về mặt vật chất lẫn tinh thần. Trường hợp thường thấy hiện nay là con
chưa thành niên đi học xa gia đình và ở tạm trú ngay tại trường hoặc con thành niên
mất NLHVDS được chữa trị lâu dài tại bệnh viện tâm thần. Khi đó khơng thể vì cha
mẹ và con không cùng chung sống dưới một mái nhà để khởi kiện yêu cầu cha mẹ
cấp dưỡng cho con. Vì thực chất trong các trường hợp trên cha mẹ vẫn có đầy đủ sự
quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng con. Giữa họ vẫn sử dụng chung quỹ tiêu dùng
trong sinh hoạt. Hàng tháng cha mẹ gửi tiền chi tiêu ăn, mặc, ở, học hành, thăm
khám bệnh và thường xuyên thăm hỏi, chăm lo về tinh thần cho con. Theo đó, để
8
xác định các thành viên trong gia đình có sống chung với nhau hay không, cách phù
hợp hơn cả là xem xét họ có dùng chung quỹ tiêu dùng khơng. Nếu các thành viên
dùng chung quỹ tiêu dùng trong sinh hoạt chứng tỏ họ có “sống chung” với nhau
suy ra đó là quan hệ ni dưỡng. Ngược lại, nghĩa vụ nuôi dưỡng sẽ được thay thế
bằng nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp tuy cùng sống
chung dưới một mái nhà, cùng dùng chung quỹ tiêu dùng nhưng người có nghĩa vụ
ni dưỡng lại khơng thực hiện nghĩa vụ đó mà cố tình trốn tránh, lúc này nghĩa vụ
nuôi dưỡng cũng sẽ chuyển thành nghĩa vụ cấp dưỡng.
Tóm lại, cấp dưỡng là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong pháp luật
hơn nhân và gia đình thể hiện mối quan hệ ràng buộc về quyền và nghĩa vụ nuôi
dưỡng giữa những người không sống chung với nhau trong việc đảm bảo cuộc sống
cho người chưa thành niên, người đã thành niên mất NLHVDS, khơng có khả năng
lao động và khơng có tài sản để tự ni mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu
theo quy định của luật này.
1.2. Cơ sở hình thành nghĩa vụ cấp dƣỡng
Từ khi ra đời nhà nước đã ban hành, sử dụng pháp luật như một công cụ hữu
hiệu để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước. Pháp luật do nhà nước
ban hành thể hiện ý chí của nhà nước và được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, để tồn tại lâu dài thì pháp luật đó cịn
phải phù hợp với quy tắc ứng xử của xã hội. Vì vậy rất nhiều quy phạm đạo đức,
phong tục tập quán được nâng lên thành quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Đó thường là những quy tắc đạo đức, phong tục tập quán quan trọng, có
giá trị tốt đẹp, lâu bền.
Quan hệ gia đình là một trong những quan hệ xã hội quan trọng. Xuất phát từ
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa ơng bà với cháu, cha mẹ với con cái, vợ với
chồng, anh chị em với nhau, giữa những người mà ngay từ khi sinh ra số phận đã
định cho họ phải liên hệ, gắn kết với nhau. Các mối quan hệ này mang tính bền
vững, lâu dài. Quan hệ gia đình không chỉ chịu sự điều chỉnh của đạo đức và phong
tục tập quán mà còn chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật. Chẳng hạn,
9
pháp luật hơn nhân và gia đình gián tiếp quy định quan hệ giữa cha, mẹ và con ruột
chỉ chấm dứt khi cha, mẹ hoặc con chết vì luật khơng quy định trường hợp chấm
dứt quan hệ giữa cha mẹ với con ruột mà chỉ quy định trường hợp chấm dứt quan hệ
giữa cha mẹ với con nuôi theo Luật ni con ni 2010. Trước hết việc chăm sóc,
u thương, giúp đỡ nhau giữa các thành viên là trách nhiệm đạo đức mang tính
truyền thống có từ ngàn đời. Vì đó là đạo lý làm người, là nhu cầu tình cảm thiết
yếu nên nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng giữa các thành viên trong gia đình hồn
tồn được thực hiện dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Sự quan tâm chăm sóc này vừa
là quyền vừa là nghĩa vụ. Điều 64 Hiến pháp 92 có đề cập đến vấn đề này như sau:
“Cha mẹ có trách nhiệm ni dạy con thành những cơng dân tốt. Con cháu có bổn
phận kính trọng và chăm sóc ơng bà, cha mẹ”. Khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ năm
2000 cũng quy định “Cha mẹ có nghĩa vụ ni dạy con thành cơng dân có ích cho
xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ
kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ơng bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa
vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau”. Đó là một trong những nguyên tắc cơ bản
của chế độ hơn nhân gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế khơng phải lúc nào
nghĩa vụ ni dưỡng cũng có thể được thực hiện. Trong những hoàn cảnh nhất định,
người thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng khơng có điều kiện hồn thành nghĩa vụ đó.
