BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
PHAN XUÂN TÂN
NGUỒN CHỨNG CỨ ĐIỆN TỬ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGHÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUỒN CHỨNG CỨ ĐIỆN TỬ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số cn: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: Pgs.Ts. Hoàng Thị Minh Sơn
Học viên: Phan Xn Tân
Lớp: Cao học Luật, khóa 19
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của chúng tơi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHAN XN TÂN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
BLTTHS:
GDĐT:
TTHS:
NCCĐT:
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự
Giao dịch điện tử
Tố tụng hình sự
Nguồn chứng cứ điện tử
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ ĐIỆN
TỬ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................................ 6
1.1. Khái niệm chứng cứ điện tử và nguồn chứng cứ điện tử ................. 6
1.2. Các loại nguồn chứng cứ điện tử ...................................................... 11
1.3. Đặc điểm của nguồn chứng cứ điện tử ............................................ 17
1.4. Nguồn chứng cứ điện tử và nguồn chứng cứ truyền thống ........... 26
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ
ĐIỆN TỬ ................................................................................................................ 30
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ điện tử .. 30
2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguồn chứng cứ điện tử
................................................................................................................ 30
2.1.2. Đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguồn chứng
cứ điện tử ................................................................................................ 34
2.2. Thực trạng thực hiện quy định về nguồn chứng cứ điện tử trong tố
tụng hình sự Việt Nam ............................................................................. 35
2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới
về nguồn chứng cứ điện tử và kinh nghiệm đối với Việt Nam ............. 38
2.2.1. Nguồn chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự Hoa Kỳ ............... 38
2.2.2. Nguồn chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự Thụy Sĩ................ 56
2.2.3. Kinh nghiệm đối với Việt Nam ..................................................... 62
2.4. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về nguồn chứng cứ điện tử ......................................................... 64
2.4.1. Tăng cường triển khai các biện pháp thi hành quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 về nguồn chứng cứ điện tử .................... 64
2.4.2. Tiếp tục hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự về nguồn chứng cứ
điện tử ..................................................................................................... 65
2.4.2. Giải pháp khác ............................................................................. 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong TTHS, chứng cứ là phương tiện để chứng minh tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội. Chứng cứ có ý nghĩa trong việc làm rõ những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, đồng thời cũng là một trong những vấn đề
lý luận có tính phức tạp nhất, nhưng hiện nay nó chưa được đề cập đến nhiều và
cũng ít có cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt là NCCĐT.
Qua tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành, đã khẳng định vai trò quan trọng của
BLTTHS năm 2003 trong công cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, góp phần
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình n của
nhân dân, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế,
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các quy định
của BLTTHS đã tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật,
hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bào chữa, bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong TTHS. Các vụ án cơ
bản được giải quyết đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do BLTTHS quy định. Tuy
nhiên, quy định về chứng cứ chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa
thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc hiến định và chưa theo kịp
sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những
nguồn chứng cứ truyền thống là tài liệu, đồ vật; các dữ liệu điện tử được thu thập từ
mạng Internet, từ các thiết bị điện tử chưa được công nhận là chứng cứ.1
Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp thể hiện qua Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị,
trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật hình sự năm 2015 đã điều
chỉnh các hành vi nguy hiểm liên quan đến công nghệ thông tin, truyền thông; các
luật chuyên ngành như Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch điện tử đã đề cập
đến giá trị của “thông điệp dữ liệu” như Điều 14 Luật Giao dịch điện tử quy định
“Thơng điệp dữ liệu có giá trị làm chứng cứ” và một số văn bản quy phạm pháp luật
1
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003.
2
khác cũng đã ra đời góp phần điều chỉnh các mặt khác nhau trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, truyền thơng.
Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, tháo gỡ những vướng mắc đặt ra
trong thực tiễn, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và yêu
cầu hội nhập quốc tế, BLTTHS 2015 đã đáp ứng được những thay đổi của tình hình
thực tế đấu tranh phịng, chống tội phạm về cơng nghệ cao khi quy định dữ liệu điện
tử là một trong những nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, trước những thay đổi nhanh
chóng của khoa học, cơng nghệ, tội phạm cơng nghệ cao thực hiện hành vi phạm tội
với cách thức, thủ đoạn, công cụ và phương tiện ngày càng tinh vi thì những quy
định về phương pháp phát hiện, thu thập, phục hồi, đánh giá và sử dụng chứng cứ
đối với các nguồn chứng cứ truyền thống đã khơng cịn hồn tồn phù hợp, gây ra
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình đấu tranh đối với loại tội phạm này.
Hơn nữa, NCCĐT lại là một quy định mới, phức tạp khơng dễ áp dụng. Do đó, tác
giả luận văn chọn đề tài: “Nguồn chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự Việt Nam lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, NCCĐT trong TTHS là đề tài được một số tác giả quan
tâm nghiên cứu trên những mức độ, khía cạnh khác nhau có thể kể đến như:
- Luận văn thạc sỹ Luật học năm 2011 về “Tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thơng, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản theo Pháp luật Hình sự hiện hành” của Lê Thị Huyền Trang, Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Trong luận văn này, tác giả mặc dù có đề xuất thay
đổi quy định của BLTTHS về chứng cứ, tuy nhiên tác giả vẫn chưa đi sâu, hệ thống
hóa các loại NCCĐT, các nguyên tắc cũng như thẩm quyền thu thập, cách thức sử
dụng NCCĐT.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2011 về “Thu thập chứng cứ trong tố tụng
hình sự Việt Nam” của Phạm Kim Hằng, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh. Trong luận văn này, tác giả có đề cập việc thừa nhận hay khơng thừa nhận
giá trị pháp lý của chứng cứ điện tử; bổ sung, mở rộng NCCĐT vào khái niệm
chứng cứ; đề xuất bổ sung khái niệm, thủ tục, quyền hạn thu thập loại chứng cứ
điện tử. Tuy nhiên, đây là luận văn về vấn đề thu thập chứng cứ, tác giả chỉ trình
bày rải rác, chưa hệ thống hóa, chưa đi sâu vào các khía cạnh khác nhau xung quanh
NCCĐT như: chứng cứ điện tử biểu hiện trên thực tế là những loại nào; cách thức,
quyền hạn thu thập v.v…
3
- Nguyễn Nhật Lệ (2014), Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã
nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý về nguồn chứng cứ như khái niệm nguồn chứng cứ,
phân biệt khái niệm chứng cứ với nguồn chứng cứ; phân tích các quy định của
BLTTHS năm 2003 về nguồn chứng cứ; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định
của BLTTHS năm 2003 về nguồn chứng cứ, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng và hướng khắc phục. Tuy nhiên, luận văn chỉ bàn về nguồn chứng
cứ thông thường.
- PGS. TS. Trần Văn Hòa (2015), “Vấn đề chứng cứ điện tử” trong cuốn
sách chuyên khảo “Những nội dung mới của BLTTHS năm 2015”, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Bài viết đã khái quát về dữ liệu điện tử; giá trị pháp lý
của dữ liệu điện tử; điều kiện để dữ liệu điện tử có thể sử dụng làm chứng cứ…
cũng như một số vấn đề về thủ tục TTHS đối với dữ liệu điện tử.
