Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Ẩm thực Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.75 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
I. Những món ăn đặc trưng vùng sông nước
1. Gỏi cá trích Phú Quốc
2. Bánh canh Bến Có
3. Bún bò cay Bạc Liêu
4. Bún nước lèo Trà Vinh
5. Cá lóc nướng cuốn đọt sen
6. Mắm còng Cần Giuộc
7. Lẩu mắm cá rô đồng
8. Thịt gà khìa nước dừa
9. Cá bống kho tiêu
10. Mít non nấu tôm và lá lốt
11. Hủ tiếu Mỹ Tho
12. Những món ăn dân dã trong ca dao dân ca Nam Bộ
II.Đặc trưng văn hóa ẩm thực Sài Gòn
Tài liệu tham khảo
I.NHỮNG MÓN ĂN ĐẶC TRƯNG VÙNG SÔNG NƯỚC
Vùng sông nước Nam Bộ là có nguồn thức ăn tươi sống phong phú như: Cá,
ếch, lươn, rắn, rùa, chim, chuột… Cách chế biến món ăn cũng đơn giản hơn
không cầu kỳ như chốn thị thành. Chính vì vậy mà giữ được hương vị thơm
ngon chất bổ của chốn đồng quê.
Có lẽ nướng là cách chế biến món ăn đầu tiên của đoàn người khai hoang lập
nghiệp trên vùng đất phương Nam này. Đó là những món vừa tiện lợi lại giữ
được hàm lượng dinh dưỡng: Vài con cá lóc nướng với lửa bằng xác mía
khô, rắn quấn lá sả, chim gói lá chanh đem nướng cùng chút gia vị. Nếu có
dịp đến thăm trại vịt ở Vị Thanh, Quả Lựu (Cần Thơ), chủ vựa sẽ đãi ngay
một đĩa thịt chuột (loại chuột hay bắt vịt con) nướng sả ớt. Món tươi đã vậy,
thức ăn khô đem nướng cũng ngon chẳng kém. Khô cá sặc vằng nướng thật
nóng, ăn với cơm nguội bốc bằng tay mới thấy hết cái ngon dân dã của vùng
sông nước.
Món mắm được hình thành khi cuộc sống đã tạm yên vị, đây là thức ăn


“ruột” của bà con vùng sông nước. Thành phần chính chỉ là cá (có thể rắn,
lươn…) và muối, tuỳ theo thời gian và loại mắm to nhỏ, cách sử dụng khác
nhau. Mắm sống hay mắm kho cũng được nhiều người ưa thích. Mắm sống
xé nhỏ ăn kèm với húng quế, sả, khế chua, chuối chát, gừng non xắt mỏng,
kèm thêm lát cóc hay ổi hoặc ăn cùng với thịt lợn luộc, quay.
Sau món mắm thì canh chua được xem là món cốt lõi của bữa ăn. Dân Nam
Bộ thường dùng cá trê, cá lóc nấu chung với bắp chuối xắt nhỏ, đậu bắp, dọc
mùng với me và ớt.
Từng món ăn hiện diện lên mâm cơm cũng nói lên được qúa trình canh tác
làm ăn, sự no đủ, sung túc hay còn kham khổ khó khăn… Cũng xuất phát từ
đó, món gỏi được coi là món nhàn hạ, để lai rai. Với thành phần chính là rau,
quả thái lát, các loại quả chua như khế, cóc, tắc, chanh xắt nhỏ trộn lẫn với
rau càng cua, rau sam, rau đắng…
Hiện nay tại Sài Gòn, một số quán lẩu mắm, ngoài những loại rau thường
dùng còn có thêm các loại rau đồng, và lẩu mắm cũng chính là biến thái của
mắm kho mặn. Các món ăn thui nướng đang quay lại với thực khách chốn
thị thành, nhất là họ đã trải qua thời gian dài chán chê với các chất béo, ngọt
và cách chế biến cầu kỳ.
1.GỎI CÁ TRÍCH PHÚ QUỐC
Đặt chân đến đảo Phú Quốc (Kiên Giang), du khách sẽ bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp
của những bờ biển, dòng suối, rừng nguyên sinh Thêm nữa là hương vị các
món ăn đặc sản, khiến vừa dời chân ta đã mong trở lại!
Sau những chuyến ra khơi đánh bắt hải sản trở về, người dân xứ đảo thường
chọn 1 trong 5 loại: cá nhồng, cá bớp, cá đục, cá nù, cá trích để chế biến
thành món gỏi, góp phần cho bữa ăn gia đình thêm phong phú. Dần dà, khẩu
vị đại đa số người ăn đã "tuyển chọn" gỏi cá trích là món ăn ngon nhất. Cách
ăn món này thật đơn giản nhưng khâu chuẩn bị lại rất công phu: làm cá, nạo
dừa, hái rau, rang đậu và ít nhiều cũng cần có "bí quyết"! Chủ Khu du lịch
Vườn Táo, Phú Quốc đã tiết lộ bí quyết của món ăn khoái khẩu này. Chọn cá
trích tươi, vảy còn bóng trắng đem cắt bỏ đầu, mổ bụng thật sạch rồi lóc bỏ

xương sống, lấy hai mảnh phi-lê toàn thịt đỏ. Trong lúc chuẩn bị gia vị, cho
thịt cá vào đá cây ướp lạnh. Nước sốt chua có thể làm bằng giấm hoặc
chanh, nhưng để hương vị đậm đà nên sử dụng giấm được nuôi bằng trái ổi
chín vốn có rất nhiều ở Phú Quốc, nêm tí muối, tí đường.
