Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Vấn đề bảo đảm quyền học tập của công dân ở việt nam trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.4 KB, 86 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN THỊ HỊA
MSSV: 0855040028

VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO QUYỀN HỌC TẬP CỦA CÔNG DÂN Ở
VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2008 – 2012

GVHD: Ths. Vũ Thị Bích Hường

TP.HCM – Năm 2012


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU:
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN HỌC TẬP CỦA
CÔNG DÂN:...........................................................................................1
1.1 Khái quát về quyền học tập của công dân ......................................................... 1
1.1.1 Khái niệm quyền học tập của công dân ............................................................ 1
1.1.2 Ý nghĩa của học tập, quyền học tập của công dân đối với sự phát triển
của cá nhân và xã hội ........................................................................................ 3
1.1.3 Những yêu cầu của quyền học tập của công dân trong nền kinh tế thị trường . 7
1.2 Cơ sở pháp lý về quyền học tập của công dân .................................................. 11
1.2.1 Quyền học tập của công dân được ghi nhận trong văn bản pháp luật quốc tế .. 11
1.2.2 Quyền học tập của công dân được ghi nhận qua các bản Hiến pháp ................ 13
1.2.3 Quyền học tập của công dân được ghi nhận qua các văn bản pháp luật khác .. 16


CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐẢM BẢO CHO VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HỌC TẬP
CỦA CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG,
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ: .............................................................18
2.1 Những đảm bảo cho việc thực hiện quyền học tập của công dân ở Việt Nam
trong nền kinh tế thị trƣờng và những tồn tại........................................................ 18
2.1.1 Đảm bảo về chính trị ....................................................................................... 19
2.1.1.1 Ý nghĩa của việc đảm bảo về chính trị cho việc thực hiện quyền học tập của
công dân trong nền kinh tế thị trường ......................................................................... 19
2.1.1.2 Yêu cầu của việc đảm bảo về chính trị cho việc thực hiện quyền học tập của
công dân ...................................................................................................................... 20
2.1.1.3 Thực trạng đảm bảo về chính trị .................................................................... 22
2.1.2 Đảm bảo về kinh tế ........................................................................................... 26


2.1.2.1 Ý nghĩa của việc đảm bảo về kinh tế cho việc thực hiện quyền học tập ....... 26
2.1.2.2 Yêu cầu của việc đảm bảo về kinh tế cho việc thực hiện quyền học tập` .... 28
2.1.2.3 Thực trạng đảm bảo về kinh tế ....................................................................... 30
2.1.3 Đảm bảo về pháp lý .......................................................................................... 47
2.1.3.1 Ý nghĩa của việc đảm bảo về pháp lý cho việc thực hiện quyền học tập ..... 47
2.1.3.2 Yêu cầu của việc đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện quyền học tập của công
dân ............................................................................................................................... 48
2.1.3.3 Thực trạng đảm bảo về pháp lý ...................................................................... 49
2.1.4 Đảm bảo về môi trƣờng xã hội ........................................................................ 58
2.1.4.1 Ý nghĩa của việc đảm bảo về môi trường xã hội cho việc thực hiện quyền học
tập ................................................................................................................................ 58
2.1.4.2 Yêu cầu đảm bảo về môi trường xã hội cho việc thực hiện quyền học tập .. 59
2.1.4.3 Thực trạng đảm bảo về môi trường xã hội ..................................................... 61
2.2 Những kiến nghị nhằm tăng cƣờng các đảm bảo cho việc thực hiện quyền học
tập của công dân ở Việt Nam hiện nay .................................................................... 65
2.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền học tập làm cơ sở pháp lý để công dân

thực hiện quyền học tập của mình............................................................................... 65
2.2.2 Phát triển và tăng cường hơn nữa các điều kiện cần thiết đảm bảo quyền học tập
của công dân ................................................................................................................ 67
2.2.3 Nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật của người dân, đặc biệt là vùng dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa trong việc đảm bảo quyền học tập cho công dân ........... 70
2.2.4 Những kiến nghị khác nhằm đảm bảo quyền học tập của công dân ................. 71

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Hiến pháp 1946:

Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946

Hiến pháp 1959:

Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959

Hiến pháp 1980:

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1980

Hiến pháp 1992:

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011)


UDHR:

Tun ngơn của tồn thế giới về nhân quyền năm 1948

ICESCR:

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
năm 1966

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

NCL:

Ngồi cơng lập

HS, SV:

Học sinh, sinh viên

ĐH, CĐ:

Đại học, cao đẳng

NQ, QĐ:

Nghị quyết, Quyết định


HTSĐ:

Học tập suốt đời

TP.HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỉ XXI, thế kỉ của nền kinh tế tri thức, sự thay đổi nhanh chóng về cơ cấu
kinh tế, sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ, yêu cầu của phát triển kinh tế
đòi hỏi cá nhân con người phải luôn luôn cập nhật kiến thức, kĩ năng trong nhiều lĩnh
vực để phù hợp với sự tiến bộ của nhân loại. Và học tập là con đường nhanh nhất để
đáp ứng u cầu đó, vươn tới những gì tốt đẹp nhất cho bản thân và xã hội. Học tập là
“chìa khóa” để đi đến thành cơng, là yếu tố khơng thể thiếu để “nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Về mặt xã hội, học tập là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu
thiết yếu để con người tồn tại và phát triển. Nhu cầu ấy càng bức thiết hơn bao giờ hết
khi chúng ta đang trong q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xu thế hội
nhập quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nguồn lực con người ln giữ vị trí trung
tâm, nhất là con người có tri thức, có trình độ chuyên môn.
Nhận thức được tầm quan trọng của học tập, Đảng và Nhà nước ta luôn coi “giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, luôn tạo mọi điều kiện để công dân được học
tập. Một trong các điều kiện cần thiết là Đảng và Nhà nước đã ghi nhận quyền học tập
của công dân vào trong các bản Hiến pháp và cụ thể hóa trong các văn bản pháp lý
khác. Việc ghi nhận này là rất cần thiết, phù hợp với các cam kết quốc tế mà chúng ta
gia nhập, là cơ sở pháp lý vững chắc để cơng dân thực hiện quyền học tập của mình.
Tuy nhiên quyền học tập chỉ thực sự có ý nghĩa và mang lại giá trị đầy đủ nhất khi nó

được đảm bảo thực hiện trên thực tế chứ không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận trong các
văn bản mà thôi. Việc quốc gia không ghi nhận quyền học tập hay chỉ ghi nhận một
cách hình thức là biểu hiện của việc vi phạm quyền con người bởi quyền học tập là một
trong các quyền con người cơ bản nhất.