- Phạm Văn Chánh, Nguồn chứng cứ điện tử là dữ liệu điện tử theo quy định
của BLTTHS năm 2015, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử, Hà Nội. Bài viết đã
nêu sự cần thiết phải luật hóa dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ và phân tích rõ hơn
quy định của BLTTHS năm 2015 về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử;
Ngồi những cơng trình trên, cịn một số các bài viết khác có liên quan đến
đề tài luận văn của tác giả như: Cơng trình “An tồn thơng tin và cơng tác phịng
chống tội phạm sử dụng cơng nghệ cao” của tác giả Trần Văn Hịa; Đinh Phan
Quỳnh (2011), “Chứng cứ điện tử và các nguyên tắc thu thập trong Tố tụng hình
sự”, Tạp chí Khoa học giáo dục cảnh sát nhân dân Số 15, Trường Đại học Cảnh sát
nhân dân; Trần Văn Hòa (2014), “Vấn đề dấu vết điện tử và chứng cứ trong
BLTTHS (sửa đổi)”, Tạp chí Khoa học và Chiến lược số chuyên đề tháng 12/2014
của Viện Chiến lược và khoa học Bộ Công an, Hà Nội; Đinh Phan Quỳnh, “Chứng
cứ điện tử và các nguyên tắc thu thập trong chứng cứ điện tử, Thông tin khoa học”,
website của Trường Đại học kiểm sát Hà Nội…
Trong các cơng trình nói trên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu nguồn
chứng cứ điện tử một cách toàn diện mà chủ yếu mới dừng lại ở các nguồn chứng
cứ thơng thường hoặc một khía cạnh rất cơ bản của nguồn chứng cứ điện tử.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về NCCĐT và
thực trạng áp dụng các quy định pháp luật trong phát hiện, thu thập, sử dụng
4
NCCĐT, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS
Việt Nam về nguồn chứng cứ và một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định của pháp luật TTHS về NCCĐT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích là đưa ra các giải pháp nêu trên, luận văn đặt ra và giải
quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận về NCCĐT trong TTHS như khái
niệm, đặc điểm, các hình thức tồn tại của NCCĐT…
- Phân tích, làm rõ quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến NCCĐT và
đối chiếu với quy định của BLTTHS năm 2015 về NCCĐT.
- Chỉ rõ thực trạng áp dụng pháp luật TTHS liên quan đến NCCĐT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề
lý luận, pháp luật và thực trạng NCCĐT trong TTHS Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về NCCĐT trong pháp luật TTHS
Việt Nam và quy định pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới về NCCĐT.
Do BLTTHS năm 2003 không quy định NCCĐT nên luận văn chỉ nghiên cứu dựa
trên cơ sở quy định tại Thông tư liên tịch Số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTPBTT&TT-VKSNDTC-TANDTC, ngày 10 tháng 9 năm 2012 hướng dẫn áp dụng
quy định của BLHS về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông và Luật Giao dịch điện tử năm 2005, có so sánh với quy định của BLTTHS
năm 2015 về NCCĐT.
Về thời gian, do BLTTHS hiện hành (2003) không quy định về NCCĐT, nên
luận văn khơng có điều kiện nghiên cứu trực tiếp thực tiễn thực hiện quy định về
NCCĐT. Luận văn chỉ có thể nghiên cứu gián tiếp thông qua việc thực hiện các quy
liên quan từ thời điểm có Thơng tư liên tịch Số 10/2012 nói trên.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của
triết học Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngồi ra, các phương pháp phân tích, tổng hợp,
đối chiếu, so sánh… được sử dụng phù hợp với từng nội dung, lĩnh vực nghiên cứu
của đề tài.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về NCCĐT
trong TTHS.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong việc học tập, nghiên cứu… những vấn đề có liên quan đến NCCĐT trong
TTHS; luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo trong việc tiếp tục hoàn thiện và
thực hiện tốt quy định BLTTHS năm 2015 về NCCĐT.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố
cục gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguồn chứng cứ điện tử trong tố tụng
hình sự.
Chương 2: Pháp luật tố tụng hình sự và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
quy định của pháp luật về nguồn chứng cứ điện tử.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ ĐIỆN TỬ TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm chứng cứ điện tử và nguồn chứng cứ điện tử
Chứng cứ là phương tiện để chứng minh tội phạm và là một trong những vấn
đề lý luận phức tạp nhất của TTHS. Hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới, tội phạm
sử dụng công nghệ cao được hiểu bao gồm hai loại: tội phạm với mục tiêu tấn cơng
vào máy tính, mạng máy tính, cơ sở dữ liệu và tội phạm có sử dụng phương tiện kỹ
thuật số, mạng máy tính để làm công cụ thực hiện hành vi các tội phạm. Những thủ
đoạn phạm tội cơng nghệ cao có thể liệt kê như: lừa đảo trên mạng, trộm cắp địa chỉ
thư điện tử, thơng tin thẻ tín dụng và thơng tin cá nhân; đưa thơng tin thẻ tín dụng
đã ăn cắp được lên mạng để mua bán, trao đổi, cho tặng; thực hiện rửa tiền bằng
cách chuyển tiền từ tài khoản trộm cắp được sang tài khoản tiền ảo như e-gold, epassport...; lừa đảo trong hoạt động thương mại điện tử, trong quảng cáo, bán hàng
trực tuyến qua mạng, mua bán ngoại tệ, mua bán cổ phiếu qua mạng; đánh bạc, cá
độ bóng đá qua mạng; sử dụng máy tính để thực hiện hành vi trốn thuế, tham ô;
buôn bán ma túy qua mạng; tổ chức hoạt động mại dâm qua mạng; truyền bá văn
hóa phẩm đồi trụy qua mạng; thực hiện các hoạt động khủng bố, gây rối qua mạng;
xâm phạm an toàn của hệ thống hạ tầng an ninh quốc gia; lập trạm thu phát tín hiệu
trái phép, sử dụng mạng Internet để chuyển cuộc gọi quốc tế thành cuộc gọi nội
hạt... Khi thực hiện hành vi của mình, tội phạm đều để lại dấu vết tại hiện trường vụ
án cũng như trên công cụ, phương tiện phạm tội. Theo đó, khi tội phạm sử dụng
cơng nghệ cao thực hiện hành vi phạm tội trong môi trường mạng máy tính, mạng
thơng tin, viễn thơng, chúng sẽ để lại dấu vết trên các thiết bị điện tử nói chung, đây
là những dữ liệu tồn tại dưới dạng những tín hiệu điện tử kỹ thuật số, được tạo ra
một cách tự động, khách quan và lưu giữ một cách tự động trong bộ nhớ của các
thiết bị điện tử, tồn tại trong một thời gian nhất định. Khi sử dụng những phần mềm
và thiết bị phù hợp, có thể phát hiện, thu giữ và ghi lại được dưới dạng kỹ thuật số
hoặc in ra giấy để làm chứng cứ sử dụng tại tịa án.
Chứng cứ trong TTHS là những thơng tin, tài liệu, đồ vật có thật, được thu
thập theo quy định của pháp luật để làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong
vụ án (đối tượng chứng minh). Hay nói một cách khác là để xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc
7
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong khoa học TTHS hiện nay có nhiều quan
điểm khác nhau về chứng cứ điện tử. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, “Chứng cứ điện tử là dữ liệu điện tử, tồn tại dưới dạng ký hiệu,
chữ viết, chữ số, hình ảnh hoặc âm thanh hoặc dạng tương tự, được lưu trong máy
tính hoặc các thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số khác, có liên quan đến vụ án”.2 Căn cứ
vào định nghĩa dữ liệu được đề cập trong Luật Giao dịch điện tử, tác giả đã đưa ra
được hình thức tồn tại của NCCĐT, tuy nhiên dữ liệu chỉ “được lưu” trên máy tính
và các thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số khác là chưa đầy đủ, bởi vì trên thực tế, bên
cạnh việc được lưu trữ trong bộ nhớ, thiết bị lưu trữ, dữ liệu còn được truyền tải,
giao nhận thơng qua mạng (khơng dây hoặc có dây), giữa các máy tính hoặc giữa
các thiết bị điện tử với nhau. Mặt khác, khái niệm này cũng chưa đề cập đến tính
khách quan và khả năng thu thập chứng cứ đúng theo trình tự thủ tục TTHS.