Nước chấm làm bằng nước mắm biển ngon, nguyên chất, thêm đường, bột
ngọt, ớt, khi ăn cho thêm đậu phộng rang giã nhuyễn. Thông thường nước
chấm được làm ăn liền, song một số người lại có "bí quyết" cho nước chấm
lên men để mùi vị thêm phần hấp dẫn. Trước khi dọn gỏi cá lên mâm, đem
bánh tráng bột gạo nhúng vào nước cốt dừa. Nước cốt dừa hơi loãng chứ
không đậm đặc. Tỉ mỉ, khéo léo nhúng một mặt bánh rồi xếp đôi lại (mặt
khô nằm bên trong) nhẹ nhàng đặt lên đĩa theo thứ tự để khi ăn dễ dàng lấy
từng cái một mà không bị dính.
Chuẩn bị xong đâu đấy, sắp cá vào đĩa, phủ lớp mỏng rau răm, củ hành tím,
ớt sừng xắt nhỏ. Rưới nước sốt thật đều lên thịt cá. Gắp từng miếng cá đặt
vào bánh tráng, cho miếng dừa nạo, rau sống vào rồi cuốn lại, chấm vào
nước chấm. Đặc biệt, ăn gỏi cá trích phải đủ rau rừng và rau trồng. Rau rừng
8 món: đọt bứa, bằng lăng, kim cang, soi nhái, trâm sắn, trâm kiềng kiềng,
trâm dòi, trâm ba vỏ. Rau trồng gồm: xà lách, húng cay, rau thơm, dấp cá.
Từ từ đưa vào miệng cuốn gỏi cá để cảm nhận thịt cá mềm giòn, ngòn ngọt,
chua chua; vị beo béo của dừa, đậu phộng hòa với rau răm, hành tím nồng
cay và vị chan chát của rau rừng. Chính vị chát rau rừng giúp ngừa chứng
đau bụng với những ai không quen ăn gỏi có nước cốt dừa, đậu phộng.
2. BÁNH CANH BẾN CÓ
Theo quốc lộ 53 từ Vĩnh Long về Trà Vinh, cách thị xã Trà Vinh 5 cây số,
dù bận cũng phải dành thời gian ghé quán bánh canh Bến Có ăn thử một lần.
Quán đơn sơ nhưng xe hơi đậu nườm nượp. Vậy bánh canh Bến Có có gì
đặc biệt?. Bà Hai Hên (Lâm Thị Hên) chủ quán, nói: “Ăn thì tuỳ khẩu vị,
riêng bánh canh ở quán tui, phải làm một tô thật nóng cho khách, phải chọn
ớt tươi, phải làm một đĩa nước mắm hòn. Khách từ từ dầm ớt ra, mùi nước
mắm, mùi ớt hăng hăng cộng với mùi súp, mùi thịt, mùi tiêu, ngò, hành xắt

nhuyễn mới thấy ngon”.
Tiếng là bánh canh thì bánh phải ngon, muốn vậy phải chọn bột, chọn
xương, thịt để có nước súp ngọt tự nhiên và làm sao cho ngon mắt. Bánh
canh ngon ở Trà Vinh có lò Hoà Thuận. Cọng bánh làm bằng bột gạo lúa
mùa thì màu bột mới trắng nõn nà vừa dẻo vừa dai. Vị ngọt của gạo lúa mùa,
thứ gạo hiếm hoi khi ai nấy mần lúa cao sản. Nhiều khi ăn là người ta sẽ nhớ
lại cái hương vị ngày xưa. Nồi xương súp, chỉ chọn xương sống nấu nước
súp mới ra vị ngọt béo. Phải lựa thịt nạc thật tươi. Đun lửa liu riu và bền bỉ
hớt bọt để cho thịt trắng, nước trong. Đồ lòng phải khéo làm. Riêng cật phải
khéo lựa và nấu sao cho không hăng mùi, màu tươi ngon.
Một nồi súp, xương thịt chứa tới nửa nồi. Có khi tính gần bằng một con heo
trong nồi súp nên không cần lạm dụng bột ngọt. Nhiều người rành rẽ nói bà
Hên nổi tiếng theo dạng "bất chiến tự nhiên thành" nhờ biết chọn lựa những
loại ngon chung quanh mình. Trong nhiều lò bánh, bà chỉ chọn bánh canh
của lò Hoà Thuận, thịt thì đặt ở lò mổ. Nhờ cách nêm nếm riêng đã tạo khẩu
vị đặc trưng bánh canh Bến Có.
Bà Hai Hên kể lại, 15 năm trước, bà gánh bánh canh đi bán hàng rong trong
thị xã nhỏ bé này. Ra được cái quán ven đường là kỳ công nên bán một tô
phải giữ được tiếng. Riết rồi khách quen cái vị ngọt nước súp, quen bánh
canh vừa dẻo vừa dai. Và cái được nhất của bánh canh Bến Có là giá bình
dân. Nhờ đó "hút" cả những thực khách đi xe hơi. Ban đầu là du khách vãn
cảnh ao Bà Om hoặc ra biển Ba Động, nay thì khách tứ phương lui tới.
