Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Đăng ký ngành, nghề kinh doanh theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

ĐINH HỒN NHÃ

ĐĂNG KÝ NGÀNH, NGHỀ KINH DOANH THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

ĐINH HỒN NHÃ

ĐĂNG KÝ NGÀNH, NGHỀ KINH DOANH THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐINH HỒN NHÃ
Khóa: 35



MSSV: 1055050371

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS. PHAN HUY HỒNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu và thông tin được nêu là trung thực. Các dữ liệu, luận điểm khoa học được trích
dẫn đầy đủ nếu khơng thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân tơi.
Tác giả luận văn

Đinh Hồn Nhã


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ được viết tắt

Từ nguyên gốc

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2


ĐKKD

Đăng ký kinh doanh

3

GCN ĐKDN

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

4

LDN

Luật Doanh nghiệp


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................1
Chương 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ NGÀNH, NGHỀ
KINH DOANH TẠI VIỆT NAM ...............................................................................7
1.1. Khái niệm ngành, nghề kinh doanh và đăng ký ngành, nghề kinh doanh..........7
1.2. Vai trò của đăng ký ngành, nghề kinh doanh trong hệ thống công cụ quản lý
nhà nước ......................................................................................................................9
1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan ĐKKD trong đăng ký
ngành, nghề kinh doanh ............................................................................................10
1.4. Nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh và quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp .............................................................................................................12
1.4.1.


Nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh ..............................................12

1.4.2.

Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp ..............................................14

1.4.2.1. Giới hạn quyền tự do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh của doanh
nghiệp
.............................................................................................................14
1.4.2.2. Nghĩa vụ kinh doanh đúng ngành, nghề đã đăng ký ..........................18
1.5. Thủ tục đăng ký ngành, nghề kinh doanh và đăng ký thay đổi, bổ sung ngành,
nghề kinh doanh theo pháp luật Việt Nam ................................................................20
1.5.1.

Thủ tục đăng ký ngành, nghề kinh doanh theo pháp luật Việt Nam ........20

1.5.2. Thủ tục đăng ký bổ sung, thay đổi ngành, nghề kinh doanh theo pháp luật
Việt Nam ..................................................................................................................24
Chương 2: THỰC TIỄN ĐĂNG KÝ NGÀNH, NGHỀ KINH DOANH TẠI
VIỆT NAM ...............................................................................................................27
2.1. Công tác thực thi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước trong đăng ký
ngành, nghề kinh doanh tại Việt Nam.......................................................................27
2.2. Thực hiện nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh và nghĩa vụ kinh doanh
đúng ngành, nghề đã đăng ký của doanh nghiệp ......................................................29
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ ĐĂNG KÝ NGÀNH, NGHỀ KINH DOANH .........................................35


3.1. Nâng cao vai trò của cơ quan nhà nước trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền
hạn đăng ký ngành, nghề kinh doanh ........................................................................35

3.2. Hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp ...............................37
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự do kinh doanh là quyền của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi
nhận và bảo hộ1. Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh
những lợi ích kinh tế - xã hội to lớn, cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến
trật tự công cộng - xã hội. Vì vậy, nhà nướcmột mặt tạo điều kiện để công dân thực
hiện quyền tự do kinh doanh;đồng thời, cũng quy định các cách thức nhằm quản lý
doanh nghiệp hiệu quả thông qua các thủ tục thành lập doanh nghiệp và điều kiện
kinh doanh. LDN 2005 ra đời2 đã mang lại làn gió mới cho sự phát triển của nền
kinh tế Việt Nam, đánh dấu một bước phát triển mới tồn diện hơn, đầy đủ hơn cho
chính sách quản lý kinh tế nhà nướcở tầm vĩ mô3. Qua hơn 8 năm triển khai và thực
hiện, LDN 20054và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những tác động tích cực
trongviệc tạo lập mơi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy phát triển và mở rộng
quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp5. Do vậy, số lượng doanh nghiệp
đăng ký thành lập đã tăng đáng kể so với trước thời điểm LDN 2005 có hiệu lực thi
hành (Phụ lục 1)6. Tuy vậy, thực tế cũng cho thấy, bên cạnh những thành tựu đạt

1

Điều 33 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật
không cấm”.
Điều 50 BLDS 2005: “Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cá
nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp
đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật”.

2
Đạo luật đầu tiên tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập doanh nghiệp là Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 áp
dụng cho nhà đầu tư nước ngồi; tiếp đó là LDN tư nhân năm 1990 và Luật Công ty năm 1990 áp dụng cho
nhà đầu tư trong nước; sau đó là LDN 1999 hợp nhất và mở rộng phạm vi điều chỉnh cùa 2 Luật này; hiện
nay là LDN 2005 áp dụng thống nhất cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
3
Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ (2005), Nghiên cứu rà sốt văn bản pháp luật về thành lập, tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp với các tư tưởng chỉ đạo xây dựng LDN thống nhất và Luật Đầu tư
chung.
Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ (2005), Tờ trình tư tưởng chỉ đạo và nội dung cơ bản của LDN ,
Luật Khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ (2005), Đánh giá dự báo tác động của LDN thống nhất và Luật
Đầu tư chung.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Tờ trình về Dự án LDN thống nhất và Luật Đầu tư chung.
Cao Bá Khoát, Bùi Ngọc Tủng, “Những điểm đổi mới chủ yếu của LDN 2005 so với LDN 1999?”,
truy cập ngày 10/06/2014.
4
LDN 2005 có hiệu lực từ 01/07/2006, đã được sửa đổi bổ sung vào 2009, 2013
5
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Tờ trình số 1353/TTr-BKHĐT về Dự án LDN sửa đổi, Mục I.
6
Bộ Kế hoạch và Đầu tư -Tổng cục thống kê (2013), “Sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn
2006-2011”, NXB Thống kê Hà Nội.
Cục Quản lý ĐKKD, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Tình hình đăng ký doanh nghiệp”,
truy
cập ngày 29/05/2014.