Thứ hai, “Chứng cứ kỹ thuật số (digital evidence) là thông tin và dữ liệu có
giá trị cho điều tra được lưu trữ, giao nhận và truyền tải bởi thiết bị điện tử. Chứng
cứ này có được khi dữ liệu và những thiết bị điện tử được thu thập và bảo quản cho
giám định”.3 Khái niệm này đã nêu lên được bản chất của NCCĐT, tính liên quan
của nó với tội phạm xảy ra. Tính khách quan của chứng cứ được đảm bảo bởi nó
phải trải qua cơng tác giám định khách quan, khoa học; được thực hiện bởi người có
chun mơn được Nhà nước công nhận trong từng lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, trong
khái niệm chưa đề cập đến việc tuân thủ đúng trình tự, thủ tục TTHS trong thu thập
chứng cứ, bởi theo Tu chính án Thứ tư (Fourth Amendment), trong hầu hết các
trường hợp khi thực hiện hoạt động điều tra tội phạm, lực lượng hành pháp phải
được sự cho phép bằng văn bản (written permission) từ tòa án để khám xét và thu
thập chứng cứ một cách hợp pháp.
Thứ ba, “Chứng cứ kỹ thuật số được định nghĩa là bất kỳ dữ liệu nào được
lưu trữ hay truyền tải sử dụng máy tính nhằm chứng minh hay biện luận giả thuyết
tội phạm đã xảy ra như thế nào hoặc để giải quyết các tình tiết quan trọng của tội
phạm như ý định hay ngoại phạm”.4 Trong định nghĩa này, khái niệm dữ liệu được
đề cập về cơ bản là sự kết hợp các số nhị phân biểu diễn thông tin dưới các kiểu
2
Trần Văn Hịa, An tồn thơng tin và Cơng tác phịng chống tội phạm sử dụng cơng nghệ cao, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, tr.373.
3
U.S. Department of Justice, Office of Justice Programs, National Institute of Justice (2012), Electronic
Crime Scene Investigation: A Guide for First Responders, Second Edition,CreateSpace Independent
Publishing Platform, USA, pp. ix.
4
Eoghan Casey (2011), Digital Evidence and Computer Crime - Forensic Science, Computer and the
Internet, Third Edition, Elsevier Inc, USA, pp. 7.
8
khác nhau bao gồm văn bản (text), hình ảnh (images), âm thanh (audio), và phim
(video) nhưng không bao quát đầy đủ phạm vi của NCCĐT, tức chỉ có dữ liệu được
lưu trữ hay truyền tải bởi máy tính mới được coi là chứng cứ điện tử. Vế sau của
khái niệm chỉ nêu lên được tính liên quan của chứng cứ đối với tội phạm, chưa nêu
lên được tính hợp pháp hay tính khách quan của chứng cứ.
Trước đây, chứng cứ kỹ thuật số được định nghĩa như là bất kỳ dữ liệu nào
có thể thiết lập liên quan đến tội phạm hay có thể cung cấp mối liên kết giữa tội
phạm và nạn nhân của nó hay thủ phạm (Cayse, 2000). Định nghĩa đề xuất bởi
SWGDE (the Standard Working Group on Digital Evidence) thì là bất cứ thơng tin
nào có giá trị được lưu trữ hay truyền tải dưới hình thức kỹ thuật số. Một định nghĩa
khác đề xuất bởi IOCE (the International Organization of Computer Evidence), là
thông tin được lưu trữ hay truyền tải ở dạng nhị phân (binary) được tin cậy sử dụng
tại tòa án. Tuy nhiên, những định nghĩa này tập trung quá nhiều vào sự chứng minh
mà sao nhãng dữ liệu trong một cuộc điều tra. Hơn nữa, thuật ngữ nhị phân ở định
nghĩa cuối là khơng chính xác bởi nhị phân chỉ một trong nhiều kiểu biểu diễn dữ
liệu máy tính phổ biến. Một định nghĩa rộng hơn đề xuất bởi ACPO (the
Association of Chief Police Officers), là thơng tin và dữ liệu có giá trị cho điều tra
được lưu trữ hay truyền tải bởi máy tính. Một định nghĩa mang tính tổng quát hơn
được đề xuất bởi Brian Carrier là dữ liệu số chứng minh hay bác bỏ một giả thiết về
sự kiện số hay trạng thái của dữ liệu số (Carrier, 2006).
Như chúng ta đã thấy, trong vấn đề sử dụng thuật ngữ để chỉ loại chứng cứ
tồn tại dưới dạng những tín hiệu điện tử kỹ thuật số giữa các tác giả có sự khác
nhau. Thậm chí, ngay trong hai lần tái bản khác nhau của một tài liệu hướng dẫn đã
nêu ở trên, Electronic Crime Scene Investigation: A Guide for First Responders của
Bộ Tư pháp Mỹ, khái niệm về chứng cứ trong các vụ tội phạm sử dụng công nghệ
cao cũng khác nhau. Trong lần xuất bản đầu tiên, các tác giả đã sử dụng thuật ngữ
“Chứng cứ điện tử” (electronic evidence)5, nhưng trong lần tái bản thứ hai, thuật
ngữ này đã được thay thế bởi “Chứng cứ kỹ thuật số” (digital evidence). Vậy sử
dụng thuật ngữ nào thì chính xác, Chứng cứ kỹ thuật số hay Chứng cứ điện tử. Từ
điển của trường Đại học Oxford đã định nghĩa điện tử (electronic) và kỹ thuật số
(digital) như sau:
5
U.S. Department of Justice, Office of Justice Programs, National Institute of Justice (2001), Electronic
Crime Scene Investigation: A Guide for First Responders,CreateSpace Independent Publishing Platform,
USA, pp. 6.
9
Điện tử: (trong một thiết bị) có hoặc hoạt động với các thành phần như vi
mạch và bóng bán dẫn để điều khiển và điều hướng dòng điện. Hoặc thực hiện hay
truy cập bằng máy tính, thiết bị điện tử khác đặc biệt là bằng cách thông qua mạng.6
Kỹ thuật số: (thuộc về tín hiệu hay dữ liệu) diễn tả một chuỗi các con số 0 và
1, thường thể hiện bằng giá trị của một đại lượng vật lý như điện áp hay phân cực
từ. Trái nghĩa với tương tự (analog). Hoặc liên quan đến sử dụng, lưu trữ dữ liệu,
thơng tin dưới dạng các tín hiệu kỹ thuật số; hoặc có liên quan đến việc sử dụng các
cơng nghệ máy tính.7
Có thể thấy, định nghĩa điện tử đề cập sâu hơn về tầng vật lý, tập trung về
phần cứng, các thiết bị điện tử sử dụng điện và mạch điều khiển nói chung. Định
nghĩa kỹ thuật số mang tính lý thuyết nhiều hơn, tức số 0 và 1 biểu diễn về lý thuyết
của việc đóng hay mở mạch điện tử và chuỗi các số 0 và 1 (trong hệ nhị phân) sẽ
biểu diễn dữ liệu kỹ thuật số.Hai định nghĩa chỉ khác nhau về cách diễn giải, độ bao
quát, còn bản chất của điện tử hay kỹ thuật số đều là sự đóng (1) hoặc mở (0) mạch
điện từ đó dữ liệu, thơng tin được biểu diễn. Theo cách hiểu thông thường, kỹ thuật
số mang nghĩa hẹp trong phạm vi máy tính và mạng máy tính; điện tử mang nghĩa
bao qt rộng hơn, tức là ngồi máy tính thì cịn có các thiết bị điện tử, viễn thơng
khác như điện thoại, camera, máy photocopy, máy fax, máy scan v.v… Từ ý nghĩa
đó, chúng tơi thống nhất sử dụng thuật ngữ chứng cứ điện tử để chỉ loại chứng cứ
tồn tại dưới dạng những tín hiệu điện tử kỹ thuật số được đề cập trong luận văn này.