Năm nay, bà Hai Hên đã lục tuần, không đủ sức ngồi hớt bọt cho nồi súp
nên truyền " bí quyết" cho con gái. Hai cô con gái, sửa lại quán, lót gạch tàu
khang trang hơn. Ngày thường, quán bán từ 500 đến 600 tô với giá
12.000đ/tô. Ngày lễ hội, tết nhất, bán số lượng gấp đôi.
Bà Hai Hên thú thiệt, bánh canh Bến Có là cảm nhận về cái ngon của riêng
bà trong cuộc tìm kiếm cái ngon trong thiên hạ và sự điều chỉnh từ ý kiến
của thực khách.Cứ vậy mà thành bánh canh Bến Có.
Địa chỉ: Quán Bánh canh Bến Có, ấp Bến Có, xã Nguyệt Hoá, huyện Châu

Thành, Trà Vinh.
ĐT: 074 842030
3. BÚN BÒ CAY BẠC LIÊU
Từ xa xưa, Bạc Liêu nổi tiếng với hương vị ngọt lừ của những trái nhãn.
Đến đây, bạn còn được đắm mình trong bóng mát và hương nhãn thoảng
thơm tỏa ra từ những thân cây cổ thụ đã sống hàng trăm năm qua.
Là xứ biển, nên đến Bạc Liêu, bạn sẽ được thưởng thức những món đặc sản
của đại dương: lẩu cá khoai, cháo cá khoai; nghêu, sò, ốc, hến, sam, nhưng
ngon nhất là sò huyết, cua gạch son luộc chấm muối tiêu chanh; ốc lác luộc
chấm cơm mẻ sả ớt hay nước mắm gừng; ốc len hầm sả, hầm dừa; cua đá,
hàu tái chanh mù tạt Cách đây chừng chục năm, Bạc Liêu (và Cà Mau) còn
đã làm “nóng” thị trường ẩm thực Đồng bằng sông Cửu Long với loại cây
hoang dã là bồn bồn khi được chế biến thành một vài món ăn lạ mà ngon
miệng, đáp ứng khẩu vị của những người “sành ăn” Chính vì vậy mà ẩm
thực Bạc Liêu có tính đặc thù riêng biệt: dân dã, mộc mạc, đã thưởng thức
một lần, khó lòng quên. Nhưng có một món mà đến Bạc Liêu bạn không thể
không thưởng thức đó là bún bò cay.
Nằm khiêm tốn ở một góc gần chợ cải Bạc Liêu, quán bún bò cay của chị
Minh Nguyệt sáng nào cũng đông khách. Ngồi vào bàn, chẳng mấy chốc,
bạn đã có một tô bún bốc hơi nghi ngút. Lẫn trong cái nền màu vàng sẫm bắt
mắt của tô bún là những sợi bún trắng tinh cùng bốn cục thịt bò nằm phủ
mặt. Cạnh bên đó là một dĩa quế tươi xanh, cùng một dĩa muối hột đâm ớt
đỏ thích mắt có kèm một lát chanh. Vắt chanh vào tô bún, lặt rau quế (vừa
phải, nhiều hoặc ít quá sẽ làm mất hương vị tô bún) cho vào, dùng đũa trộn
đều, gắp một đũa cho vào miệng. Ái chà, cay. Cay quá là cay! Mỗi tô bún có
bốn cục thịt bò, mỗi cục vuông vức chừng ba ngón tay. Gắp một cục thịt
chấm muối ớt cho vào miệng, hoặc nạc hoặc nạm hoặc gàu, gân, thứ nào
cũng cho bạn hương vị đặc trưng ngon của thứ ấy. Ăn xong, bạn sẽ thỏa mãn
trong vị cay đến chảy nước mắt, đến cái giòn, dai, bùi béo của thịt bò và vị
chua kích thích dịch vị của chanh. Nhưng “đã đời” nhất là sau một đêm say,

ăn xong tô bún, vị cay và sức nóng của nó làm các lỗ chân lông toát đầy mồ
hôi, sảng khoái cả người. Chính vì cái hương vị và “công dụng” đặc biệt ấy
mà bún bò cay ngày càng thu hút thêm khách.
Phải nói bún bò cay là đặc sản có một không hai, chẳng những của Bạc Liêu,
mà có thể là của cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Dù vậy, có lẽ bún bò
cay được chế biến chẳng lấy gì làm công phu, cầu kỳ. Chỉ là thịt bò nấu với
sa tế mà thôi, nhưng bún bò cay ngon nhờ không dùng nhiều mỡ và đặc biệt
được pha chế theo một công thức bí truyền (không bán cho bất kỳ người
nào, dù có nhiều lời đề nghị). Công thức này có từ đời cha chị chủ quán vốn
là đầu bếp của tỉnh trưởng Bạc Liêu và người chú vốn là đầu bếp của thủ
tướng chế độ Sài Gòn Trần Thiện Khiêm. Thời đó, bún bò cay chỉ được thực
hiện phục vụ các ông này nhằm giúp “giải nghể” sau một đêm say rượu.
