BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
-----------------------
VŨ HỒNG HƢƠNG LAN
MSSV: 0855030144
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU
CỦA NGƢỜI BỊ HẠI
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2008 – 2012
GVHD: VÕ THỊ KIM OANH
Giảng viên Khoa Luật hình sự
TP.HỒ CHÍ MINH NĂM 2012
MỤC LỤC
CHƢƠNG I: NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI .............................................. 7
1.1. Khái niệm chung về khởi tố vụ án hình sự ....................................................7
1.1.1. Định nghĩa khởi tố vụ án hình sự............................................................7
1.1.2. Đặc điểm khởi tố vụ án hình sự ..............................................................8
1.1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự ........................................................10
1.2. Khái niệm về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại ............12
1.2.1. Khái niệm người bị hại .........................................................................12
1.2.2. Định nghĩa khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại .........16
1.2.3. Cơ sở của việc thiết lập chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại .................................................................................................19
1.2.5
Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại .....24
1.2.5
Ý nghĩa việc khởi tố theo yêu cầu người bị hại ....................................26
1.3. Lược sử hình thành và phát triển chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ..................................28
1.4. Khởi tố theo yêu cầu người bị hại trong pháp luật một số quốc gia trên thế
giới
.....................................................................................................................34
CHƢƠNG II: PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ....... 40
2.1
Pháp luật thực định về những trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại và thực tiễn áp dụng ..........................................................................41
2.2
Pháp luật thực định về hình thức, thời điểm và hậu quả việc yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự của người bị hại và thực tiễn áp dụng ................................................47
2.3
Pháp luật thực định về rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại và thực tiễn áp dụng ..........................................................................53
CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU ....................................... 61
3.1
Cải cách tư pháp và nhu cầu hoàn thiện chế định khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu người bị hại ..............................................................................................61
3.2
Các giải pháp nhằm nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu người bị hại .....................................................................63
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật .......................................................63
3.2.2. Các giải pháp khác: ...............................................................................71
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân là chủ trương nhất quán do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra. Nhằm
cụ thể hóa và tổ chức thực hiện tốt chủ trương trên, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
48-NQ/TW “về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
2010, định hướng đến 2020” và Nghị quyết 49-NQ/TW“về chiến lược cải cách tư pháp
đến 2020”, mục tiêu chung là nhằm hướng đến việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tiến tới việc xây dựng mơ hình nhà nước Việt Nam – một Nhà nước pháp quyền
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người và không ngừng
hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền con người.
Pháp luật Việt Nam đã đưa nhiều quy định nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân trong xã hội, trong đó phải đề cập đến quy định về khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu người bị hại. Tuy nhiên quy định của pháp luật tố tụng hiện hành và
thực tiễn áp dụng quy định này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, cịn vấp nhiều sai
sót dẫn đến bỏ lọt tội phạm, không đảm bảo quyền lợi của người bị hại. Trong điều kiện
Đảng và Nhà nước đang chủ trương tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng quyền con
người, quyền công dân trong điều kiện cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế như hiện nay
thì việc nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng của việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại được xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Do vậy, tác giả đã mạnh dạn
chọn đề tài “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại” làm để tài khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam và tình hình thực
hiện chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại để tìm hiểu và làm rõ
những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, đề xuất những kiến
4
nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1
Đối tượng nghiên cứu: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại.
3.2
Phạm vi nghiên cứu: Bài luận văn này đề cập những vấn đề
chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, quy định của
pháp luật hiện hành về hoạt động này, phản ánh một phần thực trạng của hoạt
động này trong thời gian gần đây và những kiến nghị, giải pháp mang tính
đóng góp nhằm hồn thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin với
phép biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời quán triệt các tư tưởng, đường lối lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước nhằm làm sáng tỏ nội dung và đảm bảo tính khoa học của đề tài.
Bên cạnh đó, luận văn cịn sử dụng kết hợp nhiều biện pháp như phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh,... để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1 Ý nghĩa lý luận của đề tài
Làm rõ nhận thức chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị
hại.
Làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại.
5.2 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng chế định khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu người bị hại, tác giả sẽ đưa ra những đề xuất nhằm bổ sung, hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó đây còn là tài liệu tham khảo cho việc nghiên
5
cứu chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại, góp phần đảm bảo tốt hơn
nữa quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân người bị hại.
6. Cơ cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được trình bày thành ba chương:
Chƣơng 1: Những vần đề lý luận chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại
Chƣơng 2: Pháp luật thực định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại và thực tiễn áp dụng
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu người bị hại
6
CHƢƠNG I: NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH
SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI
1.1. Khái niệm chung về khởi tố vụ án hình sự
1.1.1. Định nghĩa khởi tố vụ án hình sự
Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng, của các cá nhân, các cơ quan, tổ chức khác nhằm góp phần
giải quyết vụ án theo quy định của BLTTHS. Việc phân chia quá trình tố tụng hình sự
thành các giai đoạn cụ thể đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau nhưng theo khoa
học luật tố tụng hình sự Việt Nam, q trình tố tụng có thể chia thành các giai đoạn sau:
Khởi tố vụ án hình sự, Điều tra vụ án hình sự, Truy tố, Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Xét
xử phúc thẩm vụ án hình sự, Thi hành án và giai đoạn đặc biệt. Trong đó khởi tố vụ án
hình sự là giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu của quá trình tố tụng và làm phát sinh quan
hệ pháp luật tố tụng hình sự.