1



được7việc triển khai thực hiện LDN 2005 trong hơn 8 năm qua cũng đã gặp phải
khơng ít vướng mắc, hạn chế đối với việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng mơi
trường kinh doanh nói chung và phát triển doanh nghiệp nói riêng. So với các nước
trong khu vực thì sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa tương xứng với
nội lực của nước nhà. Theo đánh giá về môi trường kinh doanh tại Việt Nam vừa
được nhóm Ngân hàng Thế giới cơng bố ngày 29/10/2013 Việt Nam hiện đang
đứng vị trí 99/189 quốc gia; trong đó, thủ tục khởi sự kinh doanh được xếp hạng thứ
109 trên 189 quốc gia và nền kinh tế8. Như vậy, mơi trường kinh doanh của Việt
Nam vẫn cịn ở mức thấp trong khi các hàng xóm lân cận của Việt Nam đang ngày
một bứt phá mạnh mẽ9. Tình hình trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau;
trong đó, nguyên nhân quan trọng nhất là do sự lạc hậu của hệ thống pháp luật
doanh nghiệp Việt Nam so với tình hình phát triển của nền kinh tế. Chính hệ thống
pháp luật thiếu thơng thống đã làm cản trở việc gia nhập thị trường của nhà đầu tư,
làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam với các nước trong khu
vực. Do vậy, Việt Nam cần có bước đột phá mạnh mẽ trong các quy định của pháp
luật về thủ tục ĐKKD và thành lập doanh nghiệp nhằm tạo lập mơi trường kinh
doanh thơng thống và hấp dẫn nhà đầu tư hơn.
Trong lĩnh vực thành lập doanh nghiệp, đổi mới các quy định của pháp luật về
đăng ký ngành, nghề kinh doanh là yêu cầu cấp thiết được đặt ra trong giai đoạn
hiện nay. Ngành, nghề kinh doanh được xem là một trong những yếu tố quan trọng
có ảnh hướng lớn đến sự ra đời của doanh nghiệp vì doanh nghiệp được thành lập
chỉ gắn với một hoặc một số ngành, nghề kinh doanh nhất định. Để tiến hành hoạt
động kinh doanh, gia nhập thị trường, pháp luật Việt Nam yêu cầu doanh nghiệp
phải tiến hành đăng ký ngành, nghề kinh doanh theo mã ngành cấp 4 trong Hệ
thống ngành kinh tế Việt Nam; tương tự, khi doanh nghiệp có sự thay đổi ngành,
nghề kinh doanh trên GCN ĐKDN thì doanh nghiệp cũng phải thực hiện thủ tục
đăng ký thay đổi, bổ sung ngành, nghề kinh doanh và cấp lại GCN ĐKDNghi nhận
về sự thay đổi đó. Bên cạnh đó, phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp cũng bị giới
hạn trong phạm vi ngành, nghề được ghi trên GCN ĐKDN. Thực tiễn cho thấy cách


7

Lê Duy Mạnh, “Chương trình cải cách ĐKKD quốc gia: Một số kết quả đạt được và phương hướng hoàn
thiện trong thời gian tới”, truy cập ngày 02/06/2014.
8
The
World
Bank
Group,
“Ease
of
Doing
Business
in
Vietnam”,
truy cập ngày 01/06/2014.
9
Philippines nằm trong 10 nền kinh tế đạt được nhiều tiến bộ nhất về cải thiện mơi trường kinh doanh,
Singapore thì đứng đầu trong bảng xếp hạng 189 nước, Malaysia xếp thứ 6 và Thái Lan xếp thứ 18.

2


thức và yêu cầu đăng ký ngành, nghề kinh doanh theo mã ngành kinh tế Việt Nam
hiện nay là chưa thật hợp lý, chưa đảm bảo nguyên tắc “doanh nghiệp được quyền
kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm hoặc không hạn chế”
cũng như gây thêm phiền hà, tăng thêm rủi ro, chi phí tuân thủ cho nhà đầu tư10.
Trước yêu cầu khách quan đòi hỏi cần phải có sự đổi mới một cách tồn diện
hệ thống pháp luật doanh nghiệp tương xứng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
Việt Nam và xu hướng phát triển của thế giới,Quốc hội sẽ lấy ý kiến và thơng qua

một dự án luật quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh nghiệp11. Dự
thảoLDN(sửa đổi) sẽ được xem là bước ngoặc lớn trong việc hoàn thiện và cải cách
các quy định của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp, tạo thuận lợi hơn cho hoạt
động thành lập doanh nghiệp,hiện thực hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có quyền tự do kinh
doanh các ngành, nghề mà pháp luật khơng cấm12.Đó là lý do tác giả chọn đề tài
đăng ký ngành, nghề kinh doanh theo pháp luật Việt Nam làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua tìm hiểu tác giả nhận thấy, các cơng trình nghiên cứu chun biệt và hồn
thiện liên quan đến vấn đề đăng ký ngành, nghề kinh doanh hiện cịn tương đối ít.
Một số ít bài viết đã đề cập đến các khía cạnh pháp lý khác nhau của vấn đề này.
Tuy nhiên, những bài viết này chỉ dừng lại ở việc phân tích một phần nhỏ của vấn
đề đăng ký ngành, nghề kinh doanh tại Việt Nam mà chưa đi sâu vào nghiên cứu
một cách đầy đủ và tồn diện về LDN 2005 với vai trị là cơ sở pháp lý điều chỉnh
đăng ký ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Điển hình như:
Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về thành lập và ĐKKD của doanh
nghiệp” của Hoàng Thị Huế, năm 2008. Đề tàiđã đề cập đến các quy định của pháp
luật liên quan đến ngành, nghề kinh doanh bị cấm kinh doanh và hạn chế kinh
doanh; ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh. Tuy nhiên, đề
tài lại không đi vào nghiên cứu thủ tục đăng ký ngành, nghề kinh doanh và đăng ký
thay đổi, bổ sung ngành ngành, nghề kinh doanh.

10

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Tờ trình số 1353/TTr-BKHĐT về Dự án LDN sửa đổi, Mục I.2.
Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII,số 20/2011/QH13, ngày
26/11/2011.
Nghị quyết điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, số
45/2013/QH13, ngày 18/6/2013.
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 2014.

12
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Tờ trình số 1353/TTr-BKHĐT về Dự án LDN sửa đổi, Mục II.2.
11

3


Luận văn thạc sỹ luật học “Giới hạn quyền tự do kinh doanh theo LDN 2005”
của Nguyễn Thành Chúng, năm 2008.Đề tài chỉ đề cập đến mức độ giới hạn quyền
tự do kinh doanh đối với mỗi nhóm ngành, nghề kinh doanh mà không hề đề cập
đến thủ tục đăng ký ngành, nghề kinh doanh.
Q trình góp ý cho Dự thảoLDN (sửa đổi) cũng đã làm phát sinh một số vấn
đề trong thực tiễn đăng ký ngành, nghề kinh doanh theo pháp luật hiện hành và
nhận được sự quan tâm khơng ít của các nhà lập phápgóp ý cho Dự thảoLDN (sửa
đổi) nhằm khắc phục những điểm còn hạn chế của LDN 2005 về đăng ký ngành,
nghề kinh doanh. Tuy vậy, những góp ý trên chỉ mang tính rời rạc và hiện vẫn còn
những quan điểm trái chiều cần được trao đổi thêm. Do vậy, những vấn đề liên quan
đến đăng ký ngành, nghề kinh doanh đang rất cần được nghiên cứu và làm rõ trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo cho những người làm
công tác pháp luật trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
về đăng ký ngành, nghề kinh doanh cũng như có giá trị tham khảo cho các sinh viên
Luật và những cá nhân quan tâm. Với ý nghĩa đó, mục tiêu cao nhất của đề tài là
tìm và phân tích những điểm hạn chế, bất cập trong quy định của LDN 2005 về
đăng ký ngành, nghề kinh doanh để từ đó nêu lên những kiến nghị, góp ý cụ thể cho
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài sẽ bao gồm các nội dung:
Phân tích một cách tổng quát các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh
đăng ký ngành, nghề kinh doanh.

Trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình thực tiễn đăng ký ngành, nghề kinh
doanh tại Việt Nam, trong sự so sánh, đối chiếu với các quy định của LDN 2005,
nhằm xác định cơ chế pháp lý đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đăng ký ngành,
nghề kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay, mức độ quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp và cơ chế quản lý của nhà nước.
Kết quả của việc đối chiếu này sẽ làm sáng tỏ những điểm cịn hạn chế, thiếu
sót trong các quy định của pháp luật về đăng ký ngành, nghề kinh doanh so với yêu
cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện tại; từ đó, đề tài sẽ đưa ra những đề

4


xuất, giải pháp nhằm hiện thức hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp13.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề pháp lý liên quan đến đăng ký
ngành, nghề kinh doanh tại Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về đăng ký ngành, nghề kinh doanh tại các cơ quan nhà nước.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các quy định củaLDN 2005 và các quy định chi
tiết hướng dẫn thi hành LDN 2005 về đăng ký ngành, nghề kinh doanh và đăng ký
thay đổi, bổ sung ngành, nghề kinh doanh; đồng thời, kết hợp với thực tiễn để phân
tích, đánh giá những điểm còn hạn chế của LDN 2005 trong đăng ký ngành, nghề
kinh doanh tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đưa ra những đề xuất kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về đăng ký ngành, nghề kinh
doanh.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu biện chứng khoa học để nhìn nhận và
đánh giá hoạt độngđăng ký ngành, nghề kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện
hành. Trên cơ sở đó, đề tài sử dụng phương pháp phân tích, so sánh để đưa ra các

giải pháp, kiến nghị nhằm tác động tích cực cho việc hồn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam về doanh nghiệp.Ngoài ra, đề tài này còn sử dụng những phương pháp
khác như: phương pháp diễn dịch - quy nạp, phương pháp dự báo, tổng hợp, thống
kê số liệu,… trên cơ sở vận dụng quan điểm của Đảng, nhà nướctrong sự nghiệp đổi
mới.
7. Cơ cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu gồm các phần sau:
Chương 1: Quy định pháp luật về đăng ký ngành, nghề kinh doanh tại Việt
Nam
Chương 2: Thực tiễn đăng ký ngành, nghề kinh doanh tại Việt Nam
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về đăng ký
ngành, nghề kinh doanh

13

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Tờ trình số 1353/TTr-BKHĐT về Dự án LDN sửa đổi, Mục II.2.

5


Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

6


Chƣơng 1
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ NGÀNH, NGHỀ
KINH DOANH TẠI VIỆT NAM

1.1.

Khái niệm ngành, nghề kinh doanh và đăng ký ngành, nghề kinh doanh
Ngành, nghề kinh doanh không phải là một khái niệm xa lạ nhưng lại có nhiều

cách hiểu khác nhau liên quan đến khái niệm này. Nghiên cứu nguồn gốc phát triển
của ngành, nghề kinh doanh,ta có thể thấy ngành, nghề xuất hiện từ rất sớm nhưng
ngành, nghề kinh doanh lại không đồng nghĩa với ngành, nghề. Ngành, nghề kinh
doanh chỉ xuất hiện khi có sự ra đời của nhà nướcvà pháp luật. Khi đó, để thực hiện
chức năng quản lý nhà nướcvà chức năng quản lý xã hội, nhà nướcđã đặtra các quy
định để điều chỉnh hoạt động kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngành, nghề trên thị trường rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, doanh nghiệp được
thành lập chỉ gắn với một hoặc một số ngành, nghề kinh doanh nhất định. Theo
LDN 2005, ngành, nghề doanh nghiệp sử dụng trong ĐKKD là những ngành, nghề
kinh doanh mà pháp luật không cấm. Hiện nay, ngành, nghề sử dụng trong ĐKKD
là ngành, nghề cấp 414trong Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, ngành,
nghề ĐKKD cũng được thiết kế theo nguyên tắc mở để doanh nghiệp có thể bổ
sung những ngành, nghề mới. Theo Nghị định về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt
động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước,số 101/2009/NĐ-CP thì ngành, nghề
kinh doanh được phân thành: ngành, nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp;
ngành, nghề kinh doanh có liên quan đến ngành, nghề kinh doanh chính của doanh
nghiệp và ngành, nghề kinh doanh khơng liên quan đến ngành, nghề kinh doanh
chính của doanh nghiệp. Khoản 1 Điều 6 Nghị định này đưa ra định nghĩa đối với
từng loại như sau: “1. Ngành, nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp là ngành,
nghề được xác lập từ mục đích đầu tư thành lập và chiến lược phát triển doanh
nghiệp, do chủ sở hữu quy định và giao cho doanh nghiệp thực hiện khi thành lập
và trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp;2. Ngành, nghề kinh doanh có
liên quan đến ngành, nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp (gọi tắt là ngành,
nghề có liên quan) là ngành, nghề phụ trợ hoặc phái sinh từ ngành, nghề kinh doanh
chính, trên cơ sở điều kiện và lợi thế của ngành, nghề kinh doanh chính hoặc sử

dụng lợi thế, ưu thế của ngành, nghề kinh doanh chính và phục vụ trực tiếp cho

14

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, số 10/2007/qđ-ttg, ngày
23 tháng 01 năm 2007: “Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam gồm 5 cấp trong đó ngành cấp 4 gồm 437 ngành;
mỗi ngành được mã hoá bằng bốn số theo từng ngành cấp 3 tương ứng”.

7


ngành, nghề kinh doanh chính;3. Ngành, nghề kinh doanh khơng liên quan đến
ngành, nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp (gọi tắt là ngành, nghề không liên
quan) là ngành, nghề không phái sinh hoặc phát triển từ ngành, nghề kinh doanh
chính hoặc từ ngành, nghề có liên quan đến ngành, nghề kinh doanh chính”. Tuy
nhiên, phạm vi điều chỉnh của Nghị định này chỉ giới hạn trong phạm vi các tập
đồn kinh tế nhà nước15 chứ khơng có ý nghĩa đối với các loại hình doanh nghiệp
khác. Mặt khác, trong GCN ĐKKDcủa loại hình doanh nghiệp này cũng khơng có
sự phân loại như vậy mà sự phân loại như vậy chỉ được thể hiện trong Điều lệ của
doanh nghiệp. Do vậy, cách phân loại được nêu bởi Nghị định 101/2009/NĐCPcũng khơng có ý nghĩa trong đăng ký ngành, nghề kinh doanh. Tóm lại, “ngành,
nghề kinh doanh là khái niệm dùng để chỉ một tập hợp gồm một hoặc nhiều lĩnh
vực mà doanh nghiệp hoạt động từ sản xuất hàng hóa đến cung ứng dịch vụ, gắn
liền với mục đích đầu tư thành lập và chiến lược phát triển của doanh nghiệp, do
chủ sở hữu quy định và giao cho doanh nghiệp thực hiện khi thành lập và trong suốt
quá trình hoạt động của doanh nghiệp”.
Thuật ngữ “đăng ký” có thể hiểu theo hai góc độ sau: (1) Chính thức ghi vào
văn bản của cơ quan pháp luật những thông tin cần thiết về sự kiện làm cơ sở phát
sinh hoặc chấm dứt những quan hệ pháp lý nhất định; (2) Bằng chứng công nhận
bắt đầu sự tồn tại hoặc chấm dứt một sự kiện hoặc hiện tượng pháp luật. Đăng ký
ngành, nghề kinh doanh là một thủ tục pháp lý mà chủ sở hữu của doanh nghiệp