Chẳng hạn, trường hợp họ phải chấp hành hình phạt tù hay điển hình như tình
huống vợ chồng ly hơn. Với những hồn cảnh trên để đảm bảo cuộc sống cho người
được nuôi dưỡng, đồng thời thể hiện phần nào sự quan tâm chăm sóc của người
nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng nên nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra.
Có thể nói cấp dưỡng là sự thể chế hóa truyền thống đồn kết, tinh thần tương
thân tương ái, hỗ trợ, đùm bọc lẫn nhau của dân tộc, là sự điều chỉnh của pháp luật
thông qua những quy phạm đạo đức vốn là cách ứng xử tự nguyện của số đơng
người trong xã hội. Chính vì thế ở cả góc độ đạo đức, pháp lý, cấp dưỡng đều mang
ý nghĩa to lớn.
Xét dưới góc độ xã hội, cấp dưỡng mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Quy định
cấp dưỡng phản ánh tinh thần tương thân, tương ái giữa các thành viên trong gia
đình. Thực tế khơng phải mọi thành viên trong gia đình đều có cùng mức độ sức
10
khỏe, khả năng tạo ra thu nhập giống nhau để tự ni sống mình nên người có sức
khỏe tốt, có khả năng tạo ra thu nhập cao phải có nghĩa vụ giúp đỡ cho thành viên
trong gia đình mình, những người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất
NLHVDS, khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình. Đây là
điều cần thiết và hợp lý, thể hiện đạo lý, truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam
xưa và nay. Quy định cấp dưỡng đề cao trách nhiệm của các thành viên trong gia
đình nhằm đảm bảo gia đình có được sự phát triển ổn định, bền vững.
Xét dưới góc độ pháp luật, cấp dưỡng là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, giúp cho
các chủ thể nhìn nhận đầy đủ, chính xác quyền và nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó,
việc quy định rõ ràng như thế trong luật đã tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc đảm
bảo cho việc thực hiện, tránh trường hợp trốn tránh trách nhiệm gây thiệt thòi cho
người được cấp dưỡng.
1.3. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dƣỡng
Việc hiểu đúng và sâu sắc về nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ có thể thực hiện được
khi tiến hành xem xét các đặc điểm của nó. Quan hệ cấp dưỡng là một quan hệ pháp
lý có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quan hệ cấp dƣỡng là loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn liền
với nhân thân.
Luật HN&GĐ điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội là quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản. Hai nhóm quan hệ này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nội dung
chính của pháp luật hơn nhân và gia đình là các quan hệ nhân thân phi tài sản.Trong
chừng mực nhất định quan hệ nhân thân đóng vai trị chủ đạo trong việc xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ tài sản. Quan hệ cấp dưỡng là mối quan hệ được thiết
lập giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng. Trong đó người có nghĩa vụ
cấp dưỡng phải chu cấp một khoản tiền hoặc tài sản nhằm đảm bảo việc đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng theo thỏa thuận của các bên hoặc theo
quyết định của Tịa án. Quan hệ này có sự chuyển giao tài sản từ bên có nghĩa vụ
cấp dưỡng sang bên được cấp dưỡng vì lợi ích của người được cấp dưỡng. Như vậy,
quan hệ cấp dưỡng được thực hiện thông qua hành vi chuyển giao các tài sản cụ thể
11
chính vì thế quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản. Mặt khác, quan hệ cấp dưỡng
này được xác lập trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, tức là giữa
những người có quan hệ gia đình gắn bó với nhau. Quan hệ nhân thân trong Luật
HN&GĐ mang tính bền vững, lâu dài. Nó hiện diện ngay cả khi gia đình khơng cịn
tồn tại nữa. Chẳng hạn, trường hợp cha mẹ ly hôn nhưng mối quan hệ giữa cha mẹ
với con đẻ chỉ chấm dứt khi cha mẹ hoặc con chết đi chứ không chấm dứt bởi sự
kiện ly hôn. Như vậy quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản nhưng nó xuất phát và
gắn liền với nhân thân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng.
