Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Vấn đề bảo đảm quyền tự do báo chí của công dân ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 117 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
------------------

HỒ THỊ OANH
MSSV:3250141

VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ CỦA
CƠNG DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2007 – 2011
Người hướng dẫn:
Thạc sĩ Vũ Thị Bích Hƣờng

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2011


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH – HĐH :

Công nghiệp hố- hiện đại hố

TTĐC :

Thơng tin đại chúng

BLHS

:

TBT :



Tổng biên tập

DN

Doanh nghiệp

:

Bộ luật hình sự

TNDN

:

Thu nhập doanh nghiệp

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

TTXVN

:

Thông tấn xã Việt Nam



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TỰ DO BÁO
CHÍ CỦA CƠNG DÂN Ở VIỆT NAM .......................................................... 5
1.1 Cơ sở lí luận về quyền tƣ do báo chí .................................................................5
1.1.1 Vai trị của báo chí đối với đời sống xã hội .................................................. 5
1.1.1.1 Q trình hình thành và phát triển của báo chí ......................................... 5
1.1.1.2 Vai trị của báo chí đối với đời sống xã hội ở Việt Nam ............................ 8
1.1.2 Cơ sở lý luận của quyền tự do báo chí ........................................................ 11
1.1.2.1 Quyền tự do báo chí là một quyền tự nhiên của con người ..................... 11
1.1.2.2 Mối quan hệ của quyền tự do báo chí với một số quyền cơng dân khác . 12
1.1.2.3 Mối quan hệ giữa quyền tự do báo chí đối và sự phát triển báo chí ....... 13
1.2 Cơ sở pháp lý của quyền tự do báo chí ở Việt Nam ......................................14
1.2.1 Sự cần thiết phải ghi nhận quyền tự do báo chí trong các văn bản pháp luật14
1.2.1.1 Ghi nhận quyền tự do báo chí sẽ bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích cơng
cộng và quyền, lợi ích của mỗi cơng dân ............................................................. 14
1.2.1.2 Pháp luật ghi nhận quyền tự do báo chí của cơng dân để cụ thể hố các điều
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập................................. 15
1.2.2 Cơ sở pháp lý của quyền tự do báo chí ....................................................... 17

CHƢƠNG II: NHỮNG BẢO ĐẢM CHO VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ
DO BÁO CHÍ TRÊN THỰC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................... 19
2.1 Bảo đảm về chính trị ......................................................................................... 19
2.1.1 Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước đối với hoạt động báo chí .. 19
2.1.3 Xây dựng nền dân chủ và phát huy vai trò của nhân dân trong công cuộc xây
dựng đất nước. ..................................................................................................... 24
2.1.4 Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. ...................... 25
2.1.5 Những hạn chế về mặt chính trị làm ảnh hưởng đến quyền tự do báo chí của
cơng dân ............................................................................................................... 27



2.2 Bảo đảm về kinh tế............................................................................................ 32
2.2.1 Vai trò của kinh tế đối với sự phát triển của báo chí .................................. 32
2.2.2 Những bảo đảm về kinh tế ........................................................................... 33
2.2.3 Những hạn chế về mặt kinh tế làm ảnh hưởng đến quyền tự do báo chí .... 36
2.3 Bảo đảm về pháp lý ........................................................................................... 41
2.3.1 Những bảo đảm pháp lý .............................................................................. 41
2.3.1.1 Pháp luật – phương tiện quan trọng bảo đảm cơng dân thực hiện quyền tự do
báo chí .................................................................................................................. 41
2.3.1.2 Xây dựng hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đảm bảo thực hiện
quyền tự do báo chí. ............................................................................................. 44
2.3.2 Những bất cập về pháp lý làm ảnh đến quyền tự do báo chí của cơng dân 45
3.3.2.1 Hệ thống pháp luật báo chí tồn tại nhiều bất cập .................................... 45
3.3.2.2 Cơ quan quản lý nhà nước chưa làm tốt cơng tác quản lý báo chí ......... 57
2.4 Bảo đảm về văn hoá, xã hội .............................................................................. 58
2.4.1 Vai trị của văn hố trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí .................... 58
2.4.2 Những bảo đảm về văn hoá, xã hội ............................................................. 58
2.4.3 Một số hạn chế về văn hoá xã hội làm ảnh hưởng đến quyền tự do báo chí60

CHƢƠNG III: VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY, MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ KIẾN NGHỊ................................... 64
3.1 Yêu cầu của việc bảo đảm quyền tự báo chí ở Việt Nam ............................. 64
3.1.1 Thực trạng bảo đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay ................. 64
3.1.2 Một số yêu cầu về việc đảm bảo quyền tự do báo chí ở nước ta .............. 68
3.2 Một số kiến nghị nhằm đảm bảo tốt quyền tự do báo chí cho cơng dân ở nƣớc
ta ............................................................................................................................... 69
3.2.1 Đảng và nhà nước cần có một quan điểm mở rộng hơn về quyền tự do báo chí
của cơng dân ........................................................................................................ 69
3.2.2 Hồn thiện hệ thống pháp luật báo chí theo hướng bảo đảm quyền tự do báo
chí của cơng dân. ................................................................................................. 71



3.2.3 Nâng cao vai trò của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do báo
chí ......................................................................................................................... 76
3.2.4 Tạo điều kiện để các cơ quan báo chí phát triển ....................................... 78
3.2.5 Phát huy vai trị của mỗi cơng dân trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí83

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 84


LỜI MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, cũng như bất cứ một quốc gia nào khác
trên thế giới, báo chí đóng một vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển của cách
mạng. Báo chí trong bất cứ hồn cảnh nào, giai đoạn nào của cuộc cách mạng đều là cơng
cụ chính trị hết sức hữu hiệu, là cánh tay đắc lực của Đảng và nhà nước. Báo chí đưa
những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với các giai tầng xã hội, cổ vũ,
động viên, góp phần làm cho chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống, thành những
phong trào hành động cách mạng sôi động. Báo chí cịn là nguồn cung cấp rất nhiều
thơng tin phong phú và hữu ích khác cho cơng dân đáp ứng nhu cầu học tập, kinh doanh,
vui chơi, giải trí… Qua đó báo chí nâng cao trình độ dân trí của công dân, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Đảng và nhà nước ta đã sớm nhận ra được vai trị quan trọng của báo chí và ln
tạo mọi điều kiện tốt nhất cho báo chí phát triển. Một trong những điều kiện quan trọng
và cần thiết nhất cho sự phát triển của báo chí đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm
đến là ghi nhận quyền tự do báo chí cho cơng dân bởi báo chí chỉ có thể phát triển khi
cơng dân có quyền tự do báo chí. Quyền tự do báo chí của công dân ở Việt Nam được ghi
nhận trong các văn kiện của Đảng và được nhà nước cụ thể hóa trong các văn bản quy
phạm pháp luật mà trước tiên và quan trọng nhất là trong tất cả các bản Hiến pháp của