Bên cạnh đó, các khái niệm đã nêu trên cũng chưa thống nhất về nội hàm,
chứng cứ điện tử là dữ liệu, là thông tin hay cả hai.
Theo từ điển trực tuyến Đại học Cambridge, dữ liệu là thông tin, đặc biệt là
sự kiện hoặc số, được thu thập để kiểm tra và xem xét và sử dụng nhằm đưa ra
quyết định; hoặc là các thơng tin dưới một hình thức điện tốn có thể được lưu trữ
và sử dụng bằng máy tính.8 Theo từ điển trực tuyến trường Đại học Oxford, dữ liệu
là sự kiện và số liệu thống kê được thu thập với nhau để tham khảo hoặc phân tích;
hoặc là số lượng, ký tự, hoặc ký hiệu mà trên đó các hoạt động được thực hiện bởi
máy tính, có thể được lưu trữ và truyền đi dưới dạng tín hiệu điện và ghi lại bằng
6
/> />8
/>7
10
các phương pháp ghi âm từ tính, quang học hoặc cơ khí.9 Thơng tin (trong lĩnh vực
điện tốn) là dữ liệu đã xử lý, lưu trữ hoặc truyền qua một máy tính.10
Như vậy, có sự khác nhau cơ bản giữa dữ liệu và thông tin. Dữ liệu được thu
thập và phân tích để tạo ra thơng tin thích hợp cho việc ra quyết định. Dữ liệu trở
thành thông tin khi qua thống kê, mô tả, diễn dịch và biểu thị dưới dạng đồ thị, hình
ảnh, âm thanh, văn bản… Mặt khác, dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ
viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự;11 thông điệp dữ liệu là thông
tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.12
Từ những phân tích trên, mối quan hệ giữa dữ liệu và thơng tin hồn tồn
phù hợp với lý luận về chứng cứ của khoa học luật hình sự Việt Nam nói chung và
mối quan hệ giữa nguồn chứng cứ và chứng cứ nói riêng. Theo pháp luật TTHS
Việt Nam thì chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án.13 Cịn nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng, cung cấp chứng cứ
cho các cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.14 Hoặc
nguồn chứng cứ là hình thức, nơi chứa đựng những gì có thật liên quan đến vụ án
hình sự hay là “nơi, từ đó có thể tìm ra đối tượng được chủ thể sử dụng để chứng
minh”.15
Như vậy, chứng cứ điện tử là thông tin được rút ra, trích xuất ra từ nguồn
chứng cứ điện tử, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà các
cơ quan tố tụng dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc
giải quyết đúng đắn vụ án.
Trong quá trình điều tra một vụ án liên quan đến tội phạm công nghệ thông
tin, viễn thông, cơ quan chức năng thu giữ tại hiện trường vụ án những thiết bị, máy
móc, đồ vật có chứa hoặc lưu trữ chứng cứ điện tử, thì những vật này gọi là
9
/> />11
Khoản 5, Điều 4, Luật Giao dịch điện tử 2005
12
Khoản 12, Điều 4, Luật Giao dịch điện tử 2005
13
Điều 85, BLTTHS Việt Nam 2015
14
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr.242.
15
Trần Quang Tiệp (2004) Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.49.
10
11
NCCĐT gốc. Nguồn chứng cứ điện tử gốc (original digital evidence) là vật chất
(physical items) và các đối tượng dữ liệu có liên quan đến các đối tượng đó vào
thời điểm thu giữ. Các thiết bị này phải trải qua cơng tác giám định để chuyển hóa
chứng cứ điện tử thành dạng có thể đọc, nghe, xem được thì bước cần thiết đầu tiên
là nhân bản toàn bộ và y hệt nội dung chứa trong thiết bị đã thu giữ. Nội dung này
gọi là NCCĐT nhân bản. Nguồn chứng cứ điện tử nhân bản (duplicate digital
evidence) là bản sao kỹ thuật số chính xác của tất cả các đối tượng dữ liệu có trong
vật phẩm ban đầu.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm NCCĐT như sau:
Nguồn chứng cứ điện tử là hình thức, nơi chứa đựng những thông tin được
rút ra, là dữ liệu điện tử, ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng
tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử có
liên quan đến vụ án.
1.2. Các loại nguồn chứng cứ điện tử
Với việc ứng dụng sâu rộng công nghệ thông tin vào đời sống con người, thì
số lượng, chủng loại các thiết bị, phương tiện điện tử là vô cùng phong phú, đa
dạng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả khái quát nhất có thể các loại NCCĐT.
Dựa trên dạng tồn tại và khả năng dễ dàng chứng minh hành vi tội phạm trên
cơ sở luật pháp NCCĐT gồm:
Bản ghi giao dịch chính (Main transaction records). Những bản ghi này bao
gồm tất cả các giao dịch mua, bán hàng và các hợp đồng khác.
Bản ghi kinh doanh chính (Main business records). Bản ghi này không
những bao gồm các bản ghi nêu trên và còn tất cả các tài liệu và dữ liệu có thể là
cần thiết để tuân thủ các yêu cầu pháp lý và quy định.
Lưu lượng thư điện tử (Email traffic). Email có khả năng cung cấp bằng
chứng quan trọng của các danh bạ liên hệ chính thức và khơng chính thức.
Những bản ghi lưu giữ bởi các bên thứ ba (Records held by third parties). Ví
dụ một nhà cung cấp điện toán đám mây nơi các bản ghi có thể khơng được kiểm
sốt trực tiếp ngay lập tức. Trên cơ sở nào những bản ghi đó có thể thu giữ được thu
giữ? Vấn đề điện toán đám mây là vấn đề rất khó giải quyết vì dữ liệu được cung
cấp từ bên thứ ba.
12
Máy tính cá nhân. Nếu một người trong diện tình nghi, cơ quan chức năng sẽ
cần thu giữ máy tính cá nhân của họ và tạo ra một ảnh đĩa16 phục vụ cho công tác
giám định, cụ thể là tạo ra một bức ảnh chụp nhanh mọi thứ trên đĩa cứng (bao gồm
các tài liệu đã bị xóa mà giám định viên có thể phục hồi).
Điện thoại di động, điện thoại thơng minh, PDA17… Các thiết bị này có thể
chứa một số lượng đáng kể dữ liệu. Các phương pháp kỹ thuật để bảo tồn và
nghiên cứu thơng tin, dữ liệu chứa trong chúng thường phức tạp hơn các phương
pháp sử dụng cho máy tính cá nhân.
