Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thi hành án hành chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.05 KB, 83 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

HUỲNH THỊ KHÁNH NGÂN
MSSV: 0955040047

THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
Niên khóa: 2009 - 2013

GVHD: ThS. LÊ VIỆT SƠN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2013


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

-

Luật TTHC: Luật Tố tụng hành chính.

-

Pháp lệnh TTGQCVAHC: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

-

UBND: Uỷ ban nhân dân.


-

TAND: Tịa án nhân dân.

-

Luật THADS: Luật Thi hành án dân sự.


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. ..... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH Ở
VIỆT NAM

...................................................................................................... 5

1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án hành chính ................................ 5
1.1.1 Khái niệm thi hành án hành chính ............. ............................................ 5
1.1.2 Đặc điểm của thi hành án hành chính .................................................... 9
1.2. Ý nghĩa của thi hành án hành chính ......................................................... 13
1.3. Lƣợc sử hình thành và phát triển của thi hành án hành chính
ở Việt Nam ......................................................................................................... 15
1.4. Những quy định của pháp luật về thi hành án hành chính ..................... 18
1.4.1 Đối tượng của thi hành án hành chính ................................................. 19
1.4.2 Thủ tục thi hành án hành chính ............................................................ 20
1.4.3 Trách nhiệm thi hành án hành chính và các cơ quan quản lý Nhà nước
về thi hành án hành chính .................................................................................. 23
1.4.4 Kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án hành chính ........................ 31

1.4.5 Xử lý vi phạm trong thi hành án hành chính ......................................... 33
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN THI HÀNH ÁN
HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM

36

2.1. Thực trạng về thi hành án hành chính ở Việt Nam ................................ 36
2.1.1 Thực trạng thi hành bản án, quyết định của Tịa án về quyết định hành chính,
hành vi hành chính

.................................................................................. 36

2.1.2 Thực trạng thi hành phần tài sản, quyền tài sản trong án hành chính .. 43
2.2. Những bất cập về thi hành án hành chính ở Việt Nam ........................... 47
2.2.1. Về pháp luật ........................................................................................... 47
2.2.2. Về thực tiễn ........................................................................................... 51
2.3. Những kiến nghị hoàn thiện thi hành án hành chính ở Việt Nam .......... 56
2.3.1. Về mặt pháp lý ..................................................................................... 56
2.3.2. Về mặt thực tiễn ..................................................................................... 63


KẾT LUẬN ......................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Thi hành án là hoạt động đưa bản án, quyết định có hiệu lực vào trong thực tế mang
tính quyền lực Nhà nước thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, tính nghiêm chỉnh
của Nhà nước, tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đến pháp luật đồng thời tăng

cường pháp chế và trật tự xã hội, chính vì vậy mà thi hành án đóng một vai trò hết sức
quan trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng này Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu cho
những năm tới được quy định tại Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về
một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới: “Tiếp tục tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án hành chính, nâng cao hiệu quả cơng tác
thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ
quan thi hành án, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án”. Vì vậy mà
nhiều năm qua Nhà nước ta đã xác định thi hành án hành chính là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm và đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác thi hành
án hành chính cho nên những năm qua cơng tác thi hành án đã có những chuyển biến
tích cực hơn đặc biệt là sau khi Luật Tố tụng hành chính được ban hành và có hiệu lực
pháp luật, với việc trao thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính cho Tịa án nhân
dân các cấp tạo điều kiện cho các vụ án hành chính được giải quyết một cách nhanh
chóng, kịp thời đáp ứng được nhu cầu của người dân so với thời kì trước đây, bước đầu
theo sát yêu cầu cải cách tư pháp. Tuy nhiên, vẫn còn quá nhiều bất cập xoay quanh vấn
đề thi hành án hành chính đặc biệt là khi rơi vào trường hợp chủ thể có trách nhiệm thi
hành án là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, bên
cạnh đó án tuyên không rõ ràng, không khả thi, không quy định quyền và nghĩa của các
bên có liên quan cũng là nguyên nhân dẫn đến án tuyên nhưng khó thi hành trên thực tế
làm cho hiệu quả công tác thi hành án hành chính vẫn chưa cao vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ, sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân, tình trạng
án hành chính vẫn còn tồn đọng kéo dài và ngày càng tăng quá nhiều gây bức xúc trong
dư luận, quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan khơng được bảo đảm xâm phạm
đến quyền con người một cách nghiêm trọng, chưa bảo đảm được tính cơng bằng và


nghiêm minh của pháp luật. Chưa có sự phối hợp, đồng bộ giữa các cơ quan bảo vệ
pháp luật, cơ sở pháp lý về công tác tổ chức và hoạt động thi hành án hành chính vẫn
chưa cụ thể, chặt chẽ, cơ chế quản lý và thi hành hiện nay khơng hợp lý gây khó khăn

cho việc áp dụng và làm giảm hiệu quả công tác thi hành án hành chính.
Chính vì vậy muốn giải quyết tình trạng án tồn đọng nâng cao hiệu quả công tác thi
hành án hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan, trật
tự xã hội được bảo đảm thì cần phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp đồng bộ về nhiều
mặt: Kinh tế, pháp luật, chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ v.v... Nhưng
trong khuôn khổ của luận văn tốt nghiệp, chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên cứu những vấn
đề liên quan đến pháp luật. Với tất cả những lý do trên, việc chọn đề tài “Thi hành án
hành chính ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Thi hành án hàn chính là đề tài mới được đặt ra từ năm 1995 từ khi Quốc hội thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, trao
thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính cho cho Tịa án nhân dân các cấp. Chính vì đây
là vấn đề mới cho nên có rất ít đề tài nghiên cứu về thi hành án hành chính ở nước ta,
nếu có cũng chỉ là một phần nhỏ khi tác giả nghiên cứu về Tố tụng hành chính, cùng với
sự phát triển của xã hội đồng thời thi hành án hành chính càng ngày càng trở thành vấn
đề nóng gây dư luận trong quần chúng nhân dân cho nên trong giai đoạn gần đây cũng
có một số đề tài nghiên cứu về thi hành án hành chính ở Việt Nam, có thể kể đến đó là:
Luật gia Đinh Văn Minh: Tài phán hành chính so sánh - Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, 1995; Luật gia Nguyễn Thanh Bình: Tìm hiểu pháp luật tố tụng hành chính - Nhà
xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1997; Tìm hiểu xét xử hành chính ở một số nước và
lãnh thổ trên thế giới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,1995; Phạm Xuân Nam: Thi
hành án hành chính ở Việt Nam- thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc
sĩ Luật học, 2012; Nguyễn Thị Thương Huyền: Bảo đảm quyền con người trong thi
hành án hành chính ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, 2012.
Luật Tố tụng hành chính đã được đưa vào giảng dạy tại một số trường đại học đào
tạo Luật thế nhưng chương riêng về thi hành án hành chính vẫn khơng được chú ý đúng
mức. Bên cạnh các đề tài nghiên cứu còn có các tạp chí, bài viết liên quan đến đề tài thi
hành án hành chính như: Lê Việt Sơn: Thi hành án hành chính theo luật Tố tụng hành