nước ta từ trước tới nay.
Việc ghi nhận quyền tự do báo chí trong các văn bản pháp luật là rất cần thiết
nhưng việc ghi nhận quyền này chỉ thực sự có ý nghĩa khi được bảo đảm thực hiện một
cách trọn vẹn trên thực tế. Nếu Đảng, nhà nước chỉ ghi nhận quyền tự do báo chí của
cơng dân rất nhiều trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật của nhà nước
nhưng không chú trọng đến việc làm như thế nào để bảo đảm thực hiện trên thực tế thì
quyền tự do báo chí cũng sẽ mãi là khơng tưởng, vơ thực. Điều đó cũng đồng nghĩa với
1


việc nước ta sẽ khơng bao giờ có được một nền báo chí phát triển để phục vụ một cách
đắc lực nhất cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nhưng quan trọng hơn, quyền tự do báo chí là một trong những quyền con người
cơ bản nhất, nếu nhà nước ta không ghi nhận hay chỉ ghi nhận một cách hình thức mà
khơng đảm bảo thực hiện trên thực tế thì chúng ta đang vi phạm quyền con người. Vì vậy
để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân thì
trước hết phải bảo đảm rằng tất cả các quyền con người trong đó có quyền tự do báo chí
được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật không nằm yên trên giấy mà
phải đi vào thực tế, và khơng có bất cứ ai có quyền vi phạm các quyền thiêng liêng ấy.
Hơn nữa với mục tiêu luôn được đặt lên hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng của nước ta
là xây dựng một nhà nước dân chủ thì việc bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng dân
càng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa vơ cùng to lớn góp phần cổ vũ, động viên, tạo điều
kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Bởi
quyền tự do báo chí là cơ sở quan trọng giúp công dân thực hiện các quyền tự do, dân chủ
của mình.
Chính vì những lý do trên mà vấn đề bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng dân
trên thực tế đang là một trong những vấn đề được nhà nước ta thực sự quan tâm và chú
trọng thực hiện. Tuy nhiên, đây vẫn là một vấn đề phức tạp, chứa đựng rất nhiều khó
khăn, khơng thể thực hiện tốt trong một sớm một chiều mà đòi hỏi chúng ta phải có sự
nghiên cứu, tìm tịi, học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác thì mới có thể có được những

biện pháp hữu hiệu nhất để bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng dân một cách tốt nhất
trên thực tế.
Vì lẽ đó vấn đề “Bảo đảm thực hiện quyền tự do cá nhân ở nước ta hiện nay” là một
đề tài mang tính cấp thiết, cần có được sự quan tâm, nghiên cứu của mọi công dân trong
xã hội.

2


2 Mục đích nghiên cứu
Với việc chọn đề tài “Vấn đề bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng dân ở Việt
Nam hiện nay”, tác giả mong muốn làm rõ một số vấn đề về lí luận và thực tiễn của việc
bảo vệ quyền tự do báo chí ở nước ta hiện nay, tìm hiểu một số biện pháp đang được
Đảng và nhà nước ta thực hiện để bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng dân. Qua đó
đánh giá những thành tựu cũng như hạn chế của các biện pháp bảo đảm quyền tự do báo
chí của công dân ở nước ta và đặt ra những yêu cầu, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế
bảo đảm quyền tự do báo chí ở nước ta, góp một phần nhỏ vào công cuộc bảo vệ quyền
công dân, quyền con người nhằm xây dựng thành công một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.

3. Phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, luận văn tập trung nghiên cứu về những biện pháp
đang được thực hiện để bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng dân ở nước ta hiện nay
bao gồm các bảo đảm về chính trị, kinh tế, pháp lý và văn hố xã hội, phân tích và làm rõ
những thành tựu và hạn chế của các biện pháp bảo đảm đó, trong đó luận văn chú ý nhấn
mạnh đến bảo đảm về chính trị và pháp lý. Đồng thời cũng tìm hiểu về thực trạng thực
hiện quyền tự báo chí ở nước ta hiện nay để thấy được kết quả của những nỗ lực của
Đảng, nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí của cơng dân.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thành luận văn tác giả đã tiến hành nghiên cứu vấn đề lí luận và thực tiễn
của đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mac-Lênin. Đồng thời tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp đặc thù
của nghành khoa học xã hội như: liệt kê, phân tích, tổng hợp, so sánh… để đi sâu nghiên
cứu nhằm đạt được mục đích đề ra của đề tài.

3


5. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
các phần sau


Chương I: Cơ sở lí luận và pháp lí về quyền tự do báo chí của

cơng dân ở Viêt Nam hiện nay


Chương II: Những bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do

báo chế trên thực tế ở Việt Nam hiện nay


Chương III: Thực trạng của việc bảo đảm quyền tự do báo chí

ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu và kiến nghị
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, tuy nhiên do khả năng nghiên cứu của tác giả cịn hạn
chế nên luận văn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được những
ý kiến nhận xét, đánh giá và góp ý từ phía thầy cơ và các bạn đọc để luận văn được hoàn

thiện hơn. Qua đây tác giả muốn gửi lời cảm ơn tới các thầy cơ trong khoa Luật Hành
chính – Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh, đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo
Th.s Vũ Thị Bích Hường đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong suốt thời gian qua để tác
giả hoàn thành luận văn tót nghiệp này.