Kể từ khi nước ta tiến hành đổi mới, cả nước tiến lên xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN, Nhà nước khơng cịn bao cấp trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó có vấn đề học tập. Cùng với đó là mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác
động không nhỏ đến quyền học tập của cơng dân. Vẫn cịn tồn tại tình trạng vi phạm
quyền học tập; các điều kiện cần thiết để cơng dân được thực hiện quyền học tập cịn
nhiều hạn chế và bất cập; nhiều nơi công dân chưa được thụ hưởng quyền học tập của
mình một cách có chất lượng và hiệu quả nhất…
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu những biện pháp đảm bảo cho việc thực hiện
quyền học tập của công dân là cần thiết. Do đó, tác giả chọn đề tài: “Vấn đề đảm bảo
quyền học tập của công dân ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trƣờng” làm đề tài
khóa luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của tác giả tập trung chủ yếu vào hai mục đích chính sau đây:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận, ý nghĩa của quyền học tập của công dân
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Hai là, tìm hiểu một số biện pháp đang được Đảng và Nhà nước ta thực hiện để
đảm bảo quyền học tập của cơng dân. Qua đó thấy được những thành tựu cũng như hạn
chế của từng biện pháp và đặt ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống các biện
pháp đảm bảo quyền học tập của công dân ở nước ta để công dân thực hiện quyền này
một cách đầy đủ và hiệu quả nhất, góp phần bảo vệ quyền công dân, quyền con người,
đưa nước ta theo kịp sự phát triển không ngừng của nền kinh tế tri thức trên thế giới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ tính chất của việc nghiên cứu là nhằm hồn thiện hệ thống các biện
pháp đảm bảo cho việc thực hiện quyền học tập của công dân để giải quyết những yêu

cầu của quyền học tập của công dân trong nền kinh tế thị trường nên phạm vi nghiên


cứu của luận văn giới hạn trong việc tìm hiểu thực trạng của các biện pháp đảm bảo
quyền học tập của công dân trong nền kinh tế thị trường, bao gồm: đảm bảo về chính
trị, đảm bảo về kinh tế, đảm bảo về pháp lý, đảm bảo về môi trường xã hội. Riêng biện
pháp đảm bảo về chính trị và kinh tế, tác giả khái quát những đảm bảo trước thời kì đổi
mới để thấy được sự thay đổi tư duy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cũng như sự phát
triển về kinh tế sau thời kì đổi mới ảnh hưởng đến việc đảm bảo quyền học tập của
công dân.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngồi ra cịn sử dụng nhiều phương pháp khác như:
tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê…khi tiếp cận để làm sáng tỏ vấn đề.
5. Bố cục đề tài:
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
này gồm các phần sau:
 Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền học tập của công dân.
Ở chương này, tác giả tìm hiểu khái niệm về quyền học tập của công dân, ý nghĩa
của học tập, quyền học tập của công dân đối với sự phát triển của cá nhân và xã hội:
phần này, tác giả xem xét ý nghĩa của quyền học tập dưới các góc độ là quyền tự nhiên,
quyền xã hội. Ngồi ra tác giả tìm hiểu về các yêu cầu của quyền học tập của công dân
trong nền kinh tế thị trường.
 Chƣơng 2: Những đảm bảo cho việc thực hiện quyền học tập của công dân ở
Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, những tồn tại và kiến nghị.
Phần này, tác giả đi sâu vào việc tìm hiểu ý nghĩa, yêu cầu và việc thực hiện trên
thực tế các biện pháp đảm bảo đối với việc thực hiện quyền học tập của công dân trong
nền kinh tế thị trường, thực trạng và kiến nghị để đảm bảo quyền học tập của công dân.



Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên do nhận thức và khả năng nghiên cứu của
tác giả còn nhiều hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót.
Kính mong các thầy cơ xem xét và góp ý để đề tài được hồn thiện hơn. Nhân đây, tác
giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Cơ Vũ Thị Bích Hường, Thạc sĩ. Luật học, Giảng
viên khoa Luật Hành Chính Trường Đại học Luật Tp. HCM là người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian làm thực hiện đề tài này.


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN HỌC TẬP CỦA
CƠNG DÂN

1.1

Khái qt về quyền học tập của cơng dân:
1.1.1 Khái niệm quyền học tập của công dân.
Bản thân của mỗi người mang quốc tịch của một quốc gia nào đó thì được quốc

gia đó trao cho những quyền nhất định. Và các quyền đó được gọi là quyền công dân.
Quyền công dân là quyền mang ý nghĩa xác định, gắn liền với mỗi quốc gia. Quyền
công dân là khả năng lựa chọn hành vi của công dân mà Nhà nước bảo đảm khi công
dân yêu cầu. Quyền công dân là giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định và được
nhà nước đó bảo hộ bằng pháp luật đối với người mang quốc tịch của nước mình, thể
hiện mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với một nhà nước cụ thể1.
Quyền học tập là một bộ phận của quyền công dân. Bởi quyền cơng dân bao gồm
các quyền về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và các quyền tự do cá nhân. Trong đó
quyền học tập là một trong các quyền thuộc quyền văn hóa. Quyền học tập là một thuật

ngữ pháp lý được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp lý hiện hành. Tuy
nhiên, để nhận thức một cách sâu sắc về quyền học tập, từ đó có cơ chế bảo vệ quyền
học tập nói riêng và quyền cơng dân nói chung, ta cần hiểu được khái niệm quyền học
tập của công dân.
Trước hết, ta đi tìm hiểu về khái niệm quyền, khái niệm học tập để hiểu được đầy
đủ nhất khái niệm quyền học tập.
Quyền là những việc một người được làm mà không bị ai ngăn cản hay hạn chế2.
Còn “Học tập” Theo từ điển bách khoa toàn thư: “Học tập ở đây được hiểu là học văn
hoá và học nghề bằng các hình thức khác nhau, từ học mẫu giáo đến các cấp học phổ
1

Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam, Nxb Chính trị quốc

gia Hà Nội năm 2011, trang24.
2

Từ điển Luật học, nhà xuất bản từ điển bách khoa Hà Nội – 1999.

