Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Quyền và nghĩa vụ của hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.11 MB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THÀNH LƯỢNG

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THÀNH LƯỢNG

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự & Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Mai Hồng Quỳ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu độc lập
của bản thân với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn. Những thông tin, dữ
liệu đưa ra trong luận văn được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ về nguồn gốc đảm
bảo tính khách quan trung thực.
Tác giả

Lê Thành Lượng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘI
THẨM NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM .................................................................................................................. 6
1.1. Mục đích, ý nghĩa tham gia của việc Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động tố tụng dân sự .......................................................................................... 6
1.1.1. Mục đích....................................................................................... 6
1.1.2. Ý nghĩa ......................................................................................... 9
1.2. Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam hiện hành............................................................................ 10
1.2.1. Quyền của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành ................................................................................................. 10
1.2.2. Nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành .......................................................................................... 21
1.3. Mối tương quan giữa Hội thẩm nhân dân với Thẩm phán, Kiểm
sát viên trong tố tụng dân sự.......................................................................... 27
1.3.1. Hội thẩm nhân dân với Thẩm phán............................................ 27

1.3.2. Hội thẩm nhân dân với Kiểm sát viên ......................................... 30
1.4. Chế định Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự của một số quốc
gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................... 32
1.4.1. Tố tụng dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa .......................... 33
1.4.2. Tố tụng dân sự Liên bang Nga .................................................... 34
1.4.3. Tố tụng dân sự Hoa Kỳ ............................................................... 35
Kết luận chương 1 .................................................................................. 40
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ ............... 41
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của Hội thẩm nhân dân
trong xét xử vụ án dân sự............................................................................... 41
2.1.1. Quyền đề nghị Chánh án, Thẩm phán được phân cơng chủ tọa
phiên tịa ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền ...................................... 41
2.1.2. Quyền thảo luận, đưa ra ý kiến, quyết định các vấn đề về tố tụng,
nội dung vụ án, quyền bảo lưu ý kiến khi nghị án ............................................. 51


2.1.3. Quyền được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết
cơng tác xét xử của Tịa án ............................................................................... 57
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân
trong xét xử vụ án dân sự .............................................................................. 58
2.2.1. Nghĩa vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia xét xử .................. 58
2.2.2. Nghĩa vụ tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân,
tham gia tuyên truyền pháp luật. ..................................................................... 74
2.2.3. Nghĩa vụ phải độc lập, vô tư, khách quan trong xét xử ............... 76
Kết luận chương 2 .................................................................................. 78
KẾT LUẬN ............................................................................................. 79


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia là một trong những nguyên tắc
cơ bản của trình tự, thủ tục tố tụng Tịa án tại Việt Nam, trong đó có tố tụng
dân sự. Khi tham gia xét xử, Hội thẩm và Thẩm phán ngang quyền nhau trong
việc thảo luận, ra các quyết định tố tụng, tham gia hỏi các đương sự, đánh giá
chứng cứ, nghị án, ra bản án, quyết định thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét
xử. Chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia thể hiện bản chất dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước ta. Hoạt động tiến hành tố
tụng của Hội thẩm nhân dân đã thể hiện được ý chí, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân trong hoạt động xét xử, nói lên tiếng nói của quần chúng và
đưa ra nhận định, quyết định kết quả giải quyết vụ án một cách dân chủ,
khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
Chế định Hội thẩm nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành,
Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, nay là Luật tổ chức Tòa án nhân
dân sửa đổi năm 2014, quy định địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân, bao
gồm các quy định mang tính nguyên tắc, quyền, nghĩa vụ của Hội thẩm nhân
dân khi tiến hành tố tụng; tiêu chuẩn, quy trình tuyển chọn, miễn nhiệm, quản
lý, chế độ bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử và các chế độ khác… Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng các quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân
dân trong pháp luật tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân, do quy định của pháp
luật chưa đầy đủ, thiếu cụ thể, rõ ràng, thậm chí cịn mang tính hình thức. Từ
đó, làm cho chế định Hội thẩm nhân dân chưa phát huy hết vai trò, ý nghĩa
trong tố tụng dân sự; hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn hạn chế.
Thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy quy định của pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần
hồn thành nhiệm vụ chung của Bộ luật tố tụng dân sự. Giải quyết công bằng,
đúng pháp luật các tranh chấp phát sinh trong nhân dân, bảo vệ các quyền, lợi

ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, khơi phục lại tình trạng bình thường
của các quan hệ dân sự, lao động, kinh doanh thương mại bị vi phạm. Tuy
nhiên, trong thực tiễn áp dụng củng cho thấy quy định của Pháp Luật về Hội
thẩm nhân dân chưa đảm bảo để phát huy đầy đủ hiệu quả, chất lượng hoạt


2

động của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự. Tỷ lệ án dân sự bị hủy, sửa
những năm gần dây có chiều hướng giảm nhưng cịn cao trên tổng số án thụ lý,
trong đó cịn nhiều vụ bị hủy nhiều lần qua nhiều cấp xét xử; nhiều vụ án bị
kiến nghị, kháng nghị, kháng cáo do có vi phạm về tố tụng và nội dung…
Những hạn chế, bất cập trên dẫn đến chưa phát huy tốt vai trò của Hội
thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự, từ đó làm cho hiệu quả, mục đích của chế
định Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự không đạt được, thậm chí cịn
mang tính hình thức, làm giảm lịng tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của
pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Về mặt lý luận, hiện nay vẫn cịn ít và thiếu những cơng trình chun
khảo, nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận củng
như thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố
tụng dân sự.
Do vậy, thiết nghĩ việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan để tìm ra giải pháp hoàn thiện các quy định về
quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự ở
nước ta là vấn đề bức thiết hiện nay, khơng những có ý nghĩa quan trọng về
mặt lý luận, mà cịn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong tiến trình cải cách tư
pháp hiện nay ở nước ta.
Tất cả những nội dung nhận định, đánh giá như nêu trên là lý do để tác
giả chọn vấn đề “Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn

thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân
sự thể hiện vai trò, địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân; là cơ sở thực hiện
nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia và nguyên tắc độc lập khi
tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự, nên đã có nhiều
nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở những
phạm vi, mức độ khác nhau.
Đã có những bài viết liên quan đến đề tài này đăng trên các tạp chí
chun ngành luật. Điển hình một số tác giả như:
- Khổng Hương Giang (2010), Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình
sự Việt Nam (Luận văn Thạc sỹ Luật), Tp.Hồ Chí Minh. Tác phẩm này nghiên


3

cứu về tiêu chuẩn, địa vị pháp lý, nguyên tắc tham gia tố tụng của Hội thẩm
nhân dân trong tố tụng hình sự. Người viết sẽ vận dụng những nội dung về địa
vị pháp lý, nguyên tắc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân nhân dân nói chung
trong luận văn của mình.
- Lê Thu Hương (1999), “Sự hình thành và phát triển của Chế định Hội
thẩm ở Việt Nam ”, thông tin khoa học pháp lý. Tác phẩm này nghiên cứu
lịch sử hình thành và phát triển của chế định Hội thẩm nhân dân nói chung ở
nước ta, vai trò, địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân trong các thủ tục tố
tụng qua các thời kỳ, phạm vi tham gia tố tụng của Hội thẩm nhân dân. Người
viết sẽ vận dụng các nội dung về quyền, nghĩa vụ, phạm vi tham gia tố tụng
dân sự của Hội thẩm nhân dân.
- Dương Ngọc Ngưu (2003), “Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong
hoạt động tố tụng – thực trạng và phương hướng đổi mới”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp. Tác phẩm này nghiên cứu vai trị, vị trí của Hội thẩm nhân dân

trong hoạt động tố tụng nói chung và đánh giá thực trạng, phương hướng đổi
mới. Người viết sẽ vận dụng các nội dung về đánh giá thực trạng, củng như
những phương hướng đổi mới, hoàn thiện nói chung vào luận văn.
- Tịa án nhân dân tối cao (1999), “Những yêu cầu và giải pháp nâng
cao năng lực đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ, Hà Nội. Cơng trình nghiên cứu này tổng hợp những vướng mắc, sự
cần thiết phải nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân, trong đó có
Hội thẩm nhân dân. Đây là cơ sở để người viết vận dụng, định hướng nghiên
cứu trong thực tiễn và rút ra nhận xét đánh giá trong luận văn của mình.
Các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến hoạt động của Hội
thẩm nhân dân nói chung trong tất cả các thủ tục tố tụng, hoặc riêng lĩnh vực
tố tụng hình sự. Tuy nhiên, tất cả những bài viết, cơng trình nghiên cứu trên
sẽ là nguồn tài liệu quý báu để tác giả tham khảo, vận dụng khi nghiên cứu,
thực hiện đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề về lý
luận và thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam để đề xuất phương hướng hoàn thiện.


4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ
một số nội dung sau:
- Về mặt lý luận
Nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận chung và pháp luật thực
định về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam, nhằm làm sáng tỏ các quy định này.

- Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu những vấn đề về thực tiễn áp dụng quy định quyền, nghĩa
vụ của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự để rút ra những
nhận xét, đánh giá thực tiễn áp dụng. Đồng thời chỉ ra những hạn chế, vướng
mắc trong nhận thức và thực tiễn áp dụng các quy định này.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận, thực tiễn, sẽ đề xuất giải pháp hoàn
thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành. Cụ thể, Luận văn nghiên cứu các
vấn đề như: khái niệm, địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân theo pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam; vấn đề vận dụng các quy định về quyền và nghĩa vụ
của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự để tìm ra những hạn
chế, vướng mắc.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: luận văn nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của Hội
thẩm nhân dân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam và Luật tổ
chức Tòa án nhân dân hiện hành.
- Phạm vi địa bàn khảo sát: chủ yếu tiến hành khảo sát, thu thập số liệu
thực tế, nghiên cứu các bản án dân sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
- Phạm vi về thời gian: số liệu thu thập sử dụng trong đề tài giới hạn
trong 05 năm, từ năm 2010 đến năm 2014 để đảm bảo mang tính thời sự và
tính thực tiễn cho kết quả nghiên cứu của luận văn.


5

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành các vấn đề mà luận văn đặt ra, tác giả dựa trên phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp pháp luật tố tụng. Cụ
thể: phân tích, tổng hợp nội dung các quy định về quyền, nghĩa vụ của Hội
thẩm nhân dân theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân hiện hành, đồng thời so sánh với thực trạng vận dụng trong thực tế
công tác xét xử dân sự sơ thẩm.
5. Giá trị khoa học của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn phân tích, làm sáng tỏ các nội dung về quyền
và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.
Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện quyền
và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự từ đó nhận dạng,
phân tích những tồn tại, hạn chế, tìm ra ngun nhân để có giải pháp đề xuất
hướng hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả cơng tác xét xử các vụ dân sự
của Hội thẩm nhân dân.
6. Cơ cấu của Luận văn
Cơ cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, phần nội dung được xây dựng thành 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan về quyền và nghĩa vụ của hội thẩm nhân dân
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 2. Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động
xét xử vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng pháp luật.


6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Mục đích, ý nghĩa tham gia của Hội thẩm nhân dân trong hoạt

động tố tụng dân sự
1.1.1. Mục đích
Hội thẩm nhân dân là những người được bầu theo quy định của pháp
luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. Hội
thẩm Tòa án nhân dân gồm có Hội thẩm Tịa án nhân dân Tỉnh, Thành phố
trực thuộc Trung ương; Hội thẩm Tòa án nhân dân Huyện, Quận, Thị xã,
Thành phố trực thuộc Tỉnh (sau đây gọi chung là Hội Thẩm nhân dân) và Hội
thẩm quân nhân trong hệ thống Tòa án quân sự. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân
dân là năm năm theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Chế độ hoạt
động của Hội thẩm nhân dân chủ yếu là kiêm nhiệm, do được lựa chọn bầu ra
trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của
Mặt trận, một số khác là những người đã nghỉ hưu. Trong hoạt động tố tụng
dân sự, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án dân sự,
hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động.
Hội thẩm nhân dân ở các quốc gia khác nhau, có tên gọi và nhiệm vụ
quyền hạn khác nhau nhưng về cơ bản đều là một trong các chủ thể tiến hành
tố tụng bắt buộc, mục đích tham gia tố tụng là đưa tiếng nói của đơng đảo
quần chúng tham gia vào hoạt động tư pháp. Ở nước ta, chế định Hội thẩm
nhân dân được hình thành từ ngày đầu khi Nhà nước ta thiết lập bộ máy tư
pháp. Từ đó đến nay, chế định này ln được củng cố và hồn thiện nhằm
đảm bảo việc xét xử khách quan, đúng pháp luật1. Qua nhiều lần cải cách tư
pháp, chế định này ngày càng được khẳng định về mặt lập pháp củng như
trong thực tiễn tố tụng. Các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, trình tự, thủ
tục tuyển chọn, quyền hạn và trách nhiệm, chế độ quản lý, bồi dưỡng nghiệp
vụ và các chế độ chính sách khác đối với Hội thẩm nhân dân được quy định
rõ ràng, cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động của Hội
thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự đến nay còn những hạn chế
1

Dương Ngọc Ngưu (2013), “Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng thực trạng và

phương hướng đổi mới”, Nghiên cứu lập pháp, (04), tr.58-64.


7

nhất định, nhất là trong hoạt động thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Hội
thẩm nhân dân. Từ đó, có nhiều quan điểm khác nhau về vai trị, mục đích
tham gia tố tụng dân sự của Hội thẩm nhân dân.
Về cơ bản, các quan điểm đều thừa nhận chế định Hội thẩm nhân dân
trong pháp luật tố tụng dân sự ở nước ta thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong
hoạt động xét xử của Tòa án, đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân tham gia
thực hiện quyền tư pháp2. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Để đảm bảo tính pháp chế,
dân chủ trong thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp còn quy định cơ chế kiểm
sát hoạt động tư pháp của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, cơ chế
chất vấn, giám sát của Cơ quan quyền lực và Mặt trận tổ quốc Viện Nam,
trong đó, quan trọng nhất là sự tham gia trực tiếp của đại diện nhân dân vào
hoạt động xét xử, đó là các Hội thẩm nhân dân.
Trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng, nếu như
Thẩm phán là người quan tâm nhiều hơn đến việc áp dụng pháp luật thế nào để
giải quyết đúng đắn vụ án thì Hội thẩm có thể xem là những người làm cơng
tác “chính trị” khi tham gia tố tụng. Về mặt thực tiễn thì Hội thẩm có thể xem
là những người làm cơng tác “chính trị” khi tham gia tố tụng. Bởi lẽ, thực tế
cuộc sống luôn vận động và thay đổi, pháp luật không phải lúc nào củng theo
kịp cuộc sống. Hội thẩm sống và làm việc trong cộng đồng, “lăn lộn” với thực
tiễn cuộc sống, họ có đủ điều kiện tiếp xúc và thấu hiểu sâu hơn tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Vì vậy, Hội

thẩm đóng vai trò là người đưa pháp luật gần với thực tiễn hơn, là người làm
cho các bản án, quyết định của Tịa án mang tính “chính trị” hơn. Nói như vậy,
khơng có nghĩa là Hội thẩm khơng cần quan tâm đến pháp luật, họ có thể
khơng là những “chun gia pháp lý” nhưng phải có kiến thức cơ bản về các
ngành luật nói chung và luật dân sự, tố tụng dân sự nói riêng để thực thi quyền
lực mà nhân dân giao cho một cách đúng đắn và hiệu quả.

2

Nguyễn Quang Hiền (2004), “Chế định hội thẩm”, Khoa học pháp lý, (25), tr.7-11.


8

Mục đích tham gia tố tụng dân sự của Hội thẩm nhân dân thể hiện ở sự
cân bằng giữa tính cứng nhắc, phổ biến của các quy định pháp luật với tính đa
dạng, phong phú của các tranh chấp cụ thể phát sinh trong đời sống kinh tế xã hội. Pháp luật là tổng thể những quy tắc xử sự chung, là những khn mẫu
phổ qt nhất, nó khơng thể điều chỉnh một cách chi tiết tất cả mọi tình
huống, chi tiết trong các quan hệ xã hội. Tham gia điều chỉnh các quan hệ xã
hội cịn có các quy phạm xã hội khác như đạo đức, tôn giáo, phong tục tập
quán, thậm chí trong khoa học pháp lý người ta còn đề cập đến vấn đề niềm
tin nội tâm của Thẩm phán khi giải quyết một vụ án. Các Hội thẩm nhân dân
được bầu chọn từ những người công tác, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác
nhau, là những người có hiểu biết sâu về loại tranh chấp mà họ tham gia xét
xử do có kinh nghiệm thực tiễn liên quan phong phú. Chính vì vậy, các quyết
định của Hội thẩm nhân dân sát với thực tế cuộc sống hơn, giải quyết vấn đề
một cách “thấu tình, đạt lý” hơn.
Tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự là nguyên tắc cơ bản,
xuyên suốt trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục tố tụng dân sự là
một trình tự phức tạp, cứng nhắc được tiến hành bởi các chủ thể mang quyền

lực Nhà nước. Người dân với trình độ pháp lý hạn hẹp của mình, khó có thể
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Tính chủ động của những người tham gia tố tụng trong tố
tụng dân sự rất cao nhưng họ vẫn là bên yếu thế so với những người tiến hành
tố tụng. Hội thẩm nhân dân, với tính “nhân dân” của họ, tham gia tố tụng
trong trường hợp này cịn có mục đích bảo vệ các bên tham gia tố tụng trong
khuôn khổ pháp luật thực hiện tốt hơn các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình,
tạo nên sự cân bằng trong Hội đồng xét xử giữa các thẩm phán và các đại diện
của nhân dân, làm cho hoạt động xét xử dân sự gần gũi với thực tế cuộc sống
hơn.
Xét xử kịp thời, đúng pháp luật các tranh chấp phát sinh trong nhân dân
góp phần ổn định trật tự xã hội, tạo sự đồn kết, gắn bó trong cộng đồng dân
cư, góp phần làm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Hoạt động xét
xử của Tòa án cịn có một mục đích quan trọng khác là tun truyền pháp luật
và hịa giải trong nhân dân. Chính các Hội thẩm nhân dân là những người có
liên hệ mật thiết với quần chúng mới am hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nên họ mới có thể thực hiện tuyên truyền pháp luật, hòa giải tranh chấp


9

một cách hiệu quả nhất. Hoạt động của Hội thẩm nhân dân là một kênh tuyên
truyền, giáo dục pháp luật hiệu quả, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật
trong nhân dân. Từ việc phân tích cơ sở áp dụng pháp luật, phân tích nội dung
tranh chấp, tuyên truyền kết quả xét xử đến với nhân dân, là cơ sở tuyên
truyền pháp luật, hòa giải tranh chấp trong nhân dân một cách có hiệu quả
nhất. Hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn giúp tăng cường mối quan hệ
giữa Tòa án với nhân dân, giúp nhân dân giám sát hoạt động của Tòa án một
cách trực tiếp, dân chủ, qua đó minh bạch hóa hoạt động của Tịa án. Thơng
qua cơng tác xét xử của Hội thẩm nhân dân, Tịa án cịn có thể nắm bắt được

tâm tư, nguyện vọng, vướng mắc của người dân từ đó có những phán quyết
nhận được sự đồng thuận xã hội cao3.
1.1.2. Ý nghĩa
Sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong hoạt động tố tụng dân sự, thể hiện ở các nguyên tắc tố tụng, quyền hạn và
nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân. Sự tham gia hoạt động tố tụng dân sự của Hội
thẩm nhân dân trước hết thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Đó là cơ
chế hữu hiệu để nhân dân tham gia vào các công việc của nhà nước, Nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình thơng qua Nhà nước Mặt trận tổ quốc và các
tổ chức thành viên của Mặt trận hoặc nhân dân trực tiếp tham gia vào các công
việc của Nhà nước thông qua cơ chế và theo cách thức do pháp luật quy định.
Trong hoạt động tố tụng dân sự, nhân dân thông qua cơ quan đại diện bầu ra
Hội thẩm nhân dân để tham gia xét xử cùng với các Thẩm phán chuyên nghiệp.
Thông qua hoạt động xét xử của Hội thẩm, ý chí, nguyện vọng của người dân
được thể hiện trong tồn bộ tiến trình tố tụng và có ý nghĩa quyết định đối với
kết quả xét xử của Tòa án. Khi tham gia tố tụng dân sự, Hội thẩm nhân dân
trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ, tham gia hỏi các đương sự để
làm rõ nội dung vụ án. Hội thẩm nhân dân cùng với các thành viên hội đồng
xét xử quyết định mọi vấn đề liên quan đến vụ án.
Hội thẩm nhân dân tham gia tố tụng cịn có ý nghĩa giảm bớt tính cứng
nhắc của quy trình tố tụng, làm cho hoạt động xét xử gần gủi với thực tế cuộc
sống hơn. Hoạt động tố tụng tại phiên tịa vốn theo một trình tự bắt buộc
thống nhất và mang tính tơn nghiêm của Quyền lực Nhà nước. Hội thẩm nhân
3

Dương Ngọc Ngưu (2013), “Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng thực trạng và
phương hướng đổi mới”, Nghiên cứu lập pháp, (04), tr.58-64


10


dân tham gia phiên tòa làm cho những người tham gia tố tụng vốn có kiến
thức pháp luật hạn hẹp “tự tin” hơn trong việc bảo vệ các quyền lợi ích chính
đáng, hợp pháp của mình.
Các thẩm phán chuyên nghiệp ln xem xét tính chất pháp lý của các
quan hệ tranh chấp, trong khi các Hội thẩm nhân dân được bầu từ các ngành
nghề, các giới khác nhau trong xã hội, họ có cái nhìn chun mơn về vụ án
đang tranh chấp nên có thể đưa ra các nhận định phù hợp với các quy định
chuyên ngành, phù hợp với truyền thống, phong tục tập quán của địa phương.
Từ đó cho thấy việc tham gia tiến hành tố tụng của Hội thẩm nhân dân cịn có ý
nghĩa giúp cho vụ án được xem xét toàn diện cả về mặt pháp lý lẫn chuyên
môn riêng biệt. Tùy vào mỗi loại tranh chấp, Tịa án sẽ có quyết định phân
cơng Hội thẩm có chun mơn, vị trí cơng việc phù hợp để tham gia xét xử vụ
án đó.
1.2. Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành
1.2.1. Quyền của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành
Hội thẩm nhân dân là những người không phải là thẩm phán chuyên
nghiệp. Họ là đại diện cho các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp. Hội thẩm có thể phản ánh, nhìn nhận sự kiện, vụ việc bằng suy nghĩ,
tâm tư của quần chúng nhân dân chứ khơng phải từ góc độ pháp lý thuần túy.
Ngồi chức năng giám sát việc xét xử của Tòa án, Hội thẩm nhân dân còn
tham gia với tư cách là người tiến hành tố tụng trong hoạt động xét xử4. Theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự nước ta hiện hành, các quyết định của
họ rất quan trọng trong các quyết định của Hội đồng xét xử đối với kết quả
giải quyết vụ án, thậm chí có tính quyết định. Xét về cơ cấu thành phần Hội
đồng xét xử sơ thẩm với ba thành viên thì có tới hai Hội thẩm nhân dân (đối
với những vụ án phức tạp, tính chất nghiêm trọng, số lượng Hội thẩm nhân
dân có thể lên đến ba người trong tổng số năm thành viên của Hội đồng xét

xử) so với một thẩm phán (hoặc hai Thẩm phán trong Hội đồng năm người)
được phân cơng chủ tọa phiên tịa, trong khi các vấn đề của vụ án liên quan
đến tố tụng và nội dung tại phiên tòa đều do các thành viên trong Hội đồng
4

Nguyễn Quang Hiền (2004), “Chế định hội thẩm”, Khoa học pháp lý, (25), thành phố Hồ Chí
Minh, tr.7-11.


11

xét xử thảo luận, quyết định theo đa số. Xét về mặt pháp lý, khi tiến hành tố
tụng Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó có
một nguyên tắc đặc thù của tổ chức và thực hiện quyền tư pháp đó là “Khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là một
nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp của nước
ta từ Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
Nguyên tắc này tiếp tục được cụ thể hóa tại Điều 12 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011): “Khi xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Để đảm bảo các
nguyên tắc trên đi vào thực tiễn củng phát huy vai trị, vị trí của Hội thẩm
nhân dân, Pháp luật tố tụng dân sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
thẩm nhân dân khi tham gia tố tụng. Trong tố tụng dân sự, việc phân định các
quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân chỉ có tính tương đối, các quyền
đồng thời củng là nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân. Việc phân chia quyền và
nghĩa vụ của hội thẩm nhằm nghiên cứu sâu hơn, có cơ sở gắn với thực tiễn
để góp phần hồn thiện chúng về sau. Điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 quy định chung nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân. Bên cạnh
đó, các văn bản khác như Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Quy chế

về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân (Ban hành kèm theo
Nghị quyết liên tịch Số: 05/2005/NQLT/TANDTC-BNV-UBTWMTTQVN
ngày 05/12/2005 giữa Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Nội vụ, Ủy ban Trung
ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam) củng có những quy định về quyền của Hội
thẩm nhân dân khi tham gia tố tụng dân sự. Khi tham gia tố tụng, Hội thẩm
nhân dân có nhiều quyền hạn, trong đó, có các quyền năng pháp lý tố tụng
được quy định trực tiếp trong Hiến pháp, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức
Tòa án hiện hành; một số quyền hạn khác có tính chất bổ trợ, đảm bảo cho
hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng dân sự được quy định trong Luật tổ
chức Tòa án, Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân.
1.2.1.1. Quyền đề nghị Chánh án, Thẩm phán được phân cơng chủ tọa
phiên tịa ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền


12

Khi được phân công xét xử vụ án, Hội thẩm nhân dân có quyền đề nghị
Chánh án, Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa ra các quyết định tố
tụng thuộc thẩm quyền trong thời gian chuẩn bị xét xử hay tại phiên tòa5.
Đây là một trong các quyền năng pháp lý rất quan trọng, đảm bảo tính
độc lập và ngang quyền với Thẩm phán của Hội thẩm nhân dân. Cơ sở pháp
lý của quyền này được quy định tại Khoản 2 Điều 42 của Bộ luật tố tụng dân
dự hiện hành. Hội thẩm nhân dân tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử nên việc thực hiện các quyền này có phạm vi rất hẹp trong giai
đoạn từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước khi mở phiên tịa;
trong thời gian này, Hội thẩm chỉ có quyền đề nghị Chánh án, Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền.
Tất cả các hoạt động tố tụng trước khi mở phiên tòa liên quan đến thu thập
chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời củng như các quyết định
nhập, tách vụ án, chuyển vụ án, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, hịa giải, cơng

nhận sự thỏa thuận của các đương sự đều thuộc thẩm quyền của Thẩm phán
và do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tiến hành. Từ khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử đến trước thời điểm khai mạc phiên tịa thì Hội thẩm
nhân dân có thể thực hiện quyền này đối với các hoạt động thu thập chứng cứ,
việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và đề nghị Chánh án quyết định
thay đổi Hội thẩm nếu có căn cứ do Bộ luật tố tụng dân sự quy định củng như
đề nghị Thẩm phán chủ tọa ra các quyết định tố tụng khác, cụ thể như sau:
Hội thẩm có quyền từ chối tiến hành tố tụng nếu thấy có một trong các
căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật tố tụng dân sự, hoặc đề nghị Chánh án
thay đổi những người tiến hành tố tụng khác nếu thấy có một trong các căn cứ
quy định tại các Điều 46, 47, 48, 49 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội thẩm hoặc
thẩm phán phải thay đổi nếu như họ trong cùng một Hội đồng xét xử và có
quan hệ thân thích với nhau. Quan hệ thân thích giữa các thành viên Hội đồng
xét xử khơng đảm bảo nguyên tắc độc lập, các quyết định của họ có thể bị chi
phối bởi các mối quan hệ cá nhân. Hội thẩm nhân dân nếu như đã từng tham
gia tố tụng với tư cách là Kiểm sát viên, Thư ký, hoặc đã từng tham gia xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm, tái thẩm, Giám đốc thẩm vụ án đó thì phải thay đổi.
Ngoài ra Hội thẩm phải thay đổi theo các căn cứ khác đã được quy định rõ
5

Nguyễn Quang Hiền (2004), “Chế định hội thẩm”, Khoa học pháp lý, (25), thành phố Hồ Chí
Minh, tr.7-11.


13

trong Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 46 Bộ
luật tố tụng dân sự: Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể khơng vơ tư trong
khi làm nhiệm vụ, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi nếu thuộc trường hợp trên. Ngoài ra, nếu có các mối quan hệ tình

cảm, thơng gia, cơng tác, quan hệ kinh tế với đương sự thì Hội thẩm nhân dân
củng phải được thay đổi… Đây là những căn cứ rõ ràng là trong cuộc sống họ
có mối quan hệ tình cảm thân thiết với nhau, hoặc các mối quan hệ kinh tế.
Căn cứ này đảm bảo lòng tin tuyệt đối của nhân dân vào cơ quan xét xử, Hội
thẩm nhân dân là người đại diện của nhân dân nên phải tuân thủ triệt để
nguyên tắc này. Tự giác từ chối tham gia tiến hành tố tụng là cơ sở đảm bảo
sự tôn nghiêm trong xã hội và tinh thần trách nhiệm trong việc duy trì cơng lý
của Hội thẩm nhân dân.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội thẩm nhân dân phải tiến hành xem
xét, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nếu nhận thấy chứng cứ chưa
đủ cơ sở cho việc giải quyết vụ án thì Hội thẩm có thể trao đổi với Thẩm phán
và có quyền đề nghị Thẩm phán yêu cầu các đương sự giao nộp chứng cứ
hoặc đề nghị Thẩm phán tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp đương
sự khơng thể tự mình thu thập được chứng cứ và có u cầu thì Thẩm phán có
thể tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ như: lấy lời khai
của đương sự, người làm chứng, trưng cầu giám định; quyết định định giá tài
sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; uỷ thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá nhân,
cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện
vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
Đối với các yêu cầu của đương sự liên quan đến việc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tạm đình chỉ vụ án, nếu như qua
nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội thẩm nhân dân nhận thấy chưa được giải quyết
hoặc giải quyết chưa thỏa đáng hoặc mới phát sinh căn cứ đó thì với nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, Hội thẩm có quyền trao đổi về các căn cứ áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, căn cứ tạm đình chỉ vụ án, có quyền đề nghị
Thẩm phán ra các quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời hay tạm đình chỉ vụ án. Đối với các căn cứ đình chỉ vụ án quy định
tại Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự, căn cứ nhập, tách vụ án, chuyển
vụ án cho Tịa án có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 37, Khoản 1,
2 Điều 38 Bộ luật tố tụng dân sự nếu như mới phát sinh hoặc chưa được



14

Thẩm phán giải quyết thì Hội thẩm củng có quyền trao đổi, đề nghị Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa, với Chánh án Tòa án về các căn cứ
trên đồng thời ra các quyết định tố tụng theo thẩm quyền.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội thẩm nhân dân có quyền đề nghị Chánh án,
Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tòa ra các quyết định tố tụng thuộc
thẩm quyền. Quyền năng pháp lý tố tụng này của Hội thẩm nhân dân tại phiên
tịa sơ thẩm có tính quyết định hơn so với giai đoạn trước khi mở phiên tịa.
Hội thẩm tham gia có tính quyết định đối với việc đề nghị Chánh án, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra các quyết định tố tụng với tư cách
là thành viên Hội đồng xét xử, mọi quyết định trước khi đưa ra đều phải được
Hội đồng xét xử bàn bạc, thảo luận và quyết định theo đa số.
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, hội thẩm nhân dân phải có ý kiến
sau khi Thẩm phán chủ tọa thực hiện các hoạt động như công bố quyết định
đưa vụ án ra xét xử, kiểm tra sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu
tập, kiểm tra căn cước của đương sự, giới thiệu người tiến hành tố tụng, giải
thích quyền và nghĩa vụ của các đương sự… Hội thẩm nhân dân phải có ý
kiến đề nghị bổ sung phần thủ tục hoặc cùng với Hội đồng xét xử xem xét,
quyết định việc thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch, xem xét, quyết định hỗn phiên tịa khi có người vắng mặt.
Hội thẩm nhân dân phải nắm chắc diễn biến phần thủ tục, ghi chép đầy đủ và
đối chiếu với các quy định của pháp luật để có quyết định đúng đắn khi có
người vắng mặt tại phiên tịa, khi có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng,
người phiên dịch.
Trong phần hỏi tại phiên tòa, sau khi nghe lời trình bày của các đương
sự, Hội thẩm nhân dân phải tham gia hỏi các đương sự, người có quyền, nghĩa
vụ liên quan, người làm chứng, người giám định để làm sáng tỏ nội dung vụ

án, kiểm tra công khai tất cả các chứng cứ mà các bên đưa ra. Kết quả hỏi tại
phiên tòa là cơ sở để Hội thẩm xem xét, đánh giá chứng cứ, Hội thẩm có
quyền đưa ra ý kiến trong việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại
phiên tòa nếu các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tồn bộ
nội dung vụ án. Khi có người tham gia tố tụng không đồng ý với kết luận
giám định được cơng bố tại phiên tồ và có u cầu giám định bổ sung hoặc
giám định lại, nếu xét thấy việc giám định bổ sung, giám định lại là cần thiết
cho việc giải quyết vụ án thì Hội thẩm cùng với các thành viên trong Hội


15

đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại; đồng thời quyết
định hỗn phiên tồ.
Hỏi tại phiên tòa là hoạt động nghiệp vụ cơ bản của Hội thẩm nhân dân.
Thông qua việc hỏi các đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan,
người làm chứng, người giám định, Hội thẩm nhân dân có đủ căn cứ đánh giá
lại toàn bộ chứng cứ và nội dung vụ án, là cơ sở để Hội thẩm cùng với Hội
đồng xét xử đưa ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền, đồng thời là cơ
sở để Hội thẩm thảo luận, đưa ra ý kiến, quyết định các vấn đề về tố tụng, nội
dung vụ án, quyền bảo lưu ý kiến khi nghị án. Khi hỏi, Hội thẩm nhân dân
còn giải thích, tuyên truyền pháp luật cho các đương sự củng như những
người tham dự phiên tịa. Hỏi có trọng tâm, nội dung thiết thực, có ý nghĩa
cho việc giải quyết vụ án làm tăng uy nghiêm của Hội thẩm và tạo lòng tin
của các đương sự củng như người dân vào hoạt động xét xử. Tính nhân dân
trong hoạt động xét xử được thể hiện rất nhiều thông qua các hoạt động của
Hội thẩm tại phiên tịa, trong đó có hoạt động hỏi.
Để đạt được mục đích của việc hỏi, Hội thẩm nhân dân phải nắm chắc
nội dung vụ án, đồng thời cần phải có những kỹ năng nhất định về pháp luật,
chuyên môn nghề nghiệp liên quan đến nội dung tranh chấp, tâm lý tư pháp

và các kỹ năng phân tích, xử lý tình huống. Mọi diễn biến tại phiên tòa diễn ra
theo một trật tự thời gian xác định, khi hỏi, Hội thẩm nhân dân hỏi sau Thẩm
phán chủ tọa phiên tịa, vì vậy, Hội thẩm phải nắm chắc diễn biến phiên tòa,
nắm nội dung mà các thành viên khác trong Hội đồng xét xử đã hỏi để tránh
hỏi trùng lắp. Đối với các nội dung của vụ án đã được các thành viên trong
Hội đồng xét xử hỏi nhưng chưa rõ thì Hội thẩm nhân dân phải hỏi lại để làm
rõ nội dung đó, đối với các nội dung chưa hỏi thì Hội thẩm tiếp tục hỏi.
Tính chất của tố tụng dân sự bị chi phối bởi nguyên tắc tự định đoạt của
các đương sự, nên khi hỏi, Hội thẩm nhân dân cần phải có thái độ thích hợp,
khách quan và khơng nghiêng về bên nào. Hội thẩm cần giữ thái độ đúng
mực, vô tư và lắng nghe lời trình bày của đương sự với tư cách là người đại
diện của dân trong hoạt động xét xử. Các câu hỏi được sử dụng cần mang tính
gợi mở để các đương sự trình bày, sử dụng câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, tránh
đặt những câu hỏi mang tính truy vấn các đương sự. Hội thẩm cần phải vận
dụng kiến thức chun mơn của mình để hỏi sâu vào các vấn đề thuộc nội
dung quan hệ tranh chấp để giúp các thành viên trong Hội đồng xét xử hiểu rõ


16

nội dung vụ án. Mỗi quan hệ tranh chấp dân sự có nội dung kinh tế, xã hội, kỹ
thuật, pháp lý rất đa dạng khác nhau, vì vậy địi hỏi Hội thẩm nhân dân được
phân công xét xử vụ án phải phù hợp với lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể.
Để đảm bảo việc hỏi thật sự hiệu quả, Hội thẩm nên xây dựng kế hoạch
hỏi sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án. Việc lập kế hoạch hỏi giúp Hội thẩm chủ
động khi tham gia hỏi tại phiên tòa, đồng thời đảm bảo hỏi đầy đủ, chính xác
các nội dung vụ án. Kế hoạch hỏi phải bám sát nội dung vụ án, yêu cầu của
các bên, lưu ý những vấn đề có mâu thuẫn, chưa rõ ràng. Nhìn chung kế
hoạch hỏi phải bao quát tất cả các vấn đề thuộc nội dung vụ án, tuy nhiên Hội
thẩm phải tập trung vào các điểm mấu chốt của vụ án như nội dung tranh

chấp, quan hệ tranh chấp, đối tượng tranh chấp, những người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan, chứng cứ mà các bên đưa ra, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc
lập trong vụ án… Nội dung kế hoạch hỏi cần sắp xếp theo thứ tự, đối tượng
hỏi phù hợp, tùy từng vụ án, số lượng đương sự, tính phức tạp của nội dung
vụ án mà Hội thẩm có chiến lược hỏi khác nhau. Khi lập kế hoạch hỏi, Hội
thẩm nên dự kiến câu hỏi cho từng người và có thể dự kiến nội dung trả lời để
có câu hỏi theo phương án của câu trả lời đó, cần lưu ý đặc điểm tuổi tác, tâm
lý, giới tính, tơn giáo… để đặt câu hỏi thích hợp.
Thơng qua việc hỏi của Hội thẩm và trả lời của các đương sự, người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch, Hội thẩm nhân dân có thể giải
thích về pháp luật liên quan cho họ hiểu, thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền
pháp luật trong nhân dân. Tuy nhiên, cần phải lưu ý trong tuyên truyền, giáo
dục pháp luật, Hội thẩm nhân dân phải có phương pháp và thái độ phù hợp
với tính chất của các quan hệ dân sự và tố tụng dân sự. Nếu như trong tố tụng
hình sự, hội thẩm cần phải làm cho bị cáo nhận thức được lỗi lầm của mình để
làm cơ sở cho việc cải tạo trở thành người có ích cho xã hội về sau thì trong
tố tụng dân sự việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật chủ yếu là giải thích cho
đương sự hiểu, giúp cho các đương sự và người dân “rút kinh nghiệm”, nâng
cao kiến thức của mình để thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ về sau khi
tham gia các quan hệ dân sự. Trong phần hỏi, Hội thẩm nhân dân phải cân
nhắc giữa nhiệm vụ tuyên truyền, giải thích pháp luật và hỏi để làm cơ sở cho
việc giải quyết vụ án. Cần phải tránh trường hợp hỏi qua loa, chiếu lệ, hoặc
chỉ hỏi phục vụ giải quyết vụ án mà không tuyên truyền pháp luật, hoặc chỉ


17

tuyên truyền, giáo dục pháp luật mà không đưa ra được những câu hỏi để góp
phần làm sáng tỏ nội dung vụ án.
Trong phần tranh luận, Hội thẩm nhân dân không tham gia tranh luận,

tuy nhiên, Hội thẩm cùng với Hội đồng xét xử giữ vai trò “trọng tài”, đảm bảo
quyền tranh luận của các bên đương sự không bị hạn chế, hay quyết định
“cắt” phần nội dung tranh luận trùng lấp, không liên quan đến vụ án hoặc
những nội dung ảnh hưởng đến “văn hóa pháp đình” như: có đương sự dùng
từ ngữ khơng thích hợp, xúc phạm danh dự, nhân phẩm bên đương sự khác,
gây mất trật tự phiên tòa… Qua kết quả tranh luận, Hội thẩm nhân dân có
quyền đề nghị trở lại xét hỏi nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được
xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ.
Việc trở lại xét hỏi do Hội đồng xét xử quyết định; sau khi hỏi xong phải tiếp
tục tranh luận. Nội dung tranh luận của các bên chứa thơng tin quan trọng có
ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án, vì vậy Hội thẩm phải theo dõi, ghi chép cẩn
thận để thực hiện tốt quyền hạn và trách nhiệm của mình.
Tóm lại, quyền đề nghị Chánh án, Thẩm phán được phân cơng chủ tọa
phiên tịa ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền trong thời gian chuẩn bị
xét xử hay tại phiên tòa là quyền năng pháp lý tố tụng quan trọng của Hội
thẩm nhân dân. Thực hiện tốt quyền này là một trong các cơ sở đảm bảo
nguyên tắc độc lập và ngang quyền trong hoạt động của Hội thẩm. Nắm chắc
hồ sơ, có kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn và pháp lý, theo dõi tốt diễn biến
phiên tòa là điều kiện để Hội thẩm nhân dân thực hiện tốt quyền đề nghị
Chánh án, Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa ra các quyết định tố
tụng thuộc thẩm quyền trong thời gian chuẩn bị xét xử hay tại phiên tòa.
1.2.1.2. Quyền thảo luận, đưa ra ý kiến, quyết định các vấn đề về tố
tụng, nội dung vụ án, quyền bảo lưu ý kiến khi nghị án
Khi nghị án, Hội thẩm nhân dân có quyền thảo luận cùng với các thành
viên khác trong Hội đồng xét xử, có quyền đưa ra ý kiến, quyết định các vấn
đề về tố tụng, nội dung vụ án, quyền bảo lưu ý kiến khi nghị án, ý kiến bảo
lưu của Hội thẩm được ghi vào biên bản nghị án6.
Đây cũng là một quyền năng pháp lý tố tụng quan trọng của Hội thẩm
nhân dân, cơ sở pháp lý của quyền này được quy định tại Khoản 4 Điều 42,
6


Nguyễn Quang Hiền (2004), “Chế định hội thẩm”, Khoa học pháp lý, (25), thành phố Hồ Chí
Minh, tr.7-11.


18

Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự. tại phiên tòa, tất cả các vấn đề về tố tụng, nội
dung vụ án đều phải được Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định theo đa số.
Hội thẩm nhân dân phải tham gia ý kiến và biểu quyết từng nội dung. Tùy vào
từng nội dung như thay đổi người tiến hành tố tụng, tạm dừng, tạm hỗn
phiên tịa, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, cơng nhận sự thỏa thuận tại phiên tòa,
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hay nghị án sẽ có những
yêu cầu khác nhau về mặt nghiệp vụ đối với Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm
nhân dân phải thực hiện quyền này trên cơ sở kiến thức, kỹ năng xét xử của
mình, những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm trong hoạt động về nghề nghiệp
chỉ mang tính bổ trợ, khơng thể quyết định vấn đề đưa ra một quyết định có
căn cứ pháp luật. Khi thảo luận, đưa ra ý kiến, quyết định các vấn đề thuộc về
nội dung vụ án, Hội thẩm phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tất
cả các ý kiến thảo luận, các quyết định của Hội thẩm đều được ghi vào biên
bản phiên tòa hoặc biên bản nghị án, nếu ý kiến của Hội thẩm khi nghị án là
thiểu số thì có quyền bảo lưu.
Khi nghị án, các vấn đề về tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi kết thúc
phần tranh luận đều được đưa ra xem xét, đánh giá lại, nếu như phát hiện có
vi phạm thủ tục tố tụng thì phải khắc phục bằng cách tạm hỗn phiên tịa để
bổ sung. Việc thụ lý, giải quyết vụ án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
thì kết quả xét xử sơ thẩm sẽ bị hủy. Vì vậy, Hội thẩm phải cùng với thành
viên Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá thận trọng. Đối với các vấn đề về nội
dung, căn cứ áp dụng pháp luật củng phải đánh giá, xem xét từng nội dung
một. Hội thẩm phải đánh giá chứng cứ đối với từng yêu cầu của đương sự

trong vụ án, u cầu nào có căn cứ thì chấp nhận, u cầu nào khơng có căn
cứ thì khơng chấp nhận. Căn cứ Luật áp dụng địi hỏi phải chính xác Điều,
khoản, điểm, văn bản áp dụng, không thể áp dụng các văn bản không phải là
văn bản quy phạm pháp luật như: Cơng văn chỉ đạo của ngành Tịa án, báo
cáo tổng kết cơng tác xét xử, hay bình luận khoa học của các nhà nghiên cứu,
nhà khoa học. Các nguồn tư liệu này chỉ có giá trị tham khảo về đường lối xử
lý, không phải căn cứ pháp luật áp dụng. Bản án sơ thẩm đúng pháp luật, giải
quyết tất cả các vấn đề về tố tụng, nội dung vụ án có sức thuyết phục và giá trị
tuyên truyền pháp luật cao. Ngược lại, bản án sơ thẩm có sai lầm trong việc
áp dụng pháp luật hoặc không trên cơ sở xem xét, đánh giá khách quan, toàn
diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là một trong các căn cứ hủy án ở các


19

trình tự xét xử phúc thẩm, tái thẩm hay giám đốc thẩm. Chính vì vậy, để thực
hiện tốt quyền này, đòi hỏi Hội thẩm nhân dân là một chủ thể áp dụng pháp
luật thực thụ, phải có kỹ năng nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cao.
1.2.1.3. Quyền được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng
kết công tác xét xử của Tòa án.
Một trong các tiêu chuẩn quan trọng của Hội thẩm nhân dân là: Hội
thẩm nhân dân phải có kiến thức pháp luật. Kiến thức pháp luật và các kỹ
năng chuyên môn khác quyết định chất lượng tác nghiệp của Hội thẩm nhân
dân. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, tiêu chuẩn đầu vào của Hội thẩm
Tòa án hai cấp đều như nhau và được quy định rất chung chung là có kiến
thức pháp luật. Phần lớn Hội thẩm nhân dân mới bổ nhiệm đều có kiến thức
chuyên môn nghề nghiệp cao nhưng đối với kiến thức pháp luật thì rất hạn
chế, chỉ một số ít Hội thẩm từng hoạt động trong ngành tư pháp nên có trình
độ cử nhân luật. Trong khi Điều 11 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: khi xét
xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán. Ngang quyền có nghĩa là

khi xét xử, quyền hạn của Thẩm phán đến đâu thì Hội thẩm đến đó, Thẩm
phán có quyền hạn nào thì Hội thẩm có quyền hạn đó. Tuy nhiên, quyền quan
trọng nhất là quyền quyết định kết quả xét xử vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm
có quyền ngang nhau trong việc quyết định các vấn đề về nội dung và tố tụng
của vụ án. Ngoài nguyên tắc ngang quyền, cịn có ngun tắc khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm còn phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Xét xử
độc lập không được tách rời việc tuân theo pháp luật và ngược lại. Do vậy,
khi tham gia xét xử, Hội thẩm phải nắm chắc hồ sơ, quy định pháp luật liên
quan, phải lắng nghe tâm tư nguyện vọng của quần chúng trên địa bàn xảy ra
vụ án, theo dõi diễn biến phiên tòa, đối chiếu với pháp luật rồi độc lập, công
tâm suy xét một cách sáng suốt, công minh theo lương tâm và trách nhiệm
của mình, khơng vị nể hoặc bị áp lực của bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Đưa ra
ý kiến thảo luận thẳng thắn dân chủ trong Hội đồng xét xử. Khi nghị án thì
biểu quyết theo ý chí, niềm tin nội tâm của mình để quyết định giải quyết vụ
án. Nếu ý kiến của mình là thiểu số thì mạnh dạn yêu cầu ghi rõ vào biên bản
nghị án, lưu hồ sơ để giúp cấp trên xem xét khi vụ án có kháng cáo, kháng
nghị phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm. Xã hội kỳ vọng rất nhiều vào Hội thẩm
nhân dân trong công tác xét xử, tuy nhiên tiêu chuẩn về trình độ pháp luật của
Hội thẩm như trên là hết sức mâu thuẫn.


20

Chính vì vậy, muốn đảm bảo cho Hội thẩm nhân dân thực hiện tốt
quyền và nghĩa vụ của mình trong tố tụng dân sự, đảm bảo khi xét xử Hội
thẩm thật sự độc lập và ngang quyền với Thẩm phán, công tác bồi dưỡng
nghiệp vụ cho Hội thẩm là một đòi hỏi khách quan, đồng thời củng là một
quyền hạn của Hội thẩm. Để giải quyết được vấn đề bồi dưỡng nghiệp vụ cho
Hội thẩm, địi hỏi phải có các phương án và giải pháp đồng bộ cùng với sự
tham gia tích cực, trách nhiệm từ nhiều phía. Chánh án Tịa án Tối cao cần

hồn thiện tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân, từ khâu
nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá chứng cứ, kỹ năng tham gia hỏi tại phiên
tịa, nghe phân tích các tranh luận tại phiên tòa đến việc tham gia nghị án…
Trách nhiệm của Hội đồng nhân dân tỉnh và cấp huyện là phải tăng cường
giám sát, có chính sách hỗ trợ hoạt động của Hội thẩm nhân dân, thông qua
hỗ trợ ngân sách để Tòa án mở thêm các lớp bồi dưỡng chuyên đề, bổ sung
kiến thức cho Hội thẩm nhân dân.
Ở một khía cạnh nào đó, thực hiện nhiệm vụ của một Thẩm phán, Kiểm
sát viên có thể nói là dễ hơn làm một Hội thẩm nhân dân. Bởi lẽ, các chức
danh tư pháp trên thường chỉ được phân công thụ lý một số loại án chuyên
sâu, trong từng lĩnh vực ở bộ phận hình sự, dân sự, hơn nhân gia đình (đối với
cấp huyện); ở từng Tịa chun trách như: Tịa Dân sự, hình sự, hành chính kinh tế - lao động (ở cấp tỉnh). Còn đã là Hội thẩm nhân dân thì tham gia xét
xử tất cả các loại án, từ hình sự, dân sự, đến hành chính, kinh tế, lao động và
phá sản doanh nghiệp… Tuy nhiên, thực tế nếu trách nhiệm của Hội thẩm
nhân dân được xác định một cách rõ ràng đối với các bản án bị hủy, cải sửa
thì e rằng khơng ai dám chấp nhận làm Hội thẩm nhân dân trong một điều
kiện với tiêu chuẩn, chế độ như hiện nay. Nhiều ý kiến cho rằng, để các Hội
thẩm nhân dân đảm đương được chức trách, nhiệm vụ của mình nên quy định
tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân phải có trình độ cử nhân luật hoặc đã qua công
tác pháp luật từ 3-5 năm. Điều quan trọng nữa là Hội thẩm nhân dân phải có
bản lĩnh, có tinh thần bảo vệ cơng lý, tích cực phản biện khi thẩm phán có dấu
hiệu tiêu cực, thiếu khách quan trong quá trình tố tụng.
Hiện nay, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm do Tòa án nhân
dân cấp tỉnh tiến hành cho hai cấp, một số địa phương kết hợp với trường đào
tạo cán bộ Tòa án để bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm theo kế hoạch của
Tòa án nhân dân tối cao. Hội thẩm nhân dân được bồi dưỡng một số lĩnh vực


×