Theo từ điển luật học:“Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng xác định có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát hiện tội phạm”(1). Theo
nhóm tác giả khác:“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, trong
đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ việc tiếp nhận
thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự”(2). Qua các khái niệm nêu trên chúng ta có thể
xác định rằng khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của quá trình giải quyết vụ án
hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm
(tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính phải chịu trách
hình phạt) để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
(1). Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Từ điển luật học, NXB Tư pháp – Từ điển Bách Khoa, Tr.429.
(2). Khoa Luật hình sự - Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng luật tố tụng hình sự, Tr.204.
7
Nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay khơng
có dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Đây là giai
đoạn có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự bởi vì trong giai
đoạn này thông qua các thông tin thu thập được, cơ quan có thẩm quyền quyết định có
cần tiến hành tố tụng hay khơng? Và cũng chính giai đoạn này tạo cơ sở pháp lý đầu tiên
cho quá trình tố tụng tiếp theo trong trường hợp có dấu hiệu tội phạm. Việc khởi tố vụ án
một cách kịp thời, có căn cứ và đúng pháp luật là một trong những đảm bảo để mọi hành
vi phạm tội đều bị phát hiện nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra tội
phạm. Ngược lại, sẽ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, tội phạm không bị phát hiện,
người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, các hoạt động tố tụng khơng được
tiến hành đúng hướng; mặt khác có thể dẫn đến việc bắt giữ, tạm giam người trái pháp
luật, thậm chí dẫn đến xử oan người vơ tội. Nói cách khác, khởi tố vụ án hình sự liên
quan chặt chẽ với việc đảm bảo pháp chế, đảm bảo các quyền hiến định của công dân.
1.1.2. Đặc điểm khởi tố vụ án hình sự
Xuất phát từ các khái niệm khoa học về khởi tố vụ án hình sự đã được nêu trên,
chúng ta có thể nhận thấy đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự như sau:
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu cho
quá trình tố tụng hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng và là giai đoạn
tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có những nhiệm vụ riêng mang đặc thù về chủ thể tố
tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Cụ thể: theo Điều 104 BLTTHS thì chủ thể tiến
hành tố tụng của giai đoạn khởi tố là cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án) và các cơ quan khác
(3)
trong giới hạn thẩm quyền của mình có trách
nhiệm xác minh sơ bộ sự việc xảy ra có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để từ đó ra quyết
định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự – những văn bản tố tụng đặc trưng của giai
đoạn này. Tuy nhiên, tính độc lập của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai đoạn
(3). Cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, đơn vị Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
8
khác trong q trình tố tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ qua lại,
tác động lẫn nhau; giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của
giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước tạo thành quy trình tố tụng khép kín
trong việc giải quyết vụ án hình sự. Theo đó chỉ sau khi có quyết định khởi tố vụ án, cơ
quan điều tra mới được phép tiến hành các hoạt động điều tra xác minh tội phạm và
người phạm tội để xác định sự thật khách quan của vụ án. Trên cơ sở đó, cơ quan điều tra
làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, đây chính là cơ sở để Viện kiểm sát thực hiện
giai đoạn tố tụng tiếp theo, đó là ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo
trạng với tội danh và điều khoản cụ thể được quy định trong BLHS. Bản cáo trạng của
Viện kiểm sát lại là cơ sở để Tòa án tiến hành giai đoạn tố tụng kế tiếp của quá trình tố
tụng, đó là quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhân danh Nhà nước tuyên bản án đối với
người phạm tội. Như vậy giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn nền tảng để phát
động cả một bộ máy tố tụng bắt đầu giải quyết vụ án hình sự, tạo cơ sở pháp lý đầu tiên
để tiến hành các hoạt động tiếp theo là điều tra, truy tố, xét xử. Mọi hoạt động tố tụng
hình sự (trừ một số trường hợp đặc biệt như bắt người trong trường hợp khẩn cấp tại Điều
81 BLTTHS, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã tại Điều 82 BLTTHS và
hoạt động khám nghiệm hiện trường tại khoản 2 - Điều 150 BLTTHS) chỉ có thể tiến
hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Góp phần bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân được pháp luật bảo
hộ
Hoạt động khởi tố vụ án hình sự liên quan rất chặt chẽ với quyền tự do, dân chủ
của công dân. Bởi lẽ nếu việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và đúng pháp luật thì sẽ
bảo đảm để mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình điều tra, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của tồn xã hội nói chung
và người bị hại nói riêng. Ngược lại nếu khởi tố vụ án một cách thiếu căn cứ, không kịp
thời thì có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng: bắt giữ, giam người trái pháp luật,
xét xử oan người vơ tội. Nói cách khác khởi tố vụ án hình sự trong những trường hợp này
9
xâm phạm rất lớn đến quyền tự do dân chủ công dân – một trong những quyền hiến định
của công dân.
Thời điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu
từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được những thông tin đầu tiên về việc
thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng việc ra quyết định khởi tố
(hoặc khơng khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó.
