1 HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG LẦN THỨ 9 - 2014
BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU NGUỒN LỢI GIÁP XÁC LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TẠI CÙ LAO CHÀM
PRELIMINARY STUDIES CLASS CRUSTACEAN RESOURCES RELATED TO ECONOMIC
DEVELOPMENT FOR COMMUNITIES IN CU LAO CHAM
SVTH: Dương Thị Mỹ Ly
Lớp 10SS, Khoa Sinh-Môi trường,Trường Đại học Đà Nẵng-Đại học Sư Phạm; Email:
Nguyễn Thị Thùy Uyên, Nguyễn Thị Quanh
Lớp11SS2,Khoa Sinh-Môi trường,Trường Đại học Đà Nẵng-Đại học Sư Phạm;Email:,
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Tường Vi
Khoa Sinh-Môi trường, Trường Đại học Đà Nẵng-Đại học Sư Phạm;Email:
Tóm tắt-Nghiên cứu nguồn lợi lớp giáp xác liên quan đến
phát triển kinh tế cho cộng đồng dân cư tại Cù Lao Chàm
nhằm cung cấp các dẫn liệu mới bổ sung cho khu hệ giáp
xác của Việt Nam cũng như thể hiện tính đặc trưng của
khu hệ giáp xác ở quần đảo Cù Lao Chàm, làm cơ sở
khoa học cho việc bảo tồn và phát triển tài nguyên động
vật. Bằng phương pháp tham vấn cộng đồng và khảo sát
ngoài thực địa, đã xác định được các loài giáp xác có giá
trị kinh tế, thường xuyên được khai thác bao gồm cua đá,
tôm hùm bông, ghẹ xanh, ghẹ đẳng, ghẹ 3 lỗ, tôm chì. Tuỳ
thuộc vào từng đối tượng giáp xác mà có các ngành nghề
khai thác khác nhau bao gồm nghề lặn, nghề lưới và nghề
bắt cua đá. Ghẹ xanh có sản lượng khai thác lớn nhất với
8625 tạ/năm, thứ nhì là cua đá có sản lượng khai thác là
160,02 tạ/năm, và cuối cùng là tôm hùm bông có sản
lượng khai thác đạt 12,25 tạ/năm. Mặc dù đem lại lợi ích
kinh tế và du lịch rất lớn nhưng số lượng cá thể của các
loài này đang ngày càng suy giảm do hoạt động khai thác
của người dân.
Từ khóa: Giáp xác, cua đá, tôm hùm, ghẹ đẳng, lợi ích
kinh tế và du lịch.
1.Đặt vấn đề
Cù Lao Chàm là một cụm đảo, về mặt hành chính trực thuộc
xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, nằm cách
bờ biển Cửa Đại 15 km và đã được UNESCO công nhận là khu
dự trữ sinh quyển thế giới. Cù Lao Chàm bao gồm 8 đảo: Hòn
Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá,
Hòn Tai, Hòn Ông; có 5.175 ha mặt nước với 165 ha rạn san hô,
500 ha rong biển và thảm cỏ biển, cung cấp môi trường sống
cho các loài thủy sản có giá trị khác nhau. Dân số trên các hòn
đảo này gồm khoảng 3.000 người.
Là một khu bảo tồn biển nổi tiếng bởi sự đa dạng sinh học
với nhiều giống loài quý hiếm,đặc biệt trong đó có các loài cua
đá, tôm hùm, ghẹ đẳng…thuộc lớp giáp xác đã đem lại nguồn
thu nhập cao cho người dân tại Cù Lao Chàm. Tuy nhiên, các
hoạt động khai thác những loài giáp xác mang lại giá trị kinh tế
cao đặc biệt là cua đá đã có thời gian đưa loài cua này đứng
trước bờ vực tuyệt chủng.
