Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Vấn đề can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ trong luật quốc tế hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 57 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Vấn đề can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo
vệ trong luật quốc tế hiện đại

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thăng Long
Học viên: Lê Thị Minh Phương

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2012


2

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Những quan niệm đầu tiên về can thiệp nhân đạo được ra từ đời từ thế kỉ 13,
và hoàn thiện vào những năm cuối thế kỉ 20 với nội dung là “quyền của cộng đồng
quốc tế tiến hành hành động can thiệp, kể cả bằng qn sự, vào một quốc gia mà
khơng có sự chấp thuận của quốc gia đó, để chấm dứt tình trạng vi phạm nhân
quyền hàng loạt tại đó”.
Trải qua một quá trình phát triển, khái niệm can thiệp nhân đạo cũng như thực
tiễn can thiệp nhân đạo trên thế giới đã là chủ đề cho nhiều tranh luận sôi nổi trong
khoa học pháp lý quốc tế. Các quan điểm ủng hộ cho rằng nhân quyền cao hơn chủ
quyền, và can thiệp nhân đạo là hành động cần thiết để bảo vệ quyền con người hiệu
quả. Trái lại, các quan điểm không ủng hộ cho rằng học thuyết vi phạm nghiêm
trọng pháp luật quốc tế. Đặc biệt, hành vi can thiệp nhân đạo đơn phương được thực
hiện khơng có một cơ sở pháp lý rõ ràng. Bên cạnh đó, thực tiễn can thiệp nhân đạo
gần đây đã chứng minh lập luận rằng hành động can thiệp nhân đạo vi phạm


nghiêm trọng chủ quyền và nhân quyền, mặc dù nó được tiến hành với mục đích
bảo vệ nhân quyền. Hơn thế, trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, các quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia có tiềm lực mạnh về vũ trang, quân sự sẵn sàng lợi dụng danh
nghĩa can thiệp nhân đạo để can thiệp vào nội bộ quốc gia khác, và gia tăng tầm ảnh
hưởng của mình. Chính vì vậy, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của can
thiệp nhân đạo mang một ý nghĩa sâu sắc, nhất là trong bối cảnh thế giới đang diễn
ra nhiều xung đột như hiện nay.
Ở một khía cạnh khác, sự phát triển lâu dài và có nhiều điểm đặc biệt của vấn
đề can thiệp nhân đạo đã làm xuất hiện một khái niệm mới - khái niệm “Trách


3

nhiệm bảo vệ” (The Responsibility to Protect – R2P). Sau cuộc chiến Libya diễn ra
năm 2011, khái niệm trách nhiệm bảo vệ được giới nghiên cứu quan tâm sâu sắc
hơn nữa bởi tính thời sự của nó. Bên cạnh đó, trong mối quan hệ với can thiệp nhân
đạo, trách nhiệm bảo vệ tuy ra đời sau nhưng ngày càng trở nên quan trọng, thậm
chí có ý kiến cho rằng trách nhiệm bảo vệ sẽ thay thế can thiệp nhân đạo trong một
thời gian không xa. Việc nghiên cứu trách nhiệm bảo vệ một mặt làm rõ những vấn
đề lý luận rất mới mà nó đang đặt ra, mặt khác góp phần nói lên sự phát triển của
học thuyết can thiệp nhân đạo qua các thời kì, như một bước chuyển dài từ cổ điển
đến hiện đại.
Từ những lý do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Vấn đề can thiệp nhân đạo
và trách nhiệm bảo vệ trong luât quốc tế hiện đại” làm đề tài cho khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Về tình hình nghiên cứu:
Trên thế giới, “can thiệp nhân đạo” và “trách nhiệm bảo vệ” là những vấn đề
được tập trung nghiên cứu từ rất lâu. Các cơng trình nghiên cứu đều thống nhất ở
vấn đề lý luận. Tuy nhiên, tùy theo ý kiến cá nhân mà quan điểm của các tác giả này
về can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ có thể khác nhau 1.

Tại Việt Nam, can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ đã và đang nhận
được nhiều sự quan tâm từ các học giả2. Tuy nhiên, nhưng các cơng trình nghiên
cứu về nó cịn khá hạn chế.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là 2 vấn đề: can thiệp nhân đạo và trách
nhiệm bảo vệ. Trong đó, ở phần can thiệp nhân đạo, đề tài tập trung vào các vấn đề
1

Các tác phẩm của các tác giả như Francis Abiew (1999), “The Evolution of the doctrine and practice of
Humantarian Intervention”; Fernando R.Teson (1997), “Humantarian Intervention”; P.Malanczuk (1993),
“Humantarian Intervention and the legitimacy of the use of force”, Verwey (1985), “Humantarian
Intervention under International Law”
2

Trần Thị Vân Trà (2010), “Luật quốc tế và học thuyết can thiệp nhân đạo”, ĐH Luật Hà Nội; Ngô Văn
Thìn (2005), “Can thiệp nhân đạo quốc tế”, ĐH Luật Hà Nội


4

như lịch sử hình thành, quá trình phát triển của can thiệp nhân đạo, cơ sở pháp lý,
các cuộc can thiệp nhân đạo tiêu biểu. Ở phần phần trách nhiệm bảo vệ, đề tài tập
trung làm rõ hoàn cảnh lịch sử, nội dung học thuyết trách nhiệm bảo vệ, mối quan
hệ giữa khái niệm này với can thiệp nhân đạo.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung vào vấn đề về can thiệp nhân đạo
trong phạm vi nghĩa hẹp của khái niệm này– can thiệp nhân đạo có sử dụng vũ
trang. Cụ thể, tác giả tập trung nghiên cứu hoạt động can thiệp nhân đạo với góc độ
là can thiệp đi kèm với hành động vũ trang, không nghiên cứu can thiệp nhân đạo
dưới góc độ cứu trợ trong các thảm họa như động đất, núi lửa, dịch bệnh…Trong
phần trách nhiệm bảo vệ, đề tài tập trung nghiên cứu ở phạm vi khái quát nhất các

vấn đề lý luận chung, thực tiễn thi hành R2P, mối quan hệ giữa R2P với can thiệp
nhân đạo cũng như quan điểm của Việt Nam vế vấn đề can thiệp nhân đạo, trách
nhiệm bảo vệ.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mac – Lenin. Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng các phương pháp so sánh, tổng
hợp, phân tích các sự kiện và quan điểm có liên quan.
4. Ý nghĩa khoa học và tính ứng dụng của đề tài
Trong tình hình hiện nay, khi thế giới đang có nhiều bất ổn về chính trị và đề
tài nghiên cứu về can thiệp nhân đạo cũng như trách nhiệm bảo vệ cịn rất hạn chế
tại Việt Nam, thì việc nghiên cứu về hai vấn đề này sẽ góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn mà chúng đang đặt ra. Mặt khác, việc nghiên cứu chuyên
sâu về can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất
của hai hoạt động này cũng như những kẽ hở mà nó đang tồn tại. Qua đó, khóa luận
hy vọng gợi mở những khía cạnh mới để những ai quan tâm có thể nghiên cứu tiếp
tục đề tài này.