4


CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TỰ DO
BÁO CHÍ CỦA CƠNG DÂN Ở VIỆT NAM
1.1 Cơ sở lí luận về quyền tƣ do báo chí
1.1.1 Vai trị của báo chí đối với đời sống xã hội
1.1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của báo chí
Bước phát triển được coi là quan trọng và có ý nghĩa nhất trong lịch sử hình thành
và phát triển của con người là sự xuất hiện của ngôn ngữ. Sở dĩ như vậy là vì con người
tồn tại và phát triển trong xã hội ln có nhu cầu được thông tin, được giao tiếp với nhau
để tồn tại và phát triển. Sự ra đời và phát triển của báo chí cũng xuất phát từ nhu cầu vơ
cùng thiết yếu đó của con người.
Báo chí là một hiện tượng đa nghĩa và phức tạp, gắn bó chặt chẽ với các thành tố
của kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên ở đây chúng ta chỉ đề cập đến thuật ngữ báo chí
theo nghĩa hẹp. Theo đó, báo chí được hiểu là một loại hình phương tiện của truyền thơng
đại chúng, là cách thức để đạt tới sự hiểu biết giữa các cá nhân với nhau và giữa cá nhân
với cộng đồng xã hội trong phạm vi một quốc gia và rộng hơn là trên phạm vi toàn thế
giới. Trong lý luận báo chí, khái niệm “truyền thơng đại chúng” là khái niệm cơ sở, khi
đề cập đến truyền thông đại chúng chúng ta thường nói đến báo chí và nói báo chí tức là
nói đến truyền thơng đại chúng. Hệ thống báo chí hiện nay gồm nhiều loại: Báo in, báo
phát thanh, báo hình, báo mạng. Đó là các kênh cơ bản nhất tiêu biểu cho sức mạnh, bản
chất và xu hướng vận động của truyền thông đại chúng1. Tuy nhiên để đạt tới sự phát
triển như ngày nay thì báo chí đã có một q trình phát triển lâu dài.
Các hình thức hoạt động với tính chất là tiền thân của báo chí đã xuất hiện từ thời

cổ đại ở La Mã, như các bản tổng hợp các tin tức khác nhau được viết trên các bảng gỗ
phủ thạch cao (duy trì từ thế kỷ I trước CN đến thế kỷ IV sau CN), hay các bản tin từ đất
sét như tờ báo “Iomiu Kavaraban” (có nghĩa là đọc và truyền bản in) đã xuất hiện ở Nhật
Bản vào năm 1615; ở Nga trong suốt thế kỷ XVII ở cung đình Sa hoàng đã phát hành bản
1

TS. Vũ Văn Nhiêm, Đề tài NCKH Quyền tự do báo chí ở Mĩ và một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam

5


viết tay “Courant” (Tiếng Pháp có nghĩa là “hiện thời”), chúng cịn được gọi là “Vesti”,
“Stolbsa”(có nghĩa là “tin tức” và “cột báo”). Báo chí được hiểu như những ấn phẩm xuất
bản định kỳ, có thể đã xuất hiện sau khi phát minh ra kỹ thuật in ấn. Ở Trung Quốc, việc
in sách đã xuất hiện sớm hơn so với ở Châu Âu. Ở Nga cuốn sách đầu tiên ghi ngày ngày
tháng được xuất bản vào năm 1564. Nhưng cùng với thời gian, những phát minh về in ấn
sách còn phải trải qua nửa thế kỷ, trước khi kỹ thuật ấn loát bắt đầu được đưa vào sử
dụng để in ấn các ấn phẩm báo chí định kỳ. Các tờ báo đã xuất hiện vào đầu thế kỷ XVII
thoạt đầu là ở Đức (“Avviz Rilation oder Zeitung” -1609, sau đó ở Anh có “ Weekly
News” – 1622, và ở Pháp là “La Gazette”-1631. Ở Nga, tờ báo đầu tiên “Vedomosti” bắt
đầu được xuất bản vào năm 1702 theo lệnh của Pie Đệ nhất. Đó là ấn phẩm chính trị nhà
nước đầu tiên tuyên truyền về cải cách của Pie2. Như vậy trong sự vận động, phát triển
của văn hoá nhân loại, báo chí ra đời khá muộn.
Trong lý luận về báo chí đã chỉ ra rằng, báo chí ra đời và phát triển dưới sự chi phối
của nhiều yếu tố nhưng như đã nói ở trên thì yếu tố quan trọng nhất là nhu cầu khách
quan của xã hội về thông tin - giao tiếp. Và sự ra đời của máy in là nền tảng, là điều kiện
vật chất cho sự ra đời phát triển của báo chí. Sau phát minh về vô tuyến điện của nhà bác
học người Nga Pôpốp vào năm 1905, đài phát thanh đã ra đời. Tiếp theo đó, năm 1936,
truyền hình ra đời đã mang lại cho nhân loại một phương tiện thơng tin có khả năng giải
quyết nhu cầu thông tin – giao tiếp lớn của xã hội.3

Sự ra đời và phát triển của báo chí cũng gắn liền với sự vận động của chế độ chính
trị vì bất cứ một lực lượng chính trị nào khi nắm được quyền lực nhà nước trong tay đều
muốn sử dụng báo chí làm cơng cụ để bảo vệ chính quyền của mình. Tuy nhiên tuỳ vào
tính chất của mỗi chế độ chính trị khác nhau mà cơng cụ báo chí được sử dụng khác
nhau. Trong một thể chế chính trị- xã hội mang tính dân chủ, tiến bộ thì báo chí được sử
dụng làm cơng cụ để phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân, lợi ích của số đơng.
Ngược lại, trong một thể chế chính trị phản động thì báo chí lại được sử dụng để bảo vệ

2
3

E.P Prôkhôrôp, Cơ sở lý luận của báo chí (Tập I, NXB. Thơng tấn, Hà Nội 2004, tr.15 - 17.
Học viện báo chí và tuyên truyền, Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lý luận chính trị, tr 12-21.

6


lợi ích của lực lượng cầm quyền, hạn chế, thậm chí là chống lại xu hướng dân chủ, tiến
bộ. Chính sự khác nhau đó đã làm cho sự phát triển của báo chí ở mỗi nước trên thế giới
có những đặc điểm khác nhau. Theo một nghiên cứu của ba học giả người Mỹ tại trường
Đại học Tổng hợp Illinois là Fred Siebert, Theodore Peterson và Wibur Schramn vào năm
1956 đã chia báo chí thế giới thành bốn hệ thống: Báo chí chuyên quyền, báo chí tự do
dân chủ, báo chí trách nhiệm xã hội và báo chí cộng sản Liên Xơ. Bốn hệ thống này xuất
phát từ hai dịng cơ bản là “Báo chí chuyên quyền” và “Báo chí tự do dân chủ”. Theo họ
báo chí chuyên quyền ra đời sớm nhất và được nhiều quốc gia trên thế giới rập khn,
báo chí này phục vụ cho Chính phủ và chấp hành mọi chính sách của Chính phủ, bênh
vực và ca ngợi các quan chức và Chính phủ cầm quyền. Báo chí tự do dân chủ bắt đầu
hình thành ở Anh và Mỹ vào cuối thế kỷ XVII. Cơ sở lý luận của dịng báo chí này dựa
trên triết lý về hợp lý hoá và quyền tự nhiên của John Milton, John Stuart Mill. Theo họ
dịng báo chí này là biểu tượng của một xã hội dân chủ, trong đó báo chí hoạt động như