Hiện nay, chưa có một nghiên cứu chính thức nào về nguồn lợi
và thành phần loài của lớp giáp xác đem đến cho cộng đồng
Abstract-Research crustacean class resources related to
economic development for communities in Cu Lao Cham
to provide additional new record for the crustacean fauna
of Vietnam as well as showing the specificity of the system
crustaceans in Cu Lao Cham islands , as the scientific
basis for the conservation and development of animal
resources . By method of community consultation and
surveys in the field , have determined crustaceans have
economic value , are often exploited include rock crab ,
lobster flower , blue crab , crab college , crab 3 hole , lead
shrimp . Depending on crustacean species that exploit the
different professions including diving , craft stone crab
nets and jobs . Blue crab catches the largest with 8625
tons / year , is the second stone crab catches are 160.02
tons / year , and finally lobster catches cotton has reached
12.25 tons / year . Despite the economic benefits and
tourism are high, but the number of individuals of this
species are declining due to the exploitation of people.
Key words:Crustacean, stone crab, lobster, crab college,
economic benefits and tourism.
dân cư tại Cù Lao Chàm. Để có dẫn liệu mới bổ sung cho
khu hệ giáp xác của Việt Nam cũng như thể hiện tính đặc trưng
của khu hệ giáp xác ở quần đảo Cù Lao Chàm, cần có những
nghiên cứu làm cơ sở khoa học cho việc bảo tồn và phát triển tài
nguyên động vật ở khu vực này.
Xuất phát từ thực tiễn trên chúng tôi thực hiện đề tài :
“Bước đầu nghiên cứu nguồn lợi lớp giáp xác liên quan đến
phát triển kinh tế cho cộng đồng dân cư tại Cù Lao Chàm”
nhằm cung cấp các dữ liệu làm cơ sở cho việc lập kế hoạch quản
lý đa dạng sinh học và nguồn lợi giáp xác tại quần đảo Cù Lao
Chàm.
1.1 Tình hình nghiên cứu nguồn lợi lớp giáp xác tại Việt
Nam
Riêng về lớp giáp xác biển Việt Nam, đã có nhiều công trình
nghiên cứu, đáng chú ý là các báo cáo của R.Serene (1937,
1949, 1950, 1953, 1954); C.Dawydoff (1952); Fize et Serene
(1952) ; J.Forest (1956 , 1958) ; K.K.Tiwari (1956); Trần Ngọc
Lợi (1965, 1967); Nguyễn Văn Chung (1971, 1994); Gurjanova
( 1972 ); Y.I. Starobogatov(1972 ); A.J.Bruce (1993); Phạm
Ngọc Đẳng (1994). [2]
2 SVTH: Dương Thị Mỹ Ly, Nguyễn Thị Thùy Uyên, Nguyễn Thị Quanh; GVHD: Th.S Nguyễn Thị Tường Vi
Phạm Thị Dự và Đào Tấn Học đã thực hiện “ Mô tả các loài
giáp xác (Crustacea) mới phát hiện ở biển Việt Nam qua các
chuyến thu mẫu trên tàu “Viện sĩ Oparin””và xác định được 30
loài động vật Giáp xác (lớp Crustacea); trong đó có 10 loài mới
phát hiện ở biển Việt Nam.[3]
Vào năm 2012, Hoàng Đình Trung đã công bố: “ Dẫn liệu
bước đầu về thành phần loài động vật đáy ở hạ lưu sông Hiếu,
tỉnh Quảng Trị”. Nghiên cứu về thành phần loài động vật đáy
(Zoobenthos) ở hạ lưu sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị được thực hiện
tại 6 điểm. Kết quả phân tích mẫu vật thu được từ tháng 10/2011
đến tháng 5/2012 đã xác định được 43 loài thuộc 29 giống, 16