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

thơng, đại học, sau đại học, trung học chuyên nghiệp và học nghề”. Khái niệm này còn
hẹp, chưa thực sự đầy đủ, chưa thể hiện được bản chất của học tập. Bởi lẽ nó mới chỉ
ra các bậc học như: học mẫu giáo, các cấp học phổ thông…mà không làm rõ được vấn

đề thuộc về bản chất bên trong của “học tập”. Đó có thể là sự luyện tập, học hỏi để có
kiến thức, là lao động mà một người tiến hành nhằm mục đích chiếm lĩnh nguồn tri
thức và kĩ năng mà mọi người đã biết hoặc chưa biết và chuyển hóa chúng thành tri
thức của mình. Học tập là q trình tự biến đổi mình, làm phong phú mình một cách
bền vững bằng cách chọn nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường xung quanh để
phát triển tâm hồn, trí tuệ và nhân cách.
Quyền học tập của cơng dân theo Khái niệm tại Từ điển tiếng việt “là nghĩa vụ tự
nguyện của mỗi cá nhân, là sự bắt buộc ở bậc tiểu học, là sự bảo đảm khuyến khích
của gia đình, xã hội và nhà trường, khơng tùy thuộc vào lứa tuổi, thành phần xuất
thân, tín ngưỡng, tơn giáo, địa vị xã hội. Cả những người phạm pháp bị giam giữ cũng
được bảo đảm quyền học tập bằng những hình thức, biện pháp thích hợp. Quyền học
tập được thực hiện suốt đời. Nội dung của học tập bao gồm học văn hóa, học nghề, học
những gì có ích cho cuộc sống lương thiện. Ngăn cản, hạn chế quyền học tập của cơng
dân dù đó là ngăn cản của cha mẹ đối với con cái, của chồng đối với vợ hoặc ngược
lại là hành vi vi phạm pháp luật”3. Quyền học tập theo khái niệm này tuy đã thể hiện
tương đối đầy đủ nội dung của quyền học tập, tuy nhiên cách diễn đạt lại quá dài và
rườm rà, không làm nổi bật được bản chất của quyền học tập.
Từ việc tìm hiểu về quyền, về học tập và tham khảo khái niệm quyền học tập nêu
trên. Trong phạm vi đề tài này, tác giả xin đưa ra khái niệm quyền học tập như sau:
“Quyền học tập là quyền của mỗi cá nhân, bắt buộc ở bậc phổ cập, khơng tùy thuộc
vào lứa tuổi, giới tính, tơn giáo, thành phần xuất thân hay địa vị xã hội, được học mọi
lúc, mọi nơi, học bất cứ ngành nghề nào nhưng không trái với quy định của pháp luật,

3

Từ điển luật học, nhà xuất bản từ điển bách khoa Hà nội – 1999, trang 402.

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 2



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

học thường xun, học suốt đời mà khơng một ai có thể ngăn cản hay hạn chế và được
Nhà nước đảm bảo thực hiện”.
Qua khái niệm trên, có thể thấy quyền học tập ln gắn chặt với bản thân con
người. Nó khơng đơn thuần là việc cá nhân được quyền đi học mà rộng hơn nữa là có
quyền thụ hưởng chất lượng của quá trình học tập. Khi Nhà nước ghi nhận quyền học
tập của công dân vào Hiến pháp hay các văn bản pháp luật thì đồng thời Nhà nước đã
đặt mình vào nghĩa vụ tương ứng là đảm bảo các điều kiện cần thiết cho công dân thực
hiện quyền học tập đó một cách khơng hạn chế. Một hiến pháp hay đạo luật dù có tiến
bộ đến mấy nhưng khơng có cơ chế thực thi, khơng có các điều kiện để đảm bảo thì
cũng trở thành vơ dụng và đơi khi chính nó lại đi ngược với bản chất dân chủ của nhà
nước đã tạo ra nó.

1.1.2

Ý nghĩa của học tập, quyền học tập của công dân đối với sự phát

triển của cá nhân và xã hội.
Học tập là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu tri thức của mỗi cá nhân con người, học tập
là một đòi hỏi xã hội bởi một xã hội tiến bộ cần phải có những con người có trình độ
hiểu biết; học tập là yếu tố không thể thiếu được để con người tồn tại và phát triển. Học
tập là một trong những hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi
cá nhân cũng như cả cộng đồng.
Ý nghĩa của học tập được thể hiện trước hết là ở chỗ, học để con người có cái chữ
để đọc, để viết, để có thể tham gia vào những cơng việc đơn giản, cần thiết phục vụ cá

nhân hàng ngày như vấn đề: ăn, ở, mặc, đi lại. Học để làm việc - có nghĩa là việc học
trang bị, cung cấp cho con người những kiến thức bổ ích, các hiểu biết về khoa học, kĩ
thuật, công nghệ, kĩ năng thành thạo để tham gia một cách có hiệu quả vào nền kinh tế
và xã hội toàn cầu. Học để con người làm chủ cuộc đời mình, tạo tiền đề vững chắc
cho sự thành công trong công việc cũng như trong cuộc sống. Con người muốn làm bất

