Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của thường trực hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 97 trang )

NGUYỄN VĂN SƠN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN SƠN
LUẬN VĂN CAO HỌC

HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN, XỬ LÝ ĐƠN THƢ
VÀ GIÁM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CỦA THƢỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH.

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NĂM 2014

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN SƠN

HOẠT ĐỘNG TIẾP CƠNG DÂN, XỬ LÝ ĐƠN THƢ
VÀ GIÁM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CỦA THƢỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH.

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH


MÃ SỐ: 60.38.01.02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ MINH KHƠI

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn này là
cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu kết quả trong
luận văn này là xác thực. Các ý kiến, khái niệm khoa học tham
khảo từ các tài liệu khác đã được chú dẫn và liệt kê trong tài liệu
tham khảo.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về những nội dung trên.
Tác giả luận văn

NGUYỄN VĂN SƠN


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG TIẾP
CÔNG DÂN, XỬ LÝ ĐƠN THƢ VÀ GIÁM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI, TỐ CÁO CỦA THƢỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH. 5
1.1. Địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân, Thƣờng trực Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh .................................................................................................................... 5
1.1.1. Khái quát chung về Hội đồng nhân dân ............................................................ 5
1.1.2. Địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ............................................... 6

1.1.3. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh .................................................... 7
1.1.4. Địa vị pháp lý của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ......................... 8
1.1.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ........... 10
1.2. Nội dung tiếp công dân, xử lý đơn thƣ và giám sát việc giải quyết
khiếu nại tố cáo của Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ........................... 13
1.2.1. Hoạt động tiếp công dân................................................................................... 13
1.2.2. Hoạt động xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo ...................................................... 20
1.2.3. Hoạt động giám sát việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo ...................... 25
1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thƣ và giám
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh ................................................................................................................................. 29
1.3.1. Vai trò................................................................................................................. 29
1.3.2. Ý nghĩa ............................................................................................................... 30
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................ 31
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN, XỬ
LÝ ĐƠN THƢ VÀ GIÁM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CỦA THƢỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN. ..................................................................................32
2.1. Các yếu tố tác động đến thực trạng công tác tiếp công dân, xử lý đơn
thƣ và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thƣờng trực Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh .................................................................................................................. 32


2.2. Thực trạng hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thƣ và giám sát việc
giải quyết khiếu nại của Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ..................... 38
2.2.1. Thực trạng hoạt động tiếp công dân ................................................................ 38
2.2.2. Thực trạng hoạt động xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.................................... 42
2.2.3. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ..................................... 46
2.3. Thực trạng quy định của pháp luật về hoạt động tiếp công dân, xử lý
đơn thƣ và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thƣờng trực Hội đồng

nhân dân cấp tỉnh ........................................................................................................ 50
2.3.1. Hệ thống quy định của pháp luật về hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư
và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
................................................................................................................................................... 50
2.3.2. Quy định chung về chủ thể, nội dung, phương thức tiếp công dân, xử lý đơn
thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh............................................................................................................................................. 52
2.3.3. Về cơ chế đảm bảo hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ........................ 59
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động tiếp công dân, xử lý
đơn thƣ và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thƣờng trực Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh ........................................................................................................ 62
2.5. Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện ................................................. 71
2.5.1. Phương hướng, nhu cầu ................................................................................... 71
2.5.2. Một số giải pháp cụ thể..................................................................................... 73
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................ 80
KẾT LUẬN ...................................................................................................81


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khiếu nại, tố cáo là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng nhà nước. Khiếu
nại, tố cáo phát sinh và được ghi nhận như một lẽ tự nhiên trong quá trình vận động,
phát triển và tồn tại của mỗi chế độ xã hội, của mỗi nhà nước.
Quyền khiếu nại, quyền tố cáo có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
các quyền công dân, quyền con người. Quyền khiếu nại, quyền tố cáo là quyền phản
kháng, quyền tự vệ hợp pháp trước các hành vi vi phạm pháp luật. Khi thực hiện
quyền khiếu nại, quyền tố cáo công dân đồng thời tham gia vào hoạt động kiểm tra,
giám sát xã hội; kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước1.
Thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo công dân yêu cầu xử lý các quyết

định, hành vi trái pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc của
người có chức vụ, quyền hạn hoặc các cá nhân trong xã hội; góp phần quan trọng
vào bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm sự tuân thủ nghiêm minh
pháp luật, tăng cường kỷ luật nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
các cơ quan, tổ chức.
Mặc dù vậy, khi thực hiện các quyền này, công dân luôn gặp phải những
thách thức như: Rào cản về quyền, lợi ích và sự ràng buộc bởi các quan hệ được xác
lập giữa họ và các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết; bởi lợi thế và sự khác
biệt khi so sánh giữa một cá nhân với một tổ chức, những vấn đề được hình thành từ
tập quán, phong tục, đặc điểm dân cư và xã hội; bởi những vấn đề được hình thành
từ các quy định của pháp luật, cấu trúc của hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước
và từ chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức.
Với vai trị là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đã có
nhiều cố gắng để hồn thành tốt chức trách được Đảng và nhân dân giao phó, trong
đó có hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng trong thực tế hoạt động này của Thường trực
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh vẫn gặp khơng ít khó khăn, do Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan chưa
quy định chế tài đủ mạnh đối với các cơ quan hành chính nhà nước, thủ trưởng các cơ

1

Nguyễn Thị Hồng Thơm (2010), Hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước
ở tỉnh Ninh Bình hiện nay, luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội.