Dữ liệu đa phương tiện. Hầu hết người dùng máy tính lưu trữ tất cả hoặc một
phần hoạt động của họ trên phương tiện lưu trữ bên ngoài. Bao gồm CD, DVD, đĩa
mềm, băng từ, đĩa cứng gắn ngoài, thẻ nhớ và ổ USB. Cần có một thủ tục để nhận
dạng tất cả những thiết bị này này, bảo vệ chúng chờ giám định.
Nhật ký theo dõi truy cập (access control logs). Tất cả các hệ thống máy tính
dù đơn giản nhất cũng đều yêu cầu mật khẩu hoặc thiết bị xác thực trước khi cho
phép truy cập. Thông thường, các hệ thống kiểm sốt truy cập này có thể được cấu
hình để duy trì những bản ghi khi tên người dùng và mật khẩu được cấp, khi mật
khẩu được thay đổi, khi quyền truy cập được thay đổi hoặc chấm dứt. Ngoài ra,
nhiều hệ thống cũng duy trì nhật ký các truy cập hoặc ít nhất là nhật ký các truy cập
thất bại. Các nhật ký này, nếu được quản lý và bảo quản đúng cách, sẽ là bằng
chứng mạnh mẽ về những hoạt động trên một hệ thống máy tính.
Cấu hình, sự kiện, lỗi và các tập tin và nhật ký nội bộ khác. Tất cả các máy
tính đều chứa các tập tin giúp xác định như thế nào hệ điều hành và các chương
trình cá nhân khác nhau hoạt động. Trong thế hệ hiện tại của các hệ điều hành
Windows, thiết lập quan trọng nhất của thơng tin cấu hình là registry18. Từ đó, các
giám định viên có thể khám phá rất nhiều điều về các hoạt động gần đây cũng như
trong quá khứ bao gồm các tập tin và mật khẩu đã truy cập. Thơng thường, có các
16
Ảnh đĩa (disk image) là một tệp tin máy tính có chứa nội dung và cấu trúc của một ổ đĩa hoặc toàn bộ thiết
bị lưu trữ dữ liệu, chẳng hạn như ổ đĩa cứng, ổ băng, đĩa mềm, đĩa quang hoặc ổ USB flash. Một ảnh đĩa
thường được thực hiện bằng cách tạo ra một bản sao theo từng sector của môi trường nguồn, do đó có thể sao
chép hồn tồn cấu trúc và nội dung của một thiết bị lưu trữ không phụ thuộc vào hệ thống tập tin.
17
A personal digital assistant (PDA): một trợ lý kỹ thuật số cá nhân, cịn được gọi là máy tính cầm tay, là
một thiết bị di động có chức năng như một người quản lý thông tin cá nhân. PDA đã phần lớn ngừng hoạt
động vào đầu những năm 2010 sau sự phổ biến rộng rãi của điện thoại thông minh, đặc biệt là các thiết bị
dựa trên iOS và Android.
18
Registry là cơ sở dữ liệu được xác định bởi hệ thống, trong đó các ứng dụng và các thành phần hệ thống
lưu trữ và truy xuất dữ liệu cấu hình. Dữ liệu được lưu trữ trong registry thay đổi theo phiên bản của
Microsoft Windows. Các ứng dụng sử dụng API registry để lấy, sửa đổi hoặc xóa dữ liệu đăng ký.
13
tập tin cấu hình quan trọng liên kết với các chương trình riêng lẻ. Nhiều hệ điều
hành cịn ghi nhận các lỗi và các nhật ký nội bộ khác.
Nhật ký hoạt động Internet. Các máy tính cá nhân duy trì những bản ghi về
truy cập web gần đây dưới dạng tập tin lịch sử và bộ nhớ cache được giữ trong thư
mục các tập tin Internet tạm thời. Nhưng nhiều mạng cơng ty cũng duy trì các nhật
ký tập trung chỉ để kiểm tra chất lượng dịch vụ và kiểm tra chống lạm dụng. Khi
quản lý và bảo quản đúng cách, các nhật ký này là bằng chứng mạnh mẽ về các hoạt
động của một hệ thống máy tính.
Nhật ký anti-virus. Liên quan đến các nhật ký được đề cập ở trên là các nhật
ký được tạo ra bởi việc cài đặt phần mềm chống virut của công ty. Chúng ghi lại
quá trình phát hiện, tiêu diệt các loại virut và phần mềm độc hại khác.
Nhật ký phát hiện xâm nhập. Các hệ thống máy tính lớn hơn thường sử dụng
các hệ thống phát hiện xâm nhập như một phần của các biện pháp an ninh của họ.
Chúng được thiết kế để phát hiện và ngăn chặn một số hình thức hack. Việc sản
xuất các nhật ký như vậy có thể giúp xác định thủ phạm hoặc chứng minh rằng các
biện pháp phòng ngừa hợp lý đã được thực hiện để đảm bảo an toàn hệ thống.
Phương tiện sao lưu. Tất cả các hệ thống máy tính cần phải có các thủ tục
sao lưu chỉ để phục hồi nhanh sau thảm hoạ. Một số tổ chức sao lưu toàn bộ hệ
thống của họ mỗi 24 giờ; những tổ chức khác thì đặt ra chính sách từng phần. Lưu
trữ dự phịng là nguồn cung cấp các bằng chứng cực kỳ quan trọng vì chúng có thể
hiển thị nếu các tập tin đang hoạt động đã bị giả mạo. Họ cịn có thể cung cấp lại dữ
liệu cái mà đã bị xóa khỏi hệ thống đang hoạt động.
Nhật ký điện thoại. Các Private Branch Exchanges19 thường có nhiều tính
năng mở rộng để ghi lại hoạt động sử dụng. Có thể có những khó khăn trong việc sử
dụng loại nhật ký này làm bằng chứng; cũng có những vấn đề đáng kể liên quan đến
việc chặn bắt nội dung của các cuộc hội thoại. Tuy nhiên, đây là những nguồn tiềm
năng rất quan trọng trong tình báo và làm chứng cứ.
Ghi âm điện thoại. Dữ liệu được cung cấp từ việc chặn bắt các cuộc gọi viễn
thơng.
Nhật ký kiểm sốt truy cập bảo mật vật lý. Nhiều tịa nhà kiểm sốt truy cập
vật lý bằng cách sử dụng thẻ vuốt hoặc các thẻ khác. Như để giải quyết chỗ đậu xe
19
Private Branch Exchange (PBX) là một hệ thống trao đổi hoặc chuyển mạch điện thoại phục vụ một tổ
chức tư nhân và thực hiện tập trung các đường dây văn phòng trung tâm và cung cấp liên lạc giữa một số
lượng lớn các trạm điện thoại trong tổ chức.
14
hoặc để cho phép tiếp cận các khu vực đặc biệt nhạy cảm. Thơng thường có một hệ
thống kiểm sốt trung tâm ghi nhận các nhật ký này. Điều này có thể rất hữu ích
trong việc xác định sự di dời địa điểm của một người.
Bản ghi CCTV20. Gần đây dữ liệu CCTV đã được lưu trữ trên băng từ ở định
dạng tương tự. Nhưng chi phí lưu trữ kỹ thuật số - trên các ổ đĩa cứng - đã giảm
mạnh. Lưu trữ kỹ thuật số có nghĩa là hình ảnh CCTV có thể được xác định nhanh
chóng theo ngày và thời gian của sự cố. Ngoài ra, phát hiện chuyển động và phần
mềm phân tích khác có thể được triển khai. Đồng thời giá camera cũng đã rẻ đi nhiều,
vì vậy mà rất nhiều nơi có thể được triển khai việc giám sát đối tượng qua CCTV.