5

CHƢƠNG 1
CAN THIỆP NHÂN ĐẠO – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức can thiệp nhân đạo
1.1. Khái niệm can thiệp nhân đạo
“Can thiệp nhân đạo” (CTNĐ) là thuật ngữ lần đầu tiên được nhắc tới vào thế
kỉ 17 trong các tác phẩm của Hugo Grotius (1583-1645)3. Tuy nhiên cho đến nay
vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về can thiệp nhân đạo4. Trong khoa học
pháp lý, khái niệm “can thiệp nhân đạo” được định nghĩa khá đa dạng. Có thể kể
đến hai định nghĩa được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý quốc tế sau đây:
Theo từ điển luật Oxford (The Oxford Dictionary of Law): “Can thiệp nhân

đạo là sự can thiệp của một hoặc nhiều quốc gia vào công việc nội bộ của quốc
gia khác bằng các phương tiện vũ trang, với ý định bắt buộc quốc gia đó thực thi
một chính sách nhân đạo hơn.”5. Theo sách “Thuật ngữ pháp lý quốc tế” thì “Can
thiệp nhân đạo là hành động sử dụng vũ lực nhằm vào một quốc gia mà khơng được
quốc gia đó đồng ý, dù có hay khơng có sự cho phép của Hội đồng bảo an Liên

3

Hugo Grotius (1583-1645) là một nhà thần học người Hà Lan, ông là người đầu tiên chính thức nêu lên
nguyên tắc can thiệp nhân đạo. Lauterpacht viết rằng : “Grotious làm nên tuyên bố đầu tiên về nguyên tắc
can thiệp nhân đạo – nguyên tắc cho rằng quyền thực thi pháp lý riêng biệt trong nội bộ quốc gia sẽ dừng lại
khi những vi phạm về nhân quyền bắt đầu”.
Xem [ (truy cập 05/05/2012); Eric Adjei, “The Legality of
humanitarian intervention”, (Tính hợp pháp của can thiệp nhân đạo), University of Geogia School of Law,
2005, [ (truy cập 05/05/2012)
4

Kyrre Grimstad, “Humanitarian Intervention : Historical, Legal and Moral perspectives”,(Can thiệp nhân
đạo: Các khía cạnh lịch sử, pháp lý và đạo đức), University of Cape Town, 2001,
[ (truy cập ngày 05/05/2012); Eric Adjei, “The
Legality of humanitarian intervention”, (Tính hợp pháp của can thiệp nhân đạo), University of Georgia
School of Law, 2005, [ /> (truy cập ngày 05/05/2012)
5

Kyrre Grimstad, “Humanitarian Intervention : Historical, Legal and Moral perspectives”,(Can thiệp nhân
đạo: Các khía can lịch sử, pháp lý và đạo đức) University of Cape Town, 2001, tr.3,
[http:// www.publiclaw.uct.ac.za/usr/public.../grimstad.pdf] (truy cập ngày 05/05/2012)


6


Hiệp Quốc vì mục đích nhân đạo, nhằm ngăn chặn hay đẩy lùi những hành vi vi
phạm nghiêm trọng luật nhân đạo hay luật nhân quyền quốc tế”6.
Hai khái niệm trên dù không đồng nhất nhưng vẫn thể hiện được 2 đặc điểm
đặc trưng nhất của can thiệp nhân đạo, đó là: (1) có sự can thiệp vũ trang của 1 hoặc
một nhóm các quốc gia vào một quốc gia khác; và (2) vì mục tiêu nhân đạo. Như
vậy, có thể đưa ra một khái niệm về can thiệp nhân đạo như sau:
“Can thiệp nhân đạo là hành động sử dụng vũ lực của 1 hoặc nhiều quốc gia
vào công việc nội bộ của quốc gia khác, nhằm ngăn chặn hay đẩy lùi những hành vi
vi phạm luật nhân quyền quốc tế xảy ra tại quốc gia đó”
1.2. Các đặc điểm của can thiệp nhân đạo
Như vậy, từ cách hiểu trên thì khái niệm “can thiệp nhân đạo” có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, mục đích nhân đạo là cơ sở cho hoạt động can thiệp nhân đạo. Chỉ
khi có “mục đích nhân đạo” thì vấn đề can thiệp nhân đạo mới được xem xét đến.
Cùng với sự phát triển của luật quốc tế hiện đại, hệ thống các nguyên tắc cơ
bản đã được thừa nhận rộng rãi như những quy phạm pháp lý bắt buộc, trong đó có
nguyên tắc về nghiêm cấm sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực cũng như
chống lại việc can thiệp vào cơng việc nội bộ của quốc gia khác. Tính hợp pháp của
can thiệp nhân đạo vì thế đã được các học giả đặt ra và “mục đích nhân đạo của
hành động” là một trong những yếu tố nhằm xác định tính hợp pháp này.7 Tuy
nhiên, hiện nay các học giả vẫn chưa thống nhất được các tiêu chí để xác định thế
nào là “mục đích nhân đạo”.8

6

TS Đỗ Hịa Bình (chủ biên), Th.S Phạm Thị Thu Hương, Th.S Lê Đức Hạnh , “Thuật ngữ pháp lý quốc tế”,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (2009), tr.76-77.
7


Trần Thị Vân Trà, “Luật quốc tế và học thuyết can thiệp nhân đạo”, ĐH Luật Hà Nội, 2010, tr.17,
(truy cập 07/5/2012)
8

Như trên.


7

Thứ hai, sự vi phạm nghiêm trọng quyền con người là căn cứ để thực hiện can
thiệp nhân đạo.
Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy LHQ về Quyền con người, thì “quyền
con người” là: “những đảm bảo pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản của con người”9. Việc xác định các
quyền con người nào bị vi phạm và thế nào là “vi phạm nghiêm trọng quyền con
người” do các cơ quan thuộc cơ chế thực thi quyền con người của LHQ xem xét,
dựa trên các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người10.
Trong trường hợp xảy ra các cuộc khủng hoảng nhân đạo, quốc gia rơi vào nội
chiến hoặc tình trạng vơ chính phủ hoặc khi chính quyền sở tại áp bức người dân
của chính nước họ, các quốc gia khác không thể coi các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế về tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia
khác là bất khả xâm phạm. Sự vi phạm nghiêm trọng quyền con người chính là căn
cứ để thực hiện quyền can thiệp nhân đạo11. Đây cũng chính là một ngoại lệ quan
trọng của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác
được chấp nhận trong luật quốc tế hiện đại12.
Thứ ba, can thiệp nhân đạo gắn với việc sử dụng vũ lực. Đây là đặc điểm chủ
yếu của hoạt động can thiệp nhân đạo13, giúp giới hạn thuật ngữ này với sự can
thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác thơng qua các biện pháp chính trị và
kinh tế14.

9

Định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc
[ (truy cập 05/05/2012)]
10

Wolfgang Benedek, “Tìm hiểu về quyền con người”, NXB Tư pháp Hà Hội, Hà Nội (2008), tr.12-13,
[ />11

(truy cập ngày 0505/2012);Trần Thị Vân Trà, chú
thích số 6, trang 18; Kyrre Grimstad, chú thích số 4, tr.3.
[http:// www.publiclaw.uct.ac.za/usr/public.../grimstad.pdf] (truy cập ngày 05/05/2012)
12

Khoa Luật Quốc Tế, “Tập bài giảng Khái luận chung về LQT”, ĐH Luật TP.HCM, TPHCM (2011)

13

(truy cập ngày 05/05/2012)

14

Như trên


8

1.3. Các hình thức can thiệp nhân đạo
Căn cứ vào cơ sở của hành động can thiệp nhân đạo, có hai hình thức can
thiệp nhân đạo15:

Can thiệp nhân đạo khơng trên cơ sở quyết định của Hội đồng Bảo An
(HĐBA) (do một hoặc nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế khu vực…đơn phương
thực hiện)
Can thiệp nhân đạo trên cơ sở thẩm quyền của Hội đồng Bảo An (được sự cho
phép của chính HĐBA hoặc do HĐBA thực hiện)
Trong hai hình thức can thiệp nhân đạo nêu trên thì CTNĐ dựa trên cơ sở
thẩm quyền của HĐBA hoặc do chính HĐBA thực hiện là hoạt động có cơ sở pháp
lý dựa trên chương VII Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (HCLHQ) và được thừa nhận
rộng rãi như một trong những hành động thuộc quyền hạn của HĐBA. Trái lại, đơn
phương can thiệp nhân đạo cho đến nay vẫn khơng có cơ sở pháp lý rõ ràng và được
cho là hành vi can thiệp bất hợp pháp vào nội bộ quốc gia khác. Đây là hoạt động
gây ra nhiều quan điểm tranh cãi và cũng là đối tượng được xem xét chủ yếu trong
chương 1 khóa luận này.
2. Sự phát triển của luật quốc tế về can thiệp nhân đạo
Can thiệp nhân đạo có một q trình phát triển lâu dài. Bắt nguồn từ những
tiền đề tư tưởng có từ triết học Hy Lạp xa xưa về luật của tự nhiên, cho đến thuyết
chiến tranh chính nghĩa, chủ quyền quốc gia…Ở mỗi giai đoạn lịch sử, can thiệp
nhân đạo có những đặc trưng riêng. Đến thế kỉ 16 - 17, khi can thiệp nhân đạo được
các học giả thừa nhận thì các hoạt động can thiệp mang danh nghĩa nhân đạo được
tiến hành rộng rãi vào thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 2016.
Từ thời xa xưa, triết học Hy Lạp cho rằng có tồn tại một định luật phổ quát
của tự nhiên, và mọi người đều có nghĩa vụ tuân thủ. Tất cả những luật lệ, quy ước,
15