2


quan, đơn vị chậm giải quyết hoặc không trả lời khiếu nại, tố cáo của công dân do
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chuyển đến, nên việc đôn đốc, giám sát cịn
gặp nhiều khó khăn; việc tổ chức giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh về nội dung này chưa được nhiều, hiệu quả giám sát chưa cao, chưa đáp ứng
được nguyện vọng của cử tri và nhân dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân như:
- Cơ chế kiểm tra và giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật - NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996 của tiến sĩ Đào Trí Úc;
- Hội đồng nhân dân trong hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước - NXB
Pháp lý, 1998 của tiến sĩ Nguyễn Đăng Dung;
- Nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1998 của tác giả Vũ Mạnh Thông;
- Nguyễn Thanh Minh, Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh: Lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Tp.Hồ Chí
Minh năm 2006;
Và một số bài viết đề cập đến hoạt động xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh như bài:
- “Thực trạng và giải pháp để Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh nâng cao
hiệu quả công tác tiếp dân, đơn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo của công dân” của tác giả Vũ Đình Ngọc - Uỷ viên Thường trực Hội
đồng nhân dân tỉnh Đồng Tháp đăng trên cổng thơng tin điện tử tỉnh Đồng Tháp;
- “Vai trị của các cơ quan giám sát trong giải quyết khiếu nại, tố cáo” của tác
giả Trần Lan Hương đăng trên website Viện Khoa học Thanh tra;
- “Cần chế tài đủ mạnh đôn đốc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của cơng
dân” của tác giả Đinh Trung Phụng - Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình
đăng trên báo Đại biểu nhân dân ngày 30/8/2012

- “Đối thoại trong công tác tiếp công dân”của tác giả Thanh Thuỷ đăng trên
Bản tin hoạt động Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La số 05 (2011 - 2016) và một số bài
viết, báo cáo sơ, tổng kết có liên quan đến cơng tác tiếp công dân và xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân.
Tuy nhiên chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu tồn diện, đầy đủ về hoạt
động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.


3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Nhằm khảo sát thực trạng hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và kiến
nghị cấp có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để
công tác tiếp công dân, tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư khiếu tố của Thường trực
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bảo đảm nhanh chóng, chính xác, khắc phục được tình
trạng chuyển đơn chồng chéo, trùng lặp, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của cơng dân.
Căn cứ mục đích đề ra, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là hệ thống các quan
điểm, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý, khảo sát thực trạng để tìm ra nguyên
nhân của những bất cập, hạn chế trong hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh. Từ đó đề xuất các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
có liên quan, nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát
việc giải quyết khiếu nại của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Do đó,

đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là những vấn đề lý luận và thực trạng của hoạt
động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
Thường trực Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, bám sát đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước kết
hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp so sánh, phương pháp
hệ thống, phương pháp tiếp cận, phương pháp luận chung, phương pháp thống kê số
liệu, phân tích vụ việc điển hình để đánh giá các vấn đề đặt ra trong đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Ý nghĩa:
Kết quả nghiên cứu đề tài nhằm đóng góp thiết thực vào hoạt động nghiên
cứu về công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đánh giá thực trạng
và những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân. Từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp cụ thể
nhằm khắc phục những bất cập hiện hành, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động


4

tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
- Tính mới của đề tài
+ Xây dựng một cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật về hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh nói chung và hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nói riêng, dựa
trên những hoạt động thực tiễn của Thường trực Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành
phố trên cả nước.

+ Phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong hoạt động tiếp
công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường
trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, từ đó đề xuất xây dựng, ban hành mới và sửa đổi,
bổ sung các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân,
Thường trực Hội đồng nhân dân phù hợp với Hiến pháp 2013 và yêu cầu thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực
Hội đồng nhân dân các cấp.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.
Phần nội dung gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn
thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh.
Chương 2. Thực trạng về hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và
một số giải pháp hoàn thiện.


5

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN,
XỬ LÝ ĐƠN THƢ VÀ GIÁM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO CỦA THƢỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH.
1.1. Địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân, Thƣờng trực Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
1.1.1. Khái quát chung về Hội đồng nhân dân
Chính quyền địa phương là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà
nước, thực hiện quyền lực nhà nước trên địa bàn lãnh thổ địa phương, trong quyền

lực nhà nước thống nhất2. Về mặt tổ chức, chính quyền địa phương được tổ chức ở
các đơn vị hành chính của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gồm có Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn,
đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt3 để thực hiện chức năng quản lý
nhà nước trên địa bàn theo nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp hài hồ giữa lợi
ích của nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.
Trong hệ thống chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân được xác định
là “cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”4.
Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm
2003 thì Hội đồng nhân dân được thiết lập ở các đơn vị hành chính, theo đó, Hội
đồng nhân dân được thành lập ở ba cấp5: tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp
huyện) và xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Hội đồng nhân dân có hai chức năng chính là quyết định những chủ trương,
biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng, phát triển
địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện quyền
giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương6.

2

Trương Đắc Linh (2003), Chính quyền địa phương với việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2003, tr7 - 8.
3
Điều 111 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
4
Điều 113 - Hiến pháp 2013 và Điều 1 - Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
5

Trừ một số huyện, quận, phường không tổ chức Hội đồng nhân dân theo Nghị quyết sổ 26/2008/QH12 ngày 15 tháng 11
năm 2008 cùa Quốc hội khóa XII về thực hiện thí điểm khơng tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
6
Điều 1 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.