một “cái chợ tự do” của những tư tưởng và thơng tin, ở đó mọi người có thể xem xét hoạt
động của Chính phủ, tự đưa ra các quyết định của mình về các chính sách của nhà nước,
có thể là đồng ý hoặc khơng. Sau nghiên cứu của ba nhà nghiên cứu Mỹ, còn có nhiều
nghiên cứu khác để phân chia báo chí thành những hệ thống khác nhau khác4.
Tuy báo chí đã từng tồn tại theo nhiều “dòng” khác nhau như vậy trong lịch sử phát
triển nhưng hiện nay trong xu thế phát triển và hội nhập, tồn cầu hố, báo chí của tất cả
các quốc gia trên thế giới cũng đang tiến đến một xu thế chung đó là xu thế báo chí tự do.
Việc trao đổi thơng tin quốc tế là một dấu hiệu quan trọng trong việc xích lại gần nhau
của các quốc gia, các dân tộc, tạo một môi trường thơng thống cho báo chí phát triển. Và
báo chí của Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế chung đó.

TS. Vũ Văn Nhiêm, Đề tài NCKH Quyền tự do báo chí ở Mĩ và một số giá trị tham khảo đối với Việt
Nam, tr 13-14.
4

7


1.1.1.2 Vai trị của báo chí đối với đời sống xã hội ở Việt Nam


Vai trị của báo chí đối với việc duy trì quyền lực nhà nước của giai

cấp cầm quyền
Báo chí là cơng cụ để tun truyền tư tưởng, chủ trương đường lối chính sách của
Đảng và nhà nước. Có thể nói sự xuất hiện của báo chí không đồng thời hoặc không gần
với giai cấp và cũng khơng phải chỉ vì để bảo vệ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Nhưng bất cứ một giai cấp nào, ở một nhà nước nào khi ra đời đều nhận thức được vai trò
hết sức quan trọng của báo chí trong việc duy trì và củng cố quyền lực của giai cấp mình.
Thơng qua báo chí, nhà nước thể hiện thái độ quan điểm và những chính sách của mình

trong quan hệ đối nội, đối ngoại, những chính sách về kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo
dục. Báo chí không chỉ đơn thuần là một công cụ cung cấp thơng tin cho mọi người mà
nó cịn có khả năng tuyên truyền, giáo dục sâu rộng những quan điểm, chính sách đó cho
tồn xã hội, góp phần trang bị những tri thức cần thiết làm cơ sở cho việc hình thành lập
trường và thái độ chính trị trong nhân dân.
Báo chí thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội, giúp nhà nước nắm bắt được những
tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Các Mác đã từng nói rằng: “Báo chí chính là trái tim,
là đơi mắt, là tinh thần của nhân dân, của xã hội. Thơng qua báo chí, nhân dân, xã hội nói
lên được sự thật, cái đúng sai, tốt xấu của cuộc đời”5. Đảng và nhà nước ta cũng nhận
thức rõ điều này. Một đại biểu Quốc hội khóa XII, GS.TS Nguyễn Minh Thuyết đã từng
phát biểu rằng: “Đối với tất cả mọi người, trong đó có các đại biểu Quốc hội, báo chí là
một nguồn thơng tin hết sức quan trọng. Quan trọng đến mức tôi không tưởng tượng
được mình sẽ sống và làm việc như thế nào nếu thiếu sự giúp đỡ của báo chí… Báo chí
là một kho thơng tin khổng lồ giúp chúng ta có cái nhìn đa diện về mọi lĩnh vực trong xã
hội. Chỉ cần tổng hợp tin tức trên báo chí, ĐBQH đã có thể đặt ra những vấn đề hết sức
nghiêm túc về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phịng... Qua báo chí, chúng tơi

5

Các Mác tồn tập. NXB Chính Trị Quốc Gia 1995 Tập I, trang 100

8


cũng biết nhiều hơn về tâm tư, nguyện vọng của người dân cả nước, đồng thời gửi đến cử
tri những thông tin về hoạt động của Quốc hội và ý kiến của mình với tư cách đại diện”6.
Báo chí thực hiện nhiệm vụ giám sát xã hội, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước cũng như của quần chúng nhân dân. Khơng phải ngẫu nhiên, báo chí phương Tây
được các học giả coi là “nhánh quyền lực thứ tư” sau quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhưng lại giám sát cả ba nhánh quyền này. Là thiết chế đối trọng với ba nhánh

quyền lực truyền thống, báo chí có vai trị kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan
cơng quyền7. Đặc biệt báo chí là “mũi nhọn”, là vũ khí đắc lực nhất trong cuộc chiến đấu
chống tham nhũng gian nan của Đảng, nhà nước và nhân dân ta. Báo chí thức tỉnh cả dân
tộc, làm cho các vị lãnh đạo biết đầy đủ hơn về tình hình đất nước. Trước tình trạng tham
nhũng, lãng phí như hiện nay, khi mà các vị lãnh đạo của chúng ta cũng phải thừa nhận
tham nhũng, lãng phí đã trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của đất nước thì mới thấy rõ
hơn vai trị của báo chí. Bên cạnh đó báo chí cũng là cánh tay đắc lực của cơ quan nhà
nước trong việc phát hiện những vi phạm pháp luật giúp các cơ quan chức năng kịp thời
ngăn chặn, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích của nhân dân.