chính, Tạp chí Tịa án nhân dân, số (11), (12), 2013; Kim Chi - Lệ Hoa: Nâng cao hiệu
quả thi hành Luật Tố tụng hành chính, Tạp chí nghề Luật, số (4), 2011, tuy nhiên trong
quá trình nghiên cứu nguồn tài liệu để chúng tơi nghiên cứu vẫn rất ít.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
3.1 Mục đích
Mục tiêu tổng qt của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác thi hành án hành chính ở nước ta
hiện nay. Để đạt được mục tiêu lớn đó cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau.
3.2 Nhiệm vụ
Làm rõ cơ sở lý luận về thi hành án và thi hành án hành chính; đánh giá đúng đắn và
tồn diện về thực trạng pháp luật về thi hành án hành chính và thực tiễn thi hành án hành
chính; phân tích ngun nhân của thực trạng đó; đưa ra những giải pháp trước mắt và
lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác thi hành án hành chính.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
“Thi hành án hành chính ở Việt Nam” là đề tài khá rộng và phức tạp cho nên trong
đề tài luận văn tốt nghiệp này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề lý luận và
thực tiễn về thi hành án và thi hành án hành chinh; đánh giá thực trạng về thi hành án
hành chính và từ đó đưa ra giải pháp hồn thiện hệ thống pháp luật thi hành án hành
chính nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án hành chính trong điều kiện mới của đất nước
ta.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật; các phương pháp được sử dụng kết hợp, đó là : Phương pháp nghiên
cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng
hợp.
6. Ý nghĩa và những điểm mới của luận văn:
Luận văn đã đưa ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về khái niệm thi hành án
và thi hành án hành chính, tìm hiểu đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án hành chính góp
phần bổ sung, làm phong phú thêm vào hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi

hành án; từ việc đánh giá thực trạng pháp luật thi hành án, chúng tôi đã đưa ra những


điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án hành
chính; từ việc đánh giá thực tiễn thi hành án hành chính, chúng tơi đã phân tích ngun
nhân và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm 2
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thi hành án hành chính ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện thi hành án hành chính ở Việt Nam.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn - Thạc sĩ Lê Việt Sơn - Giảng
viên Khoa Luật Hành Chính cùng quý Thầy, cơ trong khoa đã tận tình hướng dẫn và
động viên khích lệ để tác giả hồn thành khóa luận này.


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án hành chính
1.1.1 Khái niệm thi hành án hành án hành chính
Tịa án nhân danh Nhà nước để ra một bản án, quyết định nhằm giải quyết
một cách tổng thể về nội dung của vụ án nhằm xác định rõ sự thật khách quan của
vụ án và quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, chính vì vậy mà các bản
án, quyết định này mang tính quyền lực Nhà nước và chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết
trên cơ sở áp dụng các quy định pháp luật có liên quan, đồng thời lúc này bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án vẫn chưa được thi hành vì vậy quyền
và lợi ích của đương sự thắng kiện trong vụ án vẫn chưa được bảo đảm. Chính vì lẽ
đó mà thi hành án đóng một vai trị hết sức quan trọng đối với giá trị của bản án,
quyết định cho nên việc thi hành án một cách nghiêm chỉnh bản án trở thành quy
định mang tính hiến định đồng thời trở thành nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét

xử nói chung và thi hành án nói riêng được thể hiện tại Điều 136 Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992: “Các bản án và các quyết định của tịa
án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Tuy nhiên, cho đến hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật nói
chung và Luật Tố tụng hành chính (Luật TTHC) nói riêng vẫn chưa có khái niệm cụ
thể nào về thi hành án hành chính có chăng cũng chỉ là các cơng trình nghiên cứu
của một số các nhà khoa học pháp lý, chính lẽ đó mà khi bàn về khái niệm thi hành
án hành chính gặp khơng ít những khó khăn.
Theo từ điển tiếng Việt, “thi hành án” có nghĩa là “thực hiện theo các điều
đã được chính thức quyết định”1, vậy có thể khái niệm thi hành án hành chính là
việc đưa các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án ra thi hành tuy nhiên đây

1

Trung tâm Từ điển học (1994), Từ điển tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 903.

9


cũng chỉ là khái niệm theo lối suy luận dựa vào câu chữ vẫn chưa rõ được bản chất
của thi hành án hành chính theo cơ sở pháp lý.
Khái niệm về thi hành án hành chính cũng đã được đưa ra trong các tài liệu
tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy tại các trường đào tạo luật như Giáo
trình Luật Tố tụng hành chính của Đại học luật Hà Nội “thi hành án hành chính là
một giai đoạn tố tụng độc lập, nó kết thúc và đánh giá kết quả Tòa án giải quyết
tranh chấp ”2 và Giáo trình Luật Tố tụng hành chính của Đại học luật thành phố Hồ
Chí Minh “thi hành án hành chính là giai đoạn tố tụng độc lập, kết thúc quá trình
tố tụng hành chính”3, nhìn chung cả hai giáo trình này đều có điểm giống nhau khi