Năm 1975 người cha mới truyền nghề lại cho chị Minh Nguyệt để mở quán
mưu sinh. “Hữu xạ tự nhiên hương”, nên dù thay đổi địa điểm đến 10 lần
trong 30 năm qua, mà quán (không bảng hiệu) vẫn cứ đông khách. Vì thế,
đến Bạc Liêu mà không ăn bún bò cay là xem như chưa “biết” Bạc Liêu vậy!
4. BÚN NƯỚC LÈO TRÀ VINH
Có thể nói cùng với Sóc Trăng, Trà Vinh là một trong hai "kinh đô" của bún
nước lèo - một loại thức ăn đậm đà bản sắc của cộng đồng người dân tộc
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.
Chỉ gói gọn một tô vậy mà thực khách sẽ được thưởng thức từ vị ngọt mặn
thấm trong từng sợi bún trắng tinh, mềm mại cùng với những miếng thịt cá
lóc, lại còn nhẩn nha nhai từng miếng bánh giá (bánh cống) giòn rụm nữa
chứ.
Là một món ăn dân dã được dùng lót lòng trong những buổi sáng của những
người lam lũ với ruộng đồng, nên bản thân bún nước lèo là thứ quà giản dị,
chân phương. Nó được bày bán bên vệ đường với đôi gánh, một đầu để cái
trã (nồi đất) lớn chứa nước lèo ủ nóng bằng trấu; đầu gióng còn lại đựng xề
bún, tô, đũa, giấm, muối ớt, rổ rau ghém Khách đến, người bán xé rời từng
cọng bún cho vào tô, rải rau ghém lên trên, chan mấy vá nước lèo nóng hổi,

rồi gài đôi đũa gọn gàng vào mép tô, nặn chanh (hoặc chan giấm), gắp
miếng muối ớt (không dùng nước mắm vì sẽ khiến tô bún bị "chua") cho vào
tô, trộn đều trước khi ăn. Dù chỉ có thịt cá lóc rỉa, thịt heo quay vàng ruộm,
bánh giá nóng giòn, vài miếng huyết heo nhưng món ăn đơn giản ấy mới
thiệt là ngon khiến khách ăn xong một tô còn thòm thèm muốn ăn thêm tô
nữa, vì bao nhiêu tinh túy của cá lóc đã thấm vào từng sợi bún, hòa tan trong
nước lèo.
Nhưng tô bún dân dã lại có nguyên tắc của nó khi bún phải được làm từ loại
gạo lúa mùa dai và ngọt; rau ghém phải đủ giá sống, bắp chuối và hẹ. Hẹ là
những cọng ốm nhỏ nhưng giòn và ngọt nồng, gọi là hẹ hương. Giá sống dù
không to cọng nhưng có vị lạt hậu ngọt. Bắp chuối sử dụng cả lớp vỏ đỏ bên
ngoài chung với lõi, không ngâm trong phèn hoặc hàn the. Tất cả đều được
trồng theo phương pháp truyền thống, không bón phân hóa học, nghĩa là
phục vụ khách ăn những loại rau sạch. Nhưng trên hết, để tô bún đạt yêu cầu
cần phải có nước lèo và cá lóc. Nước lèo được nấu bằng mắm prò-hốc, cho
vị mặn nồng nàn, thơm lựng mũi. Khi mắm đã rã hết trong nồi nước sôi
được hớt bọt nhiều lần, người ta mới cho thịt cá lóc nghiền nhỏ, ướp với sả
ớt cùng các loại gia vị khác vào nồi. Đơn giản nhưng nếu đã ăn nhiều lần, đã
là người sành ăn rồi, bạn mới thấy bún nước lèo Trà Vinh quả là "danh bất
hư truyền". Để có những tô bún ấy, ngoài những phum, sóc xa xôi, bạn cũng
có thể tìm thấy trong một "sạp" bên trái chợ Trà Vinh cũng được bán với giá
rẻ bất ngờ
5. CÁ LÓC NƯỚNG CUỐN ĐỌT SEN
Cá lóc dù là nướng lửa than, lửa rơm hay nướng đất sét, cách nào cũng ngon
tuyệt. Tuy nhiên, điệu nghệ nhất là món cá lóc nướng ăn với đọt sen.
Nhưng không phải muốn ăn lúc nào cũng có mà chúng ta phải chọn đúng
chỗ, đúng thời điểm, chẳng hạn như ở vườn Quốc gia Tràm Chim - Tam
Nông hoặc Khu du lịch sinh thái Gáo Giồng - Cao Lãnh (Đồng Tháp), nơi có
nguồn cá lóc đồng dồi dào và nhiều ao sen, láng sen mới khám phá và
thưởng thức được thứ hương đồng cỏ nội vô cùng thi vị.

Muốn có một bữa tiệc thú vị trong mùa hè oi bức, trước hết chúng ta phải
chọn cho được những con cá lóc to, mập ú rồi nướng bằng lửa than hồng
hoặc dùng rơm để đốt (còn gọi là nướng trui). Sau khi chín đều, da cá
chuyển sang màu vàng rộm, mùi bốc lên phưng phức, chúng ta dùng que tre
cạo bỏ hết lớp vảy khét bên ngoài rồi dùng đũa vẽ ra theo chiều dọc của lưng
cá. Muốn cầu kỳ hơn chúng ta có thể rưới đều lên thịt cá một lớp mỡ hành
để làm tăng thêm mùi vị hấp dẫn.
