BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRƢƠNG VIỆT HỒNG
HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TỊA ÁN SƠ THẨM TRONG Q TRÌNH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRƢƠNG VIỆT HỒNG
HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TỊA ÁN SƠ THẨMTRONG Q TRÌNH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HỒI PHƢƠNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tác giả,
khơng hề sao chép từ luận văn của các tác giả khác. Tác giả chịu trách nhiệm
danh dự về cơng trình nghiên cứu của mình.
Người viết
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BAST
BLDS
BLLĐ
BLTTDS
BPKCTT
HĐTPTANDTC
GĐT
GQVA
LDS
LHN&GĐ
PLTTGQCVADS
PLTTGQCVAKT
PLTTGQCTCLĐ
động
QH
TAND
Tp.HCM
TTDS
UBND
Bản án sơ thẩm
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Lao động
Bộ luật Tố tụng dân sự
Biện pháp khẩn cấp tạm thời
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Giám đốc thẩm
Giải quyết vụ án
Luật Dân sự
Luật Hơn nhân và gia đình
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
Quận, huyện
Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh
Tố tụng dân sự
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tình hình thụ lý và giải quyết án của Tịa án nhân dân Tp.Hồ Chí
Minh từ năm 2009 đến năm 2013
Bảng 2: Phân tích tỷ lệán dân sự, HNGD, LD, KDTM trong tổng số thụ
lý
Bảng 3. Tình hình thụ lý và giải quyết vụ án dân sự, HNGD, LĐ, KDTM
của Tòa án nhân dân Tp.HCM từ năm 2009 đến năm 2013
Bảng 4. Số lượng bản án sơ thẩm DS, HNGĐ, LĐ, KDTM bị Tòa án cấp
phúc thẩm hủy hàng năm
MỤC LỤC
Lời nói đầu ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1.
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÒA ÁN SƠ THẨM TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ . 5
1.1. Khái niệm và đặc trƣng pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ do
Tòa án sơ thẩm thực hiện trong giải quyết vụ án dân sự ................................. 5
1.1.1. Khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong
giải quyết vụ án dân sự .......................................................................................... 5
1.1.2. Đặc trưng pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm
thực hiện trong giải quyết vụ án dân sự. ................................................................ 9
1.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong giải quyết vụ
án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự trƣớc ngày 01/01/2005. .................. 15
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1990....................................................................... 15
1.2.2. Giai đoạn từ 1990 đến 2004....................................................................... 15
1.3. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong giải quyết vụ
án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nƣớc. ............................ 17
1.3.1. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự
của Liên bang Nga. .............................................................................................. 17
1.3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự
của nước Cộng hòa Pháp ..................................................................................... 19
1.3.3. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự
của nước Cộng hòa Liên bang Đức ..................................................................... 21
CHƢƠNG 2.
HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN SƠ THẨM
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ................................................................... 24
2.1. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong giải quyết vụ
án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành ................................................ 24
2.1.1. Hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án thực hiện trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm .................................................................................................. 24
2.1.2. Hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án thực hiện trong q trình diễn ra
phiên tịa sơ thẩm ................................................................................................. 47
2.2. Thực tiễn hoạt động thu thập chứng của Tịa án sơ thẩm, các vƣớng mắc
và kiến nghị hồn thiện pháp luật .................................................................... 51
2.2.1. Thực tiễn áp dụng các hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm 51
2.2.2. Các vướng mắc trong hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án sơ thẩm và
kiến nghị hồn thiện pháp luật ............................................................................. 55
Kết luận ...................................................................................................... 80
1
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thủ tục tố tụng dân sự, chứng cứ có một vai trò quan trọng trong việc
chứng minh và giải quyết vụ án dân sự. Chứng cứ có thể các đương sự thu thập và
giao nộp cho Tòa án, nhưng pháp luật cũng qui định cho Tịa án có quyền thu thập
chứng cứ trong một số trường hợp nhất định. Trong thực tế, hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án sơ thẩm rất quan trọng trọng việc xây dựng hồ sơ vụ án.
Những chứng cứ do các bên đương sự cung cấp, trong nhiều trường hợp chưa đầy
đủ, chưa có cơ sở vững chắc để phán quyết về vụ án. Có những tình tiết của vụ án
cần phải được Tịa án thu thập thêm những chứng cứ cần thiết để xác định, chứng
minh. Việc thu thập chứng cứ của các đương sự trong nhiều trường hợp còn gặp
những trở ngại khách quan như khi đương sự yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp chứng cứ không được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Vì vậy, hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án là một nguồn bổ sung chứng cứ một cách khách quan, đầy đủ
và toàn diện để giải quyết vụ án được nhanh chóng. Tuy nhiên, trong thời gian qua,
những qui định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm còn nhiều bất
cập, phần nào làm hạn chế kết quả thu thập chứng cứ của Tịa án.
Để góp phần nghiên cứu những qui định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm, làm rõ những vướng mắc, bất cập của
pháp luật, từ đó góp phần kiến nghị hồn thiện qui định của pháp luật về hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm, tác giả chọn đề tài “Hoạt động thu thập
chứng cứ của Tịa án sơ thẩm trong q trình giải quyếtvụ án dân sự” làm Luận
văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự trong thời gian qua, đã có một số cơng
trình nghiên cứu có liên quan về vấn đề này như:
Nguyễn Thị Minh Hằng, “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt
Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học năm 2007. Tại cơng trình này, tác giả nghiên cứu
qui định của pháp luật về việc chứng minh của các chủ thể trong tố tụng dân sự Việt
Nam. Vũ Trọng Hiếu,“Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
Việt Nam” - Luận văn Thạc sĩ Luật học (1998). Cơng trình này, tác giả cũng nghiên
cứu về khái niệm chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Đây là những cơng trình khoa học, được các tác giả nghiên cứu một cách công phu,
2
nhưng có giới hạn là nghiên cứu trong thời điểm Bộ luật Tố tụng dân sự chưa được
sửa đổi bổ sung.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu nêu trên, cịn có các bài viết của Phạm Hữu
Thư, về“Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân
sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (số 9/1998); Hoàng Ngọc Thỉnh, “Chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học năm 2004; Nguyễn Cơng Bình,
“Các quy định về chứng minh trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học năm 2005.