Như trên

16

Trần Thị Vân Trà (2010), chú thích số 7, tr.20



9

tập quán nào do nhà nước, xã hội đặt ra phải phù hợp với luật tự nhiên đó. Các triết
gia trong giai đoạn này chính là những người đầu tiên soạn thảo các vấn đề cơ bản,
mấu chốt của học thuyết luật tự nhiên với những quan điểm tiến bộ như “mọi người
đều bình đẳng”, “tự nhiên khơng sinh ra ai để làm nô lệ”, “luật pháp của nhà
nước là một thứ chuyên chế nếu chúng buộc con người phải hành động trái với bản
tính của mình”17… Những tư tưởng về luật tự nhiên đã đã tiếp tục phát triển bởi
Socrates và các học trị của ơng là Plato và Aristotle.
Một nội dung quan trọng của luật tự nhiên đó là tất cả mọi người đều được đối
xử một cách cơng bằng, vì vậy có thể xem đây là nền tảng cơ sở của khái niệm các
quyền con người cố hữu. Đồng thời, luật tự nhiên cấu thành nền tảng hợp lý của
xã hội chính trị, và cũng là cơ sở mà dựa vào đó thuyết khế ước xã hội và chủ
quyền quốc gia hình thành nên trong những ngày đầu của nền văn minh. Do đó, nó
cũng là nguồn đầu tiên và cơ bản nhất của các ý tưởng liên quan đến can thiệp nhân
đạo.
Cùng với luật của tự nhiên, thuyết can thiệp nhân đạo có tiền đề từ lý thuyết về
chiến tranh chính nghĩa (just war theory hay bellum justum)18. Những đại diện của
thuyết này là St. Augustine (354-430) và Thomas Aquinas (1225-1274). Lý thuyết
về chiến tranh chính nghĩa bắt nguồn từ những quan niệm cổ điển của người Hy
Lạp cho rằng chiến tranh là khơng chính đáng, trừ khi có một nguyên nhân để tiến
hành nó. Tương tự, các nhà thờ Thiên chúa giáo trong giai đoạn đầu phần lớn là
theo chủ nghĩa hịa bình, và họ từ chối công nhận chiến tranh là hợp lý, dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào19.

17

Th.S Nguyễn Xuân Tùng, “Học thuyết Luật tự nhiên và những vấn đề trong đào tạo cán bộ pháp luật
trong giai đoạn hiện nay”,

[ ] (truy cập ngày
05/5/2012)
18

19

Eric Adjei (2005), “The Legality of humanitarian intervention”, chú thích số 3, tr. 12.

Thánh Augustine (354-430) là nhà thần học lớn đầu tiên đã nói có một sự cho phép để tiến hành chiến
tranh, đó là chiến tranh chính nghĩa. Ông cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa lý tưởng hịa bình của Kitơ giáo
và thực tế chính trị của chiến tranh, bằng cách giới thiệu một tập hợp các tiêu chí, cái sẽ làm cho việc tiến
hành cuộc chiến tranh trở thành một hành động chính đáng. Trung tâm trong lý thuyết này là khái niệm các


10

Thomas Aquinas (1225-1274) trên cơ sở tổng hợp các tác phẩm cổ điển
của Hy Lạp (trong đó chủ yếu là các tác phẩm của Aristotle) và thần học Kitô giáo
đã đi đến kết luận rằng: để một cuộc chiến là chính nghĩa, nó phải đáp ứng các u
cầu nhất định20.
Thứ nhất, nó phải được tiến hành bởi một cơ quan có thẩm quyền, nghĩa là
được tiến hành bởi hồng gia hoặc giáo hội. Thứ hai, phải có một ngun
nhân chính nghĩa để tiến hành chiến tranh. Cụ thể, bên bị tấn cơng “đáng phải bị
như thế vì một số lỗi”21. Những trường hợp chính nghĩa của chiến tranh đó là tự
vệ, khơi phục lại hịa bình, sự hỗ trợ các nước láng giềng chống lại cuộc tấn công
và sự nổi dậy của người người nghèo khổ và bị áp bức. Cuối cùng, chiến tranh
chính nghĩa phải được tiến hành với một ý định đúng đắn22.
Trong thế kỷ 16-17, can thiệp nhân đạo được xem xét như một phần quan
trọng của thuyết chiến tranh chính nghĩa và nó được đặt trong mối quan hệ với luật
tự nhiên. Giai đoạn này, lần đầu tiên nguyên tắc can thiệp nhân đạo được nêu lên

một cách chính thức trong các tác phẩm của Grotious (1583-1645)23. Mặt khác,
trong giai đoạn này, các học giả đều thừa nhận CTNĐ là hợp pháp. Grotious lập
luận rằng mỗi cá nhân có các quyền cố hữu, vốn có. Quốc gia ra đời bởi vì các cá
nhân muốn đảm bảo cho sự an toàn của họ và như vậy, họ sẽ phải nhượng lại một
phần các quyền cố hữu của mình cho quốc gia - nhà nước. Quyền tối cao của các
quốc gia vì thế bị giới hạn trong một mức độ của các quyền được nhượng lại từ các
cá nhân. Vì thế, khi các quốc gia vược quá thẩm quyền của mình, phủ nhận các
động cơ và ý định chính nghĩa cũng là một đặc điểm trung tâm của lý thuyết ln lý Kitơ giáo. Chính
nghĩa của một hành động không thể được phán xét mà không đánh giá ý định khởi phát.
Xem Kyrre Grimstad (2001), chú thích số 4, tr.3
20

Kyrre Grimstad (2001), chú thích sơ 4, tr.3

21

Như trên.

22

Như trên.

23

Grotious được xem là nhà thần học người đầu tiên đặt ra nền tảng cho Luật quốc tế hiện đại. Ông là người
đầu tiên chính thức nêu lên nguyên tắc can thiệp nhân đạo. Lauterpacht viết rằng : “Grotious làm nên tuyên
bố đầu tiên về nguyên tắc can thiệp nhân đạo – nguyên tắc rằng quyền thực thi pháp lý riêng biệt trong nội bộ
quốc gia sẽ dừng lại khi những vi phạm về nhân quyền bắt đầu”.
Xem [ (truy cập 07/05/2012); Eric Adjei (2005), chú thích số 3,
tr.14



11

quyền cố hữu này, hay nói cách khác là vi phạm các quyền con người, thì các quốc
gia - nhà nước khác có quyền can thiệp để thiết lập lại trật tự của luật tự nhiên24.
Bằng cách này, luật tự nhiên đặt những giới hạn vào sự độc lập của các nhà nước,
trong đó chủ quyền nội bộ và bên ngoài của họ đã được hạn chế bởi các nguyên
tắc của nhân quyền và bằng các quy tắc của chiến tranh chính nghĩa.
Học thuyết can thiệp nhân đạo khơng ngừng phát triển ở các thời kỳ tiếp theo.
Vào thế kỉ 18 và 19, ban đầu can thiệp nhân đạo được xem là không hợp pháp trong
thuyết chủ quyền quốc gia25. Tuy nhiên, giai đoạn này chưa xuất hiện các quy định
về cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế và cũng vì lúc này chiến tranh là
phương tiện hữu hiệu để giải quyết tranh chấp, xung đột quốc tế, dẫn đến vào thế kỉ
19 CTNĐ được các học giả chấp nhận và ủng hộ. Tính hợp pháp của can thiệp nhân
đạo lúc này được chấp nhận dựa trên cơ sở tập quán quốc tế26.
Đến cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, các hoạt động can thiệp diễn ra mạnh mẽ.
Năm 1820, cuộc xâm lược Hy Lạp của các cường quốc phương Tây để bảo vệ
người Hy Lạp theo đạo Cơ Đốc khỏi sự khủng bố, đàn áp của người Thổ Nhĩ Kì.
Năm 1860, cuộc xâm lược của Pháp vào Syria, lấy lí do quốc gia này đàn áp những
người theo đạo Cơ Đốc. Tương tự, Nga can thiệp vào Bosnia, Herzegovina và
Bulgaria năm 1877 cũng với lý do các quốc gia này đã đàn áp người theo đạo Cơ
Đốc. Năm 1898, Mỹ can thiệp vào Cuba vì lý do “muốn chấm dứt những hành