Như vậy giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được chính thức khởi động bằng việc Cơ
quan điều tra tiếp nhận đầy đủ tố giác của công dân; tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ
chức hoặc các kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Sau khi nhận được
những thông tin này, Cơ quan điều tra trong thời hạn hai mươi ngày, có trách nhiệm phải
kiểm tra, xác minh nguồn tin, tuy nhiên trong trường hợp đặc biệt mà sự việc bị tố giác,
tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra,
xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn,
nhưng khơng q hai tháng. Và tùy thuộc vào kết quả xác minh sự việc mà cơ quan có
thẩm quyền phải ra một trong hai loại quyết định sau: quyết định khởi tố vụ án hình sự
nếu sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự nếu
khơng có căn cứ xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm. Với việc ra một trong hai loại
quyết định nêu trên thì cơ quan có thẩm quyền đã chính thức làm khép lại giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự và dẫn đến hai trường hợp với hai hậu quả pháp lý khác nhau như sau:
(i) chuyển quá trình tố tụng sang giai đoạn điều tra nếu cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự svà (ii) kết thúc cả quá trình tố tụng nếu đó là quyết định
khơng khởi tố vụ án hình sự.
1.1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự
-
Khởi tố vụ án hình sự là sự phản ứng nhanh chóng từ phía Nhà nước đối
với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, ngăn chặn và xử lý một cách
có căn cứ và đúng pháp luật mọi tội phạm, đồng thời còn là phương tiện cơ bản để
thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm và khơng làm oan người vô tội.
10
- Giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng khơng những góp phần ngăn chặn
kịp thời việc thơng qua quyết định khởi tố vụ án hình sự một cách thiếu cân nhắc,
vội vàng; giúp hoạt động điều tra tập trung vào những hành vi phạm tội cụ thể để
nhanh chóng làm rõ vụ án mà cịn đảm bảo cho tồn bộ q trình tố tụng được bắt
đầu đúng hướng, đúng mục tiêu. Các giai đoạn tố tụng tiếp theo có đạt được kết
quả khách quan, tồn diện và đầy đủ hay khơng; tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản và các quyền tự do, dân chủ khác của cơng dân có thực sự
được tơn trọng hay khơng phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện đúng đắn và
nghiêm chỉnh những quy định về khởi tố vụ án hình sự.
- Là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp
chế, bảo vệ các quyền của công dân. Trong giai đoạn này thơng qua các thơng tin
thu thập được, cơ quan có thẩm quyền quyết định có cần tiến hành tố tụng hay
khơng? Một khi cơ quan có thẩm quyền đã quyết định khởi tố vụ án thì cũng đồng
thời làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự và các vấn đề liên quan đến
quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tham gia tố tụng. Do đó cho dù là bị can
hay người bị hại thì họ đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định mà cơ quan nhà
nước phải tơn trọng. Ở khía cạnh bị can, cơ quan có thẩm quyền chỉ được tiến
hành những hoạt động tố tụng trong khuôn khổ quy định của pháp luật tố tụng
hình sự, đồng thời có nghĩa vụ đảm bảo cho bị can thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của họ, khơng được có những hành vi như bức cung, mớm cung, đánh đập bị
can. Ngoài ra, bị can còn quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước chỉ được tiến hành
các hoạt động trong phạm vi pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chính mình. Về phía người bị hại, pháp luật tố tụng hình sự cũng quy
định cho người bị hại quyền và nghĩa vụ nhất định nhằm tạo điều kiện cho người
bị hại bảo vệ, ngăn chặn và khơi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã
bị tội phạm xâm phạm. Chính vì vậy thơng qua hoạt động khởi tố vụ án hình sự,
các quyền tự do và dân chủ của công dân được đảm bảo hơn. Hay nói cách khác,
11
khởi tố vụ án hình sự liên quan chặt chẽ với việc đảm bảo pháp chế, đảm bảo các
quyền hiến định của cơng dân.
Tóm lại, để thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ... các cơ quan có thẩm
quyền phải có quyết định khởi tố vụ án. Do đó mà giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai
đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự một cách nhanh
chóng, đúng hướng, khách quan và hợp pháp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân cũng như góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phịng và chống tội phạm
trong toàn xã hội.
1.2. Khái niệm về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại
1.2.1. Khái niệm ngƣời bị hại
Người bị hại là một khái niệm khá quen thuộc trong khoa học pháp lý về tố tụng
hình sự tuy nhiên thế nào là người bị hại thì cho đến nay vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau.
Để có sự nhận thức đầy đủ và thống nhất về khái niệm người bị hại, chúng ta cần tiếp
dưới những góc độ khác nhau:
-
Theo từ điển Tiếng Việt: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, vật
chất hoặc tinh thần do tội phạm gây ra”(4)
-
Về mặt ngôn ngữ pháp lý: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị
người phạm tội là thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản”(5)
-
Trong pháp luật thực định thì khái niệm người bị hại lần đầu tiên được quy
định trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/09/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm hình sự. Theo đó, người bị hại là: “cơng dân đã bị kẻ
phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài sản, hoặc xâm phạm về tinh thần
(như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa đảo...)". Sau đó, BLTTHS năm 1988 đã
đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm người bị hại tại khoản 1 - Điều 39 như
(4). Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, năm 2006, Tr.698.
(5). Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Cơng an nhân dân, 1999, Tr. 198.
12
sau: "Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do
tội phạm gây ra". Theo quy định tại khoản 1 - Điều 51 BLTTHS năm 2003,
"người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra".