Bên cấp dưỡng và bên được cấp dưỡng ln có tư cách chủ thể đặc biệt như vợ
chồng, cha mẹ con, anh chị em, ông bà cháu. Những tư cách chủ thể này không thể
chuyển giao cho người khác được.
Thứ hai, quan hệ cấp dƣỡng không mang tính đền bù, ngang giá, khơng
diễn ra đồng thời.
Khơng giống với hầu hết các quan hệ tài sản trong lĩnh vực dân sự như quan
hệ hợp đồng mua bán, cho thuê, quan hệ cấp dưỡng trong Luật HN&GĐ không phải
là quan hệ hàng hố - tiền tệ, nó khơng có sự chuyển giao các giá trị tài sản tương
ứng xảy ra theo chiều ngược lại. Khi điều kiện cấp dưỡng phát sinh, người cấp
dưỡng có nghĩa vụ chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên được cấp dưỡng, song bên
được cấp dưỡng lại khơng có nghĩa vụ hồn trả số tiền tương ứng. Theo luật định
thì nghĩa vụ cung ứng tiền, tài sản của người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người được
cấp dưỡng là nghĩa vụ pháp lý của người cấp dưỡng, theo đó người được cấp dưỡng
là chủ thể quyền, nhận tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho chính
mình. Quyền và nghĩa vụ này không phát sinh từ hợp đồng dân sự mà phát sinh từ
trách nhiệm đạo đức của con người. Như đã biết gia đình là tập hợp nhiều thành
viên có quan hệ hơn nhân, huyết thống, ni dưỡng với nhau và giữa các thành viên
này không phải ai cũng có sức khỏe, điều kiện lao động để tự ni sống bản thân,
khi đó các thành viên cịn lại có trách nhiệm chăm lo, nuôi dưỡng, cung cấp các
điều kiện vật chất, tinh thần để hỗ trợ người thân thích của mình vượt qua khó khăn.
Mặt khác, các chủ thể nhận cấp dưỡng là những người mà hoàn cảnh hiện tại họ rất
12
cần được hỗ trợ vì các nhu cầu sống thiết yếu là ăn, mặc, ở họ không thể tự lo cho
mình được nên khả năng hồn trả lại là điều không nên đặt ra và không thể đặt ra.
Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện trên cơ sở có đi có lại nhưng khơng diễn
ra đồng thời, ngang giá. Luật HN&GĐ 2000 quy định: Cha mẹ có nghĩa vụ ni
dạy con thành cơng dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc,
ni dưỡng cha mẹ4; Ơng bà có nghĩa vụ và quyền trơng nom, chăm sóc, giáo dục
cháu, cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ơng bà5; các thành viên
cùng sống chung trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau6.
Khi con, cháu cịn nhỏ thì ơng bà, cha mẹ chăm sóc, ni dưỡng, đến khi con cháu
trưởng thành có điều kiện phải chăm lo, ni dưỡng lại ông bà, cha mẹ. Rõ ràng,
mối quan tâm chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình thực hiện trên yếu tố có
đi có lại. Một cách tự nhiên, nó trở thành trách nhiệm đạo lý ngàn đời không thể
chối bỏ. Vậy nên, sự chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau giữa những người ruột thịt bên
cạnh ý nghĩa vật chất cịn là nhu cầu tình cảm nhằm đảm bảo sự gắn bó giữa các
thành viên. Đó là lý do khiến các chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện trên tinh
thần tự nguyện. Vì xuất phát từ tình cảm nên khi thực hiện trợ cấp, người cấp dưỡng
không mong muốn sẽ được hoàn trả lại. Suy ra nghĩa vụ cấp dưỡng khơng mang
tính tuyệt đối. Mặt khác, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh trong những trường hợp
nhất định với những điều kiện nhất định được quy định trong luật nên nó khơng
diễn ra đồng thời.