Các tác giả này cũng nghiên cứu những qui đinh về chứng minh trong tố tụng dân
sự Việt Nam. Tuy nhiên, đó chỉ là những bài viết ngắn, nghiên cứu hoạt động chứng
minh của mọi chủ thể có quyền và nghĩa vụ chứng minh, chứ khơng riêng chủ thể là
Tịa án nhân dân và thời điểm nghiên cứu trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự thay đổi,
bổ sung năm 2011.
Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung từ năm 2011, có
nhiều qui định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm đã
được sửa đổi, bổ sung, những cơng trình nghiên cứu nêu trên chưa có điều kiện cập
nhật. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu nêu trên cũng là nguồn tham khảo quan
trọng để tác giả có thể hồn thành tốt phần nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nghiên cứu những vấn đề lý luận của hoạt động thu thập chứng
cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Trên cơ sở
nghiên cứu, phân tích, đánh giá qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành và
những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng tại Tòa án để làm cơ sở cho các kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong tố
tụng dân sự Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chú trọng nghiên cứu qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành,
không nhằm tới việc nghiên cứu, so sánh với pháp luật các nước. Trong pháp luật
Việt Nam hiện hành, đề tài tập trung nghiên cứu những qui định cụ thể về hoạt động
thu thập chứng cứ của đối tượng chủ thể là Tòa án và ở cấp giải quyết vụ án là sơ
thẩm. Đó chính là những căn cứ pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự ở cấp sơ thẩm của Tòa án nhân dân.
3
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Thủ tục giải quyết trong tố tụng dân sự gồm có vụ án dân sự và việc dân sự.
Trong thủ tục giải quyết việc dân sự, khơng có sự tranh chấp giữa các đương sự,
tính chất đối lập trong tố tụng giữa các bên không được thể hiện rõ ràng, hoạt động
thu thập chứng cứ của các của các chủ thể không quá phức tạp. Do đó, hoạt động
thu thập chứng cứ của Tịa án trong q trình giải quyết việc dân sự cũng khơng rõ
nét bằng vụ án dân sự. Chính vì lẽ đó, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề
tài là chỉ nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm đối với vụ án
dân sự, không nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết
việc dân sự và cũng không nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ cả q trình tố
tụng giải quyết vụ án tại Tịa án.
Về phạm vi không gian và thời gian, tác giả nghiên cứu đề tài này dựa trên
cơ sở thực tiễn của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, trong khoảng thời gian 05 năm từ năm 2009 đến năm 2013.
4. Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mac-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với
chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược cải cách
tư pháp. Cụ thể trong từng chương, các phương pháp nghiên cứu được vận dụng
như sau:
Chương 1 chủ yếu áp dụng phương pháp phân tích, so sánh. Phương pháp
phân tích được sử dụng trong việc phân tích khái niệm, đặc trưng pháp lý trong hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự, lịch sử qui định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án. Phương
pháp so sánh được kết hợp với phương pháp phân tích trong việc nghiên cứu hoạt
động thu thập chứng của Tòa án một số nước.
Trong chương 2, ngồi hai phương pháp phân tích, so sánh, tác giả còn vận
dụng thêm phương pháp thống kê và phương pháp tổng hợp. Bằng phương pháp
phân tích, tác giả phân tích những qui định của pháp luật hiện hành về hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, thực
trạng hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm trong thời gian 5 năm
vừa qua. Sau đó, tác giả dùng các phương pháp thống kê, so sánh để kết hợp với
phương pháp phân tích để làm rõ việc thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án cấp sơ thẩm trong thời gian 5 năm vừa qua. Trên cơ sở thực tiễn, tác giả đi
vào phân tích những bất cập, tồn tại của Bộ luật TTDS hiện hành qui định về căn cứ
4
để Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự. Trên cơ sở kết quả phân tích những bất cập, vướng mắc, tác
giả đề ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng song song với phương pháp phân tích để tổng
hợp kết quả nghiên cứu, khái quát những kết quả nghiên cứu. Phương pháp phân
tích và tổng hợp được thực hiện xuyên suốt quá trình nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Về lý luận, Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận của hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự. Luận văn góp phần làm rõ những khái niệm, thuật ngữ, cơ sở pháp lý của
việc qui định các căn cứ qui định hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân
cấp sơ thẩm.
- Về thực tiễn, Luận văn nghiên cứu khả năng vận dụng vào thực tiễn của
những qui định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án sơ thẩm trong q trình
giải quyết vụ án dân sự. Luận văn góp phần làm rõ những bất cập, vướng mắc trong
quá trình áp dụng các qui định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những tài liệu tham khảo cho những người
tiến hành tố tụng nói chung và Thẩm phán, Kiểm sát viên nói riêng. Luận văn có
thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những đọc giả có quan tâm, sinh viên các
trường Đại học Luật hay các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có
chuyên ngành Luật, học viên Trường Bồi dưỡng Nghiệp vụ Kiểm sát, Học viện Tòa
án, Học viện Tư pháp.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài kết cấu thành 2 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ
thẩm trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 2: Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong việc giải
quyết vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thực tiễn áp dụng và kiến
nghị hoàn thiện pháp luật.
5
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU
THẬPCHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN SƠ THẨMTRONG GIẢI QUYẾTVỤ
ÁN DÂN SỰ
1.1.Khái niệm và đặc trƣng pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ do
Tòa án sơ thẩm thực hiện trong giải quyết vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện
trong giải quyết vụ án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm Tòa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự
Khái niệm Tòa án sơ thẩm gắn liền với khái niệm về cấp xét xử. Cấp xét xử
“là giai đoạn xem xét vụ án tại Tòa án với thẩm quyền xác định”1. Tuy nhiên, cấp
xét xử không chỉ đơn thuần là khái niệm tố tụng nói chung, mà “cấp xét xử là hình
thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm
bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tồ án, bảo vệ các quyền
tự do dân chủ của công dân”2. Cấp xét xử khác với thủ tục xét xử. Cấp xét xử là
hình thức tổ chức tố tụng, cịn thủ tục xét xử là những quy định cần tuân thủ đề thực
hiện việc xét xử theo từng cấp. Chính vì quan niệm về cấp xét xử như trên, ngày
nay hầu hết quốc gia có nền luật pháp tiến bộ đều áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử
vào thủ tục xét xử các vụ án, dù hình sự hay dân sự, hành chính, lao động, kinh
doanh thương mại... Để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, hệ thống Tòa án phải
được tổ chức theo mơ hìnhphù hợp. Tuy nhiên, dù tổ chức hệ thống Tịa án theo mơ
hình nào thì cũng bảo đảm có Tịa án cấp sơ thẩm và Tịa án cấp phúc thẩm.