phải thực hiện nhằm khai báo với cơ quan nhà nướccó thẩm quyền những ngành,
nghề mà doanh nghiệp dự tính hoạt động và được nhà nướcthừa nhận bằng việc cấp
GCN ĐKDN. Đăng ký ngành, nghề kinh doanh tuy không trực tiếp tạo ra của cải
vật chất hay các sản phẩm dịch vụ mang lại nguồn thu cho doanh nghiệp nhưng lại
có vai trị quan trọng cho sự ra đời của doanh nghiệp. Ở giai đoạn này, doanh
nghiệp thực sự vẫn chưa tồn tại.Chủ thể tiến hành thực hiện các thủ tục về đăng ký
ngành, nghề kinh doanh thật sự là chủ sở hữu của doanh nghiệp dự tính thành lập.
Ngồi ra, đăng ký ngành, nghề kinh doanh cũng được coi là một trong những biện
pháp quản lý nhà nướcvề kinh tế, là cách thức cơng dân thực hiện quyền tự do kinh
doanh của mình.
Như vậy, đăng ký ngành, nghề kinh doanh có thể được hiểu là “hành vi pháp
lý giữa chủ sở hữu doanh nghiệp với cơ quan nhà nướccó thẩm quyền”. Theo đó,
chủ sở hữu doanh nghiệp sẽ khai báo với cơ quan nhà nướccó thẩm quyền về những

15

Điều 2 Nghị định về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước,số
101/2009/NĐ-CP,ngày 05 tháng 11 năm 2009.

8


ngành, nghề kinh doanh mà doanh nghiệp dự tính hoạt động theo nội dung do pháp
luật quy định, còn cơ quan nhà nướccó thẩm quyền sẽ xem xét tính hợp lệ của hồ sơ
đăng ký ngành, nghề kinh doanhcủa doanh nghiệp. Kết quả của quá trình này
làGCN ĐKDN - bằng chứng thừa nhận tư cách pháp lý của doanh nghiệp trên
thương trường.
1.2.

Vai trò của đăng ký ngành, nghề kinh doanh trong hệ thống công cụ

quản lý nhà nƣớc

Đăng ký ngành, nghề kinh doanh đóng vai trị “điều hịa” trong chính sách
quản lý kinh tế của nhà nướcở tầm vĩ mô. Thông qua đăng ký ngành, nghề kinh
doanh, nhà nướcnắm bắt được một cách đầy đủ và có hệ thống các thông tin về số
lượng ngành, nghề kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Những
thông tin này là những căn cứ rất cần thiết giúp cho cơ quan nhà nướccó thêm cơ sở
thực tiễn để đề ra các chính sách quản lý kinh tế cho phù hợp; góp phần định hướng
và điều chỉnh được sự phát triển ổn định, bền vững giữa các ngành, nghề kinh
doanh thông qua việc nhà nướcđề ra các chính sách có thể tạo điều kiện ưu đãi để
ngành, nghề đó phát triển hoặc những điều kiện làm hạn chế sự phát triển của
ngành, nghề đó. Kết quả đăng ký ngành, nghề kinh doanh được sử dụng để phục vụ
cho công tác thông tin và sử dụng làm số liệu thống kê của nhà nước. Mặt khác, nhờ
có đăng ký ngành, nghề kinh doanh mà nhà nướccó đủ thơng tin để cung cấp kịp
thời cho những cá nhân, cơ quan tổ chức có nhu cầu được tiếp cận nguồn thông tin
về ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp dưới hình thức có thu phí16. Bên cạnh
đó, qua hồ sơ đăng ký ngành, nghề kinh doanh các thông tin về doanh nghiệp cũng
được công bố và quản lýtạo điều kiện cho việc xã hội hoá đầu tư. Điều này vừa có
lợi cho hoạt động động quản lý nhà nước, vừa có lợi cho hoạt động của doanh
nghiệp.
Đăng ký ngành, nghề kinh doanh là việc nhà nướcthừa nhận địa vị pháp lý cho
mộtnhà đầu tư và là tiền đề cho việc nhà nướcthực hiện các bước quản lý tiếp theo
đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết, đăng ký ngành, nghề
kinh doanh có vai trị trong cơng tác quản lý thuế. Cơ quan thuế sẽ sử dụng thông
tin về đăng ký ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp để xử lý các vấn về về
thuế đối với doanh nghiệp như để chấp nhận hay khơng chấp nhận hóa đơn đầu vào
hay hóa đơn đầu ra của doanh nghiệp. Dựa vào các thông tin về ngành, nghề kinh

16


Thông tư quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ
kinh doanh và phí cung cấp thông tin doanh nghiệp, số 176/2012/TT-BTC, ngày 23/10/2012.

9


doanh mà doanh nghiệp đã đăng ký, cơ quan thuế sẽ tiến hành thu thuế theo luật
định đối với doanh nghiệp mà khơng phân biệt hình thức sở hữu hay cấp quản lý
miễn là doanh nghiệp có trụ sở trên địa bàn đó. Sự phối hợp giữa cơng tác ĐKKD
với công tác thu thuế theo đúng ngành, nghề kinh doanh sẽ giúp hạn chế được tình
trạng bỏ sót và thất thu thuế. Bên cạnh đó, đăng ký ngành, nghề kinh doanh cũng
đóng vai trị quan trọng trong việc nhà nướckiểm soát sự tuân thủ của doanh nghiệp
về điều kiện kinh doanh như cấp và thu hồi giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành
nghề...17. Như vậy, đăng ký ngành, nghề kinh doanh đóng vai trị làm hạn chế tình
trạng trốn thuế, vi phạm pháp luật về thuế của doanh nghiệp, giúp cơ quan thuế
thuận tiện và dễ dàng hơn trong công tác quản lý. Ngoài ra, đăng ký ngành, nghề
kinh doanh cũng có tác động trong việc hạn chế một số đối tượng lợi dụng việc
thành lập doanh nghiệp để vi phạm pháp luật. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh
đa ngành, nghề sẽ chịu sự quản lý của nhiều cơ quan nhà nước, mỗi cơ quan sẽ có
trách nhiệm quản lý hoạt động của doanh nghiệp trong từng lĩnh vực chuyên ngành
tương ứng. Do vậy, thông qua hành vi đăng ký ngành, nghề kinh doanh của doanh
nghiệp và sự phối hợp của các cơ quan trong bộ máy nhà nướcđóng vai trị làm
giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật của doanh nghiệp.Tuy nhiên, sự vi phạm
của doanh nghiệp còn bị tác động bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Đăng ký
ngành, nghề kinh doanh chỉ đóng vai trị tác động làm hạn chế sự vi phạm pháp luật
trong kinh doanh của doanh nghiệp chứ không giải quyết được triệt để sự vi phạm
pháp luật trong kinh doanh của doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề, nhà nướccần
giải quyết tốt sự phối hợp, liên thông chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà
nước; đồng thời, tăng cường tốt công tác hậu kiểm đối với doanh nghiệp.
1.3.


Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan ĐKKD trong đăng ký
ngành, nghề kinh doanh
Việc quản lý nhà nướcvề ĐKKD không chỉ dừng ở việc ban hành các quy

phạm pháp luật mà còn là việc tác động trực tiếp vào những hoạt động nghiệp vụ
ĐKKD, định hướng, điều tiết, phối hợp giữa các cơ quan chức năng trên phạm vi cả
nước. Cơ quan ĐKKD là cơ quan trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nướcvề
ĐKKD thông qua hành vi cấp và thu hồi GCN ĐKDN.Đăng ký ngành, nghề kinh
doanh là một “miếng ghép” trong “bức tranh” ĐKKD. Do vậy, đăng ký ngành, nghề
kinh doanh, cơ quan ĐKKD cũng sẽ là cơ quan trực tiếp quản lý.Nghị định của
Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, số 43/2010/NĐ-CPđã có sự phân cấp thẩm

17

Khoản 2 Điều 7, khoản 1 Điều 9 LDN 2005.

10


quyền quản lý nhà nướcvề ĐKDN giữa cơ quan ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện18.
Theo đó, doanh nghiệp trong nước sẽ thực hiện việc ĐKKD tại phòng ĐKKD cấp
tỉnh. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong đăng ký ngành, nghề kinh
doanh, cơ quan ĐKKD sẽ đóng vai trò là “bà đỡ” cho doanh nghiệp trong việc thực
hiện các quy định của pháp luật.
Với vai trò là cơ quan nhà nướcthực hiện nghiệp vụ ĐKKD, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp gia nhập thị trường, cơ quan ĐKKD có những nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định tại Điều 163 LDN 2005. Trong quá trình doanh nghiệp thực hiện
đăng ký ngành, nghề kinh doanh, cơ quan ĐKKD có nhiệm vụ hướng dẫn, giải
thích cho doanh nghiệp và người thành lập doanh nghiệp về nghĩa vụ đăng ký

ngành, nghề kinh doanhcũng nhưhướng dẫn người thành lập doanh doanh nghiệp
cách ghi và mã hóa ngành, nghề kinh doanh trên Giấy đề nghị đăng ký doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật. Cơ quan ĐKKD là cơ quan trực tiếp tiếp nhận
hồ sơ ĐKKD của người thành lập doanh nghiệp và xem xét tính hợp lệ của hồ sơ
đăng ký thành lập doanh nghiệp. Do vậy, cơ quan ĐKKD cũng sẽ là cơ quan chịu
trách nhiệm kiểm tra những nội dung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và thông
báo cho doanh nghiệp biết về những sai sót trong hồ sơ ĐKKD như sai sót về việc
ghi ngành, nghề kinh doanh, mã hóa ngành, nghề kinh doanh hay ngành, nghề kinh
doanh của doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh…Trường hợp này, cơ quan
ĐKKD sẽ có trách nhiệm trả hồ sơ hoặc yêu cầu doanh nghiệp bổ sung, thay đổi hồ
sơ. Đối với những hồ sơ hợp lệ, cơ quan ĐKKD sẽ cấp GCN ĐKKD cho doanh
nghiệp. Cơ quan ĐKKD cũng có trách nhiệmphối hợp với các cơ quan khác trong
bộ máy nhà nướcquản lý doanh nghiệp về ngành, nghề kinh doanh; trực tiếp hoặc
đề nghị cơ quan nhà nướccó thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp về ngành, nghề
kinh doanh theo những nội dung trong hồ sơ ĐKKD của doanh nghiệp (như kiểm
tra doanh nghiệp có kinh doanh đúng ngành, nghề đã ĐKKD hay khơng…). Cơ
quan ĐKKD cũng có thẩm quyền thu hồi, yêu cầu doanh nghiệp giải thể hoặc có
quyền xử lý theo quy định của pháp luật nếu doanh nghiệp vi phạm các quy định về
đăng ký ngành, nghề kinh doanh. Cơ quan ĐKKD cũng là cầu nối giữa doanh
nghiệp và xã hội;có trách nhiệm cập nhật và thơng tin cho xã hội về tình trạng pháp
lý của doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân

18

Điều 9, 10, 11,12 Nghị định của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, số 43/2010/NĐ-CP, ngày 15 tháng 4
năm 2010.

11



có yêu cầu về những ngành, nghề mà doanh nghiệp đã ĐKKD theo quy định của
pháp luật thông qua việc xây dựng và quản lý hệ thống thông tin doanh nghiệp. Cơ
quan ĐKKD cũng có trách nhiệm đơn đốc việc thực hiện chế độ báo cáo của doanh
nghiệp, yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
khi xét thấy cần thiết.
1.4.

Nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh và quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp

1.4.1. Nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh
ĐKKD là một q trình gồm nhiều bước; trong đó, đăng ký ngành, nghề kinh
doanh là một trong số các bước của ĐKKD. Xuất phát từ hoạt động quản lý nhà
nướccũng như bảo đảm trật tự xã hội, pháp luật Việt Nam yêu cầu doanh nghiệp
phải tiến hành đăng ký ngành, nghề kinh doanh mà doanh nghiệp dự tính hoạt động.
Nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh yêu cầu chủ sở hữu doanh nghiệp phải tự
ghi ngành, nghề kinh doanh mà doanh nghiệp dự tính hoạt động theo mã ngành cấp
4 trong Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam vào Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp.
Kết quả đăng ký ngành, nghề kinh doanh, doanh nghiệp sẽ được cấp GCN
ĐKDNxác định tư cách pháp lý của doanh nghiệp trên thương trường. Nghĩa vụ
đăng ký ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp được quy định tại khoản 3 Điều
21 LDN 2005. Theo đó, ngành, nghề kinh doanh là một trong những nội dung bắt
buộc doanh nghiệp phải ghi trong Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp. Trong
trường hợp, doanh nghiệp không ghi hoặc ghi khơng chính xác ngành, nghề ĐKKD
theo quy định của pháp luật thì cơ quan ĐKKD sẽ từ chối cấp GCN ĐKKD cho
doanh nghiệp. Để thực hiện tốt nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh, doanh
nghiệp cần tìm hiểu các quy định của pháp luật về ngành, nghề kinh doanh tại Việt
Nam, trình tự, thủ tục thực hiện theo LDN 2005 và pháp luật chuyên ngành có liên
quan vì đây là điều kiện tiên quyết quyết định sự ra đời của doanh nghiệp.
Ngồi ra, khi có những thay đổi trong nội dung GCN ĐKDNvề ngành, nghề

kinh doanh thì doanh nghiệp cũng phải thực hiện thủ tục đăng ký bổ sung, thay đổi
ngành, nghề kinh doanh. Cơ quan ĐKKD có trách nhiệm thu hồi và cấp lại GCN
ĐKKD cho doanh nghiệp theoĐiều 26LDN 2005: “Thay đổi nội dung ĐKKD: 1.
Khi thay đổi … ngành, nghề kinh doanh, … trong nội dung hồ sơ ĐKKD thì doanh
nghiệp phải đăng ký với cơ quan ĐKKD trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ
ngày quyết định thay đổi; 2. Trường hợp có thay đổi nội dung của GCN ĐKKD,
doanh nghiệp được cấp lại GCN ĐKKD”.Thủ tục đăng ký bổ sung, thay đổi ngành,
nghề kinh doanh là thủ tục tốn nhiều thời gian và chi phí tuân thủ cho nhà đầu tư.
12