Thứ ba, quan hệ cấp dƣỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia
đình trên cơ sở hơn nhân, huyết thống hoặc ni dƣỡng.
Quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng là cơ sở cho sự hình thành,
tồn tại và phát triển quan hệ gia đình. Luật HN&GĐ Việt Nam điều chỉnh mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình với những quyền và nghĩa vụ tương ứng.
Trong các nghĩa vụ đó phải kể đến nghĩa vụ cấp dưỡng. Nghĩa vụ này vừa là trách
nhiệm đạo đức, vừa là trách nhiệm pháp lý. Phạm vi cấp dưỡng trong Luật HN&GĐ
2000 chỉ phát sinh giữa các chủ thể trong gia đình. Điều 50 Luật HN&GĐ 2000 có
4
Điều 34, Điều 35 Luật HN&GĐ
Điều 47 Luật HN&GĐ
6
Điều 49 Luật HN&GĐ
5
13
nói: “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với
nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của
Luật này”.
Ngoài ra, giữa các thành viên trong gia đình cịn có mối quan hệ khác như
giữa cháu với cơ, dì, chú, bác ruột nhưng theo luật định thì giữa họ khơng phát sinh
quan hệ ni dưỡng cũng như cấp dưỡng, mặc dù giữa những người này có cùng
huyết thống và được xếp vào hàng thừa kế thứ ba theo quy định tại Điều 676 BLDS
2005. Điều này có thể lý giải do tuy cùng huyết thống nhưng giữa họ lại khơng có
sự gắn bó máu thịt, gần gũi và thân thiết như quan hệ giữa cha mẹ con, ông bà cháu,
vợ chồng. Mặt khác, với cơ, dì, chú, bác đó họ đều có gia đình riêng, có nghĩa vụ
chăm lo, ni dưỡng, thậm chí là cấp dưỡng cho vợ, chồng, con cái họ nên không
thể gán thêm nghĩa vụ bắt buộc phải cấp dưỡng cho cháu. Cuối cùng, một người
cháu có thể có rất nhiều cơ, dì, chú, bác ruột. Như vậy, rất khó để xác định ai là
người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu.
Thứ tƣ, nghĩa vụ cấp dƣỡng là nghĩa vụ bổ sung.
Tuy cùng chung một mục đích là chăm lo cuộc sống của những người thân
thích được quy định trong Luật HN&GĐ, song nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ được đặt ra
khi và chỉ khi nghĩa vụ nuôi dưỡng không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ. Nuôi dưỡng không chỉ bao hàm hành vi cung cấp lợi ích vật chất như nghĩa vụ
cấp dưỡng, mà còn là sự chăm lo cả về mặt vật chất lẫn tinh thần cho người được
ni dưỡng. Vì sống chung nên họ có điều kiện chăm lo, ni dưỡng người thân
thích trên cơ sở tự giác thực hiện. Tuy nhiên với những tình huống người có nghĩa
vụ ni dưỡng khơng tự giác thực hiện hoặc khi họ khơng cịn sống chung với
người cần được ni dưỡng thì lúc này người có nghĩa vụ ni dưỡng buộc phải
thay thế bằng nghĩa vụ cấp dưỡng nhằm đáp ứng yêu cầu vật chất tối thiểu cho cuộc
sống của người được cấp dưỡng. Nói cách khác, có thể coi cấp dưỡng là một hình
thức thực hiện khác của ni dưỡng.
Thứ năm, nghĩa vụ cấp dƣỡng mang tính cụ thể, riêng biệt.