Dựa trên nền tảng hoạt động các thiết bị, NCCĐT có thể tồn tại trong:
Hệ thống máy tính thơng thường: là hệ thống bao gồm phần cứng và phần
mềm để xử lý dữ liệu có thể bao gồm: thùng máy chứa bo mạch chủ, bộ vi xử lý, ổ
đĩa, bộ nhớ và cổng kết nối bên trong; màn hình hay thiết bị bị hiển thị khác; bàn
phím, chuột; các thiết bị ngoại vi, ổ đĩa gắn ngoài và các thành phần khác.
Hệ thống máy tính thơng thường có nhiều hình thức như máy tính để bàn,
máy tính xách tay, các loại máy tính mini, mainframe computer với dung lượng lưu
trữ lớn và tốc độ xử lý nhanh. Những thành phần bổ sung và thiết bị ngoại vi có thể
gồm modem, bộ định tuyến (router), máy in, máy scan v.v…
Hệ thống máy tính với những thành phần của nó có thể có giá trị làm chứng
cứ. Phần cứng, phần mềm, tài liệu, hình ảnh, email, cơ sở dữ liệu, thơng tin tài chính,
lịch sử trình duyệt Internet, nhật ký chat, danh sách bạn bè, nhật ký sự kiện, dữ liệu
lưu trữ trên thiết bị gắn ngồi và những thơng tin định danh gắn với hệ thống máy
tính và các thành phần của nó chính là chứng cứ tiềm năng cho việc điều tra.
Ngày nay, với sự gia tăng chưa nhanh chóng về số lượng máy tính, sự bùng
nổ của Internet thì thơng tin, dữ liệu được xử lý và truyền tải ngày càng nhiều, đòi
hỏi các thiết bị lưu trữ ngày càng nhiều hơn về dung lượng. Đây chính là một nguồn
quan trọng và dồi dào của chứng cứ điện tử. Các thiết bị lưu trữ có thể phân chia
thành các nhóm chính sau:
- Ổ đĩa cứng: là thiết bị lưu trữ dữ liệu, gắn bên trong thùng máy, gồm có
bảng mạch điện tử; các kết nối dữ liệu, nguồn điện; các phiến đĩa bằng thủy tinh, sứ
hay kim loại gắn bên trong đã bị nhiễm từ dùng để ghi dữ liệu. Ổ đĩa cứng gắn
20
CCTV (closed-circuit television) là một hệ thống truyền hình trong đó các tín hiệu video được truyền từ
một hoặc nhiều camera bằng cáp đến màn hình quan sát.
15
ngồi có cấu tạo tương tự nhưng được gắn bên ngoài thùng máy dùng để mở rộng
thêm dung lượng lưu trữ và có thể mang đi dễ dàng.
- Các thiết bị như băng từ, đĩa mềm, đĩa quang, đĩa nén v.v… Chúng hầu hết
đều được sử dụng để chứa đựng, cất giữ, vận chuyển dữ liệu và các loại thông tin
khác. Những thiết bị này giúp người dùng có thể chia sẻ dữ liệu, thông tin, phần
mềm, phim ảnh giữa các máy tính với nhau hoặc giữ các thiết bị đầu đọc khác nhau.
- Các thiết bị nhỏ gọn, trọng lượng nhẹ, kích thước tương đương với ngón
tay (thumb drive) với cổng kết nối USB. Những thiết bị này, còn được gọi với các
tên khác là bộ nhớ flash, thì dễ dàng cất giữ và mang theo. Vì kích thước nhỏ gọn
nên nó có thể ở dưới nhiều hình dạng khác nhau như móc đeo chìa khóa, đồng hồ
đeo tay, bút hay dao xếp.
- Thẻ nhớ: là một loại thiết bị lưu trữ rất nhỏ gọn thường được sử dụng với
camera, máy tính, điện thoại di động, máy chơi nhạc, thiết bị hỗ trợ cá nhân
(PDAs), máy chơi trò chơi hoặc các thiết bị điện tử khác.
Hệ thống truyền thông (communication systems): là hệ thống điện thoại
truyền thống, điện thoại khơng dây, mạng Internet và mạng nói chung. Một mạng
máy tính bao gồm hai hay nhiều máy tính liên kết với nhau qua cáp dữ liệu hoặc kết
nối không dây để chia sẻ dữ liệu và tài nguyên. Một hệ thống máy tính thơng
thường gồm các thiết bị định tuyến dữ liệu như hub, switch, router; các thiết bị
ngoại vi khác và máy in kết nối mạng. Hệ thống này có thể là NCCĐT. Những loại
dữ liệu mà chủ thể tiến hành tố tụng có thể thu thập được là phần mềm, tài liệu, hình
ảnh, tin nhắn, cơ sở dữ liệu, thơng tin tài chính, lịch sử trình duyệt, các tập tin nhật
ký hệ thống, nhật ký chat, danh sách bạn bè và các dữ liệu khác lưu trên thiết bị
ngoại vi. Ngồi ra, mục đích, tính năng của thiết bị và bất cứ thông tin định danh
nào liên kết với hệ thống máy tính; những thành phần và kết nối như địa chỉ IP, địa
chỉ MAC v.v… đều có ích cho q trình điều tra. Hệ thống viễn thơng truyền tải tin
nhắn SMS/MMS, mạng Internet gửi nhận email khắp thế giới. Thời điểm thông điệp
được gửi, ai gửi hay nội dung của thơng điệp đó đều quan trọng cho q trình điều
tra. Để xác nhận khi nào thơng điệp được gửi, cần thiết phải giám định những tập
tin nhật ký (log files) trong máy chủ trung gian và những bộ định tuyến (routers) đã
xử lý những thông điệp này. Một vài hệ thống thơng tin liên lạc có thể được cấu
hình để chặn bắt tồn bộ nội dung của quá trình gửi nhận, mang đến cho các nhà
điều tra khả năng truy cập đến tất cả q trình thơng tin, liên lạc (như tin nhắn văn
bản, tập tin đính kèm, các cuộc hội thoại).
16
Hệ thống máy tính tích hợp (embedded computer systems): điện thoại di
động, thẻ thông minh và nhiều hệ thống khác được tích hợp với máy tính có thể
chứa chứng cứ điện tử. Điện thoại di động có thể chứa nội dung các cuộc hội thoại,
hình ảnh, phim, dữ liệu định vị vị trí và những dữ liệu cá nhân khác. Hệ thống định
vị có thể được sử dụng để xác định vị trí của phương tiện. Các bộ phận cảm biến và
chẩn đoán được trang bị trên nhiều phương tiện giao thơng hiện đại có thể mang
những dữ liệu có ích cho quá trình tìm hiểu, dựng lại hiện trường vụ tai nạn giao
thông, như tốc độ phương tiện, trạng thái phanh, ga trong khoảng thời gian 5 giây
trước va chạm. Những lị vi sóng hiện đại ngày nay được tích hợp với máy tính có
thể tải thơng tin từ Internet hoặc một số trang thiết bị gia đình cho phép người dùng
thiết lập chúng để điều khiển từ xa thông qua mạng không dây hay Internet. Trong
một vụ án điển hình liên quan đến hỏa hoạn, người ta thu thập dữ liệu được khơi
phục từ một lị vi sóng, cho biết nó được lập trình để khai hỏa vào một thời điểm
định trước.