Xét về góc độ ngơn ngữ, sơ thẩm là “xét xử lần đầu một vụ việc ở Tịa án cấp
3
thấp” . Tính chất của cấp xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, xét xử lần đầu đối
với vụ án. Khái niệm về Tịa án sơ thẩm chưa được đề cập chính thức trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tuy nhiên, qua khái niệm cấp xét xử và xét xử sơ
thẩm, chúng ta có thể hiểu được khái niệm Tịa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự.
Theo đó, Tịa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự là Tòa án đầu tiên thụ lý và tiến hành
hoạt động thu thập chứng cứ theo qui định của pháp luật để giải quyết các vụ việc
dân sự.
1
Theo Trần Văn Độ (2007), “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ
chức Tịa án các cấp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (5/2007), tr.1.
2
Trần Văn Độ, tlđd 1, tr.1.
3
Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr.1460.
6
1.1.1.2.Khái niệm vụ án dân sự
Thuật ngữ “vụ án dân sự” đã xuất hiện từ rất sớm trong các văn bản qui
phạm pháp luật Việt Nam, như trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 19604,
Pháp lệnh Qui định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức của
các Tòa án nhân dân địa phương năm 19615. Đến khi Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự năm 1989 được ban hành, khái niệm vụ án dân sự được hiểu cụ thể
hơn, là những tranh chấp hay yêu cầu liên quan đến tài sản, nhân thân trong quan hệ
dân sự, hôn nhân gia đình và lao động6. Sau khi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
1992 được ban hành và được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1994, 1995 thì cơ cấu
Tịa án nhân dân cấp tỉnh được phân thành các tịa chun trách là Tịa hình sự, Tịa
dân sự, Tịa kinh tế, Tịa hành chính, Tịa lao động. Cũng trong thời gian này, Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ tranh chấp lao động (1996), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
(1996) lần lượt được ban hành. Những qui định cụ thể về thẩm quyền giải quyết các
vụ án kinh tế, lao động, hành chính trong các Pháp lệnh này đã làm cho khái niệm
“vụ án dân sự” khơng cịn được hiểu theo nghĩa rộng như trước đây. Theo các Pháp
lệnh nêu trên, “Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh; các tranh chấp giữa công ty với
các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến
việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua
bán cổ phiếu, trái phiếu; các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật”7
được gọi là “vụ án kinh tế”; và “Các tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao
động với người sử dụng lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền
4
Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1960 qui định “Các Tòa án nhân dân là những cơ quan xét
xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tòa án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và dân sự”.
5
Điểm b Điều 9 Pháp lệnh Qui định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức của
các Tòa án nhân dân địa phương 1961 qui định “Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương
hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền: (a)…, (b) Sơ thẩm những vụ án dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương, nhưng
xét thấy quan trọng hoặc phức tạp, cần lấy lên để xử”.
6
Điều 10 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 qui định “Các Toà án có thẩm quyền
giải quyết các vụ án dân sự sau đây: (1) Những việc tranh chấp về quyền sở hữu, về hợp đồng, về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp khác về quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự
giữa công dân với nhau, giữa công dân với pháp nhân, giữa pháp nhân với nhau, trừ những việc thuộc thẩm
quyền của cơ quan, tổ chức khác; (2) Những việc về quan hệ hôn nhân và gia đình; (3) Những việc tranh
chấp về lao động; (4) Những việc xác định cơng dân mất tích hoặc đã chết, trừ những trường hợp quân nhân,
cán bộ mất tích hoặc chết trong chiến tranh thuộc trách nhiệm giải quyết của các cơ quan hữu quan; (5)
Những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những
điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch; (6) Những việc khiếu nại về danh sách cử tri; (7) Những việc khiếu nại cơ
quan báo chí về việc khơng cải chính thơng tin có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
(8) Những việc khác do pháp luật quy định”.
7
Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994.
7
lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác; về thực hiện hợp đồng lao động, và
trong quá trình học nghề; các tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với
người sử dụng lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu
nhập và các điều kiện lao động khác, về việc thực hiện thoả ước lao động tập thể, về
quyền thành lập, gia nhập, hoạt động cơng đồn”8 được gọi là “vụ án lao động”. Do
đó, khái niệm về “vụ án dân sự” khơng cịnbao gồm các vụ án kinh tế, vụ án lao
động như trước đây, mà chỉ bao gồm những vụ việc về dân sự, hôn nhân gia đình.
Đến khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 được ban hành, khái niệm về “vụ án
dân sự” có sự thay đổi. BLTTDS 2004 qui định về “trình tự, thủ tục khởi kiện để
Toà án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu
cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục
giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Toà
án”9. Từ qui định nêu trên của Bộ luật Tố tụng dân sự, khái niệm “vụ án dân sự”
được hiểu là các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động. Trong vụ án dân sự, ln có sự tranh chấp hay là sự bất đồng, xung đột,
mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật10. Do đó, trong vụ án dân sự ln tồn tại một bên chủ thể yêu cầu Tòa án buộc
bên chủ thể khác thực hiện nghĩa vụ nhất định, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm. Đây cũng chính là cơ sở để phân biệt với “việc dân sự”
được qui định trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.
1.1.1.3.Khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, thu thập là “góp nhặt và tập hợp lại”11, còn “thu
thập chứng cứ là hoạt động tố tụng trong đó các chủ thể chứng minh tìm kiếm, phát
hiện, thu nhận các thơng tin, tình tiết, sự kiện để làm căn cứ bảo vệ quyền lợi cho
chính mình”12 hay “thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp
đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc
8
Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996.