Do vậy, nhà đầu tư thường liệt kê rất nhiều ngành, nghề kinh doanh kể cả những
ngành, nghề mà doanh nghiệp chưa có ý định hoạt động trong Giấy đề nghị đăng ký
thành lập doanh nghiệp để tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và bị xử phạt vi phạm
hành chính, hình sự do nhà đầu tư khơng kịp làm thủ tục bổ sung, thay đổi ngành,
nghề kinh doanh. Trước đây, theo LDN 1999, Bộ Kế hoạch và Đầu tư mặc dù cũng
đã có Thơng tư quy định về việc xóa bỏ danh mục ngành, nghề đã đăng ký nếu trên
thực tế doanh nghiệp không hoạt động kinh doanh đối với những ngành, nghề đó 19.
Tuy vậy, quy định trên vẫn chỉ mang tính hình thức do khơng có cơ chế kiểm tra,
giám sát rõ ràng và chặc chẽ cũng như quy định xử phạt hành chính thì khơng có
căn cứ thuyết phụ. Do đó, đăng ký ngành, nghề kinh doanh theo LDN 1999 vẫn
chưa phản ánh đúng thực chất hoạt động của doanh nghiệp; nếu để thống kê ngành,
nghề ĐKKD thì khơng phản ánh đúng thực tế kinh doanh, dẫn tới thị trường về
ngành, nghề kinh doanh bị méo mó, các nhà đầu tư khó phân tích, nhà nướccũng
khó định hướng khuyến khích hay hạn chế đầu tư với ngành, nghề kinh doanh cụ
thể. Thời điểm LDN 2005 ra đời Thông tư liên tịch Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng
cục thống kê số 07/2001/TTLT/BKH-TCTK cũng hết hiệu lực thi hành. Hiện tại,
khơng có quy định nào giới hạn số lượng ngành, nghề kinh doanh mà doanh nghiệp
được đăng ký cũng như số lần doanh nghiệp được đăng ký bổ sung, thay đổi ngành,
nghề kinh doanh. Do vậy, tình trạng doanh nghiệp kê khai càng nhiều ngành, nghề

kinh doanh càng tốt vẫn đang tiếp diễn, gây khó khăn cho cơng tác quản lý của nhà
nước, lợi ích suy đốn từ đăng ký ngành, nghề kinh doanh không đạt được mà còn
gây sức ép đối với cả doanh nghiệp và cơ quan nhà nước.
Như vậy, đăng ký ngành, nghề kinh doanh là nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh
nghiệp với nhà nước, là điều kiện bắt buộc để doanh nghiệp được cấp GCN ĐKDN.
Nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh mặc dù mang lại hiệu quả cho công tác
thông tin và thống kê của nhà nướcnhưng lại làm tăng gánh nặng đối với doanh
nghiệp, làm kéo dài thời gian, chi phí gia nhập thị trường xung đột với tinh thần cải
cách thủ tục hành chính. Nên chăng pháp luật Việt Nam cần có những thay đổi kịp
thời theo hướng rút ngắn thời gian ĐKKD, giảm thiểu những rào cản gia nhập thị

19

Thông tư liên tịch Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê hướng dẫn ngành, nghề kinh doanh sử dụng
trong ĐKKD, số 07/2001/TTLT/BKH-TCTK, ngày 10 tháng 11 năm 2001: “3. Doanh nghiệp có thể ĐKKD
nhiều ngành, nghề nhưng phải là ngành, nghề có hoạt động kinh doanh. Nếu trong thời hạn một năm mà
doanh nghiệp không kinh doanh ngành, nghề đã đăng ký thì phải thơng báo với cơ quan ĐKKD để xoá
ngành, nghề này trong GCNĐKKD. Đối với một số doanh nghiệp cụ thể, không được ghi vào GCN ĐKKD
cụm từ kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”.

13


trường, nâng cao chất lương môi trường kinh doanh tại Việt Nam bằng cách giảm
thiểu tối đa nghĩa vụ đăng ký ngành, nghề kinh doanh cho doanh nghiệp.
1.4.2. Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp
Quyền tự do kinh doanh trước hết được hiểu là quyền của chủ sở hữu doanh
nghiệp và được nhà nướcthừa nhận, bảo vệ bằng một cơng cụ hữu hiệu và mang đầy
tính quyền lực nhà nướclà pháp luật. Theo pháp luật Việt Nam, quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp là quyền hiến định đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992

và sau đó là Hiến pháp 201320. Đồng thời, quyền tự do kinh doanh cũng là quyền cơ
bản được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp luật có nội dung điều chỉnh hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp như BLDS 2005, Luật Thương mại 2005,LDN
2005 …21. Qua thời gian, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, trình độ
quản lý của nhà nước, sự mở rộng tư duy lập pháp, triết lý kinh doanh và kỹ thuật
lập pháp, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp đã và đang phát triển theo
hướng mở rộng quyền “doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành, nghề mà pháp luật không cấm”.Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp hiện vẫn không thể được mở rộng tuyệt đối; doanh nghiệp có quyền
tự do kinh doanh nhưng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp phải đặt trong
giới hạn cho phép và tuân theo các quy định của pháp luật để không làm ảnh hưởng
đến quyền của người khác cũng như lợi ích của nhà nước, cộng đồng, xã hội22.
1.4.2.1. Giới hạn quyền tự do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh của doanh
nghiệp
Trong đăng ký ngành, nghề kinh doanh, quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp trước hết được biểu hiện qua việc chủ sở hữu doanh nghiệp có quyền tự do
lựa chọn ngành, nghề kinh doanh dựa trên mục đích và ý định đầu tư. Tuy nhiên, sự
lựa chọn ngành, nghề kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp luôn bị giới hạn bởi

20

Điều 57 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
Điều 33 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật
không cấm”.
21
Khoản 1 Điều 7 LDN 2005 “Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành,
nghề mà pháp luật không cấm”.
Khoản 1 Điều 8 LDN 2005: “Doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề
kinh doanh, đầu tư;…”.
Điều 50 BLDS 2005: “Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết
hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật”.
22
Phan Huy Hồng, Nguyễn Thanh Tú (2012), “Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật liên minh Châu Âu và
Việt Nam”, NXB CTQG, tr. 153-154.

14


những ngành, nghề mà pháp luật cấm kinh doanh và chịu sự tác động bởi các điều
kiện kinh doanh đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.


Đối với nhóm ngành, nghề cấm kinh doanh

Theo quy định tại khoản 3 Điều 7 LDN 2005 và Điều 30 Luật Đầu tư 2005 thì
doanh nghiệp bị “cấm hoạt động kinh doanh gây phương hại đến quốc phòng, an
ninh, trật tự, an tồn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ
tục Việt Nam và sức khỏe của nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi
trường”. Danh mục những ngành, nghề cấm kinh doanh (Phụ lục 2) tại khoản 1
Điều 7 Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của LDN, số
102/2010/NĐ-CPcó thể được chia thành các nhóm sau: (1) Những ngành, nghề kinh
doanh gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia và lợi ích cơng cộng; (2)
Những ngành, nghề kinh doanh gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hóa, đạo
đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam; (3) Những ngành, nghề kinh doanh gây tổn hại
đến sức khỏe nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên phá hủy môi trường. Như vậy,
ngành, nghề cấm kinh doanh là những ngành, nghề do nhà nướcquản lý, doanh
nghiệp không được quyền hoạt động kinh doanh đối với những ngành, nghề đó.Tuy
nhiên, tại khoản 2 Điều 7 Nghị định này quy định: “Việc kinh doanh các ngành,
nghề quy định tại khoản 1 Điều này trong một số trường hợp đặc biệt áp dụngtheo