24

Eric Adjei (2005), chú thích số 3, tr. 13-14

25


Thuyết chủ quyền quốc gia có sự nguồn gốc từ thế kỉ 16 - 17. Bodin, một học giả thời kì này cho rằng,
người đứng đầu tối cao của một quốc gia chính là người làm luật cao nhất. Họ được tự do, không ràng buộc
bởi các luật lệ thực định. Quyền hạn của người đứng đầu vì thế được coi như khơng bị giới hạn.
Hobbes, người tiền nhiệm của Bodin, cho rằng con người hình thành nên xã hội để bảo vệ họ khỏi tình trạng
vơ chính phủ. Ơng cho rằng chỉ cần chính phủ bảo vệ phần đa số người dân, thì người dân phải tuân thủ
pháp luật vô điều kiện. Chủ quyền tuyệt đối này cũng áp dụng ra bên ngồi, theo đó khơng một quốc gia nào
có quyền can thiệp vào cách cai trị của người đứng đầu quốc gia khác đối với thần dân của họ.
Như trên.
26

Trần Thị Vân Trà (2010), chú thích số 7, tr.9-10,
[ />

12

động dã man, những cuộc đổ máu, sự chết đói và cảnh nghèo khổ tồi tệ tồn tại ở
nơi đây”27.
Đầu thế kỉ 20, các trường hợp can thiệp nhân đạo giảm dần bởi sự ra đời của
Hội Quốc Liên năm 191928. Một trong những mục đích của Hội là ngăn ngừa chiến
tranh và bảo vệ các quyền con người cơ bản thông qua cơ chế an ninh tập thể.
Trong những năm 1920, Hội Quốc Liên hoạt động khá tốt và các quốc gia thành
viên đã kí kết các điều ước phản đối chiến tranh29. Đơn phương sử dụng vũ lực vì
thế dần được xem như hành vi khơng hợp pháp30. Sau khi Hội Quốc Liên tan rã vào
đầu những năm 1930, tổ chức Liên Hiệp Quốc (LHQ) ra đời vào năm 1945. Hiến
chương Liên Hiệp Quốc (HCLHQ) đặt ra các nguyên tắc nền tảng như cấm sử dụng
vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, nguyên tắc không can
thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, ngun tắc hồ bình giải quyết các
tranh chấp quốc tế… do đó đã tạo ra rào cản pháp lý cho các hoạt động đơn phương
can thiệp nhân đạo vì khơng quy định cơ sở pháp lí cho hoạt động đơn phương can
thiệp nhân đạo31. Tuy vậy, quyền đơn phương can thiệp nhân đạo vẫn được các

quốc gia viện dẫn như một quyền tập quán quốc tế có từ thế kỉ 1932.
3. Cơ sở pháp lí của can thiệp nhân đạo theo luật quốc tế hiện đại
3.1 Can thiệp nhân đạo trên cơ sở sự cho phép/quyết định của Hội đồng Bảo
an Liên Hiệp Quốc
Can thiệp nhân đạo dựa trên sự cho phép/quyết định của HĐBA có cơ sở pháp
lý tại chương VII HCLHQ. Hiến chương xác định HĐBA là cơ quan có trách nhiệm
chính trong việc duy trì hịa bình và an ninh quốc tế. Điều 24 Hiến chương quy
27

Eric Adjei (2005), chú thích số 3, tr. 13-14

28

Như trên, tr. 21

29

(truy cập ngày

08/05/2012)
30

Eric Adjei (2005), chú thích số 3, tr. 21

31

Trần Thị Vân Trà (2010), chú thích số 7, tr.17

32


Kyrre Grimstad (2001), chú thích số 4, tr.16-17


13

định: “Để đảm bảo cho Liên Hiệp Quốc hành động nhanh chóng và có hiệu quả,
các thành viên trao cho Hội đồng Bảo an trách nhiệm chính trong việc duy trì hịa
bình và an ninh quốc tế, và thừa nhận rằng, khi làm những nghĩa vụ do trách nhiệm
ấy đặt ra, thì Hội đồng Bảo an hành động với tư cách thay mặt cho các thành viên
của Liên Hiệp Quốc”
Để cụ thể hóa chức năng này, Chương VII HCLHQ dành cho HĐBA quyền
hạn lớn để chọn lựa biện pháp cần thiết trong những tình huống "đe dọa hồ bình,
xâm phạm hồ bình hoặc tiến hành xâm lấn". Trong những tình huống như thế,
HĐBA không bị giới hạn trong việc đưa ra những đề xuất và có quyền hành động,
bao gồm cả việc sử dụng lực lượng vũ trang "để duy trì hoặc phục hồi hồ bình và
an ninh quốc tế"33. Điều 39 và điều 42 HCLHQ đã thể hiện rõ quyền hạn này34.
Như vậy, để thực hiện chức năng của mình, HĐBA có quyền thi hành các biện
pháp qn sự khi xét thấy cần thiết, đó là khi có sự tồn tại “đe doạ hịa bình, phá
hoại hịa bình hoặc hành vi xâm lược”, và hành động quân sự này phù hợp với điều
42 Hiến chương để duy trì hoặc khơi phục hịa bình và an ninh quốc tế.
Cơ chế an ninh tập thể này có thể xem là một quyền, thậm chí là một nghĩa vụ
của Hội đồng Bảo an. 35

33

Điều này là nền tảng cho hoạt động quân sự của Liên Hiệp Quốc tại bán đảo Triều
Tiên năm 1950 trong Chiến tranh Triều Tiên và việc sử dụng quân lực liên minh tại Iraq và Kuwaitnăm 1991.
Xem
[ />AAn_Hi%E1%BB%87p_Qu%E1%BB%91c] (truy cập ngày 09/05/2012)
34


Điều 39 Hiến chương quy định: “Hội đồng Bảo an xác định sự tồn tại mọi sự đe doạ hịa bình, phá hoại hịa
bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định các biện pháp nào nên áp dụng phù
hợp với các Điều 41 và 42 để duy trì hoặc khơi phục hịa bình và an ninh quốc tế”
Điều 42 quy định: “Nếu Hội đồng Bảo an nhận thấy những biện pháp nói ở Điều 41 là khơng thích hợp, hoặc
khơng cịn thích hợp, thì Hội đồng Bảo an có thẩm quyền áp dụng mọi hành động của hải, lục, không quân
mà Hội đồng Bảo an xét thấy cần thiết cho việc duy trì hoặc khơi phục hịa bình và an ninh quốc tế. Những
hành động này có thể là những cuộc biểu dương lực lượng, phong tỏa và những chiến dịch khác, do các lực
lượng hải, lục, không quân của các thành viên Liên Hiệp Quốc thực hiện”
35

Nguyễn Thị Xuân Sơn, “Can thiệp nhân đạo trong luật quốc tế hiện đại”, ĐH Luật Hà Nội, 2012, tr.17,
[ />