Trích Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
10
Nguyễn Văn Tiến-Bành Quốc Tuấn (2011), Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu
tố nước ngồi và việc bảo vệ quyền dân sự tại Cơ quan tư pháp Việt Nam, NXB Lao động, Thành phố Hồ
Chí Minh, tr.7.
11
Viện ngơn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng,
tr.958.
12
Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb
Hồng Đức, tr. 223.
9
8
dân sự”13. Trong tố tụng dân sự, thu thập chứng cứ là một hoạt động mang tính chất
pháp lý, nhằm phục vụ cho việc chứng minh, làm sáng tỏ những tình tiết, sự kiện
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng
dân sự không chỉ đơn thuần là những hoạt động riêng lẻ như gom góp, tập hợp lại
mà là một chuỗi các hoạt động bao gồm “phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản
chứng cứ”14. Các hoạt động trong chuỗi này đều có mối quan hệ biện chứng, tác
động qua lại lẫn nhau. Như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
có thể được hiểu là hoạt động của các chủ thể chứng minh trong việc phát hiện, ghi
nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ theo một trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng
dân sự qui định.
Trong tố tụng dân sự, hoạt động thu thập chứng cứ được nhiều chủ thể thực
hiện như thu thập chứng cứ của đương sự, của Tòa án, của Viện kiểm sát... Việc thu
thập chứng cứ của đương sự trong các vụ án, việc dân sự vừa là quyền vừa là nghĩa
vụ của đương sự. “Trong quá trình Tồ án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có
quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tồ án; nếu đương sự khơng nộp hoặc
nộp khơng đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc khơng nộp hoặc nộp khơng đầy đủ
đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”15. Để có chứng cứ giao nộp cho Tịa
án, đương sự phải có hoạt động thu thập từ trước và trong quá trình giải quyết.
Chứng cứ mà đương sự thu thập để nộp cho Tòa án thường là từ việc cất giữ, bảo
quản của chính đương sự, nghĩa là những chứng cứ thuộc sự quản lý của đương sự.
Tuy nhiên, cũng có những chứng cứ đương sự không quản lý mà do những cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác quản lý, lưu giữ. Lúc này, đương sự có quyền yêu cầu các
chủ thể này cung cấp. Trong thực tế, không phải lúc nào yêu cầu cung cấp chứng cứ
của đương sự cũng được các cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lưu giữ đáp ứng kịp
thời và đầy đủ. Do đó, hoạt động thu thập chứng cứ của đương sự có thể gặp khó
khăn làm cho đương sự không thể tự thu thập được. Bộ luật Tố tụng dân sự dự liệu
trường hợp này và qui định cho phép đương sự có quyền u cầu Tịa án thu thập
chứng cứ. Như vậy, ngoài đương sự trong vụ án dân sự, Tịa án cũng có những hoạt
động thu thập chứng cứ nhưng chỉ trong một số trường hợp nhất định: Tòa án chỉ
tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do BLTTDS quy
định16. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án mang tính chất hỗ trợ cho đương sự
13
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, tr.155.
14
Trần Quang Tiệp (2009), Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.121.
15
Khoản 1, Điều 84, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
16
Khoản 2 Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
9
trong việc xác minh, làm rõ một số tình tiết của vụ án nhưng hoạt động thu thập
chứng cứ của Tịa án có vai trị quan trọng cho việc giải quyết vụ án. Đặc biệt trong
thời gian giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, hoạt động thu thập chứng cứ của
Tịa án càng có vai trị quan trọng.Hoạt động này bảo đảm những chứng cứ cần thiết
cho việc giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm phải được thu thập một cách khách quan,
chính xác, kịp thời và đầy đủ. Nếu trong giai đoạn giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm,
hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án cấp sơ thẩm khơng kịp thời, đầy đủ thì khi
vụ án được giải quyết tại cấp phúc thẩm có thể khơng thể bổ sung được. Từ đó dẫn
đến việc Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án, quyết định sơ thẩm để trả hồ sơ vụ
án về Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện việc thu thập chứng cứ và giải quyết lại vụ án.
Cũng như hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự nói chung, khái
niệm về hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong giải quyết
vụ án chưa được qui định chính thức trong pháp luật về tố tụng dân sự. Dựa trên cơ
sở khái niệm về Tòa án sơ thẩm, vụ án dân sự và khái niệm hoạt động thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự chúng ta có thể hiểu khái niệm về hoạt động thu thập
chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong giải quyết vụ án dân sự như sau: Hoạt
động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong giải quyết vụ án dân sự
là hoạt động tố tụng dân sự, trong đó Tịa án sơ thẩm tiến hành xác minh, phát hiện,
thu nhận, tập hợp các thơng tin, tình tiết, sự kiện để làm căn cứ cho việc giải quyết
vụ việc dân sự trong những trường hợp do pháp luật qui định.
1.1.2. Đặc trưng pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ
thẩm thực hiện trong giải quyết vụ án dân sự.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự có một số đặc trưng pháp lý sau đây:
Thứ nhất, hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong
giải quyết vụ án dân sự là hoạt động thu thập chứng cứ đầu tiên của q trình giải
quyết vụ án tại Tịa án nhân dân nhằm hồn tất hồ sơ vụ án
Trong q trình giải quyết vụ án dân sự, Tịa án có trách nhiệm xây dựng hồ
sơ vụ án. Trong quá trình xây dựng hồ sơ, Thẩm phán được phân công thụ lý phải
tiến hành những qui định của pháp luật tố tụng dân sự để đưa những tài liệu, chứng
cứ vào hồ sơ vụ án một cách đầy đủ và kịp thời. Trong thời gian luật định, Thẩm
phán phải hoàn tất hồ sơ vụ án để có thể đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Khác với mục
đích hoạt động thu thập chứng cứ của đương sự là nhằm chứng minh cho yêu cầu
của mình hay phản bác lại yêu cầu của đương sự khác, hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án là nhằm bảo đảm cho việc hoàn tất hồ sơ vụ án dân sự một cách đầy đủ
10
và kịp thời nhất. Do đó, mọi hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án đều hướng
đến việc hồn tất hồ sơ vụ án.Do cấp sơ thẩm là cấp đầu tiên thụ lý và giải quyết vụ
án dân sự nên hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm là hoạt động thu
thập chứng cứ đầu tiên của q trình giải quyết vụ án nhằm mục đích hoàn tất hồ sơ
của vụ án.