Vai trị của báo chí đối với kinh tế

Báo chí là động lực phát triển kinh tế của đất nước. Một đất nước có nền báo chí
phát triển thì tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng hơn.
Trước hết là hoạt động quản lý về kinh tế của cơ quan nhà nước thơng qua báo chí
mà nhanh chóng nắm bắt những yêu cầu của sự phát triển kinh tế và có những chính sách
kịp thời, đúng đắn tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.
Đồng thời báo chí phát hiện, đề xuất với Đảng, Nhà nước những khó khăn, bất cập,
vướng mắc cần tháo gỡ. Báo chí cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của cơng dân vì trong sản xuất kinh doanh thơng tin là một điều kiện vơ cùng quan
trọng. Báo chí vốn là nơi tốt nhất để doanh nghiệp và người tiêu dùng “gặp nhau” trên

6

/>TS. Vũ Văn Nhiêm, Đề tài NCKH Quyền tự do báo chí ở Mĩ và một số giá trị tham khảo đối với Việt
Nam, tr20
7

9



con đường tìm kiếm thơng tin. Doanh nghiệp cần báo chí tuyên truyền cho phong trào
đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, sáng tạo, năng động làm giàu cho gia đình, tập thể và đất
nước. Báo chí cịn có vai trị quan trọng trong việc cung cấp, trao đổi thông tin kinh tế
giúp doanh nghiệp tận dụng mọi thời cơ, thế mạnh để làm ăn; dự báo, cảnh báo những
khó khăn, thách thức, tai họa cần phải vượt qua hay né tránh. Khi các nhà kinh doanh
nắm bắt được những thông tin về kinh tế, nhu cầu của thị trường một cách nhanh chóng
họ sẽ có những chính sách đúng đắn và kịp thời cho hoạt động kinh doanh của mình đạt
được hiệu quả cao nhất. Người tiêu dùng thông qua báo chí để biết được nhiều thơng tin
về các sản phẩm và tìm được những sản phẩm tốt nhất cho mình. Và cũng nhờ vậy mà
các sản phẩm của các nhà sản xuất đến được với người tiêu dùng một cách nhanh nhất.
Trong việc thu hút đầu tư nước ngoài thì báo chí cũng đóng một vai trị vơ cùng
quan trọng bởi khi đầu tư vào một đất nước nào đó thì nhà đầu tư ln muốn nắm bắt đầy
đủ những thơng tin về tình hình kinh tế chính trị xã hội của quốc gia đó và chỉ có báo chí
mới có thể làm được điều đó. Vì vậy những đất nước có nền báo chí phát triển mạnh,
cung cấp đầy đủ thông tin cũng là “mảnh đất lành” thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư nước
ngoài, đây là nguồn vốn vô cùng quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường và xu thế tồn cầu hố như hiện nay thì vai trị của báo
chí đối với sự phát triển của kinh tế càng được khẳng định hơn.


Vai trò của báo chí trong việc nâng cao trình độ dân trí của nhân

dân
Nâng cao dân trí trong đó có trình độ chính trị, dân trí pháp lý, khoa học, kỹ thuật,
thẩm mỹ... cần phải có cái gốc là tri thức. Mà muốn có tri thức thì trước hết cần phải có
thơng tin. Thông tin đến được với người dân thông qua nhiều phương tiện: giáo dục trong
trường học, đọc sách vở... và báo chí là một trong những phương tiện, cơng cụ truyền tải
thông tin nhanh nhất đến với người dân. Đó là một kênh thơng tin quan trọng mà nhà

nước nào cũng hết sức quan tâm sử dụng. Đối với người dân, việc tiếp cận thơng tin trên
báo chí giúp họ nắm bắt được tình hình xã hội, từ đó nâng cao nhận thức cũng như trình
độ văn hóa. Ngay cả những người dân vùng sâu vùng xa, khơng có điều kiện đến lớp học
10


nhưng có thể nghe đài, xem ti vi để cập nhật thơng tin, biết trồng cây gì, ni con gì có
hiệu quả kinh tế... Nhờ có báo chí, thơng tin đến với người dân như cơm ăn nước uống
hàng ngày, từng giờ, từng phút giúp họ bắt nhịp với cuộc sống, theo kịp với sự phát triển
của xã hội. Đó là phương tiện định hướng tuyên truyền, giáo dục mà khơng ai thay thế
được, khơng một phương tiện nào có thể sánh bằng.
1.1.2 Cơ sở lý luận của quyền tự do báo chí
1.1.2.1 Quyền tự do báo chí là một quyền tự nhiên của con người
Quyền tự do báo chí là một quyền tự do cơ bản của công dân thơng qua các loại
hình báo chí là báo in, báo hình, báo nói và báo điện tử tự do truyền đạt thông tin, bày tỏ
những quan điểm cá nhân về các vấn đề chính trị, xã hội và các vấn đề khác trong đời
sống chung của cộng đồng xã hội cũng như tự do tiếp nhận các thông tin từ các loại hình
báo chí đó, được nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật và bảo đảm thực hiện.
Cũng như các quyền con người khác, quyền tự do báo chí là một quyền tự nhiên của
con người. Sở dĩ nó phải được xem là một quyền tự nhiên như vậy là vì quyền tự do báo
chí gắn liền với nhu cầu thông tin – giao tiếp của con người, đó là nhu cầu cơ bản, thiết
yếu nhất của mỗi con người để tồn tại và phát triển trong xã hội. Con người sinh ra tự
nhiên đã có quyền, không phải do nhà nước ban phát cho công dân của mình, nhà nước
có nghĩa vụ ghi nhận và bảo đảm cho mọi công dân được thực hiện quyền này trên thực
tế một cách tốt nhất. Song khi chưa được nhà nước ghi nhận thì quyền tự nhiên chưa trở
thành quyền mà con người giành được với tư cách là một thành viên của xã hội. Chúng ta
đang sống trong một xã hội có nhà nước và pháp luật, quyền tự do báo chí cũng như các
quyền khác, phải được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật với những giới hạn nhất
định. Điều đó khơng có nghĩa là nhà nước đang vi phạm quyền tự nhiên của con người
mà ngược lại nó giúp cho việc thực hiện quyền tự do báo chí của cơng dân trên thực tế

mang tính khả thi hơn.
Tự do báo chí – Quyền cơ bản của con người là một vấn đề có tính lịch sử lâu đời
cả về lý luận và thực tiễn. Mỗi bước phát triển của quyền này gắn liền với sự phát triển
11