14

Như vậy, hành động can thiệp quân sự do HĐBA ủy quyền hay do chính
HĐBA thực hiện là hành động có cơ sở pháp lý rõ ràng (chương VII Hiến chương
LHQ), được HĐBA tiến hành trong những trường hợp nhất định nhằm thực hiện
chức năng “duy trì hịa bình và an ninh thế giới”. Hành động can thiệp nhân đạo
trong trường hợp này nằm trong quyền hạn của HĐBA và là một trong các cách
thức để cơ quan này hiện thực hóa chức năng duy trì hịa bình và an ninh quốc tế
của mình. Can thiệp nhân đạo trong trường hợp này được phân biệt với hành động
can thiệp nhân đạo đơn phương do một hay một nhóm các quốc gia thực hiện nhằm
can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, không dựa trên cơ sở sự cho
phép/quyết định của HĐBA. Hành vi đơn phương can thiệp nhân đạo sẽ được phân
tích trong phần tiếp theo, mục 3.2.
3.2. Can thiệp nhân đạo không trên cơ sở sự cho phép của Hội đồng bảo an
Liên Hiệp Quốc (đơn phƣơng can thiệp nhân đạo)
Đơn phương can thiệp nhân đạo được hiểu là hành vi của một hay một nhóm

quốc gia can thiệp vũ trang vào công việc nội bộ của quốc gia khác không dựa trên
cơ sở/ quyết định của HĐBA LHQ. Như đã phân tích, can thiệp nhân đạo trước khi
LHQ được thành lập được xem là một quyền mang tính tập quán và được hầu hết
các quốc gia khi tiến hành can thiệp nhân đạo đơn phương viện dẫn. Từ khi LHQ ra
đời, và những nguyên tắc cơ bản nêu ra trong HCLHQ điều chỉnh mối quan hệ quốc
tế giữa các quốc gia thì vấn đề nảy sinh liên quan đến tính hợp pháp, liệu có một
quyền can thiệp nhân đạo tập thể hay cá thể, không trên cơ sở ủy quyền bởi HĐBA
LHQ thì có hợp pháp hay khơng?
Trước hết, tính hợp pháp hay khơng của hành vi đơn phương can thiệp nhân
đạo gắn với quyền sử dụng vũ lực trong luật quốc tế, được quy định trong HCLHQ.
Điều 2 khoản 4 HCLHQ nói rằng: “Trong quan hệ quốc tế, các hội viên Liên Hiệp
Quốc không được có hành động đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực chống lại
quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất cứ một nước
nào, hoặc bằng cách này hay cách khác làm trái với những mục đích của Liên hiệp


15

quốc”36. Như vậy, trước hết, dựa vào khoản 4 điều 2 này, có thể thấy các quốc gia
khơng có quyền can thiệp vũ trang vào nội bộ một quốc gia khác.
Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trong mối quan hệ quốc tế có hai ngoại lệ.
Ngoại lệ đầu tiên được tuyên bố trong điều 51 của HCLHQ. Theo đó: “Không một
điều khoản nào trong Hiến chương làm thiệt hại đến quyền tự vệ cá thể hay tập thể
một cách chính đáng, trong trường hợp hội viên Liên hiệp quốc bị xâm lược vũ
trang, cho đến khi Hội đồng Bảo an ấn định những biện pháp cần thiết để duy trì
hịa bình và an ninh quốc tế.”37. Chương VII của Hiến chương là trường hợp ngoại
lệ thứ 2, “nếu Hội đồng Bảo an nhận xét rằng những biệp pháp nói ở điều 41 là
khơng thích hợp hoặc tỏ ra là khơng thích hợp, Hội đồng Bảo an có thể thi hành,
bằng các lực lượng hải, lục, không quân, mọi hành động xét thấy cần thiết cho việc
duy trì hịa bình và an ninh quốc tế”38.

Xét 2 trường hợp ngoại lệ này, trường hợp quy định tại chương VII như đã
phân tích ở phần 3.1 là hành động thuộc thẩm quyền của HĐBA, và can thiệp nhân
đạo trong trường hợp này được xét là hành động nhằm thực hiện sứ mệnh “duy
trình hịa bình và an ninh quốc tế” khi HĐBA xét thấy cần thiết. Trong khi đó, đơn
phương can thiệp nhân đạo là hành động của 1 hay một nhóm các quốc gia can
thiệp vũ trang vào một quốc gia khác mà không được sự ủy quyền hay chấp thuận
của HĐBA. Và vì thế, trường hợp ngoại lệ này ta không thể là cơ sở pháp lý cho
hành vi đơn phương can thiệp nhân đạo. Trường hợp tự vệ chính đáng là ngoại lệ
thứ 2 của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, tuy nhiên hành vi
tự vệ không thể đồng nhất với hành vi đơn phương can thiệp nhân đạo bởi đây là 2
hành vi có bản chất và hình thức hồn tồn khác nhau.
Như vậy, trước hết, xét tại cơ sở pháp lý là Hiến chương LHQ, có thể thấy
khơng có tồn tại một quy định nào cho phép đơn phương can thiệp nhân đạo. Tuy

36

Khoản 4 Điều 2 Chương I Hiến chương Liên Hiệp Quốc

37

Điều 51 Chương VII Hiến chương Liên Hiệp Quốc

38

Điều 42 Chương VII Hiến chương Liên Hiệp Quốc


16

vậy, hiện nay vẫn có các ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề đơn phương can thiệp

nhân đạo. Bên cạnh các ý kiến của các học giả cho rằng hành vi đơn phương can
thiệp nhân đạo là không hợp pháp, vẫn có những ý kiến bảo vệ cho đây là hành vi
hợp pháp theo tinh thần và tôn chỉ của Hiến chương. Các quan điểm này sẽ lần lượt
được phân tích ở phần 3.3.
3.3. Các quan điểm hiện nay về đơn phƣơng can thiệp nhân đạo
3.2.1. Các quan điểm bảo vệ “đơn phƣơng can thiệp nhân đạo là không
hợp pháp”
Các học giả phản đối đơn phương can thiệp nhân đạo39 đã lập luận rằng quyền
đơn phương can thiệp nhân đạo là khơng hợp pháp, bởi lẽ khơng hề có một cơ sở
pháp lý nào cho phép quyền này theo quy định của Hiến chương và các văn bản
quốc tế liên quan.
Thứ nhất, nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế có hai ngoại
lệ rõ ràng, đó là quốc gia được quyền sử dụng vũ lực để tự vệ (1) và Hội đồng Bảo
an Liên Hiệp Quốc hành động khi xét thấy cần thiết để duy trì hịa bình và an ninh
quốc tế (2). Những quy định của khoản 4 điều 2 cùng với khoản 7 điều 2 HCLHQ,
kết hợp với nghị quyết 2131 (NQ) của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (ĐHĐ LHQ)
đã thủ tiêu hoàn toàn sự đe dọa sử dụng vũ lực hay sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế, ngoại trừ hai trường hợp ngoại lệ trên. Bên cạnh đó, các học giả khẳng định
rằng các nhà soạn thảo Hiến chương đã quy định riêng và rõ ràng cho hai trường
hợp ngoại lệ trên. Gordon lập luận rằng nếu các nhà soạn thảo muốn cho phép sự sử
dụng vũ lực cho đơn phương can thiệp nhân đạo như một trường hợp ngoại lệ thứ 3
của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực thì các nhà soạn thảo sẽ thể hiện rõ ràng việc
này. Tuy nhiên, điều kiện “đơn phương can thiệp nhân đạo” khơng thể được tìm

39

Brownlie, “Humanitarian Intervention”; Fairley (1980), “State actors, Humanitarian Intervention and
international Law: Reopening pandora’s box”; Tom Farer (1974), “The Regulation of Foreign Intervention
in civil armed conflict”; Franck & Rodley(1973), “After Bangladesh: The Law of Humanitarian Intervention
by military force”; Verwey (1985), “Humanitarian intervention under international law”;