họ và 5 lớp. Trong đó, lớp Giáp xác (Crustacea) với 18 loài
thuộc 11 giống, 4 họ.[1]
1.2 Tình hình nghiên cứu nguồn lợi giáp xác tại Cù Lao
Chàm
Theo kết quả nghiên cứu của Mariana, 2006, cua đá ở Cù
Lao Chàm có tên khoa học là Gecarcoidea lalandii, có màu tím
và phân bố rộng trên khắp quần đảo Cù Lao Chàm, tuy nhiên tập
trung nhất vẫn là tại Hòn Lao. Nghiên cứu đã tập trung vào một
số đặc điểm sinh học và sinh thái, và đặc biệt đã làm rõ được
vòng đời sinh sống của cua đá Cù Lao Chàm. Đồng thời nghiên
cứu đã đề nghị một số nhóm giải pháp chung về quản lý bền
vững như phân vùng bảo vệ, tổ chức khai thác hợp lý và thực
hiện chương trình giám sát, phục hồi trên cơ sở cộng đồng tại
Cù Lao Chàm. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đưa ra được các giải
pháp cụ thể để tổ chức thực hiện.[5]
Cuộc khảo sát của Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm năm
2012 cho thấy tình trạng suy giảm diện tích rạn san hô đã làm
giảm số lượng của các loài giáp xác đặc trưng cho rạn như tôm
hùm, tôm bác sĩ…, tại thời điểm khảo sát đều ghi nhận sự có
mặt của các loài này nhưng ở mức rất thấp và giảm 0,6% so với
năm 2011.[4]
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1 Tham vấn cộng đồng
Sử dụng phương pháp tham vấn cộng đồng theo nhóm nhỏ
để điều tra về hiện trạng khai thác và tiêu thụ nguồn lợi giáp xác
tại Cù Lao Chàm – Hội An – Quảng Nam. Nội dung tham vấn
gồm loại nghề khai thác, mùa vụ khai thác, sản lượng khai thác,
giá trị kinh tế liên quan đến hoạt động du lịch.
Theo phương pháp tham vấn cộng đồng, chúng tôi tiến hành
khảo sát phỏng vấn 2 nhóm ngư dân có kinh nghiệm khai thác
nguồn lợi thuỷ sản tại khu vực Cù Lao Chàm – Hội An – Quảng
Nam và 10 nhóm khách du lịch.
2.2 Thu mẫu ngoài thực địa các đối tượng nguồn lợi chính
Tiến hành thu mẫu 1 đợt tại các bến cá, chợ cá để định danh
tên khoa học.
Tiến hành xử lý mẫu sau khi thu: chụp ảnh, chi rõ thời gian,
địa điểm thu mẫu, gửi mẫu vào Viện Hải Dương học để phân
loại.
3. Nội dung và kết quả nghiên cứu
3.1 Nội dung
Đề tài được thực hiện gồm các nội dung:
- Các đối tượng nguồn lợi giáp xác chính.
- Các ngành nghề khai thác nguồn lợi giáp xác.
- Vai trò của nguồn lợi giáp xác đối với phát triển kinh tế cho
cộng đồng dân cư tại Cù Lao Chàm.
- Hiện trạng các đối tượng nguồn lợi giáp xác chính và đề xuất
các giải pháp.
3.2 Kết quả nghiên cứu
3.2.1 Các đối tượng nguồn lợi giáp xác chính
Các đối tượng nguồn lợi giáp xác chính tại quần đảo Cù Lao
Chàm được thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1:Các đối tượng nguồn lợi giáp xác chính
STT
Tên đối tượng Đặc điểm sinh học Nơi phân bố
Sản
lượng khai
thác
(tạ/năm)
Doanh
thu / năm
(triệu đồng)
1 Cua đá
(Gecarcoidea
lalandii)
-Vỏ có màu tím sậm, chân dài và càng ngắn.
Là loài động vật ăn đêm, ban ngày trú ẩn
trong các hang đào. Ăn các loại rau, lá cây
rừng,…
-Từ tháng 5-8 âm lịch là mùa sinh sản. Một
buồng trứng trưởng thành có 6 vạn trứng. Cua
lột xác trong khoảng tháng 10-12.
Trên toàn bộ địa bàn
quần đảo Cù Lao
Chàm. Tập trung
nhiều nhất tại Hòn
Lao.