của các quyền con người và sự phát triển giao lưu mọi mặt giữa các quốc gia, dân tộc.
Ngày nay, trong các quyền con người, quyền tự do báo chí thuộc nhóm quyền dân sự
(quyền tự do cá nhân) và được Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận
là một quyền cơ bản của công dân và tạo ra một cơ chế để bảo đảm thực hiện trên thực tế,
trong đó có Việt Nam.
1.1.2.2 Mối quan hệ của quyền tự do báo chí với một số quyền cơng dân khác
Quyền tự do báo chí có mối quan hệ với tất cả các quyền công dân khác, việc đảm
bảo thực hiện quyền tự do báo chí sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới việc thực hiện
các quyền công dân khác bởi để thực hiện tốt bất cứ một quyền công dân nào điều quan
trọng trước hết là cơng dân cần phải có thơng tin. Để thực hiện tốt quyền chính trị thì
cơng dân cần có thơng tin về chính trị, để thực hiện tốt các quyền về kinh tế văn hố xã
hội thì cần phải nắm được thơng tin về kinh tế, văn hố, xã hội... Mặt khác, quyền tự do
báo chí cũng là một công cụ giúp công dân bảo vệ các quyền khác của mình tốt nhất bởi
thơng qua báo chí cơng dân có thể tố cáo những hành vi vi phạm từ phía nhà nước, từ
phía cơng dân khác và u cầu được bảo vệ một cách tốt nhất.
Đặc biệt quyền tự do báo chí có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các quyền tự do
ngôn luận, quyền được thơng tin, và quyền được bảo đảm bí mật đời tư của cơng dân. Vì
như chúng ta đã phân tích thì quyền tự do báo chí chính là một hình thức biểu hiện của
quyền tự do ngôn luận, quyền thông tin của cơng dân, nó là phương tiện là cơng cụ hữu
hiệu để công dân bày tỏ quan điểm của mình, trao đổi thơng tin với nhau. Quyền tự do
ngơn luận là quyền được tự do bày tỏ những quan điểm, ý kiến của mỗi cá nhân, nó có
thể được thực hiện thơng qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó báo chí là một hình
thức hữu hiệu nhất vì báo chí có sức ảnh hưởng trên một phạm vi rộng lớn nhất so với
các hình thức khác, nó có thể lan toả trên toàn thế giới. Đối với quyền tự do thơng tin

cũng vậy, báo chí là một phương tiện chứa đựng một khối lượng thông tin khổng lồ trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, bởi vậy liệu có thể nói cơng dân có quyền tự do thơng tin
khơng khi cơng dân khơng có quyền tự do báo chí?

12


Ngược lại việc bảo đảm thực hiện tốt các quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin
sẽ là cơ sở để thực hiện quyền tự do báo chí. Bởi quyền tự báo chí được thể hiện là tự do
truyền đạt thông tin, bày tỏ những quan điểm cá nhân về các vấn đề chính trị, xã hội và
các vấn đề khác trong đời sống chung của cộng đồng xã hội cũng như tự do tiếp nhận các
thông tin từ báo chí. Cơng dân phải có quyền tự do ngơn luận, tự do thơng tin thì mới có
thể thực hiện được quyền tự do báo chí của mình.
1.1.2.3 Mối quan hệ giữa quyền tự do báo chí đối và sự phát triển báo chí
Báo chí có vai trị rất quan trọng đối với đời sống xã hội nhưng báo chí chỉ có thể
phát huy được những vai trị đó khi nó ở trong một nhà nước mà ở đó cơng dân có quyền
tự do báo chí.
Thực tế, báo chí chỉ là một trong những công cụ, một phương tiện để đưa những
thông tin đến với mọi người, để mọi người trao đổi thơng tin với nhau. Vì vậy mà chỉ
trong một xã hội mà cơng dân có quyền tự do ngôn luận, tự do bàn bạc trao đổi thông tin,
tự do tiếp cận thông tin và họ được tự do thực hiện những quyền đó thơng qua hình thức
báo chí thì báo chí mới thực sự có ý nghĩa, và sự phát triển của báo chí mới thực sự cần
thiết đối với đời sống xã hội. Nếu trong một nhà nước mà cơng dân khơng có quyền tự do
báo chí thì lúc này báo chí chỉ là một cơng cụ của giai cấp cầm quyền để đàn áp, cai trị
nhân dân và chỉ có ý nghĩa đối với giai cấp cầm quyền, đối với mục đích chính trị của
giai cấp đó mà thơi. Nếu vậy thì báo chí cũng khơng cịn đúng nghĩa là báo chí và ở đó
cũng khơng bao giờ có một nền báo chí phát triển cả. Quyền tự do báo chí của cơng dân
được đảm bảo thì hoạt động báo chí sẽ mạnh mẽ hơn thúc đẩy báo chí phát triển và
ngược lại.
Quyền tự do báo chí sẽ là sự đảm bảo cho báo chí độc lập đối với các thiết chế

quyền lực, bảo đảm báo chí thốt ly mọi sự cấm đốn, hạn chế, ràng buộc. Báo chí được
tự do phản ánh các vấn đề chính trị, xã hội ở mọi phương diện, mọi chiều hướng đưa đến
nhiều thông tin ý nghĩa cho người đọc mà không bị kiểm duyệt trước khi phát hành. Và
người đọc khơng ai khác là nhân dân có quyền tiếp cận với mọi thơng tin trên báo chí, có
thể tìm đọc mọi thơng tin mình muốn biết mà khơng bị cấm đoán, ngăn chặn từ bất cứ
13


chủ thể nào. Nhưng quyền tự do báo chí cũng như những quyền tự do khác cần phải được
xem xét trong mối quan hệ với nhà nước và pháp luật, với các quy luật tất yếu của xã hội
và sự phát triển của xã hội trong từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử cụ thể8.
1.2 Cơ sở pháp lý của quyền tự do báo chí ở Việt Nam
1.2.1 Sự cần thiết phải ghi nhận quyền tự do báo chí trong các văn bản pháp luật
1.2.1.1 Ghi nhận quyền tự do báo chí sẽ bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích cơng
cộng và quyền, lợi ích của mỗi cơng dân
Cá nhân con người khơng thể sống ngồi xã hội mà phải liên kết với nhau để tạo
nên một xã hội chung. Mac - Lênin đã từng nói: “Sống trong xã hội và thoát li khỏi xã
hội là điều khơng thể được”. Cũng chính vì thế, tự do của cá nhân khơng thể là tuyệt đối
mà có những giới hạn nhất định, sự giới hạn đó cũng chính là để bảo đảm tự do của người
khác. Điều 29 trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (năm 1948) khẳng định: “Mỗi
người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng... trong khi thụ hưởng các quyền và tự
do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm
việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền và tự do của những người khác và phù hợp
với những địi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một
xã hội dân chủ”9. Tại Công ước về các quyền dân sự - chính trị (năm 1966) được hơn 150
quốc gia tán thành và phê chuẩn, hàng loạt các quyền dân sự, chính trị như quyền tự do đi
lại, lựa chọn nơi cư trú, quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tơn giáo, quyền tự do ngơn
luận, báo chí, quyền tự do lập hội, quyền hội họp hịa bình... đều là các quyền bị hạn chế
và sự hạn chế đó phải do pháp luật quy định. Việc hạn chế quyền tự do của công dân là
nhằm để bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia, an tồn và trật tự cơng cộng và bảo vệ quyền và

tự do của cơng dân khác.
Quyền tự do báo chí của công dân cũng như các quyền tự do cá nhân khác, cũng là
một quyền tự do có giới hạn, cơng dân thực hiện quyền tự do báo chí của mình cần phải
thực hiện trong một giới hạn nhất định. Nếu tự do báo chí khơng có một giới hạn cụ thể
8
9

Học viện báo chí và tuyên truyền, Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lý luận chính trị, tr63.
Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Nxb CTQG, H. 2002, tr.34.