Dựa trên quy định pháp luật, người bị hại khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự có những đặc điểm sau:
Về chủ thể, người bị hại chỉ có thể là cá nhân - một con người cụ thể bị hành vi
phạm tội trực tiếp xâm hại. Mặc dù đây là cách hiểu truyền thống về nguyên tắc song
việc xác định người bị hại chỉ là cá nhân hay có thể là cá nhân, pháp nhân, tổ chức vẫn
đang là vấn đề còn nhiều tranh luận. Hiện này có hai luồng ý kiến sau khi đề cập đến vấn
đề này:
- Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng điều luật đã quy định “người bị hại là người bị
thiệt hại....” và khái niệm “người” ở đây là đề cập đến con người cụ thể do đó người bị
hại chỉ có thể con người chứ khơng thể là pháp nhân hay tổ chức. Thứ hai, người bị hại
được định nghĩa là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần... do hành vi phạm tội gây ra,
mà thể chất và tinh thần thì chỉ có thể gắn liền với con người, thiệt hại này không thể xảy
ra đối với pháp nhân hay tổ chức. Ngoài ra theo quy định trong BLTTHS của một số quốc
gia như Trung Quốc, Nga … cho thấy các quốc gia này đều quan niệm người bị hại trong
vụ án hình sự chỉ có thể là con người cụ thể và đây cũng là quan điểm của các nhà làm
luật Việt Nam thể hiện rõ trong Điều 51 BLTTHS năm 2003.
- Luồng ý kiến thứ hai cho rằng về hình thức mặc dù BLTTHS quy định “người bị
hại là người bị thiệt hại...” song ở một khía cạnh nào đó cần phải hiểu khái niệm người bị
hại theo nghĩa rộng tức là ngoài các cá nhân thì tổ chức, pháp nhân bị tội phạm trực tiếp
gây thiệt hại cũng được xem là người bị hại tương tự với trường hợp “người có quyền và
nghĩa vụ liên quan”(6). Tác giả cũng đồng quan điểm với luồng ý này và thiết nghĩ pháp
luật nên có sự mở rộng khái niệm người bị hại theo hướng: “Người bị hại là cá nhân, cơ
(6). Mặc dù Điều 54 BLTTHS quy định là người có quyền và nghĩa vụ liên quan nhưng thực tế người có quyền và nghĩa
vụ liên quan có thể là cá nhân, pháp nhân hay tổ chức.
13
quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra”.
Bởi vì phạm vi các loại tội chỉ được khởi tố theo yêu cầu người bị hại có Tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171 BLHS), mà chủ thể nắm giữ các quyền sở hữu công
nghiệp này thường là các tổ chức, pháp nhân. Hơn nữa, thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra cho pháp nhân, tổ chức không thuần túy là thiệt hại về tài sản mà có thể bị thiệt hại cả
về tinh thần, chẳng hạn một doanh nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị vu khống làm
mất uy tín trong kinh doanh... Vì vậy trong thực tế hành vi phạm tội không chỉ gây ra
thiệt hại cho cá nhân, mà còn gây thiệt hại cho cả pháp nhân, tổ chức. Do đó nếu xem
người bị hại chỉ là các cá nhân, còn các tổ chức, pháp nhân chỉ là nguyên đơn dân sự (khi
có đơn u cầu) thì sẽ khơng hợp lý và không đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể
trong trường hợp cùng bị thiệt hại do một hành vi phạm tội gây ra (quyền của nguyên đơn
dân sự trong quá trình tố tụng hạn chế hơn quyền của người bị hại). Mặt khác sẽ làm nảy
sinh hàng loạt vấn đề khó giải quyết cả từ góc độ lý luận và thực tiễn như: (i) trường hợp
các tổ chức, pháp nhân mà tài sản thuộc sở hữu nhà nước khi bị tội phạm gây thiệt hại
nhưng khơng có đơn u cầu thì tài sản của nhà nước liệu có được đảm bảo; (ii) đối với
các doanh nghiệp mà tài sản thuộc sở hữu cá nhân, của một nhóm người cùng góp vốn
kinh doanh (cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty hợp danh...) trong quá trình hoạt động
lại bị kẻ phạm tội gây thiệt hại nhưng chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là nguyên
đơn dân sự, liệu có hợp lý và có đảm bảo sự bình đẳng trong khi về thực chất tài sản đó
đều là của cá nhân(7). Tác giả cho rằng với xu hướng hội nhập khu vực và thế giới đã trở
thành xu thế tất yếu đã đến lúc chúng ta cần xem xét tất cả các lý lẽ để thừa nhận tổ chức
và pháp nhân là người bị hại nhằm góp phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể này cũng như đảm bảo công bằng trong xã hội.
Về thiệt hại, người bị hại bị tội phạm xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc tài
sản. Thiệt hại về thể chất là bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ như bị giết, bị gây
thương tích…; thiệt hại về tinh thần là bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín như
(7).
/>hs&catid=107:ctc20071&Itemid=110 (ngày 15/7/2012 10h45).
14
bị lăng mạ, vu khống,…và thiệt hại về tài sản là tài sản của người bị hại bị cướp, bị hư
hỏng, bị trộm… Tuy nhiên thiệt hại không phải là yếu tố bắt buộc trong mọi trường hợp
mà cần căn cứ vào các loại cấu thành tội phạm cũng như tính chất của sự thiệt hại để xác
định người bị hại. Trong khoa học luật hình sự, tội phạm có hai loại cấu thành cơ bản, đó
là tội phạm có cấu thành vật chất và tội phạm có cấu thành hình thức:
Đối với các loại tội phạm có cấu thành vật chất bắt buộc phải có hậu quả xảy ra và
hậu quả đó thường là thiệt hại về thể chất và vật chất. Sự thiệt hại đó phải là thiệt hại trực
tiếp do chính tội phạm gây ra, thiệt hại đó phải có mối liên hệ nhân quả với hành vi phạm
tội.