Như đã nói ở trên, nghĩa vụ cấp dưỡng được xây dựng dựa trên cơ sở hôn
nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Như vậy, nghĩa vụ này chỉ được thực hiện giữa
14
những chủ thể có tư cách đặc biệt trong phạm vi hơn nhân và gia đình. Các chủ thể
này khơng thể bằng sự tự thỏa thuận để thay đổi các quan hệ pháp luật hơn nhân gia
đình, bởi các quan hệ này là bất biến, đặc biệt là quan hệ huyết thống. Ngay cả khi
quan hệ gia đình tan vỡ như trường hợp vợ chồng ly hơn thì trong những trường
hợp đặc biệt người chồng, người vợ vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng vì lý do tình
nghĩa. Vì gắn liền với nhân thân mỗi người quyền và nghĩa vụ này không thể
chuyển giao, bù trừ cho cá nhân khác. Nghĩa là bên có nghĩa vụ cấp dưỡng khơng
thể cam kết sẽ dùng nghĩa vụ khác thay thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng như trường
hợp trừ nợ, bồi thường thiệt hại, hoặc cũng không thể sử dụng chúng làm cơ sở bảo
đảm cho những nghĩa vụ khác. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải tự mình thực
hiện việc cung cấp tiền hoặc tài sản cho người được cấp dưỡng mà không được nhờ
bên thứ ba thực hiện thay. Đồng thời người được cấp dưỡng cũng không thể chuyển
giao quyền của mình cho người khác. Bởi lẽ quyền và nghĩa vụ này gắn liền với
nhân thân, mặt khác, cấp dưỡng được các nhà làm luật đặt ra nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng nên nếu chuyển giao cho người khác thì mục
đích ban đầu khơng đạt được.
Về đặc trưng này pháp luật dân sự cũng có quy định. Khoản 1 Điều 309 BLDS
2005: “Bên có quyền yêu cầu cấp dưỡng không thể chuyển giao quyền yêu cầu đó
cho người thế quyền theo thoả thuận”. Và trong trường hợp nghĩa vụ dân sự là
nghĩa vụ cấp dưỡng gắn liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được
cũng không được thay thế bằng nghĩa vụ khác. Cuối cùng, giống như quy định của
Luật HN&GĐ 2000, Khoản 3 Điều 381 BLDS 2005 khẳng định nghĩa vụ cấp
dưỡng là nghĩa vụ dân sự không được bù trừ.
1.4. Chế định cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
tám 1945 đến năm 2000.
Pháp luật giai đoạn trước Cách mạng tháng tám năm 1945, từ thời kỳ nhà
nước phong kiến đến thời kỳ Pháp thuộc đều đã bước đầu đề cập đến nghĩa vụ cấp
dưỡng song chưa rõ ràng. Vấn đề cấp dưỡng mới chỉ giới hạn ở quy định về tiền
cấp dưỡng cho vợ con sau khi ly hôn tại các Điều 144 Dân luật Bắc kỳ và Điều 142
15
Dân luật Trung Kỳ, còn đối với các thành viên khác trong gia đình thì chỉ đề cập
một cách chung chung về quyền và nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc nhau. Sau Cách
Mạng Tháng Tám 1945, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội thay đổi đưa đến những
bước tiến rõ rệt về chế định cấp dưỡng, một chế định pháp lý quan trọng trong Luật
HN&GĐ. Để hiểu rõ hơn về sự phát triển của chế định cấp dưỡng trong hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam nói
riêng, sau đây ta sẽ đề cập đến lịch sử phát triển của chế định này trong giai đoạn từ
sau Cách mạng tháng tám 1945 đến năm 2000.
1.4.1. Thời kì 1945 đến 1959
Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hịa ra đời (2/9/1945). Do hồn cảnh lịch sử, xã hội có nhiều biến đổi nên các chế
định trong các Bộ dân luật cũ về HN&GĐ sớm không còn phù hợp. Năm 1946 Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời đã đánh dấu bước
ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta. Hiến pháp đã ghi nhận quyền bình
đẳng nam nữ về mọi mặt. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng chế độ hơn
nhân và gia đình mới dân chủ, tiến bộ. Năm 1950 nhà nước ta đã ban hành hai sắc
lệnh đầu tiên về HN&GĐ đó là Sắc lệnh 97 ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước về
sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh 159 ngày 17/11/1950
của Chủ tịch nước quy định về vấn đề ly hôn.