Khi vào tiệc, mỗi người tha hồ dùng những đọt sen cuốn chung với bún và
cá còn nóng hổi, kèm thêm chút rau thơm như quế, húng, khế, dưa leo, chuối
chát chấm với nước mắm me vừa chua cay vừa nồng thắm, chỉ cần đưa lên
miệng cũng đã thấy ngon rồi. So với món bánh tráng cuốn thì đọt sen vượt
trội hơn ở vị đăng đắng, ngòn ngọt, mùi đặc trưng thơm, ngon, giòn và lạ
miệng, hoàn toàn khác hẳn với các loài thảo dã khác.
Đến với Đồng Tháp Mười, sắc thái đặc trưng của hầu hết các món ăn đều có
nguồn gốc từ cây nhà lá vườn, thực phẩm tươi sống, ngon ngọt và bổ dưỡng.
Cách chế biến cũng giản dị, không cầu kỳ hoa mỹ nhưng món nào cũng đậm
đà hương vị đồng bằng, rất phù hợp với những ai ưa thích thú điền dã.
6. MẮM CÒNG CẦN GIUỘC
Mắm còng Cần Giuộc là một trong những đặc sản độc đáo của Nam bộ đang
ngày càng teo tóp vì đất sống của còng ngày càng hẹp lại
Lưu vực cửa sông soài rạp và Cửa Tiểu gồm các huyện Cần Giuộc, Cần
Đước (Long An), Gò Công Đông (Tiền giang), Nhà Bè, Cần Giờ (thành phố
Hồ Chí Minh) theo tên gọi dân gian là vùng hạ (tức vùng hạ lưu sông Vàm
Cỏ) có nhiều bãi bồi triền lá dừa, bần, sú vẹt, quanh năm nước mặn. Trên
những bãi bồi nước mặn ấy quần tụ nhiều loại thuỷ sản và đặc biệt là còng.
Mắm còng có hai loại, mắm còng sữa nguyên con, chỉ bắt và làm được một
ngày duy nhất là mùng năm tháng năm âm lịch. Loại mắm còng mặn làm từ
nước cốt thịt con còng có thể làm quanh năm nhưng ngon nhất cũng chính là
lượng còng bắt từ ngày mùng năm tháng năm. Quy trình làm mắm thật đơn
giản: còng tươi rửa sạch đâm nhuyễn với muối, phơi nắng độ ba bốn ngày

sau đó vắt lấy nước cốt và đem phơi nắng tiếp đến khi mắm kẹo lại đen sệt
như bùn. Để tạo thêm hương vị riêng, có người ướp thêm rượu, có người pha
cơm nếp, nhưng đặc điểm chung mắm còng có vị nồng nàn mà người chưa
quen rất ngại nhưng người đã nếm một lần thì không thể quên.
Mắm còng ăn kèm với thịt ba chỉ, rau sống, bún tươi, dưa leo chuối chát,
không chỉ là món ăn mà là món nhắm đậm đà chất Nam bộ. Giữa đất Sài
gòn ăn miếng mắm còng, uống ly rượu đế, cả một vùng quê hương ngất
ngây say trong lòng người xa xứ.
Xưa, mắm còng chỉ là thức ăn chế biến tự túc trong mỗi gia đình. Nay, kinh
tế thị trường phát triển, mắm còng đã thành thương phẩm nhưng theo đà
công nghiệp hoá, địa bàn sinh sống của còng ngày càng hẹp lại không đủ số
lượng để vươn ra xa mà chỉ tiêu thụ ở tại địa bàn hoặc được gởi đến những
người con xa xứ của vùng đất này theo con đường biếu tặng.
Đến nay việc chế biến mắm còng vẫn hoàn toàn thủ công, gia đình và không
có cơ sở nào đủ lượng nguyên liệu để sản xuất công nghiệp hay làm ra
thương hiệu. Lượng còng càng lúc càng hiếm, giá cao làm mắm bán rất khó
kiếm lời nhưng nhiều người vẫn đeo đuổi nghề như một thú vui không thể
bỏ. Bà Võ Thị Tám ở thị trấn Cần Giuộc đã 76 tuổi, gia đình bà hai đời làm
mắm còng, tổng cộng trên 100 năm. Nhìn ngôi nhà bà là một biệt thự đẹp,
sang trọng nhất nhì huyện Cần Giuộc không ai hình dung nổi ngày ngày bà
vẫn cặm cụi, đâm giã phơi ủ làm mắm còng
7.LẨU MẮM CÁ RÔ ĐỒNG
Đồng bằng sông Cửu Long, là xứ sở của cá đồng, với sản lượng cá nước
ngọt đứng nhất nước. Cá tươi sử dụng không hết được làm mắm, cách dự trữ
và bảo quản nguồn thực phẩm dồi dào này. Từ mắm, có thể chế biến rất
nhiều món ăn đặc sắc, trong đó có lẩu mắm. Lẩu mắm là mắm kho lạt kết
hợp với các lẩu, thêm nhiều rau tươi để nhúng. Lẩu mắm ngày nay là món ăn
tiêu biểu của miền sông nước Tây Nam bộ.