Đối với các tội có cấu thành hình thức thì thiệt hại gây ra cho người bị hại thường
là thiệt hại về tinh thần, khó định lượng được. Vì vậy khi chưa gây ra thiệt hại do những
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của kẻ phạm tội, người có nguy cơ bị xâm hại
vẫn được xem là người bị hại. Tức là, phải coi người bị hại là bất kỳ người nào khi mà
quyền và lợi ích hợp pháp của họ là khách thể của tội phạm cho dù tội phạm đó chưa
hồn thành.
Bên cạnh các dấu hiệu luật định thì xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại chỉ trở
thành người bị hại trong quan hệ tố tụng hình sự khi họ được cơ quan tiến hành tố tụng
công nhận là người bị hại thông qua hành vi triệu tập họ đến khai báo với tư cách người
bị hại. Trong nhiều trường hợp, hành vi phạm tội không bị phát hiện và xử lý hoặc không
xác định được người bị thiệt hại thì mặc dù trên thực tế có người bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra nhưng họ cũng không thể trở thành
người bị hại trong vụ án hình sự.
Ngồi người bị hại thì pháp luật còn quy định cho một chủ thể nữa có quyền u cầu
khởi tố vụ án hình sự đó là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Tuy nhiên không
phải tất cả những người đại diện hợp pháp của người bị hại đều có quyền yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự mà chỉ có người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mới có quyền năng này.
15
Trong quan các hệ pháp luật dân sự, vấn đề đại diện được hiểu là việc một người
nhân danh và vì lợi ích của người khác thực hiện những cơng việc nhất định. Quan hệ đại
diện được xác lập theo hai cách thức: đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy
quyền. Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định và đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ
quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Còn đối với các vụ án hình sự, tuy
BLTTHS khơng quy định gì và cũng khơng quy định cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
được áp dụng quy định về người đại diện theo pháp luật của BLDS vào việc giải quyết vụ
án hình sự nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự vẫn áp dụng quy định về người
đại diện hợp pháp theo BLDS để làm cơ sở xác định người đại diện hợp pháp của người
bị hại. Do đó để bảo đảm thống nhất các quy định pháp luật và tạo thuận lợi cho quá trình
áp dụng pháp luật và bảo vệ người bị hại một cách tốt nhất, BLTTHS cần xác định cụ thể
người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về thể chất hoặc tâm thần là những ai và quy định cho người đại diện có các quyền như
người bị hại để thay mặt người bị hại tham gia tố tụng nhằm bảo vệ một cách tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của chính người bị hại....
1.2.2. Định nghĩa khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được quy
định trong BLTTHS năm 1988 và sau đó, trên cơ sở kế thừa, BLTTHS 2003 tiếp tục quy
định với những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với đòi hỏi của thực tế. Mặc dù chế định
này đã tồn tại trong hệ thống pháp luật nước ta trong một thời gian khá dài nhưng đến
nay, thế nào là khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại thì cả hai bộ luật trên
đều không đề cập đến. Theo một số tác giả cho rằng:“Khởi tố vụ án theo yêu cầu người
bị hại là trường hợp đặc biệt mà do tính chất vụ án và vì lợi ích của người bị hại, cơ
quan có thẩm quyền khơng tự ý khởi tố vụ án mà phụ thuộc vào ý chí của người bị đó là
yêu cầu người bị hại”(8). Như vậy, về nguyên tắc khi xác định một sự việc xảy ra có dấu
hiệu của tội phạm, thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ,
(8). Khoa luật hình sự - Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng luật tố tụng hình sự, Tr.209.
16
quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự; Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên
phịng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan
khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp được quy định tại
Điều 111 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên với một số trường hợp do tính chất của vụ án và
vì lợi ích của người bị hại, các cơ quan có thẩm quyền nói trên khơng tự ý quyết định
việc khởi tố vụ án hình sự, mà việc khởi tố vụ án được thực hiện theo yêu cầu của người
bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất (từ đây sẽ gọi chung là người đại diện hợp pháp
của người bị hại). Nếu chưa có u cầu khởi tố vụ án thì Cơ quan có thẩm quyền vẫn có
thể xác minh, kiểm tra tin báo, tố giác nhưng không được ra quyết định khởi tố vụ án.
Một vấn đề được đặt ra là yêu cầu của người bị hại là cơ sở của việc xác định dấu hiệu tội
phạm hay là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự?
Quan điểm cho rằng "yêu cầu của người bị hại là một dạng đặc biệt của tố giác"(9)
vì lý do giữa yêu cầu của người bị hại và tố giác của cơng dân có nhiều điểm tương đồng:
Một là, tố giác hay yêu cầu của người bị hại đều là việc thông báo với các cơ quan có
trách nhiệm về một tội phạm đã xảy ra. Hai là, chủ thể tố giác và người yêu cầu khởi tố
đều là cá nhân; Ba là, cả tố giác và yêu cầu của người bị hại đều được thể hiện dưới dạng
văn bản hoặc lời nói. Bên cạnh đó, BLTTHS 2003 cũng chỉ quy định trình tự, thủ tục để
giải quyết tố giác của công dân, nên nếu cho rằng yêu cầu của người bị hại không phải là
một dạng của tố giác thì u cầu đó sẽ được giải quyết theo trình tự, thủ tục nào? Tuy
nhiên, cần phải xác định rằng yêu cầu của người bị hại khơng hồn tồn là tố giác bởi lẽ:
chủ thể yêu cầu khởi tố vụ án chỉ có thể là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của
người bị hại, cịn chủ thể tố giác có thể chính là người bị hại hoặc bất kỳ người nào biết
về sự việc đó; Yêu cầu khởi tố vụ án là quyền của người bị hại còn tố giác vừa là quyền
vừa là nghĩa vụ của công dân; Nội dung của yêu cầu khởi tố ngoài báo tin về tội phạm
(9). Nguyễn Hải Long, Trao đổi về Điều 88 BLTTHS, Tạp chí TAND số 3/1996, Tr.15.