6

Về tổ chức, ngoài Thường trực Hội đồng nhân dân được tổ chức ở cả Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Hội
đồng nhân dân cấp huyện cịn có các ban7.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân được thể hiện qua nhiều hình thức như:
hoạt động tập thể của Hội đồng nhân dân, hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân, các ban Hội đồng nhân dân, các Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và cá
nhân đại biểu Hội đồng nhân dân8.
1.1.2. Địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Địa vị chính trị - pháp lý của Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh nói riêng được xác định trước hết trong Hiến pháp 2013, Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003.
Nếu so sánh Hội đồng nhân dân cấp tỉnh với các cơ quan khác của nhà nước
ở cùng cấp (Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) thì Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh có hai tư cách:
Thứ nhất, là cơ quan đại diện của nhân dân ở địa phương, Hội đồng nhân dân
là một bộ phận cấu thành thiết chế đại diện của quyền lực nhà nước, tính đại diện đó
thể hiện:
Về cách thức thành lập, Hội đồng nhân dân là cơ quan ở địa phương do cử tri
địa phương bầu, theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín 9. Đây
là hình thức nhân dân tự tổ chức thành Nhà nước, Hội đồng nhân dân là những cơ
quan trực tiếp nhận và thực hiện quyền lực Nhà nước do nhân dân trực tiếp trao cho,
có thẩm quyền mang tính quyền lực Nhà nước ở địa phương, giữ vai trò lãnh đạo

đối với các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân
và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân)10, thay mặt nhân dân địa
phương quyết định các công việc có liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa
phương và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
Về cơ cấu, đại biểu Hội đồng nhân dân là yếu tố cấu thành cơ bản và quan
trọng nhất của của Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân là những người
đại biểu của các tầng lớp nhân dân sinh sống trên địa bàn lãnh thổ, đại diện cho trí
tuệ của nhân dân địa phương tại đơn vị hành chính - lãnh thổ và là hình ảnh thể hiện
khối đoàn kết dân tộc.

7

Điều 5 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.
Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân ban hành kèm theo Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng
4 năm 2005 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá XI.
9
Điều 1 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003.
10
Trương Đắc Linh (2001), Một số ý kiến về vị trí, vai trị của Hội đồng nhân dân và việc thành lập Ủy ban nhân dân các
cấp, Tạp chí KHPL số 3/2001.
8


7

Thứ hai, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng
nhân dân có nhiệm vụ chấp hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp
lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch
nước và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, có quyền quyết định các chủ
trương và biện pháp triển khai thực thi pháp luật cho phù hợp với điều kiện của địa

phương. Việc chấp hành này của Hội đồng nhân dân được thể chế hoá thành các
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Từ những phân tích trên có thể kết luận: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là thiết
chế tiếp nhận quyền lực từ nhân dân địa phương trong tỉnh và chịu tránh nhiệm
trước nhân dân địa phương về mọi mặt đời sống trên cộng đồng lãnh thổ. Việc
khẳng định tính quyền lực Nhà nước của Hội đồng nhân dân không chỉ xác định
đúng vị trí, vai trị của Hội đồng nhân dân trong cơ chế thực hiện quyền lực Nhà
nước thống nhất của nhân dân, mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban
nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác ở địa phương, mà còn xác định thẩm quyền
kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan này trong việc chấp
hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương11.
1.1.3. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được hiểu là những phương diện,
mặt hoạt động cơ bản của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, phản ánh địa vị pháp lý của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, được quyết định bởi vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền
hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Giữa chức năng với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có
quan hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quyết định chức năng của Hội đồng nhân dân, các nhiệm vụ, quyền hạn được thực
hiện thông qua các chức năng của Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân có chức năng ra các quyết định dưới hình thức Nghị
quyết và chức năng giám sát. Nói cách khác, việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn của Hội đồng nhân dân được thể hiện thông qua việc ban hành các nghị quyết
và việc thực hiện hoạt động giám sát.
- Chức năng ban hành các nghị quyết
Điều 1 - Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003 quy định:
“Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát
huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh


11

Trương Đắc Linh, tlđd 10.


8

thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước”.
Như vậy, Hội đồng nhân dân các cấp nói chung, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
nói riêng ban hành các nghị quyết nhằm quản lý các mặt đời sống ở địa phương
theo sự phân cấp cho chính quyền địa phương, thi hành Hiến pháp, pháp luật, xây
dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính. Nội dung, phạm vi
nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phụ thuộc vào nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh do Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
và các văn bản quy phạm pháp luật khác có quy định về phân cấp cho Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh quyết định. Do đó nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định nội dung các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
- Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh:
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân
dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám
sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương12.
Giám sát là chức năng quan trọng của Hội đồng nhân dân. Trong Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 đã dành một chương
(Chương III) quy định về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực
Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Để thực hiện chức năng giám sát thì bản thân Hội đồng nhân dân và các Ban của
Hội đồng nhân dân phải có năng lực, khả năng giám sát, có hình thức, phương pháp

giám sát một cách hợp lý, khoa học.
Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân nhân danh
nhà nước để giám sát việc chấp hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội,
Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân đối với mọi cơ quan nhà
nước, tổ chức trực thuộc cấp trên đóng trên địa phương và đối với mọi cơ quan nhà
nước ở địa phương. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân bắt nguồn từ tính
quyền lực nhà nước và tính đại diện của Hội đồng nhân dân.
1.1.4. Địa vị pháp lý của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980 và Luật tổ chức chính quyền địa
phương (sau này là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân) các năm

12

Điều 1 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.