Người ta dùng mắm cá lóc, cá sặc, cá rô, cá linh, cá trèn để làm nước lẩu.
Đây là công đoạn quan trọng nhất: mắm ngon hòa với nước đun sôi liu riu

cho ra chất ngọt, sau đó lược lại, chỉ lấy nước, bỏ xương và cặn.
Cá rô thịt ngọt, thơm, béo, có nhiều ở các chợ đồng bằng. Đang vào mùa
nước nổi, cá rô theo nước lên đồng tìm thức ăn, nông dân giăng lưới bắt
được rất nhiều. Cá cỡ non ba ngón tay khép lại, gọi là cá rô “mề”, đạt chất
lượng nhất.
Khoảng 12 con cá rô mề được đánh sạch vảy, bỏ ruột, chặc vi, móc mang, để
nguyên con thêm một ít thịt ba rọi, một vốc nấm rơm, chừng 200gr tôm sú,
một miếng tà hủ tươi, vài con lươn nhỏ nướng trèm (nướng sơ) – tất cả sắp
ra đĩa làm “ mồi phụ” để tăng thêm phần hấp dẫn.
Rau ghém ăn lẩu mắm cá rô đồng rất phong phú: cà phổi, khổ qua, đậu bắp,
bông súng, cải xanh, rau muống, mồng tơi, cù nèo, rau nhút, bắp chuối, giá
sống, tần ô, rau trai, đọt choại:
Nhúng cá, “mồi phụ” và rau, tùy ý thích của bạn, vào nồi lẩu mắm đang sôi
liu riu, ăn với bún hoặc cơm.
Thành phố Cần Thơ rất nổi tiếng về món lẩu mắm. Có thể đến quán Dạ Lý
trên đường 3 tháng 2, phường Hưng Lợi ( Ninh Kiều), hoặc ra vùng ngoại ô
ăn lẩu mắm cá rô đồng ở quán cô Ba Xoàn, số 264/28 hương lộ 28 chợ Miễu
Ông, phường Long Tuyền (Bình Thủy), nơi luôn có “mồi” sống và rau tươi
trực tiếp ở chợ vườn. Chắc chắn bạn sẽ hài lòng món ăn dân dã, ngon, lạ, giá
cả bình dân này.
8.THỊT GÀ KHÌA NƯỚC DỪA
Ở nước ta, gà là món ăn có mặt trong mọi gia đình, dù giàu, dù nghèo, nhất
là những ngày giỗ chạp, cưới hỏi, lễ Tết mâm cỗ thịt gà thêm đậm đà và lý
thú. Gà còn là nguồn thực phẩm ngon, bổ dưỡng mà đa số nông thôn Nam
bộ gần như nhà nào cũng có nuôi. Hình ảnh đàn gà đầy sân, biểu tượng cho
ấm no và hạnh phúc. Người nội trợ khéo tay có thể biến gà thành nhiều món
đa dạng: Gà luộc, gà quay, gà chiên, gà nấu cà ri
Ở Nam bộ, món “gà khìa nước dừa” vô cùng hấp dẫn. Muốn thực hiện món
ăn đặc sắc này, phải chọn loại gà mái tơ cỡ một ký là vừa (loại gà ta) cùng
với nước dừa tươi, tỏi băm nhuyễn, dầu đậu nành, mật ong, tiêu, muối. Sau

khi làm gà xong, mổ ra, rửa sạch để cho ráo nước, ướp muối, nước tương,
tỏi, hòa mật ong đều khắp thân gà cho thấm khoảng 15 phút. Bắc chảo lên
bếp phi mỡ tỏi đến khi bốc mùi thơm, để gà vào xào cho vàng và săn thịt rồi
đổ nước dừa vô xâm xấp đậy nắp kín, đun lửa liu riu, khi nước dừa cạn dần,
thịt gà mềm là được. Dĩa thịt gà khìa nước dừa có màu cánh gián bóng loáng
đẹp mắt, xung quanh được điểm xuyết các sắc màu tự nhiên của dưa cải
chua, ngó sen, xà lách. Cần nhất thưởng thức món gà khìa nước dừa còn
nóng mới ngon, vị đậm ngọt của thịt và mềm mại không khô khốc như gà
quay, vừa hòa quyện hương thơm nước dừa với mùi chua cay ngọt giòn của
dưa cải, ngó sen. Ăn vào không bao giờ quên món ẩm thực đặc trưng của
phương Nam.
Mỗi miền, đều có món gà đặc trưng, như ở miền Bắc thì thường ăn gà luộc
rắc lá chanh thái nhỏ, chấm muối tiêu ớt. Còn ở miền Trung có món cơm gà
Huế giàu dinh dưỡng độ đạm cao, ăn chén cơm gà có cảm giác sảng khoái
với mùi vị đậm đà của thịt và xương gà tiết ra thấm đượm từng hạt cơm.
Tóm lại, món thịt gà biểu trưng của ba miền rất dung hợp và hấp dẫn vì
trong 100 gram thịt gà có 20,5 đến 22,5 gram protit, cao hơn các loại gia
cầm thông dụng khác với đầy đủ tỷ lệ cân đối giữa các axít cần thiết mà cơ
thể không tự tổng hợp được.