cùng cho rằng thi hành án hành chính là một giai đoạn độc lập, kết thúc q trình tố
tụng hành chính tuy nhiên theo chúng tôi với khái niệm này vẫn chưa lột tả được
bản chất của thi hành án hành chính.
Chính vì khái niệm thi hành án không rõ ràng đã dẫn đến rất nhiều quan
điểm tranh cãi khác nhau giữa các nhà khoa học pháp lý, có quan điểm cho rằng thi
hành án đơn thuần chỉ là hoạt động hành chính, số khác thì lại cho rằng thi hành án
là hoạt động tư pháp đơn thuần, bên cạnh đó cịn có quan điểm cho rằng thi hành án
là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp.
Quan điểm thứ nhất, cho rằng thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng mà
là hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước, quan điểm này xuất phát từ các căn
cứ sau:
Một là, cho rằng thi hành án là hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết
định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật và do chính cơ quan hành chính Nhà nước
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước thi hành theo trình
tự, thủ tục hành chính, nếu trường hợp đối tượng phải thi hành liên quan đến tài sản
thì sẽ do cơ quan thi hành án dân sự triển khai thực hiện trong khi đó cơ quan thi
hành án dân sự lại là cơ quan hành chính Nhà nước và một số hoạt động cưỡng chế
thi hành cũng theo thủ tục hành chính.

2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB. Cơng an nhân
dân, tr.193.
3
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB.
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.400.

10



Hai là, cho rằng xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình xét xử khi mà sự
thật đã được khẳng định và việc áp dụng pháp luật đã hồn thành thì q trình tố
tụng kết thúc, ngồi ra các tác giả ủng hộ quan điểm này còn viện dẫn “quá trình tố
tụng là quá trình giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật, quá trình này trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng các giai đoạn có liên quan mật thiết với nhau
trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng cho nên
bản án , quyết định của Tòa án là kết quả cuối cùng đánh giá sự kết thúc của q
trình tố tụng”4.
Theo chúng tơi cho rằng thi hành án hành chính khơng chỉ đơn thuần là hoạt
động hành chính với đặc trưng là phương pháp mệnh lệnh- phục tùng “sẽ khơng thể
giải thích được vì sao trong thi hành án dân sự chủ yếu được thực hiện bởi yêu cầu
của người được thi hành án, trong trường hợp này không thể áp dụng phương pháp
mệnh lệnh phục tùng như trong quan hệ hành chính đơn thuần”5.
Quan điểm thứ hai cho rằng thi hành án là một giai đoạn của hoạt động tố
tụng.
Thi hành án là giai đoạn của tố tụng vì nó là giai đoạn kế tiếp của xét xử
nhằm mục đích đưa kết quả xét xử vào thực tế “Có xét xử thì phải có thi hành án,
thi hành án dựa trên cơ sở của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt
thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự”6, nếu tách giai đoạn thi hành
án ra khỏi hoạt động tố tụng thì sẽ khơng thực hiện được mục tiêu chung của hoạt
động tố tụng đó là mục tiêu khơi phục lại trật tự pháp luật bị xâm hại và đưa nó về
với trạng thái như pháp luật đã quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức, Nhà nước.
Các quan điểm xem thi hành án là hoạt động hành chính thì cho rằng thi
hành án khơng thể là giai đoạn của tố tụng, bởi vì thi hành án có mục đích khác với
mục đích của tố tụng. Bởi vì mục đích của tố tụng là q trình đi tìm sự thật của các
vụ việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy
4

Lê Minh Tâm (2011), “Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án”, Tạp chí Luật học, (2), tr. 21-22.

Nguyễn Thị Thương Huyền (Chủ nhiệm), Bảo đảm quyền con người trong thi hành án hành chính Việt
Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, năm 2012.
6
Nguyễn Cơng Bình (1998), Mấy vấn đề về thi hành án dân sự trong việc soạn thảo bộ luật tố tụng dân sự”,
Tạp chí Luật học, (5), tr.43-44.
5

11


định của pháp luật vì vậy mà tồn bộ q trình tố tụng diễn ra theo quy trình hết sức
chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình đẳng, cơng khai, dân chủ, tơn
trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng... và khi có phán quyết của tồ án
thì q trình tố tụng kết thúc7. Trong khi đó, thi hành án là q trình tiến hành các
hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của tồ án đã có hiệu lực pháp
luật.
Quan điểm thứ ba, cho rằng thi hành án được xem là hoạt động hành chính tư pháp, đây là một quan điểm được sự đồng thuận cao của các nhà khoa học pháp
lý và riêng đối với chúng tơi thì chúng tôi cũng nghiên về quan điểm này và cho
rằng thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động tư pháp hay đơn thuần là hoạt
động hành chính dựa vào các căn cứ sau:
Một là, thi hành án hành chính mang bản chất của hoạt động tư pháp bởi vì
đối tượng thi hành án là các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án
trong đó cơ quan tư pháp cũng tham gia vào quá trình thi hành án, tuy nhiên chúng
ta cần phải hiểu cơ quan tư pháp theo nghĩa rộng. Trong suy nghĩ của đa số kể cả
những người có kiến thức về pháp luật và khơng có kiến thức về pháp luật đều cho
rằng cơ quan tư pháp gồm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều
tra, cơ quan thi hành án, nhưng về mặt lý luận thì quyền tư pháp là quyền xem xét
và đưa ra phán quyết cho nên chỉ có Tịa án là cơ quan tư pháp độc lập duy nhất còn
Viện kiểm sát chỉ là cơ quan tham gia vào hoạt động tư pháp mà thơi, chính lẽ đó
mà khơng thể nói rằng thi hành án là hoạt động tư pháp được.

Hai là, thi hành án hành chính là hoạt động mang tính hành chính và đặc
trưng của hành chính là phương pháp mệnh lệnh- phục tụng thế nhưng nó lại khơng
đúng trong trường hợp thi hành án dân sự, bởi vì trong thi hành án dân sự một trong
những nguyên tắc cơ bản xuyên suốt nhất đó là nguyên tắc tự nguyện, phương pháp
thuyết phục, giáo dục có ý nghĩa quan trọng hơn, chỉ khi nào bên có nghĩa vụ khơng
tự nguyện thi hành mới áp dụng các biện pháp cần thiết buộc thi hành án, cịn trong
thi hành án hình sự thì phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc có tính đặc thù. Tính chấp
hành trong thi hành án hành chính phản ánh một đặc trưng chứng tỏ nó khơng đơn
7

Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện thi hành án dân sư ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.31.