Xem Eric Adjei (2005), chú thích số 3, tr.26


17

thấy trong bất cứ nơi nào trong Hiến chương. Điều này thể hiện rõ rằng khơng có
quyền sử dụng vũ lực cho mục đích nhân đạo40.
Thứ hai, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua 2 nghị quyết nhằm
khẳng định lý do nhân đạo là không được chấp nhận trong bất kì sự can thiệp đơn
phương nào. Đầu tiên, NQ 2625 của ĐHĐ tuyên bố “không một quốc gia hay nhóm
quốc gia nào có quyền can thiệp, trực tiếp hay gián tiếp, vì bất kì lí do gì vào cơng
việc nội bộ hay bên ngồi của một quốc gia khác”41. Tiếp theo, NQ 3314 của ĐHĐ
thông qua năm 1974 coi hành vi xâm lược là việc “một nước sử dụng lực lượng vũ
trang tấn công, vi phạm đến chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính
trị của một nước khác”, hoặc “dưới bất kì một hình thức nào khác”, và tun bố
rằng “khơng có bất cứ lý do gì là tự nhiên, hay chính trị, kinh tế, quân sự hay các
mặt khác, có thể được sử dụng để biện minh cho sự xâm lược. Chiến tranh xâm lược
là một tội ác chống lại hịa bình quốc tế.”42. Như vậy, rõ ràng là bất kì hình thức
can thiệp nào, dù gián tiếp hay trực tiếp vào công việc nội bộ hay bên ngoài của một
quốc gia khác là khơng được phép, cho dù hành vi đó được tiến hành với mục đích
nhân đạo. Hành vi đó thậm chí có thể bị coi là hành vi xâm lược theo như định
nghĩa43.
Thứ ba, một số ý kiến44 cho rằng xuất phát từ sự lo lắng và hoài nghi về khả
năng lạm dụng việc đơn phương sử dụng vũ lực của các quốc gia, do đó quyền tự vệ
chính đáng của các quốc gia được giới hạn trong điều 51 HCLHQ. Theo điều
51,“những biện pháp do các hội viên thi hành trong việc thực hiện quyền tự vệ
chính đáng ấy phải được báo ngày cho Hội đồng Bảo an biết và không được ảnh
hưởng đến quyền hạn và niệm vụ của Hội đồng Bảo an, mà theo Hiến chương này
40


Eward Gordon(1985), “Article 2(4) in Historical Context”
Xem Eric Adjei (2005), chú thích số 2, tr.27, [ />41

Điều 1 Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 24/10/1970

42

Nghị quyết 3314 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 14/12/1974

43

Eric Adjei (2005), chú thích số 3, tr.26, [ />
44

Xem Steve G. Simon (1993), “The Contemporary Legality of Unilateral Humanitarian Interention”;
Browlie (1963), “International Law and the use of Force”.
Như trên, tr.26


18

Hội đồng Bảo an có thể bất kì lúc nào áp dụng những hành động xét thấy cần thiết
để duy trì hịa bình và an ninh quốc tế”45. Như vậy, ngay cả một quyền chính đáng
như sử dụng vũ lực trong trường hợp tự vệ, thì quyền này cũng bị giới hạn khắt khe
nhằm tránh tối đa sự lạm dụng. Mặt khác, có thể thấy đơn phương can thiệp bởi lý
do nhân đạo rất dễ dàng bị lạm dụng, bởi các giới hạn của khái niệm này cịn đang
có nhiều tranh cãi46. Vì vậy, quyền can thiệp vì lý do nhân đạo khơng thể quy định
mơ hồ. Hay nói cách khác, trong sự so sánh với những giới hạn khắt khe của điều
51, khẳng định một lần nữa rằng can thiệp nhân đạo đơn phương không được cho
phép trong Hiến chương.

Bên cạnh đó, Browlie47cho rằng các nhà soạn thảo đã sử dụng cụm từ “chống
lại độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” để củng cố, đúng hơn là hạn chế quyền
sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Vì thế, rõ ràng đơn phương can thiệp nhân
đạo là không hợp pháp trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Một số quan điểm khác nhấn mạnh “hịa bình” và “cơng lý” là hai giá trị quan
trọng được bảo vệ dưới các quy định của Hiến chương, nhưng rằng “bất kì lúc nào
cuộc đấu tranh hay căng thẳng bùng lên giữa hai hay nhiều hơn các giá trị đó, hịa
bình nên là nhân tố phổ biến và sau cùng nhất” (Cassese)48. Vì thế, trong Hiến
chương, việc sử dụng vũ lực đã khơng được hợp pháp hóa một cách đơn thuần.
Hiến chương chọn “hịa bình” trên “cơng lý” trong trường hợp có sự đối đầu giữa 2
mục tiêu quan trọng đó của Liên Hiệp Quốc49. Sử dụng vũ lực bị cấm như một
nguyên tắc bắt buộc của luật quốc tế (trừ 2 trường hợp ngoại lệ đã nêu).
Ngoài ra, các học giả cũng cho rằng đơn phương can thiệp nhân đạo đã và nên
bị cấm vì lý do chính trị. Từ lâu, nhân quyền là một vấn đề nhạy cảm bởi quyền con
45

Điều 51 Chương VII Hiến chương Liên Hiệp Quốc.

46

Eric Adjei (2005), chú thích số 2, tr.27

47

Browlie (1963), “International Law and the use of Force”.
Như trên, tr.28
48

Antonio Cassese (1999), “Ex iniuria Ius Oritur: Are we moving towards international legitimization of
forcible humanitarian Countermeasures in the world community ?”

Như trên, tr.32
49

Như trên, tr.26


19

người luôn là mục tiêu hướng tới và bảo vệ của nhân loại trong bất kì giai đoạn nào
của lịch sử. Mục đích nhân quyền vì thế có thể bị lạm dụng nếu cho phép quyền can
thiệp nhân đạo. Do đó, đơn phương can thiệp nhân đạo chỉ là một cách thức mà các
quốc gia mạnh can thiệp vào các quốc gia yếu thế hơn để gia tăng ảnh hưởng của họ
và hướng tới những lợi ích mà họ đạt được từ quốc gia đó nếu can thiệp vì lý do
nhân đạo.
3.2.2. Các quan điểm bảo vệ “đơn phƣơng can thiệp nhân đạo là hợp pháp”
Các tác giả ủng hộ quan điểm này50 đưa ra bốn lập luận cho việc khẳng định
đơn phương can thiệp nhân đạo là hợp pháp.
Thứ nhất, đơn phương can thiệp nhân đạo là một quyền hợp pháp theo tập
quán quốc tế và đã được các quốc gia mặc nhiên thừa nhận trong lịch sử. Sự thành
lập của LHQ đã không thủ tiêu hay làm suy yếu luật tập quán can thiệp nhân đạo.
Mặt khác, Hiến chương là sự mở rộng và nhấn mạnh hơn quyền đơn phương can
thiệp nhân đạo.
Thứ hai, đơn phương can thiệp nhân đạo thực chất không ảnh hưởng đến chủ
quyền quốc gia, dù chỉ là tạm thời. Theo D’Amato, sự toàn vẹn lãnh thổ có nghĩa là
“ngăn chặn sự mất mát lâu dài của một phần lãnh thổ”51. Can thiệp nhân đạo
không dẫn đến kết quả là làm mất đi chủ quyền quốc gia, cho dù là tạm thời. Độc
lập chính trị có nghĩa là “sự độc lập của quốc gia khơng bị tổn hại”52. Can thiệp
nhân đạo sẽ khơng có bất kì một tác động nào đến “độc lập quốc gia” và vì thế
khơng xâm phạm đến độc lập chính trị của một quốc gia. Đồng thời, Teson, một học
giả ủng hộ mạnh mẽ quyền đơn phương can thiệp nhân đạo cho rằng sử dụng vũ lực

chỉ bị cấm khi: khi nó làm suy yếu tồn vẹn lãnh thổ của quốc gia mục tiêu, tác
50

John Rawls (1993), “The law of people”; Reisman (1995), “Humanitarian intervention and fledgling
democracies”; D’Amato (1990), “The Invasion of Panama Was a lawful Response to Tyranny”
Như trên, tr.26
51

Như trên, chú thích số 3, tr.29

52

John Rawls (1993), “The law of people”; Reisman (1995), “Humanitarian intervention and fledgling
democracies”; D’Amato (1990), “The Invasion of Panama Was a lawful Response to Tyranny”
Như trên, tr.26