15 975
2 Tôm hùm bông
(Panulirus ornatus)
-Phiến gốc râu I có 4 gai lớn xếp thành hình
vuông, 2 gai trước lớn và dài hơn 2 gai sau.
Vỏ của các đốt bụng láng, không có rãnh hoặc
vết tích của rãnh.
Sống ở bãi đá, rạn
san hô tại quần đảo.
12,25 1579,5
3 HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG LẦN THỨ 9 - 2014
-Là loại động vật ăn tạp, trong tự nhiên chúng
ăn chủ yếu là các loại động vật như: cá, tôm,
cua, ghẹ, giáp xác nhỏ, nhuyễn thể, ngoài ra
còn ăn các loại thực vật như rong rêu.
3 Ghẹ xanh
(Portunus
pelagicus)
-Ghẹ đực có vỏ màu lam sáng với các đốm
trắng và càng dài đặc trưng, trong khi ghẹ cái
có màu nâu/lục xỉn màu hơn và mai thuôn tròn
hơn. Mai của chúng có thể rộng tới 20 cm.
-Chúng đi kiếm ăn khi thủy triều lên. Thức ăn
của chúng khá đa dạng gồm hai mảnh vỏ, cá,
tảo lớn…
Trong các mực nước
biển quanh quần đảo.
540 1890
3.2.2 Các ngành nghề khai thác nguồn lợi giáp xác Các ngành nghề khai thác nguồn lợi giáp xác được thể hiện
trong Bảng 2.
Bảng 2. Các ngành nghề khai thác nguồn lợi giáp xác
STT Tên đối tượng Ngành nghề khai thác Vụ mùa khai thác chính (âm lịch)
1 Cua đá (Gecarcoidea lalandii) Nghề bắt cua đá. Tháng 4 – 8
2 Tôm hùm bông (Panulirus
ornatus)
Nghề lặn, nghề lưới Tháng 2 – 3, tháng 6 – 8
3 Ghẹ xanh (Portunus pelagicus) Nghề lưới ghẹ ( lưới 3 lớp). Tập trung vào tháng 10 – 12
3.2.3 Vai trò của nguồn lợi giáp xác đối với phát triển kinh
tế và du lịch vùng biển Cù Lao Chàm
Bên cạnh việc đem lại nguồn thu nhập cao và ổn định cho
người khai thác, các đối tượng nguồn lợi giáp xác chính còn
đem lại lợi ích kinh tế và du lịch cho cộng đồng dân cư tại Cù
Lao Chàm. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi ích về kinh tế và du
lịch mà các đối tượng này đem đến cho cộng đồng dân cư nơi
đây là rất lớn. Về kinh tế: 1kg cua đá đem lại cho cộng đồng dân
cư Cù Lao Chàm không chỉ dừng ở 600 – 700.000 vnđ (người
khai thác) mà lên đến 1.100.000 vnđ (nhà hàng). Hơn nữa, theo
kết quả điều tra 10 nhóm khách du lịch (50 người) thì có 26/50
người chiếm 52% đến Cù Lao Chàm ngoài mục đích tham quan
du lịch đảo còn vì muốn thưởng thức thịt cua đá. Như vậy, cua
đá ngoài mang đến lợi ích về kinh tế thì cũng mang đến lợi ích
về du lịch rất lớn. Nhờ việc thu hút một lượng lớn khách du lịch
mà các đối tượng nguồn lợi giáp xác chính ( cua đá, tôm hùm
bông…) đã góp phần gián tiếp phát triển các hoạt động ăn theo
khách du lịch (hàng lưu niệm, dịch vụ homestay…) đem đến
nguồn thu nhập cao cho người dân trên đảo.
Mặc dù các đối tương nguồn lợi giáp xác này đem lại lợi ích
rất lớn về kinh tế và du lịch tuy nhiên thì hiện nay số lượng của
chúng đang ngày càng suy giảm. Sở dĩ như vậy vì người dân tại
đảo chỉ ý thức được các đối tượng này có giá trị kinh tế cao mà
chưa ý thức được lợi ích lâu dài mà chúng đem đến cho cộng
đồng dân cư tại đảo.