Riêng món gà khìa nước dừa phương Nam lai rai với rượu đế Nàng Hương
là hết ý, vừa thưởng thức vừa cảm nhận sự giao hòa của đất trời, cỏ cây,
sông nước, mới thấy hết cái ngon, cái đẹp tình người Nam bộ.
9.CÁ BỐNG KHO TIÊU
Có những loại cá bống với những cái tên khá ngộ nghĩnh như bống mít,
bống rậm (nhỏ xíu như con ròng ròng) rồi bống sao, bống xệ, bống thùng,
bống dừa thích chui nhủi dưới sình hay bắt cặp nhau trong bẹ dừa nước
ven sông. Nhưng phổ biến hơn cả là bống cát, bống trứng. Và món bống
được biết nhiều nhất vẫn là món bống kho tiêu.
Cá bống tới mùa con nào con nấy tròn mây mẩy, bụng căng tròn ôm
trứng. Đem cá còn tươi về cho vào rổ với vài lá sả quây một hồi vẩy cá

tróc hết. Cho cá vào nồi đất ướp với nước mắm, đường, một ít nước màu
và một ít đầu hành giã nhuyễn. Ướp xong nên để cá thấm gia vị độ một
giờ để khi kho chín cá mới cứng mình, thịt dai. Bắt nồi cá lên lửa bắt đầu
kho, thấy sôi vài dạo, hạ lửa kho liu riu cho nước kho sắc dần. Khi nước
kho gần cạn cho thêm mỡ nước hoặc có thêm chút tóp mỡ càng ngon (nếu
không có vấn đề về béo phì), vài trái ớt hiểm và đương nhiên không thể
thiếu tiêu. Nồi cá kho gặp tiêu bốc mùi thơm ngào ngạt. Con cá bống uốn
cong mình lộ trứng vàng bóng mẩy. Lúc này nồi cơm nấu bằng gạo nàng
thơm cũng vừa chín tới bốc hơi nghi ngút. Và miếng cơm với con cá bống
kèm mấy cọng rau đồng, miếng dưa leo, nhúm xoài xanh bằm chấm nước
cá sánh màu cánh gián. Vị béo ngọt của cá, hơi tiêu, mùi nước mắm đậm
đà hết chỗ nói. Tiêu đã sẵn cay, có người còn cắn thêm miếng ớt hiểm xé
lưỡi để vừa hít hà vừa nóng rang.
10.MÍT NON NẤU TÔM VÀ LÁ LỐT
Nguyên liệu (4 phần ăn): Mít non: 1kg; tôm bạc đất: 300g; lá lốt: 50g; rau
răm: một ít; mắm ruốc Huế: 1 muỗng xúp; hành tím băm: 1 muỗng cà
phê; ớt khô: 1 muỗng cà phê; ớt sừng: 1 trái; muối: 1 muỗng cà phê;
đường: 1 muỗng cà phê.
Cách chế biến: Mít non luộc chín, gọt vỏ, cắt miếng cỡ ngón tay cái, bỏ
hạt, ngâm nước muối loãng 15 phút, vớt ra để ráo. Tôm bạc luộc chín, lột
vỏ. Phi hành tím cho mắm ruốc và ớt khô vào xào thơm, cho nước luộc
tôm vào nấu sôi, hớt bọt kỹ. Sau đó cho mít và tôm vào nấu, nêm muối,
đường vừa ăn. Múc ra tô cho rau răm, lá lốt cắt nhỏ lên mặt, trang trí thêm
bằng ớt cắt khoanh và ngò. Mít non nấu tôm và lá lốt ăn với cơm trắng.
11.HỦ TIẾU MỸ THO
Hủ tiếu Mỹ Tho khác hủ tiếu Tàu, hủ tiếu Nam Vang, phở Bắc, bún bò
Huế ở chỗ không ăn với sà lách, giấm, rau ghém, mà dùng giá sống, chanh,
ớt, nước tương. Điều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tiếu Mỹ Tho trở
nên nổi tiếng và nhiều người bén mùi kể từ thập niên sáu mươi nhờ sự hoàn
thiện từ khâu chọn hột gạo làm cọng bánh tới nồi nước lèo cùng tuyệt kỹ pha

chế của các đầu bếp trứ danh đất Mỹ Tho, như: Phánh Kỳ, Nam Sơn, Tuyến
Ký cùng các lớp thợ nấu sau này.
Nhiều người cho biết, hủ tiếu ngon nhất phải là loại làm bằng gạo Gò Cát
(đặc sản như tàu hương, nàng thơm chợ Đào). Đây là vùng trồng lúa thơm
địa phương của xã Mỹ Phong, ngoại thành Mỹ Tho. Cũng cần nói thêm, gạo
Gò Cát làm bún, bánh Tráng, bánh Nghệ nức tiếng ở Mỹ Tho hơn 40 năm
nay. Nhưng hủ tiếu ngon phải là bánh khô, khi nấu trụng sơ nước sôi, tươm
mỡ hành phi, cọng trong bóng, bắt mắt.