9

1958, 1962 không quy định về việc thành lập cơ quan thường trực của Hội đồng
nhân dân, mà nhiệm vụ này được giao cho Uỷ ban nhân dân thực hiện. Việc quy
định cho Uỷ ban nhân dân thực hiện cả những nhiệm vụ, quyền hạn có tính chất của
cơ quan thường vụ, thường trực của Hội đồng nhân dân là trái với bản chất pháp lý
vốn có của nó, bởi lẽ bản chất địa vị pháp lý của Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương13.
Nhận thấy được sự thiếu thống nhất và bất hợp lý như đã nêu trên, cùng với
sự cần thiết phải thành lập cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân, góp phần
bảo đảm thực quyền của các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1983 đã quy định về việc thành
lập Ban thư ký để giúp Hội đồng nhân dân (Điều 27) và quy định một số nhiệm vụ,

quyền hạn của Ban thư ký (Điều 30) mang tính chất như một cơ quan thường trực
của Hội đồng nhân dân14.
Tuy nhiên, phải đến Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
15
1980 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1989, vị trí, vai
trị của Thường trực Hội đồng nhân dân mới được xác lập. Đây được coi là bước đổi
mới cơ bản trong quá trình hình thành và phát triển của Hội đồng nhân dân. Theo
đó, Thường trực Hội đồng nhân cấp tỉnh do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu và
được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký
Hội đồng nhân dân16. Thành viên của thường trực Hội đồng nhân dân không đồng
thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh17.
Thường trực Hội đồng nhân dân hoạt động thường xuyên, theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, tổ chức các hoạt động của Hội đồng nhân dân, chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp. Thường trực Hội đồng nhân
dân ban hành văn bản cá biệt để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các
thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm tập thể về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân trước Hội đồng nhân
dân; chịu trách nhiệm cá nhân trước Thường trực Hội đồng nhân dân về nhiệm vụ,
quyền hạn được Thường trực Hội đồng nhân dân phân công.
13

Trương Đắc Linh (1989), Một số ý kiến về vấn đề thành lập cơ quan thường trực Hội đồng nhân dân, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, Số 1 năm 1989, tr.30.
14
Ban thư ký có nhiệm vụ: Giúp Chủ tịch Hội đồng nhân dân điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban chuyên trách Hội
đồng nhân dân, tổ chức tiếp công dân, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân và giữ quan hệ
với các đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 30, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983).
15
Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VIII đã thơng qua Nghị quyết khơng số, ngày 30/6/1989 trong đó bổ sung một đoạn
mới của Điều 118, Hiến pháp 1980 quy định về việc thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh và cấp huyện.

16
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 (sửa đổi) đã bỏ chức danh Thư ký Hội đồng nhân dân
và đến Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, chức danh này được đổi tên thành Ủy viên
thường trực Hội đồng nhân dân (Điều 52).
17
Điều 52 - Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.


10

Chủ tịch Hội đồng nhân dân chỉ đạo hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân cùng cấp, thay mặt Thường trực Hội đồng nhân dân giữ mối liên hệ với
Uỷ ban nhân dân, các cơ quan nhà nước, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp, các tổ chức xã hội khác và
cơng dân. Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân giúp Chủ tịch Hội
đồng nhân dân làm nhiệm vụ theo sự phân cơng của Chủ tịch. Khi Chủ tịch vắng
mặt thì Phó Chủ tịch thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch; khi Chủ tịch và
Phó Chủ tịch vắng mặt thì Uỷ viên thường trực thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Khi khuyết Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng nhân dân cho đến khi
Hội đồng nhân dân bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân mới. Khi khuyết cả Chủ
tịch và Phó Chủ tịch thì Uỷ viên Thường trực thực hiện nhiệm vụ của Chủ tịch, Phó
Chủ tịch cho đến khi Hội đồng nhân dân bầu được Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân mới. Chủ tịch Hội đồng nhân dân có thể làm việc kiêm nhiệm, Phó Chủ
tịch và Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân làm việc chuyên trách18.
1.1.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
2003 và Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân 2005, Thường trực Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Triệu tập và chủ toạ các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp với

Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước ngày tiến hành kỳ họp thường lệ, Thường
trực Hội đồng nhân dân chủ trì họp với Uỷ ban nhân dân, các Trưởng ban, Phó
Trưởng ban của Hội đồng nhân dân và mời Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp tham dự để dự kiến nội dung kỳ họp, những vấn đề khác có liên quan
đến kỳ họp và giao cho các cơ quan hữu quan chuẩn bị dự thảo nghị quyết, báo cáo,
đề án trình Hội đồng nhân dân; quyết định triệu tập kỳ họp Hội đồng nhân dân,
công bố dự kiến chương trình, nội dung kỳ họp; chủ trì, phối hợp với Ban thường
trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử
tri ở địa phương để báo cáo tại kỳ họp; tổng hợp ý kiến chất vấn của đại biểu Hội
đồng nhân dân và trả lời chất vấn giữa hai kỳ họp; bảo đảm việc chuẩn bị các dự
thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân; đôn đốc các cơ quan, tổ chức hữu quan gửi
tài liệu kỳ họp đúng thời hạn do pháp luật quy định19.
- Giám sát việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
18
19

Điều 18 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân 2005.
Điều 19 - Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân 2005.