12


thuần là hoạt động tố tụng thuần tuý. Vì vậy có thể dùng “cái gạch ngang" giữa
hành chính và tư pháp để phản ánh bản chất của thi hành án. Vấn đề đặt ra là có thể
xác định được mức độ (liều lượng) của tính hành chính và tính tư pháp trong thi
hành án hay khơng? Thật khó có thể xác định rõ được điều này8”.
Qua phân tích ở phần trên chúng ta có thể nhận định được rằng: Thi hành án
hành chính là hoạt động hành chính- tư pháp mang tính quyền lực Nhà nước, do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định nhằm buộc người kết án phải chịu các hình phạt hoặc buộc những cá nhân, tổ
chức phải thực hiện các nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tịa án.
Qua đây chúng tơi xin phép được rút ra khái niệm chung mang tính lý luận
về thi hành án hành chính như sau : “Thi hành án hành chính là hoạt động do các
chủ thể có thẩm quyền tiến hành nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tịa án về vụ án hành chính theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định.

1.1.2 Đặc điểm của thi hành án hành chính
Thi hành án hành chính cũng có những đặc điểm nói chung như thi hành án
hình sự, thi hành án dân sự, đó là : Về nguyên tắc thi hành án hành chính cũng là
hoạt động diễn ra sau q trình xét xử của Tịa án trong đó các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành thi hành án tuy nhiên, đối
với quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì người có nghĩa vụ phải
thi hành ngay sau khi quyết định này có hiệu lực, bên cạnh đó dù thi hành án hành
chính, thi hành án dân sự, thi hành án hình sự thì việc thi hành án cũng đòi hỏi cũng
phải tuân theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục chặt chẽ của pháp luật.
Bên cạnh những đặc điểm chung thi hành án hành chính cịn có những đặc
điểm riêng để phân biệt giữa thi hành án hành chính với các loại thi hành án khác
như:
Thứ nhất, thi hành án hành chính khơng có cơ quan chuyên trách thi hành
án mà chủ yếu được thực hiện bằng thủ tục hành chính

8

Lê Minh Tâm (2001), “ Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án”, Tạp chí Luật học ,(2), tr .23-24.

13


Thi hành án hành chính được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan nhà nước
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước tức là chủ thể đã ban hành ra
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện. Nếu người khởi kiện có
nghĩa vụ thi hành nhưng không tự nguyện thi hành cơ quan nhà nước sẽ tổ chức thi
hành và trong trường hợp này cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền ban hành
các quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính nhằm bảo đảm cho bản án,
quyết định được bảo đảm thực thi trên thực tế.
Đây là một trong những đặc điểm để có thể phân biệt với thi hành án hình sự

và thi hành án dân sư, đối với hoạt động thi hành án hình sự và thi hành án dân sự
đều có cơ quan chuyên trách để thi hành án đó là cơ quan thi hành án hình sự và cơ
quan thi hành án dân sự tuy nhiên, thi hành án hành chính lại khơng có bất kì cơ
quan nào điều này xuất phát từ tính đặc thù của việc giải quyết vụ án hành chính,
bởi chủ thể bị khởi kiện trong vụ án hành chính ln là cơ quan Nhà nước hoặc cán
bộ, cơng chức có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước khi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Chúng ta đều biết các quyết định hành chính, hành vi hành chính là những
cơng cụ đắc lực cho hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước vì vậy
mà các quyết định hành chính, hành vi hành chính này mang tính quyền lực Nhà
nước có giá trị thi hành đối với các đối tượng chịu sự quản lý, tuy nhiên, trong q
trình quản lý của mình vơ hình những quyết định hành chính, hành vi hành chính
này lại trở thành đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính làm cho q trình quản
lý của các cơ quan hành chính nhà nước bị gián đoạn. Trong q trình xét xử nếu
Tịa án bác u cầu khởi kiện, cơng nhận tính hợp pháp của quyết định hành chính,
hành vi hành chính thì người khởi kiện phải có nghĩa vụ tiếp tục thi hành quyết định
hành chính, hành vi hành chính là điều đương nhiên, nếu khơng thi hành thì cơ quan
Nhà nước sẽ sử dụng các bộ phận, đội ngũ có thẩm quyền để buộc thi hành án và
đây là hoạt động mang tính chuyên biệt của chủ thể quản lý Nhà nước nên khơng
một cơ quan nào có thể tổ chức cưỡng chế thi hành, ngoài ra hoạt động này cũng
được thực hiện theo thủ tục hành chính.

14


Trong trường hợp Tòa án tuyên hủy một phần hoặc tồn bộ quyết định hành
chính, hành vi hành chính thì Tịa án khơng có quyền tun một quyết định hành
chính, hành vi hành chính mới để thay thế, sửa đổi mà trách nhiệm này sẽ thuộc về
cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Trong trường
hợp này cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước sẽ

tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước bằng cách ban hành một quyết định hành chính, hành vi hành chính
đúng pháp luật. Vì vậy mà pháp luật của nước ta và hầu hết các nước trên thế giới
không đặt ra vấn đề tổ chức thi hành án hành chính bằng cơ quan thi hành án
chuyên trách9.
Đối với các quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định vụ án hành
chính thì được thực hiện bởi cơ quan thi hành án dân sự và theo pháp luật thi hành
án dân sự bởi vì phán quyết này mang tính “dân sự”. Cơ quan thi hành án dân sự sẽ
tiến hành tổ chức thi hành án về phần tài sản trong bản án, quyết định của vụ án
hành chính với các trình tự, thủ tục như đối với các bản án, quyết định về vụ án dân
sự. Trong khoảng thời gian luật định người thi hành án, người phải thi hành án có
quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án,
trong thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật người phải thi hành án nhận
được thông báo hợp lệ về quyết định thi hành án người có trách nhiệm phải tự
nguyện thi hành nếu hết thời hạn mà không thi hành thì sẽ bị cưỡng chế bằng các
biện pháp mà pháp luật Thi hành án dân sự quy định.
Thứ hai, thi hành án hành chính vừa mang tính bắt buộc vừa mang tính tự
nguyện
Đây cũng là đặc điểm khác biệt so với thi hành án hình sự và thi hành án dân
sự. Thi hành án hình sự mang tính bắt buộc, cưỡng chế nhà nước trong đó hình phạt
là biện pháp cưỡng chế được quy định trong luật hình sự do Tòa án quyết định
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền và lợi ích của người bị kết án thậm chí là
tước đi mạng sống của con người chính vì vậy mang tính cưỡng chế là điều tất yếu.
Cịn đối với thi hành án dân sự mang tính tự nguyện cao vì bản chất của dân sự là
9

Lê Bình Vọng (1994), Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.96.