Sắc lệnh 97 tuyên bố một số nguyên tắc mới như xác lập quyền tự lập của con
đã thành niên trong việc kết hơn (Điều 2), quyền tái giá (Điều 3), quyền bình đẳng
vợ chồng (Điều 5). Cùng với Sắc lệnh 97, Sắc lệnh 159 đã có nhiều nội dung tiến
bộ bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn. Theo quy định tại
Điều 6 Sắc lệnh 159 thì Tịa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của con để quyết định người
trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn chứ không phải dựa trên nguyên tắc ưu tiên
giao con cho cha như thời kì Pháp thuộc. Đặc biệt là lần đầu tiên pháp luật đã quy
định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con “hai vợ chồng đã ly hơn phải cùng
chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người tùy theo khả năng của mình” (Điều 6).
16
Quy định này thể hiện rõ trách nhiệm của cha mẹ trong việc nuôi nấng, giáo dục
con. Việc nuôi dưỡng con phải do cả cha và mẹ thực hiện.
Mặc dù việc cấp dưỡng lúc này cũng mới chỉ dừng lại ở cấp dưỡng giữa cha
mẹ con sau khi ly hôn. Tuy nhiên, cả hai sắc lệnh trên đã góp phần đáng kể xóa bỏ
chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu. Đặc biệt những quy định tiến bộ và
mới mẻ trong Sắc lệnh 159 sẽ mở đường cho việc phát triển các quy định về việc
bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn sau này.
1.4.2. Thời kì 1959 – 1986
Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp thắng lợi (1945) tuy nhiên đất nước
tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc tiến
lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam vẫn dưới sự thống trị của thực dân Pháp.
Cuối những năm 50 ở miền bắc, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành, đất nước
ta đang chuẩn bị những điều kiện vật chất và con người để tiến lên Xã hội chủ nghĩa
nhưng những tàn dư của chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến vẫn còn tác động
lớn đến cuộc sống của gia đình và xã hội. Việc ban hành một đạo luật mới về hơn
nhân và gia đình trở thành một địi hỏi cấp bách của tồn thể xã hội. Đó là một tất
yếu khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc nước ta.
Ngày 29/12/1959 Luật HN&GĐ đầu tiên của nhà nước ta ra đời. Luật HN&GĐ
1959 đề cập đến vấn đề cấp dưỡng một cách cụ thể hơn các văn bản trước đây. Điều
30 chương V Luật HN&GĐ 1959 quy định: “Khi ly hơn, nếu một bên túng thiếu
u cầu cấp dưỡng, thì bên kia phải cấp dưỡng tuỳ theo khả năng của mình.Khoản
cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng sẽ do hai bên thoả thuận; trường hợp hai bên
không thoả thuận với nhau được thì Tồ án nhân dân sẽ quyết định. Khi người được
cấp dưỡng lấy vợ, lấy chồng khác thì sẽ khơng được cấp dưỡng nữa”. Ngồi ra,
Luật HN&GĐ 1959 cũng quy định cụ thể trách nhiệm cấp dưỡng của vợ chồng đối
với con chưa thành niên sau ly hôn ở Điều 32 “Khi ly hôn, việc giao cho ai trông
nom, nuôi nấng và giáo dục con cái chưa thành niên, phải căn cứ vào quyền lợi về
mọi mặt của con cái. Vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc ni nấng
và giáo dục con, mỗi người tuỳ theo khả năng của mình”. Mặt khác, nhằm đáp ứng
17
yêu cầu bảo vệ lợi ích mọi mặt của con, Luật HN&GĐ 1959 quy định “có thể thay
đổi việc ni dưỡng hoặc việc góp phần vào phí tổn ni nấng, giáo dục con cái”.
Thông qua những quy định chi tiết tại Chương V Luật HN&GĐ 1959 có thể
thấy nghĩa vụ cấp dưỡng đang ngày càng hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu thực tiễn
một cách cơ bản nhất.