11

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân ban hành nhằm triển khai thực hiện chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, nghị quyết của cấp uỷ, phản
ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân có vai trị
rất quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Do
đó giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân là một nội dung
không thể thiếu trong hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân các
cấp nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình

thực hiện nghị quyết, đảm bảo cho nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống.
Trong việc đôn đốc, kiểm tra và giám sát Uỷ ban nhân dân cùng cấp, các cơ
quan khác của Nhà nước ở địa phương thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân,
Thường trực Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân cùng cấp và các
cơ quan nhà nước ở địa phương báo cáo trực tiếp hoặc bằng văn bản về tình hình
thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân, thi hành các biện pháp cần thiết để
bảo đảm thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân; tổ chức kiểm tra, giám sát
việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Trong q trình giám sát, nếu
phát hiện có những văn bản của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân thì Thường
trực Hội đồng nhân dân kiến nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định
bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó20.
- Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phƣơng.
Thường trực Hội đồng nhân dân có quyền giám sát hoạt động của Uỷ ban
nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Toà án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp21.
Đây là quá trình Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét việc áp dụng pháp
luật trong tổ chức và hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
quyền giám sát. Vì vậy phạm vi giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân trong
lĩnh vực này rất rộng. Trên thực tế, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của Hội
đồng nhân dân có đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực hay không không chỉ thông
qua các hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn, thi hành đúng đắn, phù hợp,
kịp thời mà còn phụ thuộc vào q trình tổ chức thực hiện có hợp hiến, hợp pháp
20
21


Điều 62 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.
Điều 66 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.


12

hay khơng, có hiệu quả hay khơng? Do vậy giám sát việc thi hành pháp luật của cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa
phương là một nội dung giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân nhằm phát
hiện kịp thời những vi phạm pháp luật trong hoạt động thực tiễn của các đối tượng
này để từ đó nhanh chóng có biện pháp ngăn chặn, đảm bảo cho pháp luật được
thực thi nghiêm minh và thống nhất.
Điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban Hội đồng nhân dân.
Trong việc điều hoà, phối hợp hoạt động các Ban của Hội đồng nhân dân,
Thường trực Hội đồng nhân dân phân công các Ban thẩm tra dự thảo nghị quyết,
báo cáo, đề án trình Hội đồng nhân dân để tránh chồng chéo hoặc bỏ sót nội dung
cần thẩm tra; phân công các Ban tham gia hoạt động đôn đốc, kiểm tra việc thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và một số công việc khác như theo dõi,
kiểm tra việc thực hiện các kết luận giám sát của Thường trực, các Ban Hội đồng
nhân dân, việc giải quyết kiến nghị của cử tri và kết quả thực hiện lời hứa sau chất
vấn đối với Uỷ ban nhân dân và các sở, ngành liên quan; phân công các Ban thực
hiện một số nội dung thuộc chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân và
Thường trực Hội đồng nhân dân.
Tiếp dân, đơn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết khiếu nại, tố
cáo của cơng dân.
Thường trực Hội đồng nhân dân có trách nhiệm tổ chức và bảo đảm điều
kiện, cơ sở vật chất cho việc tiếp công dân của đại biểu Hội đồng nhân dân khi đại
biểu yêu cầu và dành ít nhất hai ngày trong một tháng để tiếp công dân nhằm thu
thập ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cơng dân; giải thích, tun truyền chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho công dân; hướng dẫn, giúp đỡ công dân

thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và nhận đơn, thư của công dân để chuyển đến cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật22.
Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Thường trực Hội đồng
nhân dân yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người
vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân bị vi phạm, đồng thời yêu cầu người có thẩm quyền xem xét, giải quyết; nếu
khơng đồng ý với việc giải quyết của người đó thì yêu cầu người đứng đầu cơ quan,
tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan

22

Điều 47, 48 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân 2005.


13

có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Thường trực Hội đồng nhân dân và phải báo
cáo Thường trực Hội đồng nhân dân trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết
định giải quyết23.
Ngoài ra, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh còn thực hiện một số
nhiệm vụ, quyền hạn khác do pháp luật quy định như: Phê chuẩn việc bầu Chủ tịch,
Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện; trình Hội đồng
nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Hội đồng nhân
dân bầu; phối hợp với Uỷ ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân
hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Uỷ ban
Mặt trận tổ quốc cấp tỉnh; báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân lên Uỷ ban
thường vụ Quốc Hội và Chính phủ; giữ mối liên hệ và phối hợp với Ban thường
trực Mặt trận tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của Hội đồng nhân dân; xem

xét kết quả giám sát của các ban của Hội đồng nhân dân khi cần thiết; giữ mối liên
hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân
dân để báo cáo Hội đồng nhân dân.
Qua phân tích về nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh cho thấy, hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
là một thể thống nhất, xuyên suốt cả một quá trình qua nhiều giai đoạn.
Để đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Hội đồng nhân dân phải
thực hiện chức năng giám sát của mình đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Để
giám sát, trước hết phải tiến hành các hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn
thư khiếu nại, tố cáo; chuyển đơn, theo dõi, đơn đốc việc giải quyết. Do đó, việc xử
lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân là một giai đoạn
quan trọng, là cơ sở khởi đầu cho việc tổ chức hoạt động giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
là biện pháp bảo đảm cho hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn
thư khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân.
1.2. Nội dung tiếp công dân, xử lý đơn thƣ và giám sát việc giải quyết
khiếu nại tố cáo của Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1. Hoạt động tiếp công dân
1.2.1.1. Khái quát chung về hoạt động tiếp công dân

23

Điều 49 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân 2005.