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 3


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

cứ điều gì cũng đều phải học, học tập là điều kiện, là cơ sở để làm nên mọi việc “nhân
bất học, bất tri lý”. Làm sao để một người có thể hiểu biết những gì diễn ra xung quanh
mình và sử dụng lượng kiến thức thu nhận được để tác động có hiệu quả vào thực tiễn?
Cách duy nhất là học và cập nhật kiến thức suốt đời. Học để làm ngƣời - có nghĩa là
việc học cung cấp cho con người những khả năng tự phân tích và kỹ năng xã hội để
giúp các cá nhân phát huy đầy đủ nhất tiềm năng của mình về mặt tâm lý và xã hội, về
tình cảm cũng như thể chất, học sẽ giúp cho bản thân con người tu dưỡng đạo đức,
nhân cách và có lối sống lành mạnh để trở thành một “con người tồn diện” về mọi
mặt, trình độ văn hoá của mỗi con người là rất quan trọng trong cuộc sống và học tập một lí tưởng cao đẹp lại là nền tảng cho mục tiêu quan trọng ấy. Học để cùng chung
sống - có nghĩa là việc học trang bị cho con người giá trị và thái độ cần thiết trong cuộc
sống để có thể ứng xử một cách phù hợp và có văn hóa nhất trong mọi hoàn cảnh,
hướng con người vào những giá trị tiềm ẩn trong các nguyên tắc dân chủ, sự hiểu biết
giữa các nền văn hóa, tơn trọng, hịa bình ở mọi cấp bậc xã hội và quan hệ giữa người
với người nhằm giúp cho các cá nhân và các xã hội cùng sống trong hịa bình và hịa
thuận. Ý nghĩa đó càng quan trọng hơn khi chúng ta đang hội nhập vào nền kinh tế thế

giới, nếu chúng ta không học cách chung sống cùng nhau thì chắc chắn sẽ nhanh chóng
bị đẩy ra khỏi xã hội. Cuộc sống của chúng ta sẽ luôn thay đổi theo những chiều hướng
tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn nếu mỗi con người đều được học tập.
Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã nhìn thấy ý nghĩa quan trọng
của học tập đối với đất nước, Người coi học tập là vũ khí trí tuệ sắc bén để đấu tranh
trong mọi hoàn cảnh. Trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Người đã nhận thức và thấy được tương lai của
đất nước đặt ở những thế hệ trẻ đang cắp sách tới trường. Vì thế, có đoạn Người viết:
“Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ

SVTH: Nguyễn Thị Hịa

Trang 4


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

một phần lớn ở công học tập của các em”, Người khẳng định rằng: muốn đưa đất nước
thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, khơng có con đường nào khác là phải học tập.
Người kêu gọi toàn dân phải ra sức học tập để đưa dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc
văn minh, tiến bộ, một dân tộc có thể “sánh vai” với các dân tộc khác. Theo Người,
học tập là nền tảng cho một đất nước hùng mạnh.
Ý nghĩa to lớn của học tập nêu trên chỉ có thể trở thành thực tế khi con người có
quyền được học tập và quyền ấy được đảm bảo thực hiện. Cùng với học tập, quyền học
tập là một quyền tự nhiên của con người. Sở dĩ nói nó phải được xem là một quyền tự
nhiên của con người là bởi quyền học tập gắn với nhu cầu thiết yếu của con người, đó
là nhu cầu học hỏi, tìm hiểu, sáng tạo để con người tồn tại và phát triển. Trong cuộc

sống của chúng ta, tất cả mọi thứ đều phải thông qua sự tìm hiểu, ham mê, nhận thức
thì nó mới trở thành một định lí, một khái niệm hay nói một cách khác là kiến thức.
Kiến thức của chúng ta được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng rất nhiều hình
thức khác nhau như truyền miệng, sách vở v.v...nhưng dù dưới hình thức nào đi chăng
nữa thì muốn có kiến thức bản thân cá nhân phải có quyền học tập. Quyền học tập
chính là điều kiện cần thiết nhất để con người được phát triển toàn diện, trở thành
những cơng dân tốt, có ích cho xã hội, là phương thức chủ yếu để nâng cao dân trí, làm
giàu trí tuệ, tiếp thu và sáng tạo nguồn tri thức mới nhằm tạo ra nhiều con người có tài,
có đức, kiên định lý tưởng cách mạng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Quyền học
tập sẽ giúp cho người chưa được học sẽ được học, người đã được học sẽ học cao hơn
nữa, học nhiều hơn nữa. Bởi tri thức của con người không chỉ thu nạp một lần ở tuổi ấu
thơ mà là quá trình học suốt đời như V.I Lê-nin từng nói: “Học, học nữa, học mãi”, học
tập là điều không thể thiếu, và học không bao giờ là đủ đối với con người, sự học là
mênh mông, là vô tận. Học tập không ngừng sẽ tạo ra cho xã hội đội ngũ tri thức trẻ có
phẩm chất chính trị và phong cách làm việc chuyên nghiệp, tạo ra nguồn lao động chất
có lượng với trình độ chun mơn và tay nghề cao. Học tập chính là con đường tạo ra

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 5


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

những hiền tài cho xã hội, và những hiền tài ấy chính là “Ngun khí của quốc gia,
ngun khí thịnh thì đất nước thịnh, ngun khí suy thì đất nước suy”, là nguồn tài
nguyên quan trọng hàng đầu không thể thay thế được cho sự nghiệp phát triển của đất
nước.

Quyền học tập đã đáp ứng nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân trong
xã hội bởi lẽ quyền học tập như đã nói ở trên đó là quyền tự nhiên, là nhu cầu chính
đáng, thiết yếu của con người trên thực tế, giúp cải thiện đời sống mọi mặt của công
dân và qua đó người dân cũng thể hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội. Quyền học tập tạo điều kiện để nhân dân ta phát huy hơn
nữa bản sắc văn hóa, truyền thống văn hiến hàng ngàn năm và tinh thần hiếu của dân
tộc, giúp ta tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu cho kho tàng giáo dục
của nước nhà. Ý nghĩa to lớn của học tập và quyền học tập khơng chỉ để hồn thiện cá
nhân con người, hoàn thiện phẩm chất đạo đức, tài năng, trí tuệ, sức sáng tạo của cá
nhân mà cịn để làm cho xã hội dân chủ, công bằng, giàu mạnh, văn minh. Bởi tương
lai của mỗi cá nhân đều gắn liền với tương lai của toàn dân tộc, do đó khi cá nhân tự
hồn thiện mình thì cũng góp phần hoàn thiện xã hội, cá nhân được quyền học tập thì
cách ứng xử trong xã hội sẽ có văn hóa hơn những cá nhân ứng xử theo bản năng con
người, mỗi một cá nhân giàu mạnh thì xã hội sẽ giàu mạnh bởi xã hội chính là sự tập
hợp của tất cả những cá nhân con người.
Quyền học tập sẽ tạo ra một sản phẩm đặc biệt, ngoài việc mang lại những lợi ích
trước mắt gắn với nhu cầu thiết thực của con người thì nó là một sản phẩm mang lại lợi
ích lâu dài cho con người và xã hội, nó sẽ khơng nhanh chóng bị tiêu hao mà trở thành
tài sản quý giá được con người và xã hội sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời
gian dài. Cá nhân qua quá trình học tập sẽ nắm được tri thức nhất định và vận dụng nó
vào cuộc sống, vào cơng việc nhằm nâng cao năng suất lao động, sáng tạo ra nhiều của
cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Điều đó làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế,