20

động đến độc lập chính trị, chống lại các mục tiêu của Liên Hiệp Quốc53. Vì vậy,
can thiệp nhân đạo trước hết đáp ứng 2 yêu cầu tại khoản 4 điều 2 HCLHQ. Vấn đề
còn lại là liệu đơn phương can thiệp nhân đạo có “trái với những mục đích của Liên
Hiệp Quốc” hay không.
Thứ ba, đơn phương can thiệp nhân đạo phù hợp với mục tiêu của Liên Hiệp
Quốc54. Khoản 3 điều 1 của Hiến chương khẳng định một trong những mục đích
của Liên Hiệp Quốc là “Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn
đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, trong việc khuyến khích phát
triển và sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi
người, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Đối chiếu
với hành động đơn phương can thiệp nhân đạo, căn cứ để tiến hành đó là có một sự

vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền xảy ra và mục tiêu của hành động can thiệp là
chấm dứt tình trạng vi phạm quyền con người này. Vì thế, đơn phương can thiệp
nhân đạo là cần thiết và hợp pháp bởi nó phù hợp với mục tiêu phát triển quyền con
người của LHQ. Kết hợp với lập luận trước, rõ ràng đơn phương can thiệp nhân đạo
không vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trong khoản 4 điều 2 HCLHQ.
Lập luận thứ tƣ và cũng là lập luận quan trọng nhất của các học giả ủng hộ
quyền đơn phương can thiệp nhân đạo, đó là các quốc gia được phép tiến hành can
thiệp nhân đạo đơn phương vì HĐBA LHQ khơng thể hiện vai trị của mình hiệu
quả trong việc bảo vệ và phát triển quyền con người55. Thực tiễn chứng minh, trong
suốt thời kì chiến tranh lạnh, các quyết định của HĐBA đã bị làm cho tê liệt khi các
quốc gia thường trực (P5) sử dụng quyền phủ quyết của mình. Một khi LHQ thất
bại trong hành động, các quốc gia thành viên có thể can thiệp bằng vũ lực để bảo vệ
53

Teson (1997), “ Humanitarian Intervention”
Như trên, tr.29
54

Teson (1997), “Humanitarian Intervention”
Như trên, tr.30
55

Michael Reisman (1985), “Criteria for the lawful use of force in international law”; Peter Malanczuk
(2002), “Akehurst’s Modern introduction to international law”
Như trên, tr.38


21

nhân quyền. Ngồi ra, họ cịn lập luận rằng quyền được tiến hành can thiệp nhân

đạo tồn tại trong tập quán quốc tế, độc lập với HCLHQ. Chính dựa vào quan điểm
này mà NATO đã tự mình xác định tình trạng tại Kosovo năm 1999 là thảm họa
nhân đạo và cho mình quyền tiến hành can thiệp vũ trang dù khơng có sự cho phép
của HĐBA.
Theo quan điểm cá nhân, người viết ủng hộ quan điểm của các học giả cho
rằng hành vi can thiệp nhân đạo đơn phương, không dựa trên sự cho phép của
HĐBA là hành vi không hợp pháp. Điều này được lý giải bởi những lập luận sau
đây:
Thứ nhất, can thiệp nhân đạo đơn phương không có có cơ sở pháp lý. Có thể
thấy rằng, khơng có bất kì câu chữ nào trong HCLHQ và các văn bản pháp lý liên
quan thừa nhận chính thức và rõ ràng quyền này. Mặt khác, các lập luận cho rằng có
tồn tại quyền đơn phương can thiệp nhân đạo chỉ là sự cố gắng phân tích, suy luận
từ câu chữ của các học giả. Điều này là chưa thuyết phục, trong khi Điều 2 khoản 4
HC cùng các NQ 2625 (năm 1970), 2131(1965), 3314 (1974) của ĐHĐ là những cơ
sở rõ ràng nhất quan điểm của cộng đồng quốc tế không chấp nhận can thiệp nhân
đạo đơn phương.
Thứ hai, về vai trò của HĐBA LHQ, đây là cơ quan duy nhất được HC ghi
nhận có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ hịa bình thế giới, cũng như phát triển quyền
con người. Mặt khác, nếu HĐBA thực hiện nhiệm vụ của mình khơng hiệu quả, thì
cần có các biện pháp thay thế hoặc cải tổ cơ chế hoạt động của cơ quan này. Tất cả
những biện pháp mới này luôn phải dựa trên những cơ sở pháp lý được quy định rõ
ràng. Ở đây, các quốc gia thành viên đã đơn phương làm thay nhiệm vụ này của
HĐBA mà khơng dựa trên một cơ sở pháp lý nào. Vì vậy, không thể biện minh
quyền can thiệp nhân đạo là hợp pháp trong trường hợp này.
Thứ ba, người viết không đồng ý rằng can thiệp nhân đạo đơn phương phù
hợp với mục tiêu của HCLHQ. Cá nhân người viết cho rằng việc thực hiện những
mục tiêu của LHQ phải luôn song hành với cơ chế thực hiện, và cơ chế này phải


22


được quy định rõ ràng. Tức là để một hành vi được cho là hành động phù hợp với
mục đích của Hiến chương nó phải đáp ứng cả 2 điều kiện: (1) phù hợp với mục
tiêu của HCLHQ; (2) cơ chế thực hiện mục tiêu này được quy định rõ ràng và công
khai. Ở đây, các quốc gia can thiệp cho rằng quyền đơn phương can thiệp nhân đạo
là tồn tại vì nó phù hợp với mục tiêu của HC là khơng thuyết phục vì nó được thực
hiện khơng dựa trên một cơ sở hợp pháp (phân biệt với quyền can thiệp nhân đạo
dựa trên sự cho phép của HĐBA).
Vì thế, xem xét ở khía cạnh pháp lý, người viết cho rằng đơn phương can thiệp
nhân đạo là không hợp pháp. Từ khía cạnh này, trong mục 4 của chương 1, người
viết sẽ trình bày thực tiễn can thiệp nhân đạo từ khi LHQ ra đời cho đến nay để thấy
rõ được thực tiễn can thiệp can thiệp nhân đạo, phản ứng của cộng đồng quốc tế và
đặc biệt là cơ sở pháp lý mà các quốc gia can thiệp để biện minh cho hành vi của
mình.
4. Thực tiễn can thiệp nhân đạo từ khi Liên Hiệp Quốc ra đời (từ 1945)
4.1.Thực tiễn can thiệp nhân đạo thời kì chiến tranh lạnh (1945-1991)
4.1.1. Bối cảnh thế giới
Giai đoạn Chiến tranh Lạnh (1945–1991) đặc trưng bằng tình trạng tiếp nối
xung đột chính trị, căng thẳng quân sự, và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Thế chiến II
(1939–1945), chủ yếu giữa Liên bang Xô Viết và các quốc gia vệ tinh của nó, với
các cường quốc phương Tây và Hoa Kỳ. Đặc điểm của tình trạng xung đột này là
việc hình thành các liên minh quân sự, các cuộc chạy đua vũ trang, khoa học kỹ
thuật diễn ra mạnh mẽ56.
Giai đoạn này đã xuất hiện một số cuộc khủng hoảng nhân đạo. Tuy nhiên, do
các cường quốc bất đồng về quan điểm nên các quyết định của Hội đồng Bảo an
nhằm gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tế đã khơng được thơng qua. Ví dụ, khi các
vụ việc vi phạm nhân quyền xảy ra tại Pakistan, Uganda, Cambodia, HĐBA đã
56

(truy cập ngày 30/5/2012)