14

Tiếp công dân là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, nhiệm vụ công tác

thường xuyên của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị được quy định
trong Luật khiếu nại năm 2011, Luật tiếp công dân năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành. Đây là hình thức biểu hiện trực tiếp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
của mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nước.
Khái niệm “Tiếp công dân” theo khoản 1 Điều 2 Luật tiếp công dân năm
2013 “là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân quy định tại Điều 4 của Luật này
đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của cơng
dân; giải thích, hướng dẫn cho cơng dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật”.
Điều 59 Luật khiếu nại năm 2011 quy định “Người đứng đầu cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm tổ chức tiếp cơng dân; bảo đảm các điều kiện cần thiết để tiếp
công dân; bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, kiến thức và am hiểu
chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm làm cơng tác tiếp cơng dân đến khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh”.
Từ những quy định của pháp luật hiện hành cho thấy, mục đích của hoạt
động tiếp cơng dân là nhằm:
Tiếp nhận các thơng tin, kiến nghị, phản ánh, góp ý những vấn đề liên quan
đến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tác
quản lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đây là sự biểu hiện sinh động bản chất dân
chủ Nhà nước của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta. Mục tiêu này cũng là một
bước cụ thể hoá quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các
vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước của công
dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Thêm nữa, điều này cịn là sự hiện thực hố
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong công tác quản lý và
thực tiễn cuộc sống.
Tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo của công dân. Điều này là nhằm đảm bảo
thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được Hiến pháp quy định. Nó
cũng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời giữa công tác tiếp công dân
và giải quyết khiếu nại, tố cáo, làm tốt cơng tác tiếp cơng dân cũng chính là góp

phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền.
Hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng thẩm quyền,
đúng quy định của pháp luật. Nội dung này thể hiện rõ yêu cầu mang tính bắt buộc
đặt ra đối với các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước trong quan hệ với


15

cơng dân đó là phải ln ln tơn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ
chặt chẽ với nhân dân và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đồng thời, điều này cũng
là để khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
của cơng dân, qua đó tun truyền giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật nói chung,
pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng đối với quần chúng nhân dân.
Tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua hoạt động tiếp công dân để vận
động, thuyết phục nhân dân kết hợp tuyên truyền phổ biến các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật đất đai và các
chính sách có liên quan. Từ đó, hạn chế xảy ra tình trạng cơng dân khiếu nại kéo
dài, vượt cấp; công dân không tham gia kéo kiện đông người; không để người khác
lợi dụng, xúi giục khiếu kiện; vận động nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh các quyết
định giải quyết khiếu nại có hiệu lực và đúng pháp luật.
Hiện nay công tác tiếp dân đang ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết
trong sinh hoạt đời sống xã hội, trong quản lý nhà nước và trong hoạt động của các
cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan hành chính Nhà nước nói riêng. Đây là cầu
nối trực tiếp, hữu hiệu nhất để người lãnh đạo chính quyền, cán bộ nhà nước gần và
sát dân hơn. Thông qua tiếp dân, cán bộ lãnh đạo sẽ có cơ hội nắm bắt được tâm tư,
nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân, tạo được niềm tin trong
nhân dân, góp phần nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp. Đây cũng là thể
hiện bản chất của nhà nước ta, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

1.2.1.2. Hoạt động tiếp công dân của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh
Tiếp công dân và tiếp xúc cử tri là hai hoạt động được Thường trực Hội đồng
nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành thường xuyên, đều đặn nhất
và đã trở thành một hoạt động không thể thiếu trong đời sống dân cử ở nước ta. Chính
sách và thực tiễn đã chứng minh rằng đây chính là một kênh quan trọng giúp duy trì
và cải thiện mối qua hệ qua lại mang tính tích cực giữa chính quyền và nhân dân24.
Theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 4 Luật tiếp công dân 2013, Hội đồng
nhân dân các cấp có trách nhiệm tiếp cơng dân; khoản 2, khoản 3 Điều 48 Quy chế
hoạt động của Hội đồng nhân dân, Điều 11 Nghị quyết 759/2014/NQ-UBTVQH13
ngày 15/5/2014 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Quy định chi tiết về hoạt động tiếp
công dân của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 759/2014/NQ24

Bộ Nội vụ (2011), Tài liệu bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016, tr.159 - 160.


16

UBTVQH13), Thường trực Hội đồng nhân dân thay mặt Hội đồng nhân dân tiếp
công dân đến khiếu nại, phản ánh, kiến nghị theo quy định của Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật tiếp công dân và các quy định khác của
pháp luật có liên quan; phối hợp với Uỷ ban nhân dân, Ban Thường trực Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp xây dựng
Quy chế tiếp công dân phù hợp với quy định của pháp luật và tình hình thực tế ở địa
phương.
Đây được xem là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Thường trực Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, là bước đầu tiên để Thường trực Hội đồng nhân dân thực
hiện quyền giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân. Thông qua hoạt động tiếp công dân, Thường trực

Hội đồng nhân dân giải thích, hướng dẫn cơng dân khiếu nại, tố cáo đến đúng cơ
quan có thẩm quyền giải quyết, phổ biến, tuyên truyền các quy định của pháp luật
để nâng cao ý thức pháp luật của công dân, vận động công dân chấp hành các quyết
định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật và được giải quyết đúng các quy
định của pháp luật. Đồng thời, thông qua hoạt động tiếp công dân, Thường trực Hội
đồng nhân dân tiếp nhận đơn, thư khiếu nại, tố cáo, những ý kiến, kiến nghị, phản
ánh của công dân để chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy
định.
Nơi tiếp công dân của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được thực
hiện tại địa điểm tiếp công dân chung của địa phương25. Định kỳ hàng tháng,
Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh dành ít nhất hai ngày trong tháng để chủ trì,
phối hợp với Đồn đại biểu Quốc hội, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp tổ chức
tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân của tỉnh theo Quy chế tiếp công dân của Hội
đồng nhân dân tỉnh (hoặc Quy chế phối hợp tiếp công dân).
Ngồi ra, tuỳ tình hình thực tế của từng địa phương, Thường trực Hội đồng
nhân dân có thể tổ chức hoặc phối hợp tổ chức tiếp công dân đột xuất trong các
trường hợp phát sinh vụ việc gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia, liên quan
đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến của các cơ quan, tổ
chức, đơn vị còn khác nhau; các vụ việc nếu không chỉ đạo, xem xét kịp thời có thể
gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc có thể dẫn đến huỷ hoại tài sản của Nhà nước,
của tập thể, xâm hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh,