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 6


Luận văn tốt nghiệp


GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, đồng thời làm cho
đời sống văn hóa, tinh thần, chính trị của xã hội khơng ngừng được nâng cao. Nguồn
lực con người là sản phẩm của quá trình đào tạo và học tập, nguồn lực con người đóng
đóng vai trị chủ đạo, chi phối và quyết định. Trong thời đại ngày này, nguồn gốc của
sự giàu có không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kĩ thuật mà yếu tố ngày càng quan
trọng và quyết định là nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm
năng này nằm trong văn hóa, trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, lối sống, ý chí, nghị
lực, tài năng của cá nhân và cả cộng đồng. Vì thế, để có cái gọi là “tiềm năng” đó thì
con người phải có quyền học tập và học tập khơng ngừng.
Quyền học tập khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với con người, xã hội mà còn
là yếu tố thúc đẩy nền kinh tế, văn hóa phát triển. Nếu cơng dân khơng được quyền học
tập thì nền kinh tế, văn hóa sẽ đi về đâu? Kinh tế, văn hóa, xã hội có thể phát triển khi
con người khơng được quyền học tập, không được hưởng một nền giáo dục đúng nghĩa
hay khơng được quyền tìm tịi và sáng tạo? Đó chỉ là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu với những công cụ lao động thô sơ và kém hiệu quả; Đó chỉ là một nền văn hóa cổ
hủ, bảo thủ, không theo kịp sự tiến bộ của nhân loại. Nếu khơng có tri thức và tư duy
thì liệu con người có thể làm được những gì lớn lao cho bản thân và dân tộc? Khi thế
giới đang ngày càng đổi thay nhanh chóng thì quyền học tập khơng ngừng khẳng định
vị trí, vai trị và ý nghĩa lớn lao của nó đối với sự phát triển của xã hội. Một xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh chỉ có thể tồn tại trên thực tế khi con người được học tập và
có quyền học tập.

1.1.3

Những yêu cầu của quyền học tập của công dân trong nền kinh tế thị

trƣờng.
Trước đây, khi chưa tiến hành đổi mới, Nhà nước ta đã ôm đồm, bao cấp trong tất

cả các lĩnh vực, trong đó có giáo dục, lúc đó quyền học tập của cơng dân có thực hiện

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 7


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

được hay không là do Nhà nước quyết định, ai được quyền đi học, học những ngành
nghề gì và ngay cả vấn đề đi nước ngồi học tập để nâng cao trình độ cũng do Nhà
nước cử đi và chỉ tồn tại loại hình trường cơng lập.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12 năm 1986 đã mở đầu cho công
cuộc đổi mới ở Việt Nam với sự chuyển đổi cơ chế quản lý đất nước từ cơ chế bao cấp
sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Đường lối
đổi mới mà trước hết là đổi mới về tư duy kinh tế của đại hội VI đã mang đến cho cách
mạng nước ta nguồn sức mạnh mới để tiến lên theo định hướng XHCN. Giáo dục cũng
phải chuyển từ phục vụ nền kinh tế hóa tập trung sang nền giáo dục vận hành trong cơ
chế thị trường.
Từ đó, vấn đề thực hiện quyền học tập của cơng dân cũng có những thay đổi nhất
định với những yêu cầu sau:


Thứ nhất, về cơ sở vật chất kĩ thuật, đội ngũ giáo viên.

Quyền học tập của công dân muốn được thực hiện trên thực tế thì u cầu quan
trọng nhất, khơng thể thiếu là cần có đủ hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật với mạng lưới
trường lớp rộng khắp các tỉnh thành; trang thiết bị cần thiết phục vụ cho nhu cầu học

tập thường xuyên của công dân như: thư viện, sách vở, thiết bị giảng dạy, phịng thí
nghiệm, thực hành…
Cần có đội ngũ giáo viên có trình độ chun mơn cao. Đây là yếu tố góp phần quan
trọng đối với thành công của sự nghiệp giáo dục. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục là trung tâm của hệ thống giáo dục. Vì thế, quyền học tập của công dân được
thực hiện hay không và thực hiện ở mức độ nào cũng phụ thuộc một phần rất lớn vào
số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên.


Thứ hai, về công bằng xã hội trong giáo dục.

Đảm bảo công bằng trong giáo dục là việc Nhà nước phải đảm bảo cơ hội tiếp cận
với nền giáo dục có chất lượng như nhau cho mọi người trong xã hội, được đối xử bình

SVTH: Nguyễn Thị Hịa

Trang 8


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

đẳng về cơ hội học tập, bất kể nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, giới tính, thành phần
tơn giáo, sắc tộc, mức sống của gia đình người học, vùng núi hay miền xuôi. Tất cả đều
được đối xử như nhau khi tham gia vào quá trình học tập hay học tại các cơ sở đào tạo
khác nhau, tạo điều kiện cho nhân dân lao động nhất là con em các gia đình nghèo và
diện chính sách được học hành. Để đảm bảo một nền giáo dục thực sự của dân, do dân,
vì dân thì cơng dân phải được hưởng một nền giáo dục cơng bằng, bình đẳng. Hiện
nay, bên cạnh sự phân hóa giàu nghèo, cịn có sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã

hội giữa các vùng miền thì Đảng và Nhà nước ta phải thực hiện công bằng về cơ hội
được học tập, đảm bảo quyền được học của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân lao
động, nhất là con em các gia đình nghèo và chính sách được đến trường và ít nhất là
đạt trình độ giáo dục phổ cập. Chỉ khi có cơng bằng trong giáo dục, chỉ khi mọi người
dù giàu nghèo, sang hèn, dù lành lặn hay tàn tật, dù nam hay nữ, già hay trẻ đều có cơ
hội học tập và thành đạt ngang nhau thì tiềm năng trí tuệ của xã hội mới được khai thác
hết. Hiện nay ở nước ta con em các tỉnh miền núi, các vùng nông thôn nghèo, trẻ em
lang thang, cơ nhỡ, trẻ sống trong các gia đình dân chài, trẻ em HIV/AIDS hay con em
nghèo ở thành thị đi học đã khó, học lên càng khó hơn. Với chế độ học tập buộc phải
học thêm ngồi giờ rất nhiều, phải đóng góp vơ vàn các khoản tốn kém ngồi học phí,
hàng năm phải mua sắm sách giáo khoa mới…Nhà nước đã vơ tình gạt ra ngồi cả một
lớp trẻ thiếu may mắn vì đã sinh ra trong những gia đình nghèo. Vì thế, Nhà nước phải
thực hiện công bằng trong giáo dục để đảm bảo cho tất cả mọi công dân đều được đến
trường.
Thực hiện công bằng trong giáo dục là sự đối xử bình đẳng giữa các bộ phận của
hệ thống giáo dục quốc dân, khơng có sự phân biệt đối xử trong môi trường học tập
cũng như các cơ hội học tập và làm việc sau khi ra trường. Họ được học tập trong mơi
trường dân chủ, bình đẳng, hội nhập, khơng có sự kì thị, đối xử, được tự do bày tỏ quan
điểm, ý chí, sự sáng tạo của mình trong học tập. Đảng và Nhà nước phải thực hiện

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 9


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

cơng bằng trong giáo dục – đó là u cầu khơng thể thiếu để cơng dân thực hiện quyền

học tập của mình.


Thứ ba, về học tập suốt đời (HTSĐ).

HTSĐ là sự thể hiện rõ nét nhất quyền học tập của công dân, là việc học không giới
hạn về thời gian và độ tuổi. HTSĐ là hoạt động học tập được tiến hành trong cả cuộc
đời nhằm nâng cao kiến thức, năng lực để hồn thiện nhân cách, bổn phận cơng dân,
trách nhiệm xã hội hoặc yêu cầu công việc4. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống HTSĐ bao
gồm 4 giai đoạn: giáo dục mầm non, giáo dục phổ cập, giáo dục và đào tạo sau phổ
cập, đào tạo tiếp tục sau khi rời ghế nhà trường (trong hệ thống HTSĐ phổ biến hiện
nay trên thế giới, cịn có giai đoạn thứ 5 là học tập sau khi nghỉ hưu). Công dân được
quyền học tập không hạn chế, được tham gia tất cả các bậc học, cấp học trong hệ thống
giáo dục quốc dân. HTSĐ là hướng tới một xã hội học tập mà ở đó những con người
ham học hỏi, thích khám phá, tìm tịi, sáng tạo có thể tự mình vươn tới cái đích của tri
thức nhân loại mà khơng bị ràng buộc, cản trở bởi những yếu tố khách quan. Ở đó Nhà
nước ln tạo mọi điều kiện cho cá nhân có cơ hội học tập, cơ hội được đào tạo lại,
mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học mọi lúc, mọi nơi,
mọi cấp bậc, học bất cứ khi nào, bất cứ ngành nghề nào mà xã hội không cấm (được
quyền lựa chọn những ngành nghề phù hợp với năng lực của bản thân, các ngành thuộc
lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, nhân văn, kĩ thuật…). Công dân được
quyền tham gia nhiều hình thức đào tạo khác nhau: Học chính quy hoặc khơng chính
quy; Học trường cơng lập, dân lập hoặc tư thục; Học tập trung hoặc vừa học vừa làm;
Học ban ngày hoặc buổi tối; Học trực tiếp hoặc gián tiếp; Người già, người trẻ đều có
quyền đi học. Chỉ khi cơng dân được tự do học tập thì khi đó quyền học tập của cơng
dân mới được thực hiện đầy đủ nhất. Vì vậy, Nhà nước phải đảm bảo cho cơng dân
HTSĐ.

4


Tạp chí khoa học giáo dục số 53, tháng 2 năm 2010, Trang 8.

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 10


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

1.2 Cơ sở pháp lý về quyền học tập của công dân.
1.2.1 Quyền học tập của công dân đƣợc ghi nhận trong văn bản pháp luật
quốc tế:


Tun ngơn của tồn thế giới về nhân quyển năm 1948.

Quyền được học tập của công dân là một trong những quyền thể hiện của quyền
con người. Quyền con người, quyền công dân không chỉ là những ghi nhận ở cấp quốc
gia, không chỉ nằm ở chủ trương chung của Đảng và Nhà nước mà đó còn là những
tuyên bố ở cấp quốc tế, là những cam kết của các nước trên thế giới. Vì thế, khi nói đến
quyền con người, quyền cơng dân, trong đó có quyền học tập khơng thể khơng nhắc tới
UDHR.
UDHR được Đại hội Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số
217A(III) ngày 10/12/1948. Đây là văn kiện chính trị quan trọng mang tính chất cương
lĩnh và là thành quả vĩ đại trong lịch sử đấu tranh của nhân loại vì nhân quyền. Tại điều
26 UDHR quy định: “Mọi người đều có quyền được học tập, giáo dục phải miễn phí, ít
nhất là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kĩ
thuật và dạy nghề phải mang tính phổ thông, và giáo dục đại học hay cao hơn phải

theo ngun tắc cơng bằng cho bất cứ ai có khả năng”. Quy định quyền học tập của
công dân và đi kèm là cơ chế đảm bảo cho quyền ấy được tơn trọng và thực hiện trên
thực tế. Theo đó, Cơ chế đảm bảo của UDHR là việc tuyên ngôn quy định một số yêu
cầu ở điều 29, điều 30 bao gồm: khi thực hiện các quyền, con người chỉ bị hạn chế bởi
luật nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo sự thừa nhận và tôn trọng các quyền tự do của
người khác; việc thực hiện các quyền con người không được trái với những nguyên tắc
và mục tiêu của Liên hiệp quốc; khơng được giải thích bất cứ điều nào trong Tuyên
ngôn với hàm ý cho phép nhà nước, nhóm người hoặc cá nhân nào tham gia hay thực
hiện các hoạt động loại bỏ các quyền, tự do của con người đã nêu trong Tuyên ngôn.
Năm 1948, Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua và công bố quyền con người

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 11


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

“mọi người được hưởng quyền giáo dục”.Như vậy, Tuyên ngôn luôn kêu gọi các quốc
gia trên thế giới phải tôn trọng và đảm bảo quyền con người, quyền học tập của công
dân. Mặc dù không phải là một điều ước quốc tế nhưng UDHR có vai trị cực kì quan
trọng, nó được xem là luật tập quán quốc tế về quyền con người, tức là có giá trị bắt
buộc đối với mọi quốc gia trên thế giới.


Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.

Cụ thể hóa quy định Điều 26 trong UDHR các quy định tại Điều 13 và 14 của

ICESCR đã ghi nhận quyền học tập của công dân thông qua việc đề cập quyền được
giáo dục của công dân. Việt Nam gia nhập ICESCR vào ngày 24/9/1982.
Tại điều 13 ICESCR quy định:“Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận
quyền của mọi người được học tập. Các quốc gia nhất trí rằng giáo dục phải hướng
vào việc phát triển đầy đủ nhân cách và ý thức về nhân phẩm, và phải nhằm tăng
cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người". Như vậy, với Công ước
này, các quốc gia thành viên đều công nhận quyền học tập của cơng dân, mọi cơng dân
đều có quyền học tập và mỗi quốc gia phải có nghĩa vụ đảm bảo cho quyền đó được
thực hiện trên thực tế. Khoản 2 điều 13 Công ước cũng quy định: Các quốc gia bằng
mọi biện pháp thích hợp phải áp dụng giáo dục miễn phí, làm cho mọi người được tiếp
cận với giáo dục một cách bình đẳng, thiết lập và cải thiện chế độ học bổng, điều kiện
vật chất cho đội ngũ nhà giáo. Liên quan đến điều 13 ICESCR, Uỷ ban về quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa đã giải thích một cách khá toàn diện và chi tiết về quyền này
trong bình luận chung số 13 thơng qua tại phiên họp lần thứ 21 năm 1999 của Ủy ban
tiếp tục khẳng định quan điểm của các nước về vấn đề tôn trọng quyền học tập của
công dân.
Tại Điều 14 ICESCR quy định: Mỗi quốc gia thành viên của Công ước phải đảm
bảo thực hiện giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí trong phạm vi lãnh thổ nước mình,
nếu vì một lý do nào đó chính đáng chưa thực hiện thì cam kết trong vịng 2 năm phải
xây dựng kế hoạch cụ thể và thực hiện chúng.
SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 12


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

Khi những Công ước này ghi nhận quyền học tập của công dân thì địi hỏi các

Quốc gia cũng phải ghi nhận và thực hiện quyền này một cách đầy đủ trên thực tế.
Điều đó có nghĩa rằng các nước có nghĩa vụ tôn trọng, không can thiệp vào việc cá
nhân hưởng quyền học tập của mình. Nhà nước phải ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý
nghiêm khắc việc vi phạm quyền học tập của công dân từ các bên thứ ba, phải chủ
động đưa ra và thực hiện các kế hoạch đảm bảo cho mọi cơng dân có thể thực hiện cao
nhất quyền học tập của mình. Mỗi Quốc gia có một điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
riêng. Vì thế không thể áp dụng những quy định của các Công ước quốc tế này một
cách trực tiếp vào việc thực hiện quyền học tập của cơng dân mà địi hỏi mỗi Quốc gia
phải có nghĩa vụ “nội luật hóa" các quy định đó cho phù hợp với đất nước mình. Để
thực hiện nghĩa vụ đó nhà nước phải xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể
để điều chỉnh quyền học tập của công dân. Việc các quốc gia cùng nhau ghi nhận
quyền học tập của công dân, chính là các quốc gia đã tơn trọng và bảo vệ quyền con
người. Và nhiệm vụ của các quốc gia là phải làm sao để đưa các quy định đó đi vào
thực tiễn cuộc sống một cách dễ dàng và thiết thực hơn, đảm bảo thực hiện đúng, đầy
đủ các cam kết quốc tế. Và tất cả các quốc gia đều lựa chọn con đường “ghi nhận” các
cam kết đó vào Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của quốc gia
1.2.2 Quyền học tập của công dân ở Việt Nam đƣợc ghi nhận qua các bản
Hiến Pháp:
Nhận thức được ý nghĩa của quyền học tập của công dân, Nhà nước đã thiết lập
và hoàn thiện quy chế pháp lý về quyền học tập để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và rõ ràng
nhất cho công dân thực hiện quyền học tập của mình. Đặc biệt quyền học tập của công
dân đã được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp của Nhà nước ta.


Quyền học tập trong Hiến pháp năm 1946.
Hiến pháp 1946 ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta vừa được tự do và độc lập.

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 13



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới, nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn
này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng
dân chủ. Mặc dù đất nước vẫn đang trong giai đoạn khó khăn, thiếu thốn và nhiều
thách thức nhưng Chính quyền nhân dân đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của
việc học. Tại điều 15 quy định: “Nền sơ học cưỡng bách và khơng học phí. Ở các
trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học
trị nghèo được chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và dạy theo chương trình
nhà nước”, Quy định này là cơ sở pháp lý để công dân thực hiện quyền học tập của
mình trong một Nhà nước dân chủ.


Quyền học tập trong Hiến pháp 1959.

Hiến pháp năm 1959 ra đời trong hồn cảnh miền Bắc được giải phóng và bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền nam còn phải tiếp tục đấu tranh chống đế quốc
mỹ và bè lũ tay sai để đi tới thống nhất đất nước. Trước tình hình đó, Hiến pháp năm
1959 kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946 và chính thức quy định học tập là quyền của
công dân nhằm phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tại Điều 33 quy định “Cơng dân nước Việt Nam
dân chủ cộng hịa có quyền học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục
cưỡng bách, phát triển dần các trường học và cơ quan văn hóa, phát triển các hình
thức bổ túc văn hóa, kĩ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác
ở thành thị và nông thôn, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó”.