Để bảo đảm vụ án được giải quyết một cách kịp thời, pháp luật tố tụng dân
sự qui định một khoảng thời gian nhất định để Thẩm phán hoàn tất hồ sơ. Khoảng
thời gian này là thời hạn chuẩn bị xét xử. Thời hạn chuẩn bị xét xử ở Tòa án sơ
thẩm được qui định cho từng loại án. Thời hạn bốn tháng đối với các tranh chấp về
dân sự và tranh chấp về hôn nhân và gia đình17, thời hạn hai tháng đối với những
tranh chấp về kinh doanh, thương mại và những tranh chấp về lao động thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án18. Trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc
do trở ngại khách quan thì Chánh án Tịa án có thể quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử nhưng bảo đảm khơng q ½ thời hạn chuẩn bị xét xử đối với từng
loại án nêu trên19. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu các đương sự không thỏa
thuận được với nhau và vụ án không có những căn cứ để tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết thì Thẩm phán phải hồn tất hồ sơ và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.Cấp
sơ thẩm là cấp tiếp cận đầu tiên vụ án và có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ vụ án để đưa
ra xét xử sơ thẩm trong hạn luật định, cho nên hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa
án sơ thẩm thực hiện là những hoạt động thu thập chứng cứ đầu tiên nhằm vào việc
hoàn tất hồ sơ vụ ántrong q trình giải quyết vụ án tại Tịa án.
Thứ hai,hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong giải
quyết vụ án dân sự được thực hiện từ khi nhận được đơn khởi kiện đến khi kết thúc
phiên tòa sơ thẩm
-
Thời điểm nhận đơn khởi kiện
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án gắn liền với quá trình xây dựng hồ
sơ vụ án. Ngay từ thời điểm nhận đơn khởi kiện, người khởi kiện phải gửi kèm theo
những tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện. Sau khi vụ án được thụ lý giải
quyết, hồ sơ vụ án được thiết lập, Tòa án phải đưa những tài liệu, chứng cứ này vào
hồ sơ vụ án để bảo đảm cho quá trình chứng minh của đương sự. Những chứng cứ
này, được đương sự giao nộp và Tòa án tiếp nhận, là những chứng cứ ban đầu do
Tòa án cấp sơ thẩm thu thập ngay từ thời điểm nhận đơn khởi kiện. Như vậy, ngay
17
Theo qui định tại điểm a khoản 1 Điều 179 và Điều 25, Điều 27 BLTTDS.
Theo qui định tại điểm b khoản 1 Điều 179 và Điều 29, Điều 31 BLTTDS.
19
Theo qui định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTDS.
18
11
từ thời điểm nhận đơn khởi kiện, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa đã được bắt
đầu. Từ những chứng cứ ban đầu này, sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán sẽ xem xét
cần phải bổ sung những chứng cứ khác và thông báo cho đương sự giao nộp, vừa
bảo đảm quyền và nghĩa vụ của đương sự, vừa bảo đảm việc hoàn tất hồ sơ vụ án để
giải quyết trong thời hạn luật định.
-
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian mà các bên đương sự có
những hoạt động tích cực nhất trong q trình thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa
án. Trong giai đoạn này, nguyên đơn tiếp tục thu thập và giao nộp cho Tòa án
những chứng cứ để bảo vệ cho quan điểm khởi kiện của mình.Bị đơn, sau khi được
Tịa án thơng báo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng tích cực thu thập và giao
nộp cho Tòa án những chứng cứ cần thiết để phản bác lại yêu cầu mà ngun đơn
đưa ra. Ngồi ra, bị đơn cịn có thể đưa ra những yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn. Để bảo đảm cơ sở chứng minh cho phản tố này, bị đơn cũng phải tích cực thu
thập và giao nộp những chứng cứ cần thiết cho Tòa án để đưa vào hồ sơ vụ án, phục
vụ cho quá trình chứng minh của bị đơn. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
cũng có thể thu thập và giao nộp chứng cứ cho Tịa án để chứng minh tình tiết, sự
việc nào đó của vụ án liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Nếu có yêu cầu
độc lập, họ còn phải thu thập và giao nộp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu độc lập
của mình. Trong quá trình thu thập chứng cứ để giao nộp cho Tịa án, các đương sự
có thể gặp trở ngại trong việc thu thập đối với những chứng cứ do cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác lưu giữ, bảo quản, đương sự có thể u cầu Tịa án có biện pháp thu
thập chứng cứ thay cho họ. Do đó, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, hoạt động thu
thập chứng cứ của Tịa án cấp sơ thẩm đóng vai trị rất quan trọng, góp phần làm cơ
sở cho việc giải quyết vụ án đúng pháp luật. Ngay sau khi thụ lý vụ án, thời gian
chuẩn bị xét xử chính thức được bắt đầu, Tịa án phải có trách nhiệm hồn tất hồ sơ
vụ án trong thời hạn chuẩn bị xét xử, cho nên Tịa án cũng phải tích cực trong hoạt
động thu thập chứng cứ. Có thể nói, giai đoạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian
mà Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ là chính yếu. Hết thời hạn này, hoạt động
thu thập chứng cứ của Tịa án vẫn có thể được tiếp tục nhưng chỉ mang tính chất thu
thập bổ sung những chứng cứ cịn thiếu để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án.