1.4.3. Thời kì 1986 – 2000
Ngày 18/12/1980, Hiến pháp 1980 ra đời quy định về các nguyên tắc của chế
độ HN&GĐ. Tình hình kinh tế xã hội thay đổi, việc áp dụng Luật HN&GĐ 1959 về
chế định cấp dưỡng dần khơng cịn phù hợp. Dự thảo Luật HN&GĐ đã được Quốc
hội khóa VII kì họp thứ 12 thơng qua ngày 29/12/1986 và chính thức có hiệu lực
ngày 03/01/1987. Luật HN&GĐ 1986 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật
HN&GĐ 1959, trong đó các quy định về cấp dưỡng đã được sửa đổi, bổ sung để
phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn. So với Luật HN&GĐ 1959, Luật HN&GĐ
1986 có điểm đặc biệt là quy định thêm chế tài cụ thể về việc thực hiện nghĩa vụ
đóng góp phí tổn nuôi dưỡng con tại Điều 45 Luật HN&GĐ 1986: “Người khơng
ni giữ con có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải đóng góp phí
tổn ni dưỡng, giáo dục con. Nếu trì hỗn hoặc lẩn tránh việc đóng góp, thì Tịa
án nhân dân quyết định khấu trừ vào thu nhập hoặc buộc phải nộp những khoản phí
tổn đó”. Với quy định này, nghĩa vụ cấp dưỡng đã có thêm cơ sở để đảm bảo được
thực hiện, tránh trường hợp người có nghĩa vụ trốn tránh.
Trong suốt thời gian 14 năm thi hành các quy định này, Luật HN&GĐ năm
1986 đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Điều này là dễ hiểu vì các quan hệ xã hội
trong cuộc sống luôn biến chuyển hàng ngày hàng giờ cùng với sự thay đổi của các
điều kiện kinh tế, chính trị, mà pháp luật hình thành nhằm điều chỉnh các mối quan
hệ đó nên pháp luật khơng thể bất biến. Do đó, Luật HN&GĐ 2000 ra đời đã bổ
sung, hoàn thiện và lấp đầy những lỗ hổng mà thực tiễn áp dụng cho thấy Luật
HN&GĐ 1986 chưa làm được. Pháp luật về cấp dưỡng được quy định một cách
đồng bộ, thống nhất thành một chương riêng từ Điều 50 đến Điều 62. Lần đầu tiên
khái niệm cấp dưỡng xuất hiện khá hồn chỉnh trong Luật HN&GĐ dưới góc độ
18
pháp lý đưa ra những nội dung chủ yếu của quan hệ cấp dưỡng như đối tượng được
cấp dưỡng, phương thức, điều kiện, mục đích.
Có thể thấy, pháp luật hơn nhân và gia đình từ sau Cách mạng tháng tám nói
chung và chế định về cấp dưỡng nói riêng, đã từng bước được hoàn chỉnh phù hợp
với sự phát triển các quan hệ xã hội trên cơ sở phát huy bản chất cách mạng và tính
kế thừa truyền thống nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc,
bền vững.
19
CHƢƠNG 2. NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG GIỮA CHA, MẸ VÀ CON SAU
KHI VỢ CHỒNG LY HÔN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
2.1 Ly hơn và hậu quả pháp lý của ly hôn đối với con
Hôn nhân được xác lập dựa trên sự tự nguyện gắn kết giữa hai bên nam nữ.
Xuất phát từ yếu tố tình cảm tự nhiên với mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Với tư cách là một thiết chế xã hội, hơn nhân
có vai trị là cơ sở để xây dựng gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, muốn cho xã
hội tốt thì trước tiên và cốt yếu là phải xác lập được một quan hệ vợ chồng hạnh
phúc. Tuy vậy, khi tình trạng hơn nhân trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo
dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được thì ly hơn là con đường giải thoát tốt nhất.