15



sự tự do thỏa thuận tất cả những vấn đề có liên quan chỉ cần sự thỏa thuận đó khơng
trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối với thi hành án hành chính vừa mang tính bắt
buộc vừa mang tính tự nguyện, tính bắt buộc thể hiện rõ nét khi quyết định hành
chính, hành vi hành chính trái pháp luật sẽ xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và
lợi ích của các chủ thể thuộc đối tượng bị quản lý, sau khi có bản án, quyết định của
Tịa án tun hủy một phần hoặc tồn bộ quyết định hành chính, hành vi hành chính
thì trách nhiệm sửa sai của chủ thể quản lý là một nghĩa vụ do pháp luật quy định
bằng cách ban hành một quyết định hành chính mới, hành vi hành chính mới hoặc
sửa một phần quyết định hành chính trái pháp luật và đồng thời đây cũng là cách
thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước.
Mặt khác thi hành án hành chính cịn thể hiện tính tự nguyện nếu đó là thi hành
phần tài sản trong bản án hành chính, bởi vì bản án, quyết định có liên quan đến
phần tài sản sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự, như
đã phân tích ở phần trên nguyên tắc cơ bản liên quan đến tính chất dân sự đó là tơn
trọng sự tự nguyện thi hành án của các chủ thể có liên quan, chỉ khi nào các chủ thể
có trách nhiệm không tự nguyện thi hành mới áp dụng các biện pháp cần thiết để
bảo đảm thi hành án được thực thi trên thực tế.
Thứ ba, thi hành án hành chính là một hoạt động mang tính hành chính - tư
pháp trong đó hành chính chiếm ưu thế hơn
Như đã phân tích ở phần khái niệm thi hành án các nhà khoa học pháp lý đều
nghiên về quan điểm cho rằng thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp. Thực
tiễn cũng đã cho thấy rằng, đặc điểm của mỗi loại hình thi hành án cũng như của
mỗi nhóm vụ việc trong từng loại hình thi hành án quy định mức độ của tính hành
chính và tính tư pháp. Theo chúng tơi, trong thi hành án, tính tư pháp luôn thể hiện
ở mức độ hạn chế hơn so với tính hành chính

10


. Trong khi đó thi hành án hành

chính mang tính đặc thù riêng về đối tượng phải thi hành bản án, quyết định của
Toà án cho nên chúng ta có thể thấy tính hành chính nổi trội hơn tính tư pháp. Tính
hành chính trong vụ án hành chính thể hiện một cách rõ nét bởi vì án hành chính
mang tính chất đặc thù riêng đó là bên bị kiện luôn là cơ quan nhà nước hoặc người
10

Lê Minh Tâm (2001), “Thử bàn mấy vấn đề lý luận vê thi hành án”, Tạp chí Luật học, (2), tr.23-24.

16


có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước nên khi xét xử Tịa án khơng có quyền đưa
ra bản án, quyết định để giải quyết nội dung mà đơn thuần chỉ là xem xét tính hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, của cơ quan Nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước. Nếu Tòa án bác yêu cầu khởi kiện
giữ nguyên quyết định hành chính, hành vi hành chính thì việc tổ chức thi hành án
trong trường hợp này thực chất là việc thi hành các quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước. Nếu Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ các
quyết định hành chính, hành vi hành chính đó thì cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước sẽ ban hành quyết định mới mang tính chất
thay thế, thực chất đây là việc thực hiện mang tính chất quản lý của cơ quan hành
chính nhà nước và mang trình tự, thủ tục hành chính. Bản chất của vụ án hành chính
vốn dĩ đã tồn tại mối quan hệ bất bình đẳng giữa một bên là cơ quan Nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước với một bên là người dân,
cơ quan, tổ chức cho nên dù là người thắng kiện hay thua kiện đi chăng nữa thì
cũng phải thực hiện mệnh lệnh có tính bắt buộc trên ngun tắc quyền uy- phục
tùng trong quá trình quản lý của cơ quan nhà nước. Nếu thắng kiện cũng phải thực

hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính mới mang tính chất thay thế một
phần hoặc tồn bộ quyết định hành chính, hành vi hành chính cũ bị khởi kiện, nếu
thua kiện thì phải tiếp tục thực hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính ban
đầu.
Thứ tư, đối tượng thi hành án hành chính có khác biệt với thi hành án hình
sự và thi hành án dân sự
Trong thi hành án hình sự và dân sự khơng bao gồm việc thi hành quyết định
hành chính, hành vi hành chính của chủ thể quản lý hành chính. Trong thi hành án
dân sự đối tượng thi hành là các quyết định dân sự mang tính chất tài sản, nhân
thân, cịn trong thi hành án hình sự đối tượng thi hành đó là hình phạt và các biện
pháp tư pháp khác. Trong khi đó thi hành án hành chính có đối tượng thi hành là
các quyết định liên quan đến các cơ quan nhà nước, chủ yếu là các cơ quan hành
chính nhà nước.