17
còn là sự mong muốn pháp luật trừng trị kẻ phạm tội còn nội dung tố giác là báo tin về
tội phạm (thời gian, địa điểm…).
Nhưng cũng có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi tố vụ án là căn cứ để cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án vì trong quyết định khởi tố vụ án phải ghi rõ căn
cứ khởi tố, mà một trong những căn cứ khởi tố các tội phạm quy định tại Điều 105
BLTTHS là yêu cầu của người bị hại. Quan điểm này chưa thực sự hợp lý vì theo quy
định tại Điều 100 BLTTHS năm 2003, dấu hiệu của tội phạm đã được xác định là điều
kiện cần và đủ để cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án. Đối với các trường hợp quy định
tại khoản 1 - Điều 105 BLTTHS 2003 cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự trên cơ sở sự kết hợp của hai yếu tố: có dấu hiệu của tội phạm và có yêu cầu
của ngƣời bị hại hoặc của ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại. Nếu khơng có
dấu hiệu của tội phạm thì dù người bị hại có yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền cũng không
được ra quyết định khởi tố vụ án và ngược lại, nếu khơng có u cầu của người bị hại thì
dù xác định có dấu hiệu của tội phạm cơ quan thẩm quyền cũng không được khởi tố vụ
án. Hay nói cách khác, chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại khi
có đủ hai điều kiện: điều kiện cần là yêu cầu khởi tố của người bị hại và điều kiện đủ đó
là có dấu hiệu tội phạm đã được xác định. Tuy nhiên điều này khơng có nghĩa là nếu
khơng có u cầu của người bị hại thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định không khởi tố
vụ án vì quyết định khơng khởi tố vụ án chỉ được ra khi có một trong bảy căn cứ được
quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2003.
Từ những phân tích trên đây, tác giả có thể rút ra khái niệm khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại như sau:“Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị
hại là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sau khi xác định một sự việc có dấu hiệu
của một số tội phạm theo quy định của BLHS, chỉ được ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự sau khi có u cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị
hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”.
18
1.2.3. Cơ sở của việc thiết lập chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
ngƣời bị hại
1.2.3.1 Cơ sở lý luận
-
Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại đƣợc xây
dựng trên cơ sở tôn trọng quyền con ngƣời.
Khái niệm quyền con người có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại dưới dạng các
quyền tự nhiên của con người - các quyền nảy sinh từ bản chất tự nhiên của con người kể
từ khi con người mới sinh ra và lớn lên mà không một ai, kể cả Nhà nước, xã hội, có
quyền ngăn cản hoặc tước đoạt. Đó là các quyền được sống, quyền được ăn, uống, mặc,
quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền được tự do,... Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ,
người nô lệ không được coi là con người, khơng có và khơng được thừa nhận các quyền
con người. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bước tiến trong việc giành lại
quyền tự do và giải phóng con người. Giai cấp tư sản là người đầu tiên nêu ngọn cờ nhân
quyền, biết lợi dụng các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, vốn là yêu cầu bức thiết của
nhân dân lao động, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người, “quyền
tư hữu thiêng liêng”. Lần đầu tiên các quyền con người được chính thức ghi trong các
văn kiện quan trọng như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và
quyền công dân của Pháp năm 1789, Tuyên ngôn cộng sản năm 1848... Tuy vậy giai cấp
tư sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị, coi nhẹ quyền kinh tế, văn hoá, xã
hội là cơ sở và điều kiện quan trọng để người lao động thốt khỏi đói nghèo và bị bóc lột.
Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền con người: đó là các
quyền kinh tế, văn hố, xã hội. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, các nước xã hội chủ
nghĩa đã đi đầu trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản như bộ phận thiết yếu của
các quyền tập thể, đưa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về nhân quyền. Cùng
với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người, nội dung các quyền con người vẫn đang
tiếp tục phát triển.
Đối với dân tộc Việt Nam do từng là nạn nhân của nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược, hơn ai hết Việt Nam hiểu rõ về tầm quan trọng của quyền con người. Vì vậy ngay
19
sau khi giành được độc lập năm 1945, quyền con người, quyền công dân đã được ghi
nhận ngay trong Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ và sau đó
tiếp tục được khẳng định, mở rộng trong các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980. Và tại
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2001) - văn kiện pháp lý cao nhất của Nhà nước Việt Nam hiện nay, quyền con
người, quyền công dân được chia thành 6 nhóm, thể hiện trong nhiều điều tại các Chương
I, II, III và V. Cụ thể, bao gồm: nhóm các quyền về chính trị; nhóm các quyền dân sự;
nhóm các quyền kinh tế; nhóm các quyền về văn hóa, giáo dục, khoa học - cơng nghệ;
nhóm các quyền về xã hội và nhóm các quyền của những cá nhân không phải là công dân
Việt Nam. Như vậy, về mặt hình thức, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận một cách rõ ràng
tồn diện tất cả các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa quan trọng của con
người mà các công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã ghi nhận. Các quyền
con người quy định trong Hiến pháp đã không ngừng được cụ thể hóa trong các văn bản
pháp quy của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ tính từ năm 1986
đến nay, Việt Nam đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 Bộ
luật và Luật, trên 120 Pháp lệnh, gần 850 văn bản của Chính phủ và trên 3000 văn bản
pháp quy của các Bộ, ngành đã được thông qua và thực thi… Riêng trong năm 2004,
Quốc hội đã thảo luận và thông qua 13 Luật và 8 Pháp lệnh trong các lĩnh vực khác
nhau(10). Như vậy, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã có rất nhiều quy định để bảo vệ
cho quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, trong đó đặc biệt phải kể việc quy định dành
cho người người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án với một số trường hợp nhất định.