14


thì có thể cơng dân sẽ lợi dụng đó để chống phá nhà nước, gây bất ổn chính trị, đưa
những tin xấu ảnh hưởng đến danh dự nhân phẩm của người khác, xâm phạm đến bí mật
đời tư của người khác. Như vậy tự do báo chí khơng giới hạn sẽ làm ảnh hưởng đến lợi
ích của nhà nước, lợi ích công cộng và của công dân khác. Trong nhà nước pháp quyền
thì việc giới hạn quyền tự do báo chí cũng như các quyền tự do khác chỉ có thể dùng Hiến
pháp và luật để ghi nhận, và chỉ có pháp luật mới có thể là giới hạn của tự do. Công dân
sống trong một nhà nước cụ thể thì khơng thể có tự do ngồi pháp luật, “tự do là quyền
được làm tất cả những gì mà luật khơng cấm”10. Nếu cơng dân thực hiện quyền của mình
vượt quá giới hạn cho phép, lợi dụng quyền tự do báo chí để chống phá nhà nước hoặc
bơi nhọ danh dự, nhân phẩm, xâm phạm bí mật đời tư của người khác thì nhà nước sẽ có
cơ sở để thực hiện những biện pháp xử lý nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công
cộng và của công dân khác.
Việc ghi nhận quyền tự do báo chí của cơng dân ngồi việc bảo vệ lợi nhà nước và
các chủ thể khác cịn nhằm bảo vệ các quyền cơng dân khác của chính cơng dân đó đã
được pháp luật quy định. Như đã phân tích ở trên thì quyền tự do báo chí có mối quan hệ
và ảnh hưởng tới tất cả các quyền công dân. Nếu quyền tự do báo chí được bảo vệ tốt thì
sẽ giúp cơng dân thực hiện tốt các quyền công dân khác của mình.

1.2.1.2 Pháp luật ghi nhận quyền tự do báo chí của cơng dân để cụ thể hố các
điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập
Hai văn bản quan trọng nhất về Quyền con người của thế giới là: Tun ngơn tồn
thế giới về quyền con người của LHQ năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền chính
trị, dân sự và Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Trong
cả hai cơng ước này tuy đều khơng nói rõ về quyền tự do báo chí của công dân nhưng
thông qua những quy định về quyền tự do ngôn luận chúng ta thấy được sự thừa nhận
quyền tự do báo chí của cơng dân.

10

Montesquieu, Tinh thần pháp luật, NXB Hà Nội 1996, Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, Tr 105.

15


Điều 19, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 quy định: “Mọi người đều
có quyền tự do ngơn luận và bày tỏ quan điểm; kể cả tự do bảo lưu ý kiến không phụ
thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận, truyền bá thông tin
và ý kiến bằng bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào và không giới hạn về biên
giới”.
Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng có quy
định: “1)Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà khơng bị ai can thiệp. 2) Mọi
người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm
kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm,
dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên
giới quốc gia. 3) Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên)
địi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể
bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a/ Tơn trọng những quyền tự do và thanh danh của
người khác; b/ Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo

lý.”
Đa số các nước, trong đó có Nhà nước Việt Nam đều đã gia nhập các công ước
quốc tế đó, như vậy khi những cơng ước này ghi nhận quyền tự do báo chí thì các quốc
gia cũng có nghĩa vụ phải ghi nhận và hiện thực hóa quyền tự do báo chí trong thực tế
một cách đầy đủ. Điều này có nghĩa rằng: các nước có nghĩa vụ tôn trọng, không can
thiệp vào việc cá nhân hưởng thụ quyền tự do báo chí của mình. Nhà nước phải ngăn
chặn và phòng ngừa sự vi phạm quyền tự do báo chí từ các bên thứ ba, phải chủ động
thực hiện các kế hoạch bảo đảm cho mọi công dân có thể hưởng thụ cao nhất quyền tự do
báo chí. Tuy nhiên chúng ta không thể áp dụng trực tiếp các văn bản pháp luật quốc tế
vào việc thực hiện quyền tự do báo chí ở trong nước mà địi hỏi mỗi quốc gia có nghĩa vụ
“nội luật hố” các cơng ước đó. Để thực hiện nghĩa vụ đó nhà nước cần phải xây dựng
các văn bản pháp luật để ghi nhận quyền tự do báo chí của cơng dân.

16


1.2.2 Cơ sở pháp lý của quyền tự do báo chí


Quyền tự do báo chí được ghi nhận trong Hiến pháp

Trong hệ thống pháp luật của một nhà nước thì Hiến pháp là văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất ghi nhận những vấn đề quan trọng nhất của một quốc gia trong đó có
quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân, quyền tự do báo chí là một trong những quyền
đó. Lịch sử lập hiến của nước ta đã trải qua bốn bản Hiến pháp, trong tất cả các bản Hiến
pháp đó, quyền và nghĩa vụ của cơng dân nói chung, quyền tự do báo chí nói riêng đã
luôn được ghi nhận và càng về sau càng được mở rộng hơn. Đến nay, trong Hiến pháp
1992 (sửa đổi bổi sung năm 2001) thì quyền nghĩa vụ của công dân đã lên đến 34 điều
với nhiều quyền hơn so với các bản Hiến pháp trước, được quy định trong chương V –
Chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Quyền tự do báo chí với vai trị là một

quyền con người, quyền cơng dân tiếp tục được ghi nhận tại điều 69: “Cơng dân có quyền
tự do ngơn luận, tự do báo chí, có quyền được thơng tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu
tình theo quy định của pháp luật”.
Quyền tự do báo chí được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp chứng minh cho
sự quan trọng của nó. Trong hoạt động của cơ quan nhà nước ta thường đề ra chủ trương
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhằm thực hiện quyền làm chủ đất nước của
nhân dân, tuy nhiên chủ trương đó sẽ là giáo điều, khơng thực hiện được nếu nhà nước
không ghi nhận và phát triển quyền tự do báo chí như một quyền cơ bản của cơng dân
trong Hiến pháp, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất của một quốc gia.