quy định của các luật, pháp lệnh hoặc nghị định chuyên ngành liên quan”. Quy định
này cho phép trong một số trường hợp đặc biệt nếu pháp luật chuyên ngành có quy
định khác thì doanh nghiệp vẫn được phép hoạt động nhưng doanh nghiệp đó phải
đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo pháp luật chuyên ngành.Nghiên cứu một số pháp
luật chuyên ngành trong trường hợp này, LDN 2005 cấm “kinh doanh các loại thực
vật, động vật hoang dã, gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế
biến, thuộc Danh mục Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định và các
loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai thác, sử dụng”. Tuy
nhiên, trên thực tế đang tồn tại ở rất nhiều nơi thì tình trạng ni động, thực vật
hoang dã, quý hiếm thuộc danh mục cần được bảo vệ như kinh doanh gấu để lấy
mật, giết để lấy thịt hiện vẫn đang tồn tại ở các tỉnh phía Nam, Thanh Hóa. Trước
tình hình đó, Chính phủ đã giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản
lý và cho phép các cá nhân, hộ gia đình được phép ni các động vật hoang dã. Tuy
nhiên, cá nhân, hộ gia đình muốn tiến hành hoạt động kinh doanh này phải thực
hiện thủ tục đăng ký và được sự cho phép của Bộ nơng nghiệp và Phát triển nơng
thơn. Ngồi ra, đối với việc ni gấu để lấy mật thì ngồi việc phải đăng ký và được

15


sự cho phép của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn thì việc ni gấu là hợp
pháp khi mỗi con gấu ni được gắn một con chíp điện tử23.Một ví dụ khác, LDN
2005 cấm “kinh doanh các loại phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường” nhưng
trong từng trường hợp, thời gian khác nhau thì doanh nghiệp vẫn được phép nhập
những lô hàng là phế liệu vào Việt Nam trong trường hợp được sự chấp thuận và
cấp phép của cơ quan nhà nướccó thẩm quyền. Năm 2007, Chính phủ cho phép các
doanh nghiệp được phép nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng vào Việt Nam. Điều kiện
để doanh nghiệp thực hiện hoạt động này là phải xin phép và được sự đồng ý của
Bộ Tài chính24.
Như vậy, ngành, nghề cấm kinh doanh không tuyệt đối. Doanh nghiệp vẫn có

thể lựa chọn kinh doanh trong những ngành, nghề đó nếu pháp luật chuyên ngành
có quy định cho phép và thỏa mãn những điều kiện để được kinh doanh trong
những ngành, nghề đó.


Đối với nhóm ngành, nghề kinh doanh có điều kiện

Theo khoản 2 Điều 7 LDN 2005: “Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư
và pháp luật có liên quan quy đinh phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh
doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo quy định”. Ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện là những ngành, nghề mà doanh nghiệp chỉ được phép kinh doanh khi
đáp ứng được đủ các điều kiện kinh doanh do pháp luật quy định. Danh mục những
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện (Phụ lục 3) được quy định cụ thể trong pháp
luật về đầu tư.Tuy nhiên, Luật Đầu tư 2005 đã quy định Danh mục những lĩnh vực
đầu tư có điều kiện theo hướng mở nên các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
khác không được nêu sẽ được quy định trong pháp luật chun ngành. Vì lẽ đó, nếu
nhà đầu tư muốn tiến hành hoạt động kinh doanh đối với một hoặc một số ngành,
nghề kinh doanh nhất định thì ngồi việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về
doanh nghiệp và pháp luật về đầu tư, nhà đầu tư cũng cần phải nghiên cứu các quy

23

Nghị định của Chính phủ quy địnhchức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn,số 01/2008/NĐ-CP, ngày 03/01/2008.
Nghị định của Chính phủ vềquản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội từ biển, quá
cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng và trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, số
82/2006/NĐ-CP, ngày 10/8/2006.
Nghị định của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếmsố 32/2006/N Đ-CP,
ngày 30/6/2006.
Quyết định về việc ban hành Quy chế quản lý gấu nuôi, số 95/2008/QĐ-BNN, ngày 29/09/2008.

24
Quyết định của Bộ Tài nguyên và Môi trườngvề việc ban hành Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu để
làm nguyên liệu sản xuất, số 12/2006/QĐ-BTNMT, ngày 08 tháng 9 năm 2006.
Thông tư quy định về phế liệu được phép nhập khẩu để làm nguyên liệu sản xuất, số 01/2013/TT-BTNMT,
ngày 28/01/2013 .

16


định của pháp luật chuyên ngành có quy định về những ngành, nghề mình muốn
kinh doanh.Theo khoản 5 Điều 7 LDN 2005: “Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp không được quy định về ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh”. Quy định này của LDN 2005 đã loại
bỏ tình trạng giấy phép con do cơ quan địa phương ban hành đang tồn tại trước đó.
Tuy vậy, để được cấp GCN ĐKKD, doanh nghiệp vẫn phải thỏa mãn các điều kiện
được pháp luật chuyên ngành quy định. Đó là những ngành, nghề có liên quan đến
vấn đề mơi trường, vấn đề trật tự an toàn xã hội hoặc phải tuân theo những quy tắc
nghề nghiệp chặt chẽ. Do vậy, nhà nướccần hạn chế hoặc đặc biệt hạn chế kinh
doanh mặc dù nhà nướckhơng cấm nhưng cần kiểm sốt chủ thể kinh doanh bằng
việc buộc họ phải đáp ứng đủ các điều kiện kinh doanh cần thiết.
Như vậy, đối với nhóm ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp
được quyền tự do lựa chọn ĐKKD đối với những ngành, nghề này. Tuy nhiên, nhà
đầu tư cần cân nhắc về những điều kiện kinh doanh mà doanh nghiệp cần phải đáp
ứng trước khi ra quyết định đầu tư để tránh mất thời gian, chi phí khơng cần thiết
cho việc thành lập doanh nghiệp.


Đối với nhóm ngành, nghề kinh doanh khơng có điều kiện

Theo khoản 1 Điều 11 Nghị định 102/2010/NĐ-CP: “Doanh nghiệp có quyền

chủ động ĐKKD và hoạt động kinh doanh, không cần phải xin phép, xin chấp
thuận, hỏi ý kiến của cơ quan quản lý nhà nướcnếu ngành, nghề kinh doanh đó: (a)
Khơng thuộc ngành, nghề cấm kinh doanh; (b) Khơng thuộc ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành”. Những ngành, nghề
kinh doanh khơng có điều kiện hiện này được quy định tại Quyết định của Thủ
tướng Chính Phủ ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, số 10/2007/QĐ-TTg,
ngày 23/01/2007 và Quyết định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc ban hành Quy
định nội dung Hệ thống ngành, nghề kinh tế Việt Nam, số 337/QĐ-BKH, ngày
10/04/2007. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn có thể lựa chọn những ngành, nghề hiện
khơng có trên thị trường hoặc chưa được cập nhật trong Hệ thống ngành kinh tế
Việt Nam. Nhìn chung, nếu những ngành, nghề kinh doanh mà doanh nghiệp lựa
chọn là những ngành, nghề thông thường, phổ thông và không thuộc nhóm những
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện25 hoặc cấm kinh doanh26 thì doanh nghiệp
được quyền hoạt động kinh doanh hợp pháp kể từ thời điểm được cấp GCN ĐKDN.