23

khơng thể gửi qn tới can thiệp57. Trước tình hình đó, một số nước đã tiến hành
đơn phương can thiệp nhân đạo. Trong hầu hết các trường hợp, lý do nhân đạo là lý
lẽ dùng để biện minh cho hành đông của quốc gia sử dụng vũ lực.
4.1.2. Ấn Độ tấn công đông Pakistan năm 1971
Năm 1947, Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ đồng thời chia đất nước thành 2
quốc gia độc lập là Ấn Độ và Pakistan. Tại Pakistan, hai vùng đất đông và Bắc
Pakistan tồn tại như 2 phần độc lập, bởi những chia cắt về tôn giáo cũng như về địa
lý.
Cuộc chiến giữa Ấn Độ và Pakistan xảy ra vào tháng 12/1971, bắt nguồn từ
cuộc bầu cử Quốc hội Pakistan vào năm 197058. Ngày 25/3/1971, quân đội Pakistan
chiếm giữ thành phố Dhaka (thủ đô Bangladesh hiện nay) ở vùng lãnh thổ đông
Pakistan, bắt giữ Giáo chủ Rahman và ra lệnh giải tán đảng Awami. Ngày
27/3/1971, Đại tá Ziaur Rahman quyết định ly khai khỏi quân đội Pakistan và tuyên
bố sẽ thành lập quốc gia Bangladesh. Tiếp sau đó, tình trạng bạo lực tăng cao ở
đơng Pakistan, hàng triệu người đông Pakistan phải chạy tị nạn vào lãnh thổ Ấn Độ
ở các bang tây Bengal, Bihar, Assam, Meghalaya và Tipura nhằm tránh các vụ thảm
sát gây ra bởi qn đội Pakistan. Trong khi đó, ở phía tây Pakistan, chính quyền của
Thủ tướng Bhutto, được sự hậu thuẫn của Mỹ, âm mưu tấn công Ấn Độ.
Ngày 09/8/1971 Thủ tướng Ấn Độ Indira Ghandi có chuyến cơng du đến Liên
Xô và ký kết 21 hiệp định hợp tác cả về kinh tế và quân sự với Liên Xô. Hành động
khiến Mỹ cho rằng Liên Xô muốn thông qua Ấn Độ để bành trướng thế lực ở Nam
Á và vì thế quyết định “bật đèn xanh” để Pakistan tấn cơng Ấn Độ.

57
58


Xem Eric Adjei (2005), chú thích số 2, tr.48

Đảng Awami do giáo chủ Mujibur Rahman, đại diện cho cộng đồng người Hồi giáo tại vùng lãnh thổ Đông
Pakistan (quốc gia Bangladesh hiện nay) giành thắng lợi. Thế nhưng, Thủ tướng Pakistan khi đó là Zulfikar
Ali Bhutto đã từ chối trao chiếc ghế thủ tướng lại cho Giáo chủ Rahman, đồng thời ra lệnh cho quân đội
thẳng tay đàn áp những người Hồi giáo có thiện cảm với đảng Awami.
Xem Hồng Phú, “Đối đầu Mỹ - Liên Xơ trong cuộc chiến Ấn Độ - Pakistan năm 1971” , Báo Công An
Nhân Dân, 30/05/2007, [ />

24

Ngày 3/12/1971, Pakistan tiến hành tấn công Ấn Độ, bắt đầu bằng các cuộc
ném bom ồ ạt các căn cứ quân sự Ấn Độ dọc theo biên giới phía tây bắc. Ở phía
đơng, qn đội Pakistan trung thành với Thủ tướng Bhutto cũng đồng loạt tấn công
vào lãnh thổ Ấn Độ. Ấn Độ đánh trả quyết liệt và sau đó chủ động đưa quân vào
Pakistan, đánh chiếm các thành phố lớn, tạo điều kiện cho lực lượng người Bengal
giành quyền làm chủ đông Pakistan. Đến ngày 16/12/1971, quân đội Pakistan ở phía
đơng tun bố đầu hàng, dẫn đến việc thành lập nhà nước Bangladesh ở phần lãnh
thổ phía đơng Pakistan. Kết thúc cuộc chiến, có 93.000 binh lính Pakistan bị bắt làm
tù binh, trong đó có 200 tội phạm chiến tranh bị buộc tội đã gây thảm sát 300.000
dân thường Pakistan ở phía đơng59.
Ấn Độ trong cuộc chiến này đã nhận lấy sự chỉ trích mạnh mẽ từ Liên Hiệp
Quốc. Trong một cuộc bỏ phiếu của HĐBA về tính hợp pháp của hành động này, đã
có hơn 100 quốc gia cho rằng hành động này là bất hợp pháp và đã vi phạm chủ
quyền của Pakistan. Ấn Độ ban đầu bào chữa rằng hành động của mình xuất phát từ
lý do nhân đạo, sau đó tuyên bố rằng đây là hành động tự vệ trước hành vi tấn công
Ấn Độ của Pakistan trong suốt cuộc giao tranh giữa hai nước.
Một số học giả cho rằng hành động can thiệp vào Pakistan và giúp đỡ thành
lập nên quốc gia Bangladesh của Ấn Độ đã “cấu tạo thành môt trường hợp rõ ràng
nhất của can thiệp nhân đạo cá thể một cách đầy thuyết phục trong thế kỉ này và

hành động này đã ủng hộ, cổ vũ cho học thuyết can thiệp nhân đạo”60. “Một hành
động có thể được xem là bất hợp pháp ngay khi nó diễn ra nhưng đánh dấu sự khởi
đầu của quy tắc mới của luật tập quán quốc tế. Và vì thế, sự can thiệp của Ấn Độ là
rất có ý nghĩa, nó có thể là một hành động như thế”61

Hoàng Phú, “Đối đầu Mỹ - Liên Xô trong cuộc chiến Ấn Độ - Pakistan năm 1971” , Báo Công An Nhân
Dân, 30/05/2007, [ />59

60

Michael Bazyler (1987), “Reexamining the doctrine of Humanitarian intervention in light of the atrocities
in Kampuchea and Ethiopia”
Xem Eric Adjei (2005), chú thích số 3, tr.51
61

Như trên.


25

4.1.3. Tanzania can thiệp vào Uganda năm 1979
Chính quyền của tổng thống Idi Amin tại Uganda đã thi hành hàng loạt các
chính sách cai trị tàn bạo, chống lại quyền con người từ 1971 đến 1979. Amin đã
đàn áp chính trị, lạm dụng nhân quyền và hành quyết các dân tộc khác, trục xuất
người Ấn Độ ra khỏi Uganda. Không có một con số cụ thể nhưng các nhóm nhân
quyền ước tính từ 100.000 đến 500.000 người bị giết hại trong giai đoạn này62.
Cũng trong giai đoạn này, những cuộc giao tranh tại biên giới Uganda và Tanzania
bùng lên dữ dội. Tháng 10/1978, quân đội Uganda xâm lăng vào lãnh thổ Tanzania
và chiếm Kagera, một vùng đất nằm giữa biên giới Uganda – Tanzania và sông
Kagera63.

Ngày 15/11/1978, Tanzania mở màn cuộc tấn công chống lại Uganda , bắt
đầu từ dọc bờ nam sơng Kagera. Sau đó, qn đội Tanzania dần thắng thế và lật đổ
chính quyền tổng thống Amin, chấm dứt những vi phạm nhân quyền tàn bạo tại đất
nước này. Về động cơ của cuộc chiến, tổng thống Nyerere của Tanzania tuyên bố
rằng “cuộc chiến giữa Tanzania và Uganda đã diễn ra bởi vì sự xâm lăng của quân
đội Uganda và vì lời tuyên bố sáp nhập lãnh thổ của Idi Amin. Khơng có một lý do
nào khác trong cuộc chiến này”64.
Trong vụ việc này, vấn đề nhân quyền đóng một vai trị quan trọng. Chính
quyền của tổng thống Idi Amin đã thi hành những chính sách cai trị tàn bạo, vi
phạm quyền con người một cách trắng trợn65. Khác với trường hợp của Ấn Độ,
62

(truy cập 30/5/2012)

63

Amin ngay sau đó đã tuyên bố sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ Uganda vào ngày 1/11/1978. Tổng
thống Tanzania, Nyerere, cho rằng sự sáp nhập này tương đương với chiến tranh và chính thức tuyên bố sẽ
hành động chống lại quân đội Uganda.
Eric Adjei (2005), chú thích số 3, tr.51
64

Như trên.

65

Tổng thống Nyerere đã miêu tả chính quyền Amin nhu là một chính quyền “sát nhân” và người dân
Uganda có quyền lật đổ nó. Bộ trưởng bộ ngoại giao Tanzania miêu tả sự thành côngcủa cuộc chiến dẫn
đếnsự sụp đổ của chính quyền Amin là một thắng lợi vĩ đại của người dân Uganda và chiến thắng của tự do,
công lý và nhân phẩm.

Như trên.
65

Như trên.


×