-
Trong q trình tiến hành phiên tịa sơ thẩm
Pháp luật tố tụng dân sự nước ta không giới hạn thời gian thu thập chứng cứ
của các đương sự và Tòa án, cho nên hết giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu còn những
chứng cứ cần thiết mà chưa được thu thập thì các đương sự và Tịa án cấp sơ thẩm
12
cịn có thể tiếp tục thu thập. Sau khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc xét thấy đã
đủ cơ sở chứng cứ để hoàn tất hồ sơ vụ án, Thẩm phán kết thúc giai đoạn chuẩn bị
xét xử bằng cách ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau khi ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử, các đương sự kiểm tra lại chứng cứ của mình để chuẩn bị cho việc bảo vệ
quyền lợi trước phiên tịa. Khi xét thấy chứng cứ cịn thiếu thì đương sự phải nhanh
chóng bổ sung và giao nộp cho Tòa án. Tòa án cũng tiến hành mọi việc để chuẩn bị
tổ chức phiên tịa trong hạn luậtđịnh, trong đó có việc xem xét lại hồ sơ vụ án. Khi
phát hiện cịn thiếu những chứng cứ cần thiết thì Tịa án cấp sơ thẩm cũng được tiếp
tục thu thập bổ sung. Hoạt động thu thập chứng cứ cịn có thể được tiến hành ngay
tại phiêm tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử tiến hành thu thập
chứng cứ thông qua việc ghi nhận ý kiến của các đương sự, ý kiến của người bảo vệ
quyền lợi của đương sự, ý kiến của người làm chứng và các cơ quan tham gia tố
tụng mà Tòa án triệu tập. Hội đồng xét xử cũng thu thập chứng cứ thông qua việc
hỏi các đương sự, người làm chứng, người tham gia tố tụng… để làm sáng tỏ các
tình tiết, sự việc cần thiết. Việc thu thập chứng cứ trong q trình tiến hành phiên
tịa sơ thẩm cũng là hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm nhằm
thẩm tra, xác minh, củng cố, bổ sung những chứng cứ cần thiết giúp cho việc giải
quyết vụ án được khách quan, chính xác, tồn diện.
Thứ ba, hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong giải
quyết vụ án dân sự được giới hạn trong phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố,
yêu cầu độc lập của các đương sự.
Hoạt động thu thập chứng cứ của các bên đương sự là không giới hạn khuôn
khổ qui định của pháp luật, nghĩa là đương sự có thể tự mình thu thập mọi chứng cứ
mà đương sự cho là có thể phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình để giao nộp cho Tòa án. Nhưng đối với Tòa án, hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án được đặt trong khn khổ qui định của pháp luật. Tịa án chỉ tiến hành
xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định20.
Đây vừa là nhiệm vụ, vừa là quyền hạn của Thẩm phán khi xây dựng hồ sơ để giải
quyết vụ án.
Giới hạn của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án là trong phạm vi yêu
cầu của khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của các đương sự. Xuất phát từ
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, “đương sự có quyền quyết định việc
khởi kiện, u cầu Tồ án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ
lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ
20
Khoản 2 Điều 6 BLTTDS.
13
giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”21. Hoạt động thu thập
chứng cứ của Tịa án sơ thẩm là nhằm xây dựng hồ sơ để giải quyết vụ án theo yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập của các đương sự. Những yêu cầu
này do các đương sự đặt ra và được Tòa án thụ lý. Tòa án chỉ thu thập chứng cứ cần
thiết cho việc giải quyết những yêu cầu của đương sự và chỉ giới hạn trong phạm vi
yêu cầu của đương sự, bao gồm các yêu cầu khởi kiện, yêu cần phản tố và yêu cầu
độc lập. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự, việc khởi kiện, yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình là do đương sự tự quyết định và thể hiện bằng yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập. Khi đương sự có yêu cầu thì Tịa án mới có cơ sở giải
quyết. Tịa án không được giải quyết vụ án vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự.
Do chỉ giải quyết vụ án trong phạm vi yêu cầu của đương sự, nên hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm cũng giới hạn trong phạm vi yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của các đương sự.
Thứ tư, hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án sơ thẩm thực hiện trong giải
quyết vụ án dân sự bao gồm hoạt động tiếp nhận chứng cứ do các đương sự cung
cấp và hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án thực hiện các biện pháp theo qui định
của pháp luật tố tụng dân sự.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm gồm nhiều hoạt động
khác nhau, nhằm mục đích đưa các tài liệu, chứng cứ từ bên ngoài vào hồ sơ vụ án,
để từ đây có cơ sở xem xét, giải quyết về các yêu cầu của đương sự một cách đầy đủ
và toàn diện. Xuất phát từ việc bảo đảm mọi nguồn chứng cứ đều phải được đưa
vào hồ sơ vụ án một cách đầy đủ, kịp thời, phục vụ cho việc giải quyết vụ án, nên
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm phải được thực hiện đối với
mọi nguồn chứng cứ có thể thu thập được.
Trong tố tụng dân sự, do các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu của mình hay phản bác yêu cầu của
đương sự khác, nên nguồn chứng cứ do đương sự cung cấp khá phong phú. Để bảo
đảm đầy đủ chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án phải tiếp nhận đầy đủ và kịp thời
các chứng cứ từ nguồn này. Do vậy, hoạt động tiếp nhận chứng cứ do đương sự
cung cấp cũng là hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm. Để bảo đảm
giá trị trong hoạt động thu thập chứng cứ từ việc tiếp nhận chứng cứ do các đương
sự cung cấp, Tòa án cần thực hiện đúng các thủ tục trong việc tiếp nhận chứng cứ
21
Khoản 1 Điều 5 BLTTDS.
14
do các đương sự cung cấp22. Nếu việc tiếp nhận khơng được thực hiện đúng qui
định của pháp luật thì có thể làm cho chứng cứ khơng có giá trị pháp lý, không sử
dụng được để chứng minh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Ngoài nguồn chứng cứ do các đương sự cung cấp, Tịa án cịn có thể thông
qua yêu cầu của đương sự hay theo qui định của pháp luật, tự mình tiến hành các
biện pháp thu thập chứng cứ do pháp luật qui định. Đây vừa là nhiệm vụ, vừa là
quyền hạn của Thẩm phán khi lập hồ sơ vụ án23. Để yêu cầu Tòa án thu thập chứng
cứ, các đương sự phải tự thu thập trước, chỉ trong trường hợp đương sự đã áp
dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn khơng thể tự mình
thu thập được thì mới có thể u cầu Tịa án tiến hành thu thập chứng cứ24.