Quyền học tập trong Hiến pháp 1980.

Hiến pháp 1980 ra đời trong điều kiện Bắc, Nam thống nhất và cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội. Việc thống nhất này tạo ra tiền đề chính trị quan trọng để cả nước cùng
thực hiện nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Trước bối cảnh đó, quyền học tập của cơng dân được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Tại điều 60 Hiến pháp 1980 quy định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của cơng dân.

SVTH: Nguyễn Thị Hịa

Trang 14


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc, thực hiện chế độ
học không phải trả tiền và chính sách cấp học bổng, tạo điều kiện thuận lợi cho công
dân học tập”. Tuy nhiên, quy định này mang tính hình thức, khơng có tính khả thi do
nó khơng phù hợp với điều kiện, hồn cảnh và khả năng kinh tế của nước ta lúc bấy
giờ. Sự duy ý chí về chế độ kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn này đã
dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế, đó là một nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu với chế
độ tem phiếu bao cấp. Vì thế, Nhà nước khơng thể có đủ điều kiện về cơ sở vật chất để
đảm bảo cho những quy định đó được thực hiện trên thực tế.


Quyền học tập trong Hiến pháp 1992.


Hiến pháp năm 1992 tiếp tục ghi nhận quyền học tập của công dân, tuy nhiên sự
ghi nhận này đã có những thay đổi nhất định theo hướng thực tế hơn, mang tính khả thi
cao và phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Hiến pháp 1992 chính thức
xóa bỏ chế độ bao cấp về học tập (trừ bậc tiểu học), đồng thời thực hiện chế độ giáo
dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Sự thay đổi về chế độ kinh tế được quy định trong
Hiến pháp 1992 dẫn đến sự thay đổi của những quy định về quyền học tập của công
dân so với trước đây. Tại điều 59 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Học tập là quyền và
nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, khơng phải trả học phí. Cơng dân có
quyền học văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được
nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát huy tài năng. Nhà nước có chính sách
học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ khuyết tật, trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học nghề phù hợp”. Theo đó, ngồi
bậc tiểu học khơng phải đóng học phí thì tất cả các cấp học cịn lại đều phải đóng học
phí, Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để mọi cơng dân có thể thực hiện quyền học
tập của mình một cách dễ dàng hơn. Những quy định về quyền học tập của công dân
trong Hiến pháp năm 1992 phản ánh sự thay đổi tư duy, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta trong việc ghi nhận quyền học tập của công dân, phù hợp với đường lối đổi

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 15


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

mới đã đặt ra trong Đại hội VI năm 1986 của Đảng ta. Nếu như trước đây Nhà nước
ôm đồm, bao cấp tất cả thì tới Hiến pháp 1992 các điều kiện để đáp ứng quyền học tập
của cơng dân đã có sự chia sẻ, hỗ trợ, phối hợp cùng với toàn xã hội. Đảng là người đề

ra đường lối, chủ trương lãnh đạo xây dựng các chính sách, cơ chế phù hợp tạo mọi
điều kiện để công dân thực hiện quyền học tập của mình một cách tốt nhất.
Như vậy, tất cả các bản Hiến pháp đều ghi nhận quyền học tập của công dân, tạo
cơ sở vững chắc để quyền học tập được đảm bảo trên thực tế. Đặc biệt Hiến pháp năm
1980 và 1992 đã khẳng định học tập vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Các
quy định của Hiến pháp về quyền học tập của công dân là cơ sở pháp lý quan trọng để
xây dựng và hồn thiện quy chế pháp lý cơng dân trong lĩnh vực văn hóa. Căn cứ vào
quy định của Hiến pháp, nhà nước sẽ ban hành và cụ thể hóa các quy định đó trong các
văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế chính sách đảm bảo thực hiện quyền học tập
của công dân.

1.2.3

Quyền học tập của công dân đƣợc ghi nhận trong các văn bản pháp

luật khác.
Quyền học tập của công dân được quy định trong các bản Hiến pháp là những
quy định mang tính nguyên tắc. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp vào thực
tiễn cuộc sống Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật và văn bản dưới luật để hiện
thực hóa quyền học tập của cơng dân. Trong đó, Luật giáo dục năm 2005 ( đã sửa đổi,
bổ sung bằng luật số 44/2009/QH12 ngày 25-11-2009 của Quốc Hội năm 2009) là văn
bản quy định trực tiếp và toàn diện nhất quyền học tập của công dân. Điều 10 Luật giáo
dục năm 2005 quy định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân
không phân biệt dân tộc, tơn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã
hội, hồn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập” hay “nhà nước thực hiện công
bằng trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng

SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 16



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.S Vũ Thị Bích Hường

giúp đỡ để người nghèo được học tập tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát
triển tài năng. Nhà nước ưu tiên tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia
đình ở vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính
sách ưu đãi, người tàn tật, khuyến tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác
thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình”. Luật giáo dục đã dành hẳn chương V
quy định về nhiệm vụ và quyền của người học, và chương VI quy định trách nhiệm của
nhà trường, gia đình và xã hội trong việc đảm bảo quyền học tập của người học. Đối
với trẻ em tại điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định:
“Trẻ em có quyền được học tập. Trẻ em có học bậc tiểu học trong các trường, lớp công
lập không phải trả học phí”.
Cụ thể hóa Luật Giáo dục năm 2005, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành các văn bản dưới luật để cơng dân thực hiện quyền
học tập của mình như: NĐ số 75/2006/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục; QĐ 157/2007/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên; NĐ 49/2010/NĐ-CP ngày
14/5/2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ
chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ
năm học 2011 – 2012 đến 2014 – 2015; NĐ 134/2006/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
14/11/2006 quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao
đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Thông tư liên tịch số
03/2012/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTB&XH hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ về
học tập đối với trẻ em, học sinh, sinh viên các dân tộc ít người theo quyết định số
2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển
giáo dục đối với các dân tộc ít người giai đoạn 2010 – 2015.


SVTH: Nguyễn Thị Hòa

Trang 17


×