25

Phịng tiếp cơng dân cấp tỉnh được thành lập theo khoản 2 Điều 51 Nghị định 136/2006 ngày 14/11/2006 của Chính
phủ, nay là Trụ sở tiếp công dân của tỉnh theo quy định tại Điều 23 Nghị định 75/2012 ngày 03/10/2012 và Điều 9 Nghị
quyết 759/2014/UBTVQH13.


17


chính trị, trật tự, an tồn xã hội theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật tiếp công
dân năm 2013.
Khác với hoạt động tiếp công dân, hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội
đồng nhân dân là nhằm thu thập ý kiến, nguyện vọng của cử tri về những vấn đề
thuộc chương trình, nội dung kỳ họp và ý kiến, kiến nghị của cử tri với Hội đồng
nhân dân và các cơ quan nhà nước hữu quan ở địa phương; báo cáo với cử tri về kết
quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vận
động và cùng với nhân dân thực hiện các nghị quyết đó. Ngồi ra, đại biểu Hội
đồng nhân dân cịn có trách nhiệm báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của
Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri26.
Hình thức tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân chủ yếu là tại các
hội nghị tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ họp thường lệ hàng năm của Hội đồng
nhân dân, tại nơi đại biểu cư trú, làm việc hoặc theo chuyên đề. Ngoài ra đại biểu
Hội đồng nhân dân cũng có thể trực tiếp gặp gỡ cử tri để tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng của cử tri và những vấn đề mà đại biểu quan tâm; chuyển những kiến nghị của
cử tri đến Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và Thường trực Hội đồng nhân dân để
tổng hợp báo cáo Hội đồng nhân dân, gửi tới cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm
quyền xem xét, giải quyết.
Như vậy chúng ta có thể thấy, mặc dù hai hoạt động này có những nét tương
đồng về vai trị của đại biểu Hội đồng nhân dân như: cùng là hoạt động nhằm bảo
đảm duy trì mối quan hệ mật thiết giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với nhân dân và
giúp đại biểu giữ mối liên hệ, gần dân, sát dân, gắn bó mật thiết với với nhân dân
một cách thường xuyên, đảm bảo sự liên hệ chặt chẽ, hai chiều giữa đại biểu Hội
đồng nhân dân với công dân; giúp đại biểu Hội đồng nhân dân nắm bắt kịp thời ý
kiến, nguyện vọng của cử tri, ghi nhận những bức xúc của người dân và là cơ hội để
đại biểu Hội đồng nhân dân giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo…
tuy nhiên mục đích, thủ tục và yêu cầu cụ thể của hai hoạt động này là khác nhau
như đã phân tích ở trên.
1.2.1.3. Quy trình, thủ tục tiếp cơng dân của Thường trực Hội đồng nhân dân

cấp tỉnh
Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo là cơng việc khó khăn, phức tạp.
Q trình này, một mặt đòi hỏi phải tuân thủ một cách chặt chẽ các quy định của
pháp luật, song mặt khác lại luôn đặt ra yêu cầu sáng tạo, linh hoạt về mặt phương
pháp, cách thức tổ chức thực hiện. Hiện nay, pháp luật mới chỉ quy định những
26

Điều 39 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003, Điều 38 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân
dân 2005.


18

nguyên tắc, yêu cầu chung nhất đối với việc tiếp cơng dân mà chưa có quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục khi tiến hành hoạt động này, nhất là đối với việc tiếp công
dân của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Do đó, nhìn chung khơng có
khn mẫu cứng nhắc, cố định cho mọi trường hợp mà tuỳ từng điều kiện, hoàn
cảnh, đối tượng cụ thể, người tiếp cơng dân có thể vận dụng phương pháp, cách
thức tiếp công dân cho phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, việc tiếp công dân phải dựa
trên nguyên tắc nhất định và đạt được mục đích đề ra.
Trên cơ sở các quy định của Luật tiếp công dân năm 2013, Nghị quyết
759/2014/NQ-UBTVQH13; tài liệu tập huấn về công tác tiếp công dân, xử lý đơn
thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân do Ban Dân nguyện Uỷ ban thường vụ Quốc hội biên soạn năm 2012 và qua thực tế hoạt động cũng như
tham khảo quy trình tiếp cơng dân của Thường trực Hội đồng nhân dân một số tỉnh,
thành phố, tác giả xin khái qt quy trình tiếp cơng dân của Thường trực Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh gồm các bước sau đây:
- Bước 1, công tác chuẩn bị
Giai đoạn này, bộ phận giúp việc cho Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh
tiếp cơng dân (chun viên Văn phịng Đồn ĐBQH và HĐND tỉnh) chuẩn bị, gồm
một số công việc sau đây:

+ Rà soát, nắm lại nội dung vụ việc khiếu nại, tố cáo và việc xử lý trước đó
của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh;
+ Nghiên cứu, đánh giá kết quả giải quyết, văn bản trả lời của cơ quan có
thẩm quyền; ý kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giải quyết
đó;
+ Chuẩn bị văn bản pháp luật để Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh sử
dụng khi cần thiết;
+ Đối với vụ việc khiếu nại, tố cáo mà Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh
đã nhận đơn hoặc tiếp công dân phục vụ cho giám sát vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ
thể, thì phải nghiên cứu kỹ nội dung đơn, chuẩn bị sẵn câu hỏi để làm rõ những vấn
đề cần xác minh; xác định những vấn đề cần yêu cầu công dân cung cấp tài liệu,
chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết thì Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh cử
chuyên viên Văn phịng tìm hiểu, xác minh những vấn đề có liên quan đến khiếu
nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Bước 2, Tiếp xúc ban đầu27.
Giai đoạn này có 3 vấn đề mà người tiếp cơng dân cần chú ý thực hiện, đó là:

27

Điều 22, 29 Luật tiếp công dân 2013.