Điều này đã chứng tỏ những cố gắng rất lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong xã hội.
-
Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại đƣợc xây
dựng trên cơ sở bản chất Nhà nƣớc.
(10).
/>0731093608/ (ngày 10/07/2012, 15h30).
20
Nhà nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Một nhà
nước mà ở đó, quyền con người được tơn trọng và bảo vệ. Một nơi mà các quyền con
người không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật
nhà nước mà còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người hiện hữu trong nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự. Có thể nói,
quyền con người trong lĩnh vực này dễ bị xâm phạm, bị tổn thương nhất và hậu quả để lại
cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh
mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, với việc Nhà nước xác định thế nào là tội phạm,
quy định về trình tự, thủ tục đưa một người ra xử lý trước pháp luật và áp dụng các biện
pháp cưỡng chế, hình phạt dành cho họ ln thể hiện rõ nét tính quyền lực Nhà nước.
Chính vì vậy, lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự trong bất cứ Nhà nước nào đều được
xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi người ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con người.
Chính vì những lí do trên, pháp luật đã đưa ra nhiều quy định bảo đảm mọi công
dân trong xã hội không chỉ các quyền tự do dân chủ mà cịn “có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm”(11). Riêng với người bị hại, họ là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài
sản do hành vi phạm tội gây ra, quyền lợi của họ bị xâm hại, vì vậy Nhà nước đã quy
định cho họ có một quyền đặc biệt, đó là quyền được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện cho người bị hại được cân nhắc, tính tốn
việc khởi tố vụ án có gây bất lợi cho họ hay không để quyết định khởi tố hay khơng
khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, những trường hợp người bị hại được quyền yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự cũng chỉ nằm trong giới hạn mà Nhà nước và xã hội chấp nhận
được nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Trước khi có BLTTHS năm 1988, người bị hại khơng được pháp luật quy định có
quyền yêu cầu khởi tố vụ án mà thậm chí trong nhiều trường hợp người bị hại làm đơn
xin giảm nhẹ hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt một cách có tình, có lý cho
(11). Điều 71 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001).
21
người phạm tội cũng khơng được Tồ án chấp nhận. Quan niệm phổ biến lúc đó khơng
chấp nhận việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại bởi: “Quan hệ pháp luật hình
sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, trong đó với tư cách là người bảo vệ lợi
ích của tồn xã hội, Nhà nước có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm
tội, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra”(12). Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng cho rằng,
những vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại là các vụ án tư tố, tức là
pháp luật sẽ dành cho những người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi
kiện, khởi tố chống lại người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội xâm
phạm các quyền và lợi ích cá nhân(13). Như vậy, quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại sẽ
mâu thuẫn với quyền công tố của Nhà nước. Tuy nhiên, khi nghiên cứu, tham khảo pháp
luật của một số nước đặc biệt là pháp luật tố tụng của Liên Xô, các nhà lập pháp cũng nhận
thấy “quyền tư tố” của người bị hại được xã hội chấp nhận khi nó ở trong giới hạn nhất
định và không làm ảnh hưởng đến quyền công tố của Nhà nước. Do đó, BLTTHS năm
1988 đã chính thức ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
và tiếp tục được BLTTHS 2003 ghi nhận đã cho thấy sự cần thiết của chế định này trong
hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của nước ta.
1.2.3.2 Cơ sở thực tiễn
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ quan trọng, có tính chất
quyết định đến các hoạt động, các giai đoạn khác của quá trình tố tụng. Việc khởi tố có
kịp thời, đúng người, đúng pháp luật thì mới bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, bảo vệ
người bị tội phạm xâm hại và giúp cho các hoạt động tố tụng tiếp theo được tiến hành
theo đúng hướng. Tuy nhiên, không phải việc cơ quan có thẩm quyền phát hiện và khởi tố
vụ án là đã bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại một cách tốt nhất. Bởi lẽ:
(12). Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chí kiểm sát, tháng
1/2006, Tr. 29.
(13). Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội, Bàn về quyền công tố, Hà Nội 2003, Tr. 55.
22
- Đối với những thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra thì có thể khơi phục lại hoặc
hồn trả bằng tiền nhưng cịn đối với thiệt hại về tinh thần như danh dự, nhân phẩm… là
những thiệt hại khơng thể cân, đo, tính tốn ra những con số cụ thể được, là những tổn
thương vơ hình, những nỗi sợ hãi, ám ảnh hoặc sự suy sụp tinh thần, tình cảm mà người
bị hại khơng muốn nhắc lại và càng không muốn bị công khai. Những tổn thương đó ảnh
hưởng rất lớn đến tâm lý người bị xâm hại và có thể khiến cho họ xa lánh mọi người hoặc
nguy hiểm hơn là tìm đến cái chết. Đối với những trường hợp này, cách tốt nhất là nên
cho người bị hại có thời gian suy nghĩ và quyết định việc có nên yêu cầu khởi tố vụ án
hay không. Nếu người bị hại cảm thấy bị tổn thương và mặc cảm q lớn, muốn giữ kín
những gì đã xảy ra thì pháp luật nên để cho người bị hại và người gây thiệt hại chủ động
giải quyết riêng với nhau. Trong trường hợp người bị hại thật sự muốn kẻ gây thiệt hại
phải bị pháp luật trừng phạt thích đáng thì lúc này họ sẽ u cầu cơ quan có thẩm quyền
giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích cho họ.
- Theo quy định tại Điều 8 BLHS thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an
tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Do đó việc Nhà nước tiến
hành khởi tố vụ án hình sự đối với những người có hành vi trên là việc làm tất yếu để bảo
vệ lợi ích Nhà nước và các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Tuy nhiên với những tội phạm
xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, quyền tự do, dân chủ của cơng dân thì thiệt hại thường
ít xảy ra với Nhà nước (thậm chí khơng có) nhưng người phải gánh chịu những hậu quả
tinh thần nặng nề nhất lại chính là người bị hại. Do đó nếu Nhà nước tiến hành khởi tố vụ
án và xét xử công khai những vấn đề cá nhân riêng tư, nhạy cảm của người bị hại để bảo
vệ những lợi ích kinh tế khơng lớn thì liệu có được xem là bảo vệ người bị hại hay
khơng? Lúc này ý nghĩa kinh tế cịn phù hợp hay khơng? Do đó đối với những tội phạm
23
như vậy việc quyết định khởi tố vụ án hay khơng nên để cho người bị hại – người bị
chính tội phạm xâm hại tự xem xét và quyết định.
Đây chính là những cơ sở thực tiễn cho việc ra đời chế định khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại vào trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, một chế định
thể hiện bước phát triển vượt bậc trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói
chung, quyền và lợi ích của người bị hại nói riêng trong lĩnh vực tố tụng hình sự ở nước
ta.
1.2.5 Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại được xem là trường hợp đặc
biệt của khởi tố vụ án hình sự, cho nên nó sẽ có những đặc điểm chung của khởi tố vụ án
hình sự nhưng bên cạnh đó cịn có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất.
Theo quy định của pháp luật, khi phát hiện sự việc phạm tội thì cơng dân phải tố
ngay cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên việc tố giác tội phạm của công
dân không phải là yếu tố quyết định mà chỉ là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem xét,
xác minh sự việc được tố giác có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để đi đến quyết định
khởi tố hay khơng khởi tố vụ án hình sự. Nếu sự việc khơng có dấu hiệu tội phạm thì dù
có tin tố giác cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng sẽ không được khởi tố vụ án. Thế
nhưng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã dành cho người bị hại, người đại diện hợp
pháp của người bị hại một quyền năng rất đặc biệt đó là quyền yêu cầu khởi tố hay không
khởi tố vụ án hình sự. Theo đó trong những trường hợp quy định tại khoản 1 - Điều 105
BLTTHS, vụ án chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại; yêu cầu của người bị
hại trong những trường hợp này không chỉ là sự tố giác về tội phạm và người phạm tội
mà còn là căn cứ quyết định việc khởi tố vụ án hình sự hay khơng. Nghĩa là trong trường
24
hợp này, mặc dù có tội phạm xảy ra nhưng Nhà nước khơng cho phép các cơ quan của
mình phát động quyền công tố, tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội mà quy định ưu tiên cho người bị hại quyền quyết định có truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội hay khơng. Hơn nữa, BLTTHS cịn cho phép người bị hại
đã có yêu cầu khởi tố được quyền rút yêu cầu trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị
xét xử và cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp này bắt buộc phải ra quyết định đình
chỉ vụ án (trừ trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn
của họ do bị ép buộc, cưỡng bức).
Như vậy trường hợp quy định tại khoản 1 - Điều 105 BLTTHS, chỉ hội đủ hai căn
cứ: dấu hiệu tội phạm và yêu cầu của ngƣời bị hại thì cơ quan có thầm quyền mới
được phép ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, khơng phải tất cả các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự đều có
quyền khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại.
Tại khoản 1 – Điều 105 BLTTHS đã liệt kê các tội chỉ được khởi tố khi có yêu cầu
của người bị hại bao gồm những tội thuộc Chương XII BLHS (Điều 104, 105, 106, 108,
109, 111, 123, 121, 122), Chương XIII BLHS (Điều 131) và Chương XVI BLHS (Điều
171). Trong khi Điều 111 BLTTHS, chương III Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm
2004 và Điều 1 pháp lệnh 09/2009/PL-UBTVQH12 về sửa đổi, bổ sung một số Điều
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển...được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra chỉ có thẩm quyền khởi tố vụ án khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực
quản lý của mình khi phát hiện một số tội nhất định nhưng khơng có những tội được quy
định tại khoản 1 – Điều 105 BLTTHS nên có thể khẳng định các cơ quan, đơn vị này
khơng có thẩm quyền khởi tố vụ án do người bị hại yêu cầu.
Về phía các cơ quan tiến hành tố tụng, thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại thuộc về Cơ quan cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân và
25