Ngồi ra, cịn phải kể đến những thiết bị khác có thể chứa đựng chứng cứ
điện tử như các thiết bị điện tử, đồ dùng, phần cứng, phần mềm hay những thiết bị
cơng nghệ khác có chức năng độc lập, liên kết hoặc gắn vào hệ thống máy tính để
nâng cao, mở rộng tính năng sử dụng hệ thống máy tính. Chẳng hạn các thiết bị
theo dõi, giám sát; máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm, máy MP3, đầu thu phát
tín hiệu vệ tinh; máy chơi game (Play Station, Xbox v.v…), tai nghe; máy đọc SIM;
máy định vị GPS (Global Positioning System). Đối với những thiết bị kể trên,
những tính năng hoạt động của nó khi kết nối với máy tính hoặc những thơng tin
lưu trữ trên bản thân thiết bị đó tiềm tàng là NCCĐT.
Dựa trên cách thức khởi tạo, NCCĐT gồm:
1. Dữ liệu điện tử, do máy tính tự động tạo ra như: “cookies”, “URL”, email
logs, web server logs, IP...
2. Dữ liệu điện tử do con người tạo ra, được lưu giữ trong máy tính hoặc các
thiết bị điện tử khác, như các văn bản, bảng biểu, các hình ảnh, thơng tin... được lưu
giữ dưới dạng kỹ thuật số.
Việc phân loại NCCĐT chỉ mang tính tương đối bởi ngày nay một thiết bị
điện tử có thể được tích hợp nhiều tính năng và sử dụng cho nhiều mục đích khác
nhau. Vấn đề quan trọng là xác định được chứng cứ điện tử ở đâu và cách thức thu
thập, bảo quản, phục hồi như thế nào để đảm bảo tính khách quan cũng như sự toàn
vẹn của dữ liệu.
17
1.3. Đặc điểm của nguồn chứng cứ điện tử
So với các nguồn chứng cứ khác, dữ liệu điện tử là một hình thức mới của
nguồn chứng cứ, cần có quy trình về thủ tục TTHS đối với việc thu thập dữ liệu
điện tử, trên cơ sở khoa học và công nghệ thông tin hiện đại. Về phương diện kỹ
thuật phải xây dựng quy trình thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử, chuyển hóa chúng
thành dạng có thể nhìn, nghe, đọc được để làm bằng chứng chứng minh các tình tiết
của vụ án.
- Nguồn chứng cứ điện tử được phát hiện, thu thập, bảo quản trên cơ sở
khoa học và công nghệ hiện đại.
Công nghiệp sản xuất các loại thiết bị điện tử có bộ nhớ kỹ thuật số và chip
điều khiển đang ngày càng phát triển. Hầu hết các thiết bị gia đình, phương tiện
giao thơng, thiết bị sản xuất đều đã được số hóa, tích hợp loại đơn giản là bộ vi xử
lý với chip nhớ và phần mềm nhúng như TV, điện thoại, tủ lạnh, máy in, máy fax...;
loại phức tạp là cả một hệ thống máy tính phức tạp như ở ơ tơ, máy bay, tàu thuyền,
máy công cụ với hệ thống CAD/CAM... Những thiết bị này đều có thể lưu trữ dữ
liệu điện tử. Để thu được chứng cứ điện tử, trước tiên phải thu được các thiết bị có
bộ nhớ kỹ thuật số đã được sử dụng làm phương tiện gây án như: máy tính, máy
điện thoại di động, máy GPS, máy in... và xác định những thiết bị này có được sử
dụng trong quá trình chuẩn bị gây án, thực hiện hành vi phạm tội, lưu chứng cứ
phạm tội, truy cập vào website bị tấn cơng... Trên cơ sở đó, quyết định cần tìm và
thu giữ máy tính hoặc các thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số nào, ở đâu. Đồng thời, công
tác trinh sát cần thu được account, usename, password, sổ sách có liên quan, phục
vụ cho cơng tác xét hỏi, như để có thể mở được máy tính, thiết bị di động, email, tài
khoản của admin, member trên website của hacker và các dữ liệu đã được mã hóa.
Về nguyên tắc, khi tiếp cận với dữ liệu gốc được lưu trong máy tính hoặc các
thiết bị kỹ thuật số khác, phải bảo vệ được dữ liệu gốc được lưu trong các thiết bị
này. Tuyệt đối không làm thay đổi dữ liệu được lưu trong các thiết bị này; phải là
chuyên gia được đào tạo, có kiến thức về phục hồi chứng cứ điện tử.
Cơng tác tìm và thu giữ các thiết bị lưu trữ chứng cứ điện tử cần tập trung
vào hai nguồn sau:
Tìm và thu phần cứng, phần mềm, tài liệu, các ghi chú của đối tượng, email,
nickname, usename và passwords các loại, các thiết bị lưu trữ thông tin như USB,
điện thoại di động, thẻ nhớ, đĩa VCD, DVD...
18
Tìm nguồn cung cấp dịch vụ: như các ghi chép về dịch vụ, hóa đơn có thơng
tin về: Nhà mạng điện thoại di động, cố định, vệ tinh, GPS; Ngân hàng phát hành,
ngân hàng thanh tốn thẻ tín dụng, hiệp hội thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ, tiền ảo (như
VCoin, BitCoin, Ngân lượng, Liberty Reserve, Webmoney...); Nhà cung cấp dịch
vụ Internet ISP (Internet Service Provider), IXP (Internet Exchange Point); Công ty
dịch vụ nội dung số CP (Content Provider).
Đối với việc bảo quản NCCĐT cần tránh xa nam châm và các tác nhân gây
nguy hiểm khác.
- Nguồn chứng cứ điện tử đa dạng về hình thức và tồn tại dưới dạng các thiết
bị kỹ thuật số.
+ Máy tính, điện thoại thơng minh, máy tính bảng có bộ nhớ để lưu dữ liệu
như: văn bản, hình ảnh, âm thanh, video; thơng tin truy cập Internet, thư điện tử;
thiết bị có thể dùng độc lập, kết nối mạng.
Điện thoại thông minh và máy tính bảng rất đa dạng, có thể lưu dung lượng
lớn dữ liệu, có chip nhớ lưu trữ dữ liệu. Khi thu máy, thu cả dây nguồn, cần tránh
để bị hết pin, mất chứng cứ. Hai loại thiết bị này còn có tính năng kết nối wifi,
bluetooth, cần đặt thiết bị vào một túi chống kết nối, bảo quản theo nguyên tắc như
đối với điện thoại di động, tránh truy cập, nhận cuộc gọi, tin nhắn, khi đang bị niêm
phong hoặc phân tích, phục hồi dữ liệu. Khi máy đang tắt, cần giữ ở trạng thái tắt,
không bật lên, để bảo vệ tuổi thọ của pin. Khi máy được cài đặt mật khẩu bảo vệ,
nên giữ ở trạng thái hoạt động và tiến hành kiểm tra ngay. Lưu ý: việc bấm nút reset
hoặc tháo pin có thể làm mất dữ liệu. Pin phải được nạp để bảo vệ chứng cứ, cho tới
khi việc kiểm tra hoàn tất và dữ liệu đã được sao lưu, bảo vệ. Cần kiểm tra pin,
trước khi đưa vào kho bảo quản trong thời gian dài.