25

Khoản 2 Điều 7 LDN 2005
Khoản 3 Điều 7 LDN 2005

26

17


Như vậy, ngành, nghề kinh doanh khơng có điều kiện là những ngành, nghề khơng
thuộc hai nhóm ngành, nghề cấm kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Đối với
những ngành, nghề này, doanh nghiệp được tự chủ trong việc lựa chọn ngành, nghề
kinh doanh mà không yêu cầu các điều kiện khác như giấy phép, chứng chỉ hay
mức vốn tối thiểu,…

Về nguyên tắc doanh nghiệp sẽ được phép ĐKKD đối với tất cả những ngành,
nghề mà pháp luật không cấm, ngoại trừ trường hợp đã được nêu tại khoản 2 Điều 7
Nghị định 102/2010/NĐ-CP. Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp bị giới hạn
bởi những ngành, nghề cấm kinh doanh là hợp lý. Quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp không tuyệt đối, những ngành, nghề cấm kinh doanh là những ngành,
nghề quan trọng, tác động to lớn đến sự ổn định, phát triển và tồn vong của một
quốc gia. Nếu nhà nướcnới lỏng cho phép doanh nghiệp được tự do kinh doanh
những ngành, nghề này tại Việt Nam sẽ dẫn đến sự rối loạn về kinh tế, phá vỡ sự
cân bằng của xã hội. Do vậy,nhà nướccần phải siết chặc đối với những ngành, nghề
này, không cho phép doanh nghiệp được tự do kinh doannh. Bên cạnh những ngành,
nghề cấm kinh doanh, những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện cũng có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế nhưng ít nghiêm trọng hơn. Nhà nướckhơng siết chặc đối
với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện này nhưng cũng không cho phép
doanh nghiệp được kinh doanh một cách tùy ý. Điều kiện kinh doanh sẽ giúp nhà
nướcsàng lọc nhà đầu tư. Chỉ những nhà đầu tư thỏa mãn những điều kiện kinh
doanh do pháp luật quy định thì mới có thể tiến hành kinh doanh những ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện. Điều này khơng chỉ có lợi cho nhà nướctrong việc
quản lý chính sách kinh tế mà xã hội cũng tránh lãng phí nguồn tiền tài và nhân lực
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; doanh nghiệp cũng tránh
được lãng phí thời gian, cơng sức, tiền của cho việc kinh doanh vượt ngồi khả
năng của bản thân doanh nghiệp.
1.4.2.2.

Nghĩa vụ kinh doanh đúng ngành, nghề đã đăng ký

Giới hạn quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp có nguồn gốc từ học
thuyết ultra vires, xuất hiện đầu tiên tại Anh. Nội dung của học thuyết quy định
doanh nghiệp có nghĩa vụ kinh doanh đúng ngành, nghề được ghi trên GCN ĐKDN
hay Điều lệ công ty. Tuy nhiên, ngay từ khi áp dụng học thuyết ultra vires, các bên
liên quan đã cho thấy nhược điểm của học thuyết này khi nó hạn chế quyền tự do

kinh doanh của doanh nghiệp. Qua thời gian, nội hàm của học thuyết ultra vires đã
được thay đổi ngay tại nước nguyên xứ của học thuyết. Theo đó, học thuyết khơng
có giá trị ràng buộc đối với bên thứ ba. Hợp đồng, giao dịch vượt quá phạm vi hoạt
động kinh doanh vẫn có hiệu lực. Học thuyếtultra vires chỉ có giá trị ràng buộc
18


trong nội bộ công ty. Cơ quan điều hành công ty khi giao kết hợp đồng phải chịu
trách nhiệm trực tiếp với cổ đông hay chủ nợ của những giao dịch vượt quá phạm vi
hoạt động kinh doanh đã ĐKKD hay tại văn kiện thành lập công ty27.
Tại Việt Nam, theo khoản 1 Điều 9 LDN 2005, doanh nghiệp có nghĩa vụ hoạt
động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong GCN ĐKDN. Do đó, quyền tự
do kinh doanh của doanh nghiệp cũng bị giới hạn trong phạm vi những ngành, nghề
kinh doanh được ghi trên GCN ĐKDN. Trước đây, theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế 198928, Bộ luật Dân sự 1995 và LDN 1999, nếu những hợp đồng kinh doanh,
thương mại do doanh nghiệp giao kết vượt quá mục đích hoạt động hay đối tượng
của hợp đồng là những cơng việc vượt q những ngành, nghề có trên GCN ĐKDN
thì hợp đồng sẽ bị coi là vơ hiệu ngay từ khi nó hình thành mặc dù khơng có bên
nào yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu29. Bên cạnh đó, LDN 1999 cịn đề cập đến cả
khía cạnh hậu quả hành chính đối với hành vi vi phạm30. Đến nay, nhà nướcta đã
ban hành BLDS 2005 và Luật Thương mại 2005 thay thế Bộ luật Dân sự1995 và
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Hai văn bản trên khơng cịn quy định các giao dịch
kinh doanh do pháp nhân thực hiện nằm ngoài phạm vi những ngành, nghề đã đăng
ký là một trong những căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, theo khoản 1
Điều 9 LDN 2005 vẫn quy định nghĩa vụ của doanh nghiệp “hoạt động kinh doanh
theo đúng ngành, nghề đã ghi trong GCN ĐKDN”. Với quy định này, các giao dịch
kinh doanh do các chủ thể khơng có chức năng kinh doanh những ngành, nghề đã
đăng ký trong GCN ĐKDNthì vẫn có thể bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật31; đồng thời, doanh nghiệp còn bị xử phạt vi phạm hành chính, hình
sự do hành vi vi phạm32.


27

Nguyễn Quốc Vinh (2010), “Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời”, Nghiên cứu lập pháp, số
13 (174), tr. 51-53.
28
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế số 24/LCT/HĐNN8, ngày 25/9/1989, có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2005,
được bãi bỏ bởi Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Dân sự,số 45/2005/QH11, ngày 14/6/2005.
29
Điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 có quy định rằng: “Hợp đồng sẽ vơ hiệu tồn bộ
nếu một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế khơng có ĐKKD theo quy định của pháp luật để thực hiện
công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng”.
Điều 96 BLDS 1995, khẳng định một pháp nhân có nghĩa vụ “hoạt động đúng mục đích”.
Điều 8 LDN 1999 cũng quy định doanh nghiệp có nghĩa vụ “hoạt động kinh doanh theo đúng các ngành,
nghề đã đăng ký”.
30
Nghị định về quy định xử phạt hành chính về ĐKKD, số 37/2003/NĐ-CP, ngày 10/04/2003: “Điều 9. Vi
phạm các quy định vềđăng ký thay đổi nội dung hồ sơ ĐKKD của doanh nghiệp: 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt
tiềntừ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a. Thay đổi … ngành, nghề
kinh doanh … mà không đăng ký với cơ quan ĐKKD”.
31
Theo quy định tại khoản Điều 122 BLDS 2005vềđiều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì : « Giao
dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: b) Mục đích và nội dung của giao dịch khơng vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”.

19


×