Pháp luật và xã hội thừa nhận quyền tự do kết hơn thì cũng thừa nhận quyền tự do
ly hơn. Điều đó khơng chỉ có ý nghĩa riêng tư mà cịn có ý nghĩa xã hội bởi việc
phát sinh tồn tại và chấm dứt hôn nhân đều có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến
các quan hệ gia đình khác. Đặc biệt là quan hệ giữa cha mẹ với con khi vợ chồng ly
hơn. Vì vậy cũng như các thiết chế xã hội khác, hôn nhân trong đó bao gồm cả vấn
đề kết hơn và ly hôn đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Luật HN&GĐ 2000
quy định vấn đề kết hôn tại chương II từ Điều 9 đến Điều 14 và vấn đề ly hôn tại
chương X từ Điều 85 – Điều 99 với những quy định cụ thể, riêng biệt để điều chỉnh
những trường hợp có thể phát sinh trong thực tế. Khoản 8 Điều 8 Luật HN&GĐ
2000 định nghĩa về ly hôn như sau: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hơn nhân do Tịa
án cơng nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ
chồng”. Theo khái niệm trên thì ly hơn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân hợp
pháp đã được hai bên nam nữ tự nguyện xác lập trước đó tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật bằng quyết định hoặc bản án của Tòa án.
Dưới góc độ pháp lý, ly hơn được ghi nhận là một chế định trong Luật
HN&GĐ, là cơ sở cho Tòa án và các bên đương sự giải quyết vấn đề chấm dứt hôn
nhân một cách phù hợp. Ly hôn thể hiện mặt tích cực là giải phóng các bên vợ,
20
chồng khỏi các khủng hoảng của hôn nhân. Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực nêu
trên ly hơn cũng tồn tại mặt tiêu cực là dẫn đến sự tan vỡ của một gia đình. Nhà
nước và xã hội cần đặt ra những giải pháp để khắc phục hệ quả mà ly hôn gây ra,
đặc biệt trong việc đảm bảo quyền lợi của con trẻ. Những đứa trẻ có cha mẹ ly hơn
thường phải chịu nhiều thiệt thịi so với bạn bè đồng trang lứa. Trẻ thường có tâm lý
mặc cảm, tự ti về một gia đình khơng trọn vẹn. Trẻ em trong gia đình cha mẹ ly hơn
khơng có đủ cả cha lẫn mẹ cùng yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giáo dục. Theo
thời gian trẻ trở nên xa cách với bạn bè, với mọi người xung quanh và rơi vào
chứng tự kỷ, trầm cảm. Bên cạnh đó, một số trẻ lại thu hút sự quan tâm, chú ý của
cha, mẹ và mọi người bằng cách trở nên dễ bị kích động và phát sinh tâm lý nổi
loạn, phá phách.
Đặc biệt khi con trẻ đang trải qua quá trình phát triển về nhân cách và nhận
thức, đây là lứa tuổi trẻ dễ bị lợi dụng, dễ sa vào cạm bẫy nên khi thiếu sự quan
tâm, định hướng của cha mẹ có thể dẫn đến tình trạng sa ngã, hư hỏng, phạm pháp
hoặc dấn thân vào các tệ nạn xã hội nguy hiểm, tăng thêm nhiều gánh nặng cho xã
hội. Theo số liệu thống kê năm 2008 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cho thấy
71% trẻ vị thành niên phạm pháp là do khơng được quan tâm chăm sóc đến nơi đến
chốn. Một nghiên cứu mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội
của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hơn; 28%
phàn nàn bố mẹ không quan tâm đáp ứng nhu cầu cơ bản của các em7.
Hơn nữa, khi ly hôn cha mẹ chúng không cùng sống chung dưới một mái nhà,
nên con cái chỉ có thể ở chung với cha hoặc mẹ. Chúng khơng thể cùng lúc nhận
được tình u thương, sự chăm lo, giáo dục của cả cha mẹ như trước. Thực tế, có
khơng ít trường hợp vợ hoặc chồng sau ly hôn bỏ mặc không quan tâm đến cuộc
sống của con cái, không thực hiện đầy đủ trách nhiệm nuôi dưỡng đối với con. Điều
đó đã ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của con.
Việc pháp luật HN&GĐ dành một chương riêng để quy định về nghĩa vụ cấp
dưỡng nói chung, trong đó đặc biệt chú ý đến nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ với
con khi ly hơn có một ý nghĩa vô cùng thiết thực. Cấp dưỡng đặt ra để giúp giải
7
Thống kê của tòa án nhân dân tối cao về các vụ ly hôn từ năm 2000 đến 2008.