17


Thứ năm, chủ thể tổ chức thi hành án thường là người bị kiện trong vụ án
hành chính
Do tính chất đặc thù của vụ án hành chính cho nên thi hành án hành chính
khơng có cơ quan chun trách tổ chức thi hành án hành chính mà được thực hiện
bởi chính chủ thể bị khởi kiện là cơ quan quản lý nhà nước.
Trong trường hợp bản án, quyết định của Tịa án tun bác u cầu khởi kiện
thì trách nhiệm thi hành sẽ thuộc về chủ thể khởi kiện vụ án hành chính và việc thi
hành bản án, quyết định sẽ do cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan nhà nước đã ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính tổ chức thi
hành án theo thủ tục hành chính, thật ra đây là việc tổ chức thực hiện các quyết định
hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước. Cịn trong trường
hợp bản án, quyết định của Tòa án hủy một phần hoặc tồn bộ quyết định hành
chính, hành vi hành chính thì trách nhiệm thi hành án sẽ thuộc về chính cơ quan nhà

nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đồng thời chính cơ quan
nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước sẽ tổ chức thi hành án,
cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước sẽ ban hành
một quyết định hành chính mới, hành vi hành chính mới hoặc sửa một phần quyết
định hành chính, hành vi hành chính.
1.2. Ý nghĩa của thi hành án hành chính
Vụ án hành chính được giải quyết phải trải qua các quá trình tố tụng chặt
chẽ và theo quy định của pháp luật, mỗi giai đoạn đều đóng vai trị quan trọng và có
ý nghĩa nhất định trong việc giải quyết vụ án thể hiện qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất, đối với cá nhân, tổ chức được thi hành án
Việc thi hành các bản án, quyết định trên thực tế sẽ bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước nhà nước lúc đó cũng là lúc công lý được thực
thi, yêu cầu về công bằng, dân chủ và quyền con người được bảo đảm11.
Thứ hai, về mặt chính trị - xã hội

11

Giáo trình Luật Tố tụng hành chính, Trường Đại học Luật Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức- Hội Luật gia
Việt Nam, tr.403.

18


Một là, thi hành án cịn thể hiện sự cơng bằng của xã hội qua đó quyền dân
chủ của người dân được bảo đảm đồng thời lúc này sẽ tạo cho người dân niềm tin
tưởng vào pháp luật vào Đảng, nâng cao uy tín của bộ máy nhà nước mà đại diện là
Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Bởi vì quyền con người khơng chỉ bị xâm
phạm từ phía cá nhân trong xã hội mà cịn từ phía các cơ quan cơng quyền, các cơ
quan Nhà nước khi thực hiện chức năng quản lý của mình thường ra các quyết định
hành chính, hành vi hành chính nếu như người dân không được pháp luật bảo vệ thì

đồng nghĩa với việc pháp luật bị xem nhẹ trật tự kỉ cương bị xáo trộn, quyền lực nhà
nước bị xem thường và lợi ích của cơng dân khơng được bảo vệ vì vậy thi hành án
đóng vai trị hết sức quan trọng.
Hai là, việc thi hành án hành chính một cách nghiêm túc là sự thể hiện của
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong đó giai đoạn thi hành có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng bởi vì việc thực thi các bản án, quyết định của tòa án bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa được quy định trong hiến pháp
mang tính hiến định và cũng trở thành nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử nói
chung và hoạt động thi hành án nói riêng, ở đâu pháp luật khơng được thực hiện
nghiêm chỉnh ở đó pháp chế xã hội chủ nghĩa bị xâm phạm. Bản án, quyết định của
Tòa án được thi hành là trách nhiệm của các chủ thể có liên quan và cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cũng là thể hiện của pháp chế xã hội chủ nghĩa và hiện nay
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân đang là một nhiệm vụ thường xuyên và cấp bách khơng chỉ của nhà nước mà
của tồn xã hội thì thi hành án càng đóng vai trị quan trọng hơn bao giờ hết12.
Ba là, việc thi hành án đồng thời cịn tăng cường trách nhiệm của cơ quan
hành chính nhà nước, là nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước
nói chung, quản lý hành chính nhà nước nói riêng, nâng cao được trách nhiệm thi
hành công vụ của các cán bộ,công chức nhà nước13, đồng thời xem xét lại mình, cẩn
trọng hơn khi ra các quyết định hành chính, hành vi hành chính với nguyên tắc “chỉ
được làm những điều pháp luật cho phép”. Thơng qua việc giải quyết vụ án hành
12

Lê Bình Vọng (1994), Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.7-8.
13
Kim Chi - Lệ Hoa (2011), “Nâng cao hiệu quả thi hành Luật Tố tụng hành chính”, Tạp chí nghề Luật, (4),
tr. 28.

19



chính phán quyết của Tịa án về tính hợp pháp hay bất hợp pháp của một quyết định
hành chính, hành vi hành chính có giá trị định hướng cho cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền khi thực hiện nhiệm vụ được giao và lúc này những sai lầm trong quản lý nhà
nước được ngăn lại, sửa chữa.
Thứ ba, về hoạt động tố tụng
Thi hành án có ý nghĩa hết sức quan trọng là giai đoạn cuối cùng sau khi đã
trải qua các giai đoạn tố tụng khác nhau theo một thủ tục tố tụng nghiêm ngặt nhằm
bảo đảm cho kết quả giải quyết vụ án hành chính được chính xác, vì vậy mà thi
hành án hay khơng nó có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các giai đoạn trước
đó nếu thi hành án khơng được thực thi trên thực tế thì đồng nghĩa với việc giải
quyết vụ án trở nên vô nghĩa. Thi hành bản án hoặc quyết định của tòa án là sự thể
hiện trên thực tế, có tính bắt buộc phải thi hành với các chủ thể có liên quan, góp
phần bảo đảm giá trị của các giai đoạn xét xử trước đó, thể hiện bản chất nghiêm
minh, khách quan của pháp luật và của hoạt động áp dụng pháp luật
1.3. Lƣợc sử hình thành và phát triển của thi hành án hành chính ở Việt
Nam
Sau hơn hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng công tác xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung và đặc biệt là
hồn thiện về pháp luật tố tụng hành chính nói riêng đã đạt được những tiến bộ hết
sức quan trọng bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, so với thi hành án hình sự và thi hành án dân sự thì thi hành án
hành chính vẫn cịn là vấn đề pháp lý mới mẻ, vẫn chưa được quan tâm một cách
đúng mức trong những giai đoạn trước, nhưng với chính sách mở cửa, hội nhập
quốc tế như hiện nay thì vấn đề pháp điển hóa các quy định của pháp luật để giải
quyết các khiếu kiện hành chính và đặc biệt là thi hành án các bản án, quyết định
hành chính càng được quan tâm và chú trọng một cách đúng mức hơn, điều này thể
hiện một cách rõ ràng qua quá trình hình thành và phát triển của thi hành án hành

chính ở Việt Nam.