+ Máy in: Hiện nay, nhiều loại máy in cũng có chức năng photocopy, quét
ảnh và fax. Các loại máy in đều có bộ vi xử lý và bộ nhớ kỹ thuật số, cho phép nhận
lệnh và dữ liệu từ máy tính, lưu vào bộ nhớ và sau đó in tài liệu với nhiều công
nghệ in như in laser, in mực, in nhiệt và ma trận điểm.
+ Điện thoại cố định không dây: Máy mẹ đóng vai trị như một kết nối giữa
thiết bị khơng dây và kết nối có dây của dịch vụ điện thoại, cho phép di chuyển máy
điện thoại trong phạm vi phủ sóng. Dữ liệu lưu trong điện thoại cố định không dây
là các số máy gọi đến, caller ID cho các cuộc gọi đến, các thông tin khác có trong
bộ nhớ của điện thoại khơng dây như: số điện thoại/số trang, tên và địa chỉ, số PIN,
19
số truy cập voice mail, mật khẩu voice mail, số thẻ ghi nợ, số thẻ gọi, hình ảnh trên
màn hình có thể chứa thơng tin giá trị khác.
+ Máy fax: Bộ nhớ kỹ thuật số thường lưu thông tin về danh sách các số gọi
nhanh, các bản fax gửi đến hoặc gửi đi, dòng tiêu đề, cài đặt đồng hồ.
+ Thẻ thông minh và thẻ từ: Chúng đều kết nối với thiết bị đọc thông tin lưu
trữ thông qua các vạch từ hay các chip điện tử gắn vào thẻ nhựa, ứng dụng phổ biến
nhất của công nghệ này là thẻ tín dụng. Cơng nghệ này có nhiều ứng dụng khác
nhau vì có khả năng lưu trữ bất kỳ loại thông tin nào như thông tin chứng minh
nhân dân, hộ chiếu, giấy phép lái xe, chìa khóa khách sạn... Có 2 loại thẻ thơng
minh cơ bản: thiết bị có khả năng lưu trữ một lượng thông tin lớn và thẻ vi mạch, cơ
bản giống một máy tính nhỏ, có khả năng thực hiện nhiều phép tính, cho phép bảo
vệ thơng tin đã ghi. Thiết bị đọc những loại thẻ này dựa vào khả năng kết nối và
phạm vi gần. Tiện ích sử dụng là trao đổi trực tiếp dữ liệu thông qua mạng, lưu trữ
dữ liệu hoặc các tệp tin tương tự như máy tính, điện thoại khơng dây.
Thiết bị đọc thẻ từ có khả năng đọc được nhiều loại dải băng từ. Cơng nghệ
này cũng có thể được sử dụng đối với một loại thẻ khác, như thẻ vào cơ quan hay
khóa cửa phịng…
+ Máy qt scanner: Máy scanner có tính năng tạo file ảnh và có thể lưu dữ
liệu đã quét vào máy tính. Một số máy quét ảnh cũng đồng thời là máy photocopy,
máy in hay máy fax.
+ Máy photocopy: Một số máy photocopy cũng là máy in, máy quét ảnh và
máy fax. Máy photocopy lưu dữ liệu, như các bản in và bản sao trong quá trình sao
chép, các file dữ liệu từ máy tính nối mạng, dòng tiêu đề, cài đặt đồng hồ.
+ Máy ghi hình, ghi âm kỹ thuật số sử dụng cho mục đích cơng việc hoặc
giải trí cá nhân, có thể lưu dữ liệu ở bộ nhớ trong và/hoặc bộ nhớ ngoài, dưới dạng
văn bản, hình ảnh, video clip, ngày/tháng, tác giả...
+ Thiết bị điện tử gia dụng: Các thiết bị điện tử gia dụng như thiết bị gia
đình, dụng cụ nhà bếp như máy giặt, máy hút bụi, lị vi sóng, tủ lạnh, TV, đầu DVD,
thiết bị điều khiển từ xa..., thường có bộ vi xử lý và bộ nhớ kỹ thuật số có chức
năng như máy tính, lưu trữ dữ liệu, thơng tin truy cập Internet, thư điện tử, có thể
kết nối mạng.
+ Hệ thống định vị toàn cầu GPS: GPS định vị tọa độ trên bề mặt trái đất,
thông qua đo tín hiệu vệ tinh. Thiết bị có bản đồ hỗ trợ, điều hướng và lưu dữ liệu
20
(văn bản, hình ảnh/bản đồ), thơng tin truy cập Internet, có radio 2 chiều, điện thoại,
vị trí đường được đánh dấu, thời gian biểu.
+ Camera an ninh:
Camera an ninh có thể hoạt động độc lập hoặc kết nối mạng LAN, Internet,
được sử dụng để quan sát, bảo vệ, thường được lắp ở nơi có thể ghi được thơng tin
hữu ích cho việc điều tra. Camera an ninh có thể lưu dữ liệu như văn bản, hình ảnh,
âm thanh, video, thơng tin về thời gian.
+ Thiết bị máy tính trong các phương tiện giao thông: Hầu hết chức năng của
các loại phương tiện giao thông hiện đại (ô tô, tàu hỏa, máy bay...) đều được điều
khiển, ghi nhận, lưu trữ quá trình hoạt động (văn bản, hình ảnh/bản đồ, thơng tin
truy cập Internet, điện thoại, đường, vị trí đã đánh dấu, thời gian, thư điện tử) bởi
các thiết bị số chuyên dụng.
+ Thiết bị media: thường có bộ nhớ trong và bộ nhớ ngoài, được sử dụng để
lưu dữ liệu, như ổ cứng di động HDD, SSD, thẻ nhớ, chip các loại, đĩa CD… Đối
với các thiết bị này cần thu và chuyển ngay cho chuyên gia phục hồi dữ liệu điện tử.
Ngồi việc tồn tại dưới dạng trên, NCCĐT cịn có thể tồn tại dưới những
dạng khác như: Máy trả lời tự động; Thiết bị không dây khác…
- Nguồn chứng cứ điện tử có thể phục hồi trên cơ sở sử dụng các thiết bị
phần mềm chuyên dụng.
Về nguyên tắc, việc phục hồi NCCĐT cần chú ý: Phải thực hiện đúng quy
trình phục hồi dữ liệu điện tử của ổ cứng máy tính, điện thoại di động…, sử dụng
thiết bị và phần mềm phổ biến, được pháp luật công nhận và có thể kiểm chứng
được; Phải chứng minh được tính khách quan, nguyên trạng và tính kiểm chứng
được của chứng cứ: q trình khơi phục, tìm kiếm dữ liệu phải chứng minh được
trước tịa, khi cần thiết có thể lặp lại q trình và đi đến kết quả tương tự.
Cơng tác phục hồi chứng cứ điện tử phải sử dụng các thiết bị và phần mềm
chuyên dụng để đảm bảo các nguyên tác xác lập chứng cứ điện tử, không làm ảnh
hưởng đến tính nguyên trạng của chứng cứ và phải được những chuyên gia đã qua
đào tạo thực hiện. Bản chất của quá trình phục hồi chứng cứ điện tử là phục hồi,
tìm, thu thập, phân tích, nghiên cứu giá trị chứng cứ của dữ liệu và báo cáo kết quả
về nội dung và tình trạng của chứng cứ (có chữ ký của đối tượng tạo dữ liệu và
những người tham gia tố tụng) để chuyển hóa thành chứng cứ và được công nhận là
chứng cứ pháp lý trước tòa. Việc phục hồi được tiến hành trên bản sao, không nên
làm tổn hại đến dữ liệu gốc. Cụ thể như: