Vai trị của pháp luật trong việc bảo vệ mơi trường ở Việt Nam hiện nay.
Bài làm
Mơi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật
cũng như sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại. Vì
vậy, bảo vệ mơi trường là sự nghiệp chung của mọi quốc gia. Nước Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước luôn đề cao vai trị của pháp luật trong
cơng tác bảo vệ mơi trường của đời sống xã hội. Đặc biệt ở thời điểm hiện tại đất
nước ta phải đối mặt với những sự biến đổi không ngừng của môi trường: mưa bão
lũ qt thất thường; ơ nhiễm nguồn nước, đất, khơng khí; cạn kiệt khoáng sản; suy
giảm nguồn tài nguyên rừng;...nên pháp luật trong việc bảo vệ mơi trường có vai trị
quan trọng với tình hình nước ta hiện nay.
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm
- Mơi trường: Theo UNESSCO (1981) thì ‘‘mơi trường của con người bao gồm tồn bộ
các hệ thống tự nhiên và các yếu tố vât chất do hoạt động của con người tạo ra,
những cái hữu hình và cái vơ hình,... trong đó con người sống bằng lao động, đã khai
thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo để thỏa mãn nhu cầu của mình’’. Theo
Điều 1 Luật bảo vệ mơi trường thì ‘‘mơi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu
tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh
hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên’’.
- Bảo vệ mơi trường: Theo Luật bảo vệ mơi trường thì ‘‘bảo vệ môi trường là những
hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm
cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên
nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên’’.
- Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật điều chỉnh
các lĩnh vực của đời sống bao gồm cả môi trường.
- Luật bảo vệ môi trường ban hành nhằm:
+ Ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do hoạt động của con người và thiên nhiên
gây ra cho môi trường.
+ Điều chỉnh khai thác, sử dụng các thành phần môi trường hơp lí đảm bảo sự phát
triển bền vững của đât nước.
2. Đặc điểm của pháp luật bảo vệ môi trường:
-Pháp luật bảo vệ môi trường là một lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
liên quan trực tiếp đến hoạt động khai thác, quản lí, bảo vệ mơi trường. Qua đó, ta
thấy pháp luật bảo vệ mơi trường có những đặc điểm nổi bật sau đây:
+Thứ nhất, Pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam ra đời muộn hơn so với các lĩnh
vực pháp luật khác. Có thể nói trong hệ thống pháp luật Việt Nam thì pháp luật bảo
vệ mơi trường là lĩnh vực mới nhất. Nguyên nhân là do vấn đề môi trường mới thực
sự đặt ra những thách thức khi chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới tới nay. Trong
thời gian sau đó thì vấn đề mơi trường ngày càng trở nên trầm trọng: sự ơ nhiễm
khơng khí, ơ nhiễm mơi trường nước, mơi trường đất......Vì vậy mà vấn đề bảo vệ
môi trường đã được đưa ra và thực hiện phổ biến.
+Thứ hai pháp luật bảo vệ mơi trường có sự phát triển nhanh chóng và ngày càng
hồn thiện hơn. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã mang lại
những thành tựu to lớn cho đất nước tuy nhiên nó cũng đặt ra cho nước ta những
vấn đề to lớn về môi trường và sự pháp triển bền vững.
+Thứ ba pháp luật bảo vệ mơi trường có liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lí
nhà nước về môi trường và nhiều lĩnh vực pháp luật khác của Việt Nam. Hoạt động
môi trường là hướng tới bảo vệ những lợi ích của nhà nước, cộng đồng và xã hội.
Nhà nước là chủ thể thay mặt nhân dân quản lí bảo vệ những lợi ích chung của cộng
đồng.
+Thứ tư pháp luật bảo vệ môi trường chịu sự điều chỉnh của công ước quốc tế về môi
trường. Đây là một đặc điểm của pháp luật bảo vệ môi trường hiện nay của nước ta.
Do tính thống nhất của mơi trường, các yếu tố, thành phần môi trường của Việt Nam
vừa là đối tượng tác động của pháp luật trong nước vừa là đối tượng tác động của
các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã là thành viên. Vì vậy pháp luật
bảo vệ mơi trường ở Việt Nam cũng được xây dựng hài hòa với các điều ước quốc tế
về môi trường và chịu sự tác động của các thành viên đó.
Có thể thấy qua q trình xây dựng hồn thiện pháp luật bảo vệ mơi trường nhằm có
một hệ thống pháp luật đồng bộ, hồn chỉnh, có tính khả thi hơn.
3. Vai trị của pháp luật trong việc bảo vệ mơi trường:
- Vai trị của pháp luật trong bảo vệ mơi trường có vị trí đặc biệt quan trọng. Môi
trường bị huỷ hoại chủ yếu là do sự phá hoại của con người. Chính con người trong
q trình khai thác các yếu tố của mơi trường đã làm mất sự cân bằng sinh thái, gây
ô nhiễm các nguồn đất, nước, khơng khí,...ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh vật
sống, sức khỏe con người, hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế. Vì vậy, muốn bảo
vệ mơi trường trước hết phải tác động đến con người. Pháp luật với tư cách là hệ
thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự của con người sẽ có tác dụng rất lớn
trong việc bảo vệ môi trường.
- Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật bảo vệ Việt Nam, pháp luật bảo vệ mơi
trường cũng có các vai trị của pháp luật nói chung và cũng có những vai trị riêng của
nó. Đó là pháp luật quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ mơi trường là cơ sở pháp
lí cho việc quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lí nhà nước đối với lĩnh vực
bảo vệ mơi trường, là cơ sở pháp lí cho hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát, xử lí
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, và là cơ sở pháp lí cho cơng tác bảo vệ mơi
trường. Nó được thể hiện như sau:
+ Pháp luật thông qua các hệ thống quy phạm để điều chỉnh hành vi xử sự của con
người và được đảm bảo bằng thực hiện quyền lực nhà nước sẽ có tác dụng rất lớn.
Pháp luật quy định các quy tắc xử sự cho con người khi tác động đến môi trường,
ban hành tiêu chuẩn mơi trường.
+ Pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí
quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường. Có thể thấy pháp luật bảo vệ mơi trường có một vai trị quan trọng đối với
lĩnh vực mơi trường. Hệ thống cơ quan quản lí mơi trường nằm trong hệ thống cơ
quan nhà nước nói chung và được tổ chức thống nhất từ trung ương xuống địa
phương.
+ Pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực mơi trường là cơ sở pháp lí quy
định hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vức bảo vệ mơi trường.
+ Pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí
cho việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và sử lí các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
môi trường. Việc thanh tra, giám sát được thực hiện thường xuyên, định kì hàng năm
hoặc kiểm tra đột xuất dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành, cịn xử
lí vi phạm được áp dụng cho mọi cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có những
hành vi vơ ý hay cố tình vi phạm các quy định nhà nước trong lĩnh vực môi trường.
+ Pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí
cho xã hội hóa cơng tác bảo vệ mơi trường. Dựa vào các văn bản pháp luật do nhà
nước ban hành các cơ quan thực hiện theo đó để hồn thành nhiệm vụ của mình. Có
thể thấy, pháp luật bảo vệ mơi trường ở nước ta hiện nay có vai trị hết sức quan
trọng. Nó thể hiện được sự quan tâm của nhà nước tới vấn đề môi trường ngày càng
được nâng cao.
II. Thực trạng pháp luật trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay.
1. Những thành tựu.
Trong những năm qua, việc thực hiện pháp luật về bảo vệ mơi trường ở Việt Nam đã
có những chuyển biến tích cực và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Cụ thể như sau:
+ So với giai đoạn 2010-2015, chất lượng nước mặt tại một số khu vực trên các lưu
vực sông giai đoạn 2015-2019 đã được cải thiện do việc thực hiện các dự án, đề án
về đầu tư cải thiện môi trường, tăng cường quản lý tại một số sông hồ, kênh rạch
trong nội thành các đô thị lớn (sông Tô Lịch, Hồ Tây (Hà Nội), suối Bưng Cù (Bình
Dương), kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè (Tp. Hồ Chí Minh).
+ Theo số liệu thống kê, tổng diện tích rừng tăng về diện tích rừng hiện có, rừng
trồng và diện tích rừng tự nhiên; cụ thể: tính đến 31/12/2018 diện tích đất có rừng:
14.491.295 ha, tăng 75.914 ha so với năm 2017; diện tích rừng tự nhiên: 10.255.525
ha, tăng 19.110 ha so với năm 2017; diện tích rừng trồng: 4.235.770 ha, tăng 56.804
ha so với năm 2017; tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,65% , tăng 0,2% so với năm 2017.
Trong 3 năm 2016-2018, diện tích rừng bị thiệt hại trung bình 2.430 ha/năm, giảm
270 ha/năm, tương ứng giảm 10% so với giai đoạn 2011-2015.
+ Chương trình mục tiêu phát triển Lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016 – 2020 theo
Quyết định số 886/QĐ-TTg ngày 16/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu
nâng độ che phủ rừng lên 42% vào năm 2020. Đến năm 2018, diện tích rừng ngập
mặn cả nước là 161.464 ha, tăng 2.109 ha so với năm 2017.
+ Năm 2016: Đã tiến hành thanh tra chấp hành pháp luật về môi trường đối với 929
cơ sở; lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính đối với 378 cơ sở với tổng số tiền
xử phạt là 99,265 tỷ đồng; yêu cầu Công ty Formosa Hà Tĩnh bồi thường thiệt hại 500
triệu USD do sự cố gây hải sản chết hàng loạt tại các tỉnh ven biển miền Trung.
+ Năm 2017: Đã tiến hành thanh tra chấp hành pháp luật về môi trường đối với 425
cơ sở trên địa bàn 21 tỉnh/thành phố theo Kế hoạch thanh tra và kiểm tra đột xuất
đối với 05 cơ sở. Kết quả đã lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính đối với 155
cơ sở với tổng số tiền xử phạt là 22,549 tỷ đồng.
+ Năm 2018: Đã tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với 282 cơ sở, trong đó thanh tra
theo kế hoạch là 255 cơ sở, thanh tra đột xuất là 05 cơ sở và kiểm tra đối với 22 cơ
sở tại Quảng Ngãi; đã xử phạt đối với 102 cơ sở vi phạm với tổng số tiền là 20,224 tỷ
đồng.
+ Năm 2019: Đã triển khai 17 đoàn thanh đối với 322 cơ sở; đã ban hành 69 Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính với tổng mức phạt tiền là trên 20 tỷ đồng. Trong
năm 2019, cơ quan chức năng đã phát hiện 12.399 vụ vi phạm pháp luật về BVMT
trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 11.236 vụ với tổng số tiền phạt hơn 134 tỷ đồng.
+ Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng đến năm 2020 đã có nhiều chuyển biến tích cực: Đã có 407/439
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg,
đạt tỷ lệ 92,71% (tăng 03 cơ sở so với năm 2018), 289/435 cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg cơ bản hoàn thành các biện
pháp xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm tỷ lệ 66,43%. Đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng thuộc khu vực cơng ích, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành cơ
chế hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách nhà nước để xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng thuộc khu vực cơng ích nhằm dành nguồn lực để ưu tiên
xử lý ơ nhiễm, qua đó thúc đẩy tiến độ xử lý đối với các cơ sở gây ô nhiễm mơi
trường nghiêm trọng thuộc khu vực cơng ích.
2. Những hạn chế:
- Tổng kết 5 năm triển khai thực hiện Luật Bảo vệ môi trường 2014 cho thấy bên
cạnh những kết quả tích cực Luật cũng đã bộc lộ những tồn tại hạn chế cần tháo gỡ:
+ Cơ chế, chính sách BVMT chưa phù hợp và đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường.
Các loại thuế, phí về mơi trường theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”
để xử lý, khắc phục, cải tạo và phục hồi môi trường, “người hưởng lợi từ giá trị môi
trường phải trả tiền” chưa phát huy được vai trị là cơng cụ kinh tế điều tiết vĩ mô,
hạn chế các hoạt động gây ơ nhiễm, suy thối mơi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế
– xã hội theo hướng tăng trưởng xanh. Các quy định của Luật chưa tạo ra hành lang
pháp lý và mơi trường thuận lợi để khuyến khích sản xuất, tiêu thụ bền vững, phát
triển dịch vụ môi trường, sản phẩm, hàng hố thân thiện với mơi trường, khuyến
khích xã hội hóa trong một số hoạt động BVMT.
+ Các thủ tục hành chính về mơi trường cịn có sự phân tán, thiếu liên thơng, tích
hợp dẫn đến việc cùng một dự án, chủ đầu tư phải thực hiện các thủ tục hành chính
mang tính cho phép về mơi trường của nhiều bên, nhiều cơ quan nhà nước.
+ Một số vấn đề mới phát sinh về BVMT chưa có hành lang pháp lý để điều chỉnh:
Thực tế trong thời gian qua cho thấy phát sinh nhiều sự cố ô nhiễm, suy thối mơi
trường lớn, diễn ra trên diện rộng,bùng phát các điểm nóng về mơi trường do xả
thải. Tuy vậy, hiện nay chưa có cơ sở pháp lý về cơ chế, các tiêu chí sàng lọc, phân
loại, phân luồng các dự án đầu tư theo mức độ rủi ro về mơi trường; cơ chế kiểm
sốt đặc thù đối với các đối tượng có nguy cơ cao gây ơ nhiễm, sự cố môi trường.
+ Nội dung, trách nhiệm, phân công, phân cấp quản lý nhà nước về BVMT chưa hợp
lý, vẫn còn thiếu thống nhất, chồng chéo, mâu thuẫn, chưa đi đôi với tăng cường
năng lực, phân định rõ trách nhiệm (một việc vẫn giao cho nhiều cơ quan chủ trì)
nhất là đối với việc quản lý rác thải đô thị, nơng thơn, ứng phó, khắc phục hậu quả sự
cố mơi trường. Các quy định của pháp luật mới chỉ chú trọng trách nhiệm từ phía
Nhà nước, thiếu cơ chế phù hợp để phát huy hiệu quả sự tham gia của tồn xã hội,
từng doanh nghiệp và người dân trong cơng tác BVMT.
+ Các nội dung BVMT được quy định trong nhiều luật khác nhau (như Luật đầu tư,
Luật đầu tư cơng, Luật xây dựng, Luật tài ngun nước, Luật khống sản, Luật quy
hoạch, Luật thủy lợi,…). Tuy nhiên, giữa các luật này nhiều điểm cịn có sự giao thoa,
chưa thống nhất, còn một số khoảng trống chưa được quy định đã ảnh hưởng tới
hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT.
+ Một số điều, khoản của Luật chỉ quy định về nguyên tắc nhưng không giao cơ quan
nào quy định chi tiết thi hành dẫn đến thiếu tính khả thi, không được triển khai trên
thực tiễn; công tác tổ chức triển khai thực hiện vẫn chưa hiệu quả,…
+ Việc phục hồi các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái mới chỉ thực hiện chậm. Các đề án
BVMT lưu vực sông triển khai chậm, kết quả đạt được chưa cao. Tình trạng ơ nhiễm
mơi trường tại các sơng, hồ, ao, kênh mương trong các đô thị, khu vực khai thác
khoáng sản chậm được khắc phục, xử lý.
3. Giải pháp
Để pháp luật bảo vệ mơi trường có những hiệu quả cao hơn thì phải tiến hành khắc
phục những nhược điểm hiện có, đang tồn tại trong hệ thống pháp luật mơi trường
hiện nay, cụ thể như sau:
+ Hồn thiện các quy định pháp lí (trách nhiệm hành vi,trách nhiệm hình sự, trách
nhiệm dân sự) đối với những hành vi vi phạm pháp luật về mơi trường.
+ Hồn thiện cơ chế tổ chức và đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo vệ mơi trường.
Tăng cường nắm bắt tình hình, thanh tra kiểm tra và giám sát việc thực hiện pháp
luật môi trường.
+ Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Thực hiện đầy đủ
các cam kết quốc tế. Đẩy mạnh hợp tác song phương.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận
thức về bảo vệ môi trường trong xã hội.
+ Tiếp tục quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi
trường, nhất là Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo
vệ môi trường.
+ Xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi
trường và cải tạo, phục hồi môi trường, trước mắt là các điểm, khu vực ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của Nhân dân
III. Kết luận
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam về bảo vệ mơi trường đã tạo hành lang pháp lí để
các chủ thể trong xã hội thực hiện đầy đủ, triệt để các quy phạm pháp luật. Vấn đề
thực hiện pháp luật hiên nay cần phải được nghiên cứu tổng thể, đánh giá toàn diện
nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Tiếp tục hoàn
thiện quy định pháp luật về BVMT phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác
BVMT; đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đủ cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề
môi trường đặt ra của giai đoạn phát triển mới; tương thích với pháp luật và thông lệ
quốc tế; tạo hành lang pháp lý đồng bộ về BVMT, thúc đẩy sự phát triển bền vững.