Ngoài trường hợp thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự như nêu trên, pháp
luật cũng qui định những trường hợp Tịa án có thể tự mình tiến hành hoạt động thu
thập chứng cứ. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phải tuân thủ chặt chẽ qui
định của pháp luật. Tịa án chỉ có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây
để thu thập chứng cứ: (1) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; (2) Đối chất
giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng; (3) Trưng cầu
giám định; (4) Quyết định định giá tài sản, yêu cầu thẩm định giá tài sản; (5) Xem
xét, thẩm định tại chỗ; (6) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ; (7) Yêu
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự25. Việc tiến hành thu
thập tài liệu, chứng cứ do Tòa án tiến hành phải tuân thủ quy định tại các điều luật
cụ thể của BLTTDS về từng biện pháp và theo hướng dẫn của Nghị quyết
04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
Như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện
trong giải quyết vụ án dân sự bao gồm hoạt động tiếp nhận chứng cứ do các đương
sự cung cấp và hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án thực hiện các biện pháp theo
qui định của pháp luật tố tụng dân sự.
22
Theo qui định tại Điều 4 Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
23
Được qui định tại khoản 3 Điều 173 Bộ luật Tố tụng dân sự.
24
Theo qui định tại khoản 1 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự.
25
Theo qui định tại khoản 2 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự.
15
1.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong giải quyết
vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự trƣớc ngày 01/01/2005.
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1990
Năm 1945, sau khi giành được độc lập, để bảo đảm sự ổn định của đất nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945, qui định
tạm thời giữ lại các luật lệ của chế độ cũ mà không trái với bản chất của Nhà nước.
Sau đó, Nhà nước ban hành pháp luật Việt Nam để thay thế dần. Trong lĩnh vực tố
tụng dân sự, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về tố tụng dân sự như: Sắc Lệnh
số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán, Sắc Lệnh
15/SL ngày 17/4/1946 quy định về thẩm quyền của Tòa án các cấp, Sắc Lệnh
112/SL ngày 28/6/1946 bổ sung sắc lệnh số 15/SL , Sắc Lệnh 85/SL ngày
22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng… Tuy nhiên, tại các văn bản
trên, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm chưa được qui định rõ.
Đến năm 1977, trong bản hướng dẫn trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo
Thông tư số 96 – NC/PL ngày 8/2/1977, Tịa án nhân dân tối cao đã có sự hướng
dẫn hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân cụ thể như sau: “Để bảo vệ
quyền lợi của mình các đương sự có nhiệm vụ đề xuất chứng cứ nhưng Tịa án nhân
dân khơng được phép chỉ dựa vào lời khai của đương sự và những giấy tờ mà họ
xuất trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải dùng mọi biện pháp cần thiết để làm
sáng tỏ sự thật”.
Các quy định tại thông tư nêu trên, đã dần dần khẳng định sự cần thiết của
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, nhất là Tòa án cấp sơ thẩm trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự. Mặc dù đương sự có nghĩa vụ phải thu thập và cung cấp
những chứng cứ chứng minh cho u cầu của mình, nhưng Tịa án với vị trí là cơ
quan xét xửcũng có nhiệm vụ thu thập chứng cứ trong q trình thụ lý vụ án tại Tịa
án cấp sơ thẩm, để có cơ sở xem xét giải quyết vụ án dân sự một cách khách quan,
toàn diện.
1.2.2. Giai đoạn từ 1990 đến 2004
Năm 1989 Nhà nước ban hành văn bản chính thức qui định về thủ tục tố tụng
dân sự, là Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự do Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước ban hành ngày 07 tháng 12 năm 1989. Tiếp theo đó, một số pháp lệnh tương
tự ra đời nhưPháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994, Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996. Có thể nói đây là
03 văn bản luật tiền thân của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 sau này, góp phần khắc
phục tính chất tản mạn của các quy phạm pháp luật về tố tụng dân sự trong thời gian
16
trước. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án được qui định chung là “Tồ án có
nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm
chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác 26”. Những hoạt
động thu thập chứng cứ của Tịa án có thể được thực hiện trong quá trình điều tra,
trước khi xét xử vụ án dân sự như: (1) Lấy lời khai của các đương sự, người làm
chứng về những vấn đề cần thiết; (2) Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
hữu quan hoặc công dân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án;
(3) Xem xét tại chỗ; (4) Trưng cầu giám định; (5) Yêu cầu cơ quan chuyên môn
định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp27. Nếu cần thiết phải tiến
hành điều tra ở ngoài địa hạt của mình, Tồ án nơi thụ lý vụ án có thể uỷ thác cho
Toà án nơi cần phải tiến hành điều tra trong việc thu thập chứng cứ của vụ án. Tồ
án được uỷ thác có nhiệm vụ thực hiện ngay uỷ thác và thơng báo kết quả cho Tồ
án đã uỷ thác28.
Tương tự việc thu thập chứng cứ trong các vụ án dân sự, Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế 1994 qui định việc thu thập chứng cứ của Tịa án thơng
qua việc xác minh, thu thập chứng cứ. “Khi cần thiết, Tồ án có thể xác minh, thu
thập chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác”29. Việc xác
minh, thu thập chứng cứ, Tịa án có thể tự mình tiến hành hoặc uỷ thác cho Toà án
khác tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Toà án được uỷ thác có nhiệm vụ
thực hiện ngay sự uỷ thác và thơng báo kết quả cho Tồ án đã uỷ thác. Việc xác
minh, thu thập chứng cứ có thể bao gồm các biện pháp sau: (1) Yêu cầu đương sự
cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về những vấn đề cần thiết; (2) Yêu cầu
cơ quan Nhà nước, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho
việc giải quyết vụ án; (3) Yêu cầu người làm chứng trình bày về những vấn đề cần
thiết; (4) Xác minh tại chỗ; (5) Trưng cầu giám định; (6) Yêu cầu cơ quan chuyên
môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp30.
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ tranh chấp lao động cũng qui định trong
quá trình giải quyết vụ án “khi cần thiết, Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng
cứ hoặc yêu cầu các bên tranh chấp lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án lao động được
chính xác, cơng bằng”31. Trong hoạt động thu thập chứng cứ khi giải quyết các vụ
26
Điều 3 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự N.1989.
Theo qui định tại Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự N.1989.
28
Theo qui định tại Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự N.1989.
29
Theo qui định tại Điều 4 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế N.1994.
30
Theo qui định tại Điều 35Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế N.1994.