19

+ Tác phong, cử chỉ lịch sự, đúng mức ngay từ khi tiếp xúc ban đầu, cũng
như suốt quá trình tiếp công dân.
+ Yêu cầu công dân nêu rõ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tuỳ thân như:
Giấy chứng minh thư nhân dân, giấy giới thiệu, giấy uỷ quyền (nếu có) và tiến hành
kiểm tra, đối chiếu các giấy tờ đó cũng như ghi chép, phản ánh vào sổ tiếp công dân
những thông tin cơ bản về nhân thân người được tiếp.

+ Nếu nhiều người đến khiếu nại, tố cáo về cùng một nội dung vụ việc thì
người tiếp công dân yêu cầu họ cử người đại diện để trình bày.
Đây là cơng việc đơn giản nhưng có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo cho
người tiếp khẳng định được rằng người đến đưa đơn khiếu nại là người có liên quan
trực tiếp đến việc đó, để tránh trường hợp một số người lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo làm cò mồi, dẫn dắt người khiếu kiện.
- Bước 3, Q trình làm việc28.
Giai đoạn này có một số nội dung chủ yếu mà người tiếp công dân cần thực
hiện:
+ Lắng nghe cơng dân trình bày về nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị. Khi
cần thiết thì người tiếp cơng dân có thể ghi lại những nội dung mà cơng dân trình
bày.
+ u cầu người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị cung cấp tài liệu, chứng cứ
có liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị.
+ Trên cơ sở trình bày của người đến khiếu nại, tố cáo, hồ sơ tài liệu mà họ
cung cấp, người tiếp cơng dân có thể nêu tóm tắt nội dung vụ việc và yêu cầu của
công dân để họ khẳng định lại những vấn đề đã trình bày;
Trong quá trình tiếp cơng dân, người tiếp có thể đặt ra câu hỏi để nắm bản
chất của sự việc; đối với những người do sự hiểu biết, nhớ không rõ sự việc, trình
bày khơng đúng trật tự diễn ra của sự việc thì người tiếp có thế gợi ý đế cơng dân
trình bày sự việc cụ thể rõ ràng hơn.
- Kết thúc.
Nghiên cứu, đánh giá, phân loại xử lý; ghi tóm tắt nội dung vụ việc và yêu
cầu cụ thể của công dân vào sổ tiếp công dân. Căn cứ vào quy định của pháp luật và
đề nghị của công dân, người tiếp công dân quyết định tiếp nhận đơn hay giải thích,
hướng dẫn cơng dân gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trên đây là những nét khái qt, cơ bản về quy trình tiếp cơng dân đến khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nói chung. Sự phân chia các bước, các giai đoạn

28


Điều 25, 26 Luật tiếp công dân 2013.


20

cũng như tên gọi của nó trong quy trình tiếp cơng dân cũng chỉ mang tính chất
tương đối. Trong thực tế, việc phân chia, định danh các bước, các giai đoạn của quy
trình tiếp cơng dân có những thay đổi, điều chỉnh nhất định phụ thuộc vào đối tượng
tiếp và tính chất, nội dung sự việc.
1.2.2. Hoạt động xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo
1.2.2.1. Khái quát chung về xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, cơng chức đề nghị
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ
cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của mình29.
Theo đó, chủ thể của hành vi khiếu nại có thể là cơng dân, cơ quan, tổ chức,
cán bộ, cơng chức có quyền lợi bị xâm hại bởi một quyết định hành chính, hành vi
hành chính hoặc một quyết định kỷ luật cán bộ, công chức hoặc người đại diện hợp
pháp của những người này khi họ thực hiện quyền khiếu nại. Có nghĩa là, chủ thể
của hành vi khiếu nại phải là người bị tác động trực tiếp bởi chính đối tượng của
hành vi đó hoặc là người được những người này uỷ quyền theo quy định của pháp
luật. Chính vì đặc điểm này của chủ thể khiếu nại mà pháp luật quy định nghĩa vụ
của họ một cách “chặt chẽ” hơn so với chủ thể của hành vi tố cáo.
Tố cáo là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt
hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
cơng dân, cơ quan, tổ chức30.

Khác với khiếu nại, chủ thể của hành vi tố cáo chỉ có thể là cơng dân và đối
tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của cơng dân, cơ quan, tổ chức; có nghĩa là hành vi trái pháp luật là đối tượng
của tố cáo có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tố cáo
hoặc có thể khơng, cơng dân vẫn có quyền thực hiện hành vi tố cáo của mình, đồng
thời người tố cáo khơng có nghĩa vụ phải tố cáo tại đúng cơ quan có thẩm quyền
giải quyết mà họ có thể tố cáo tại bất kì cơ quan, tổ chức Nhà nước nào.
Xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo là hoạt động của các cơ quan nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu Quốc hội, đại biểu
29
30

Khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại 2011.
Khoản 1 Điều 2 Luật tố cáo 2011.


×