20


Giai đoạn 1945-1995: giai đoạn này được tính từ sau cách mạng tháng Tám
1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến trước khi ban
hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội khóa IX thông qua ngày 21/5/1996 (gọi tắt là pháp lệnh năm 1996)
Trong giai đoạn này chế định thi hành án hành chính ở nước ta vẫn chưa
được hình thành vì chủ yếu các tranh chấp hành chính chủ yếu được giải quyết bằng
con đường khiếu nại hoặc là dựa vào cơ chế dân chủ khác như giám sát xã hội, giám
sát các cơ quan quyền lực nhà nước, chính vì vậy mà khiếu nại, tố cáo là một trong
những quyền cơ bản của công dân và trong giai đoạn này, Nhà nước cũng đã ban
hành pháp lệnh (năm 1981 và năm 1991) để quy định về lĩnh vực này, tuy nhiên đây
cũng chỉ là thẩm quyền thủ tục giải quyết theo cấp hành chính, theo lối cơ quan
hành chính vừa là người bị kiện lại vừa là người phán quyết vẫn chưa thành lập các
Tòa án độc lập hay tòa hành chính trong tịa án chung, điều này xuất phát từ mơ
hình “Bộ trưởng-quan tịa”14 đã từng tồn tại. Bên cạnh đó thiếu những quy định cụ
thể và đồng bộ làm căn cứ cho việc giải quyết khiếu nại, điều này khiến cho nhiều
vụ việc khơng có cơ sở để giải quyết và do đó khiếu nại của cơng dân khơng được
giải quyết dứt điểm, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến lịng tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước.
Có thể thấy một đặc điểm trong giai đoạn này đó là một số vụ án có tính
chất hành chính lại được giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, theo Điều
11 Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 cho phép Tòa án nhân dân được
quyền giải quyết những khiếu kiện về hành chính như: những việc khiếu nại cơ
quan hộ tịch về việc từ chối đăng kí hoặc khơng chấp nhận u cầu sửa đổi những
điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch; những việc khiếu nại về danh sách cử tri. Chính
đặc điểm này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vụ án hành chính nói

chung và thi hành án hành chính nói riêng có những bước thay đổi đáng kể. Tuy
nhiên, việc Tòa án vừa là cơ quan xét xử một số vụ án có tính chất hành chính lại
vừa là cơ quan chỉ đạo thi hành các phán quyết dẫn đến sự quá tải về công việc,
chưa đảm bảo được khách quan, công bằng cho hoạt động thi hành án. Thế nhưng
14

Vũ Thư (1998), „‟Hai con đường giải quyết khiếu nại hành chính- giải pháp lựa chọn và triển vọng”, Tạp
chí Tịa án nhân dân, (6), tr.13.

21


cùng với sự phát triển không ngừng của pháp luật Thi hành án dân sự qua Pháp lệnh
Thi hành án dân sự năm 1993 và đặc biệt hơn là Luật Thi hành án dân sự năm 2008
đã tạo tiền đề cho thi hành án nói chung và thi hành án hành chính nói riêng hình
thành và phát triển hồn thiện sau này.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền, từ thực trạng
giải quyết khiếu nại của công dân ở nước ta, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của các
nước, một nhu cầu mang tính cấp bách đó là cần phải xây dựng hệ thống tài phán
hành chính nói chung và trao thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính cho tịa
án nói riêng để giải quyết có hiệu quả khiếu nại của cơng dân đối với cơ quan Nhà
nước.
Giai đoạn 1995- đến nay: giai đoạn này được tính từ khi Pháp lệnh năm
1996 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/1996 cho đến khi ban hành Luật TTHC có hiệu lực
năm 2011
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân được
ban hành năm 1992 đã trao cho Tòa án chức năng xét xử những vụ án hành chính,
và thiết lập một Tịa hành chính trong Tịa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân
dân cấp tỉnh bên cạnh các tịa hình sự, dân sự, kinh tế, lao động để thực hiện chức
năng xét xử những vụ án hành chính và với Pháp lệnh năm 1996 và sau đó là Pháp

lệnh 1998 và 2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh 1996 đã trao thẩm
quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính cho Tịa án, điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa cũng như là sự chủ động hơn cho Tòa án trong việc giải quyết các vụ án
hành chính nhanh chóng và kịp thời hơn15. Tuy nhiên, giai đoạn này quy định trước
khi khởi kiện ra Tịa án, cơng dân phải thực hiện việc khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại và phải nhận được văn bản trả lời của người có thẩm
quyền mà không đồng ý (thủ tục này gọi là thủ tục tiền tố tụng) và đây cũng là giai
đoạn mà chế định thi hành án hành chính đã được ghi nhận và được thực hiện trên
thực tế. Thế nhưng, thực tiễn áp dụng để giải quyết các vụ án hành chính vẫn cịn
bộc lộ những hạn chế và bất cập nhất định như có những quy định chưa đầy đủ, rõ
15

Ngơ Văn Thạc (2009), “Sự cần thiết hồn thiện pháp luật tố tụng hành chính trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Tịa án nhân dân, số 1/2009, tr .1-5.

22


ràng, có những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác, đặc
biệt là điều chỉnh hoạt động thi hành án cịn q ít các quy định trực tiếp, do vậy mà
vấn đề tổ chức thi hành cũng như công tác quản lý thi hành án hành chính vẫn cịn
gặp những khó khăn nhất định. Ngay cả Pháp lệnh 1996 được sửa đổi, bổ sung qua
các năm 1998 và 2006 cũng không hề quy định cụ thể về đối tượng thi hành án hành
chính; chưa quy định về trách nhiệm thi hành án hành chính của cá nhân, cơ quan
và tổ chức có liên quan; chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành án hành
chính và chưa quy định các biện pháp xử lý cụ thể đối với cơ quan ban hành quyết
định hành chính bị thua kiện nhưng cố tình trì hỗn, khơng chấp hành bản án để bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
Do đó mà việc xây dựng và hồn thiện Luật TTHC nói chung cũng như chế