Quyền tự do báo chí được ghi nhận trong các văn bản pháp luật

khác
Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật
nhưng việc ghi nhận các quyền tự do báo chí chỉ mang tính ngun tắc, chung chung vì
vậy để có thể thực hiện được các quyền tự do báo chí trên thực tế thì nhà nước cần phải
cụ thể hóa quyền tự do báo chí trong các văn bản pháp luật.

17


Sớm nhận thức được vai trị của báo chí đối với sự phát triển của đất nước nên
Quốc hội đã ban hành Luật Báo chí 1989 được sửa đổi bổ sung bởi Luật số
12/1998/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí khẳng định lại quyền tự do
báo chí của cơng dân tại điều 2: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai
trị của mình. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khn khổ pháp luật và được Nhà nước
bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt
động. Khơng ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí

để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và cơng dân. Báo chí khơng bị kiểm duyệt
trước khi in, phát sóng”. Và trong điều 4 củ a luật nà y tiếp tục ghi nh ận quyền tự
do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân. “Cơng dân có quyền: 1Được thơng tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ; 2- Tiếp xúc,
cung cấp thơng tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác
cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nội dung thơng tin; 3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế
giới; 4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương,chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; 5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên
báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên
của các tổ chức đó.”
Ngồi ra quyền tự do báo chí của cơng dân còn được ghi nhận trong Bộ luật dân sự
2005, Bộ luật hình sự hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.
Như vậy, quyền tự do báo chí của công dân ở nước ta được ghi nhận trong rất nhiều
văn bản pháp luật, đặc biệt là trong Hiến pháp, tạo một cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
thực hiện quyền này trên thực tế.

18


CHƢƠNG II: NHỮNG BẢO ĐẢM CHO VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN
TỰ DO BÁO CHÍ TRÊN THỰC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Quyền tự do báo chí được ghi nhận trong các văn bản pháp lý, tạo điều kiện để thực
hiện trên thực tế. Song nếu chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật thì quyền này
cũng chỉ mới ở dạng tiềm năng. Một nhà nước tiến bộ không chỉ quan tâm đến việc ghi
nhận quyền tự do báo chí trong các quy phạm pháp luật mà quan trọng hơn là phải làm
sao để bảo đảm quyền tự do báo chí được thực hiện một cách đầy đủ nhất trên thực tế.
Bảo đảm quyền tự do báo chí khơng chỉ dừng lại ở việc bảo đảm cho mọi công dân đều
được tự do tiếp xúc với báo chí, làm báo, đọc báo mà còn phải đảm bảo việc thực hiện
quyền tự do đó khơng làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, lợi ích
công công và lợi ích của cơng dân khác. Đây là u cầu bức thiết và cũng là thách thức

lớn cho nhà nước và mọi cơng dân. Từ các yếu tố có thể chi phối tới quyền tự do báo chí,
nhà nước ta hiện nay cũng có một hệ thống bảo đảm tương ứng gồm có bảo đảm chính
trị, bảo đảm kinh tế, bảo đảm pháp lý, và các bảo đảm xã hội khác.. .
2.1 Bảo đảm về chính trị
Bảo đảm chính trị được xem như một hàng rào bảo vệ cho các quyền hiến định
trong đó có quyền tự do báo chí của cơng dân. Nếu đường lối chính trị của một quốc gia
được ghi nhận một cách đúng đắn, giữ vững lập trường, tự tin, sáng tạo thì sẽ giúp đất
nước phát triển. Mặt khác khi đảm bảo cho công dân quyền tự do báo chí đồng nghĩa với
việc có thể khẳng định sự tự tin về mặt chính trị của nhà nước ta, tin tưởng vào khả năng
lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước và gây dựng được lịng tin của nhân dân vì một
chế độ dân chủ, tự do và hạnh phúc.
2.1.1 Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước đối với hoạt động báo chí
Quyền tự do báo chí của cơng dân trong một nhà nước ln phụ thuộc vào ý chí của
giai cấp cầm quyền và ở nước ta cũng vậy. Để quyền tự do báo chí của mình được đảm
bảo thực hiện thì quyền đó phải phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền ở Việt Nam

19


mà Đảng Cộng sản là đại diện. Vì vậy sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là cần thiết
để bảo đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam.
Đảng và nhà nước ln khẳng định báo chí ở nước ta là báo chí cách mạng. Quyền
tự do báo chí ở nước ta là tự do thơng tin, tự do ngơn luận, tự do báo chí đúng pháp luật
nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Là tự do truyền bá chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng, tự do cổ vũ sự nghiệp
đổi mới, CNH - HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ cơng
bằng văn minh, củng cố khối đồn kết dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân tộc để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; tự do thực hiện đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa dạng hóa, đa phương hố theo chủ trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của tất cả các nước, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”; tự do đấu tranh
chống lại các thế lực phản động trong và ngoài nước để bảo vệ chế độ và nhân dân. Nói

cách khác, tự do nhất cho báo chí chúng ta là tự do phục vụ sự nghiệp cách mạng của
Đảng và của dân tộc. Đó là sứ mệnh cao cả và vinh quang nhất của mỗi nhà báo và nhân
dân Việt Nam.
Cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng thể hiện trên trận tuyến báo chí, dù thời chiến
hay thời bình ln gay go, phức tạp. Ở giai đoạn hiện nay, tính chất đó cịn cao hơn so
với trước. Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và xu hướng
tồn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc, tạo ra nhiều cơ hội và cả những thách
thức. Cách thức thu nhận, trao đổi thông tin (mạng internet, các website, các blog cá
nhân; sự tương tác nhiều chiều trong thông tin), các trào lưu, khuynh hướng tư tưởng xâm
nhập, tác động vào nước ta ngày càng mạnh mẽ. Các thế lực cơ hội, phản động, thù địch
tăng cường chống phá ta trên nhiều mặt, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hố,
báo chí; thực hiện âm mưu "Diễn biến hồ bình" ngày càng thâm độc, nham hiểm hơn...
Trước tình hình đó, để đảm bảo hoạt động báo chí đi đúng hướng, phục vụ cho công
cuộc xây dựng đất nước, đảm bảo thực hiện quyền tự do báo chí của cơng dân thì việc
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là rất quan trọng. Đảng lãnh đạo báo chí
bằng việc đề ra nghị quyết, chỉ thị, định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống
20


×