31
Theo qui định tại Điều 3 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ tranh chấp lao động N.1996.
27
17
tranh chấp lao động, Tịa án có thể tự mình tiến hành hoặc ủy thác cho Tòa án khác
tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Tòa án được ủy thác, có nhiệm vụ thực hiện
ngay việc ủy thác và thơng báo kết quả cho Tồ án đã uỷ thác. Các biện pháp thu
thập chứng cứ trong khi giải quyết các vụ án lao động bao gồm: (1) Yêu cầu các
đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về những vấn đề cần thiết; (2)
Yêu cầu các bên tranh chấp lao động, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hữu quan
cung cấp chứng cứ có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án; (3) Yêu cầu người làm
chứng trình bày về những vấn đề cần thiết; (4) Xác minh tại chỗ; (5) Trưng cầu
giám định; (6) Lập hội đồng định giá hoặc yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá tài
sản khi cần thiết32.
1.3. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong giải quyết
vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nƣớc.
1.3.1.Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm trong tố tụng dân sự
củaLiên bang Nga.
Bộ luật Tố tụng dân sự của Liên bang Nga được Quốc hội (Duma) thông qua
ngày 23/10/2002 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2003 (sau đây gọi là Bộ luật
dân sự Liên bang Nga). Bộ luật này được ban hành để thay thế Bộ luật Tố tụng dân
sự Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Xơ viết Liên bang Nga năm 196433. Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2003 của Liên bang Nga có cơ cấu hồn chỉnh với 7 phần, 47 chương,
446 điều. Sau một thời gian dài áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự năm 1964 của Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Xơ viết Liên bang Nga, các nhà lập pháp Liên bang Nga đã
nghiên cứu,phân tích,đánh giá, tổng kết và đưa ra nhiều cải tiến phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong giai đoạn lịch sử mới. Ngoài sự
thay đổi về số lượng như trong cơ cấu của Bộ luật thể hiện, phải nói đến sự thay đổi
về chất lượng, những nội dung mới được bổ sung hồn tồn hoặc sửa đổi phần lớn.
Đó là những qui định về thủ tục rút gọn, quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu
công nhận vănbản qui phạm pháp luật khơng có hiệu lực tồn bộ hoặc một phần, qui
định về thủ tục giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền tham gia trưng cầu dân ý của công
dân Liên bang Nga, quy định về thủ tục nhận con nuôi, quy định về hạn chế hoặc
tước quyền của người chưa thành niên từ 14-18 tuổi trong việc tự định đoạt thu
nhập của mình, quy định về việc tuyên bố người chưa thành niên có năng lực hành
32
Theo qui định tại khoản 2 Điều 37 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ tranh chấp lao động
N.1996.
33
Là bộ luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1064.
18
vi đầy đủ, bổ sung một số điểm về thủ tục tố tụng ở cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm
và thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án...
Về chứng cứ và chứng minh, được qui định tại Chương VI, có 33 điều, từ
Điều 55 đến Điều 87, qui định về chứng cứ vào chứng minh, cụ thể như nghĩa vụ
chứng minh, các loại chứng cứ, thủ tục thu thập, bảo toàn, đánh giá chứng cứ... Thủ
tục tố tụng dân sự của Liên ban Nga rất quan trọng giá trị pháp lý của chứng cứ.
Theo qui định về chứng cứ của Bộ luật dân sự 2003, “Chứng cứ được thu thập
nhưng vi phạm pháp luật khơng có giá trị pháp lý và không thể được sử dụng làm
căn cứ để giải quyết vụ án”34. Tòa án tại nước Nga giữ vai trò tiếp nhận, xem xét,
đánh giá chứng cứ: “Tịa án quyết định những tình tiết nào có ý nghĩa đối với vụ án,
bên nào phải có nghĩa vụ chứng minh những tình tiết đó, và những tình tiết nào phải
đưa ra tranh luận, xem xét mặc dù các bên có thể khơng viện dẫn đến chúng”35.
Về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án tại nước Nga, cũng tương đồng
với những qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2003 của Liên bang Nga qui định “Tòa án có quyền yêu cầu những người tham
gia tố tụng xuất trình thêm chứng cứ”36, Tịa án cũng có quyền thu thập chứng cứ,
tuy nhiên cũngchỉ hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ trong những trường hợp mà
đương sự khơng thể tự mình thu thập được, cụ thể là“trong trường hợp những người
tham gia tố tụng gặp khó khăn trong việc xuất trình chứng cứ, theo yêu cầu của họ,
Tịa án có thể giúp đỡ trong việc thu thập và yêu cầu cung cấp chứng cứ”37.
Những biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án theo qui định của Bộ luật Tố
tụngdân sự Liên bang Nga cũng khá phong phú, và có nhiều biện pháp tương tự như
thủ tục tố tụng dân sự của Việt Nam, chẳng hạn như: Xem xét và nghiên cứu chứng
cứ tại chỗ: “Tòa án có thể xem xét và nghiên cứu thư chứng hoặc vật chứng tại nơi
bảo quản hoặc nơi lưu giữ chứng cứ nếu việc giao, nộp chúng tại Tòa án gặp khó
khăn hoặc khơng thể thực hiện được”38; Ủy thác thu thập chứng cứ: “Trong trường
hợp chứng cứ cần thu thập nằm ở thành phố khác hoặc ở quận khác, Tòa án ủy thác
cho Tịa án nơi đó thực hiện những hành vi tố tụng nhất định”39; trưng cầu giám
định: “Trong trường hợp phát sinh vấn đề cần kiến thức chuyên mơn trong lĩnh vực
khoa học, kỹ thuật, thủ cơng thì Tịa án trưng cầu giám định. Việc giám định có thể
34
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung , Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga, Nxb Tư pháp, Hà
Nội 2005, khoản 2, Điều 55, tr.80.
35
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung ,tlđd 34, khoản 2, Điều 56, tr.80.
36
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung ,tlđd 34, khoản 1, Điều 57, tr.80.
37
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung ,tlđd 34, khoản 1, Điều 57, tr.80.
38
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung ,tlđd 34, Điều 58, tr.81.
39
Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung ,tlđd 34, Điều 62, tr.82