3.3 Hiện trạng và đề xuất giải pháp
3.3.1 Hiện trạng
Kết quả của đợt khảo sát mới đây cho thấy nguồn lợi giáp
xác đang suy giảm khá nghiêm trọng. Mật độ, kích cỡ của các
loài giáp xác và sự đa dạng của các loài tiếp tục bị giảm theo
thời gian. Thực trạng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác
nhau:
+ Lượng khách du lịch ngày càng tăng gây sức ép lên đảo.
+ Khai thác quá mức, không đúng quy cách, dưới mọi hình
thức như: số lượng người khai thác đông, khai thác trong mùa
sinh sản, khai thác mọi kích cỡ,…
+ Hiện một số môi trường sống bao gồm các rạn san hô,
thảm cỏ biển đang chịu nhiều áp lực từ thiên nhiên và con
người: ô nhiễm môi trường, mất môi trường sống của các loài.
+ Chính quyền địa phương chưa có hình thức xử phạt
nghiêm ngặt về các hành vi khai thác không đúng quy cách.
3.3.2 Đề xuất giải pháp
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân địa phương
về vai trò nguồn lợi mang lại và các biện pháp khai thác sử dụng
hợp lí như: thành lập các tổ chuyên trách khai thác, khai thác
đúng kích cỡ, không khai thác trong thời gian sinh sản (ví dụ:
tôm hùm sinh sản tháng 4-7 dương lịch, ), kích thước của mắc
lưới phù hợp, không quá nhỏ,…
Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp xử lý khi người dân
khai thác không đúng quy cách. Ví dụ: buôn bán cua đá không
được dán nhãn (có mai rộng dưới 7 cm và mang trứng) sẽ bị xử
lí nghiêm ngặt bằng nhiều hình thức…
Thành lập các mô hình nhân tạo để bảo vệ và cung cấp
nguồn giống các loài giáp xác.
4. Kết luận:
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số kết luận như
sau:
Hoạt động đánh bắt các đối tượng giáp xác diễn ra quanh
năm.
Các đối tượng nguồn lợi giáp xác chính đem lại nguồn lợi
kinh tế cao gồm có cua đá, tôm hùm bông và ghẹ xanh. Bên
4 SVTH: Dương Thị Mỹ Ly, Nguyễn Thị Thùy Uyên, Nguyễn Thị Quanh; GVHD: Th.S Nguyễn Thị Tường Vi
cạnh việc đem lại lợi ích kinh tế, các đối tượng này cũng đem
đến lợi ích du lịch rất lớn, góp phần phát triển lĩnh vực du lịch
cho địa phương.
Mặc dù đem lại lợi ích kinh tế và du lịch rất lớn nhưng số
lượng cá thể của các loài này đang ngày càng suy giảm do các
hoạt động khai thác của người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]Hoàng Đình Trung (2012), “Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài động vật đáy ở hạ lưu sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị”,Tạp chí sinh học,
(2012), tr.309-316.
[2]Th.s Nguyễn Văn Thường, PGS.TS Trương Quốc Phú (2011), Giáo trình Ngư loại học II (Giáp xác và nhuyễn thể), Nhà xuất bản Đại
học Cần Thơ, Cần Thơ.
[3]Phạm Thị Dự, Đào Tấn Học (2009), “Mô tả các loài giáp xác (Crustacea) mới phát hiện ở biển Việt Nam qua các chuyến thu mẫu trên
tàu “Viện sĩ Oparin””,Tuyển tập nghiên cứu biển, Tập XVI.
[4]Website: culaochampa.com.vn
[5]Marianne Damholt (2006), “Ecology and Exploitation of the Land Crab Geocarcoidea lanlandii on Cu Lao Cham, Vietnam”. Aerhus
University, Denmark.