định thi hành án hành chính nói riêng thay thế Pháp lệnh TTGQCVAHC hiện hành
là một trong những yêu cầu cấp thiết, nhằm bảo đảm tính thống nhất giữa các quy
định pháp luật. Ngày 24/11/2010, Quốc hội đã ban hành Luật TTHC, có hiệu lực từ
ngày 01/7/2011, thay thế cho Pháp lệnh TTGQCVAHC. Luật TTHC đã theo hướng
mở rộng quyền dân chủ và pháp chế trong hoạt động xét xử16, đặc biệt là có những
quy định cụ thể và chặt chẽ hơn quy định về chế định thi hành án hành chính, đã
góp phần to lớn cho q trình khiếu kiện hành chính bằng con đường tư pháp hiệu
quả hơn nâng cao lòng tin của nhân dân vào sự nghiêm minh và công bằng của cơ
quan xét xử, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những quy định cụ thể về chế định thi hành án hành
chính được quy định trong Luật TTHC sẽ được chúng tôi trình bày chi tiết hơn
trong phần sau của luận văn.
1.4. Những quy định của pháp luật về thi hành án hành chính
Ngày 24/11/2010, Quốc hội đã ban hành Luật TTHC, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2011 thay thế cho Pháp lệnh TTGQCVAHC. So với Pháp lệnh
TTGQCVAHC, Luật TTHC không những có sửa đổi quan trọng mà cịn quy định
thêm nhiều nội dung mới đặc biệt là các quy định cụ thể hơn về chế định thi hành
án hành chính và dành nguyên chương XVI để quy định về thi hành án hành chính,
16

Lê Việt Sơn (2010), “ Những điểm mới về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân
dân”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 13/2011, tr 12-16.

23


tạo điều kiện cho các bản án, quyết định có cơ sở được thực thi trên thực tế nhằm
bảo đảm hiệu quả của hoạt động xét xử, ngoài ra với những sửa đổi, bổ sung quan
trọng về thi hành án cịn là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả,
hiệu lực quản lý nhà nước bằng Hiến pháp và pháp luật và sẽ tạo nên một diện mạo

hồn tồn mới cho thi hành án hành chính ở Việt nam vốn dĩ bị mờ nhạt hơn so với
thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, điều này cũng là hiển nhiên phù hợp với
chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế phục vụ cho công cuộc đổi mới của đất nước
ta. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu các quy định hiện hành về thi hành án hành chính để
thấy được sự thay đổi vượt bật so với Pháp lệnh TTGQCVAHC .
1.4.1 Đối tượng của thi hành án hành chính
Trong q trình giải quyết vụ án hành chính Tịa án có thể ban hành rất
nhiều phán quyết khác nhau tuy nhiên không phải tất cả các phán quyết đó đều là
đối tượng của thi hành án hành án hành chính. Xác định chính xác đối tượng thi
hành án hành chính sẽ là cơ sở quan trọng bảo đảm hiệu quả của hoạt động thi hành
án. Đối tượng của thi hành án hành chính được quy định trong Luật TTHC là các
bản án, quyết định giải quyết các khiếu kiện hành chính đã có hiệu lực pháp luật,
còn các bản án, quyết định trong các lĩnh vực khác như thương mại, dân sự, hình sự
khơng phải là đối tượng của thi hành án hành chính.
Theo Điều 241 Luật TTHC thì những bản án, quyết định của Tịa án về vụ
án hành chính được thi hành gồm: bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã
có hiệu lực pháp luật; bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết đinh
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; quyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định tại Điều 240 của Luật TTHC;
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tịa án mặc dù có khiếu nại,
kiến nghị.
Pháp lệnh TTGQCVAHC trước đây vẫn chưa tạo cơ sở vững chắc cho việc
thi hành án vì chưa có quy định cụ thể về đối tượng thi hành án hành chính đã tạo
nên những khó khăn nhất định cho các chủ thể có liên quan khi áp dụng trên thực tế

24


làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và điều này đã được

Luật TTHC khơng những khắc phục được mà cịn hồn thiện tốt hơn thể hiện qua:
Thứ nhất, mở rộng đối tượng thi hành án không chỉ dừng lại ở các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp sơ thẩm và của Tòa án cấp phúc
thẩm mà cả các quyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, điều này tạo điều kiện cho mọi khiếu kiện đều được giải quyết
một cách thỏa đáng thấu tình đạt lý đáp ứng được nguyện vọng của người dân và
mọi quyết định mang tính chất giải quyết vụ án hành chính đều được thi hành trên
thực tế bảo đảm được quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, Luật TTHC đã có sự xác định đối tượng một cách rõ ràng, cụ thể
hơn so với Pháp lệnh TTGQCVAHC làm giảm bớt sự lúng túng của cá nhân, tổ
chức khi thi hành điều đó được thể hiện qua việc Luật TTHC khơng có quy định
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính thuộc đối tượng thi hành án hành
chính như trong Pháp lệnh TTGQCVAHC và theo chúng tơi thì quy định như trong
Luật TTHC là chính xác hơn, bởi vì quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án không
xác định nội dung giải quyết liên quan đến khiếu kiện, do đó trách nhiệm thi hành
khơng thể hiện rõ trong quyết định đình chỉ, ngồi ra thì quyết định đình chỉ là
quyết định chấm dứt việc xét xử các bên trở lại quan hệ hành chính ban đầu vì vậy
đây khơng thể là đối tượng của thi hành án hành chính được.
1.4.2 Trách nhiệm thi hành án hành chính và các cơ quan quản lý Nhà nước
về thi hành án hành chính
Điều quan trọng nhất khi giải quyết vụ án không chỉ đơn giản là dừng lại ở
việc ra một bản án, quyết định mà là những phán quyết đó có được thực thi trên
thực tế hay khơng, vì vậy mà việc quy định trách nhiệm thi hành án hành chính và
cơ quan quản lý về thi hành án hành chính đóng một vai trị hết sức là quan trọng
bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời bảo vệ quyền con người. So với
Pháp lệnh TTGQCVAHC thì Luật TTHC đã có những quy định cụ thể về trách
nhiệm thi hành án hành chính và cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án hành
chính, đây chính là cơ sở quan trọng để thực hiện việc kiểm tra, đôn đốc và chịu
trách nhiệm của các cơ quan có nghĩa vụ thi hành án.


25


×