Hồi trước hủ tiếu Mỹ Tho ngoài thịt, lòng còn có con tôm chẻ đôi bày lên
mặt, trông ngon mắt. Giờ để giá thành hợp túi tiền của số đông, người ta
thay bằng sườn, cặp trứng cút.
Ngón gia truyền không ai chịu hé răng. Hơn kém nhau còn tuỳ thuộc vào nồi
nước lèo. Về cơ bản, chất ngọt của nước lèo từ xương ống hầm kỹ, thịt và
khô mực nướng, cùng một số nguyên liệu, gia vị đặc trưng, được các đầu
bếp gia giảm theo khẩu vị khách hàng của mình. Mỗi lần mở nồi hầm chan
bánh, hương thơm ngào ngạt mời gọi khách làm nhiều người qua đường cầm
lòng không đậu. Vì vậy, chủ hàng quán khu vực Cầu Quay - Mỹ Tho tuềng
toàng, thực khách vẫn cứ nườm nượp. Thậm chí, trong cẩm nang của nhiều
khách du lịch lữ hành quốc tế giới thiệu hẵn tên những hiệu ăn nổi tiếng của
nơi đây.
Hủ tiếu Mỹ Tho là món ăn đặc sản đậm đà tính dân tộc luôn gợi nhớ đối với
những ai đã từng tri âm tri kỉ với đất Mỹ Tho. Thật hiếm có món ăn nào làm
theo cách thức của người dân Nam Bộ lại vừa miệng cả giới Tây, Tàu.
12.NHỮNG MÓN ĂN DÂN DÃ TRONG CA DAO DÂN CA NAM BỘ
Trên tổng thể, ca dao Nam bộ thể hiện tất cả những đặc điểm chung của ca
dao Việt Nam, nhưng đồng thời ca dao Nam bộ còn là tiếng nói tâm tình của
người dân miền sông nước nơi đây. Có những câu ca dao mà nội dung chỉ là
kể về những món ăn tuy rất dân dã, rất bình dị nhưng chứa chan một niềm tự
hào của người dân miền sông nước, đồng thời thể hiện nét văn hóa rất đặc
trưng mang đậm chất Nam bộ.

Chúng ta thử thưởng thức món “cá trê rau đắng” có từ thời Nam kỳ lục tỉnh:
Rau đắng nấu với cá trê
Ai đến lục tỉnh thì mê không về.
Cùng với các loại rau dại khác như: rau má, rau trai, rau ngót thì rau đắng
là một trong các loại rau có rất nhiều ở vùng quê Nam bộ. Người dân Nam
bộ chẳng cần tìm cho nó một cái tên hoa mỹ nào mà nhằm ngay vào bản chất
của nó mà gọi: rau đắng (vì đây là loại rau có vị rất đắng người không quen
sẽ không ăn được). Còn cá trê là một trong những loại cá đồng có rất nhiều ở
Nam Bộ đặc biệt là miền Tây sông nước Cửu Long. Về món canh “hỗn hợp”
“rau đắng – cá trê” phải công nhận rằng không chê vào đâu được.
Một món ăn khác cũng được tìm thấy trong ca dao Nam bộ mà có lẽ chỉ
những người dân có thâm niên sống ở miền Tây mới biết. Đó là
Canh chua điên điển cá linh
Ăn chỉ một mình thì chẳng biết ngon
Bông điên điển là loại bông giống như bông so đũa nhưng nhỏ hơn và có
màu vàng thường mọc dọc theo những kênh rạch. Theo như người xưa kể lại
đây là món ăn rất dân dã nhưng không thua bất kỳ một món “cao lương mỹ
vị nào”. Cá linh và bông điên điển tuy một là động vật, một là thực vật
nhưng có lẽ do “hữu duyên” nên chỉ đến mùa nước nổi miền Tây chúng mới
xuất hiện cùng nhau. Chiều quê miền Tây mưa rả rích trên mâm cơm có
được tô “canh chua điên điển cá linh” bốc khói có lẽ ăn hoài cũng chẳng
biết no!
Ca dao Nam bộ cũng kể lại có một bà mẹ nào đó chỉ vì một món ăn rất dân
dã mà mong được gả con gái mình về xứ sở miệt vườn, sông nước? Hay có
khi đây chỉ là cách nói chọc ghẹo xa gần của cô gái nào đó với chàng trai
“miệt vườn” cũng không chừng:
“Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hườn nấu canh”
Kể về những món ăn dân dã ở Nam bộ mà quên đi món “bông súng – cá
kho” thì thật là thiếu sót vô cùng. Bông súng là loại thực vật sống ở vùng

đầm lầy có nhiều nhất là ở vùng Đồng Tháp Mười. Bông súng có hai loại,
một loại hoa màu trắng, một loại hoa màu tím. Người dân thôn quê miền
Tây ăn uống rất giản dị, bông súng có sẵn ngoài đầm cứ thế mà hái vào; cá
có sẵn trong ao cứ thế mà bắt lên. Giản dị nhưng mà cũng rất đậm đà, người
dân Đồng Tháp Mười rất tự hào về xứ sở mình:
Muốn ăn bông súng cá kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm.
Và nếu như thật “đã thèm”với món “bông súng cá kho” thì hãy thưởng thức
tiếp một món ăn cũng bình dị và đậm đà không kém:
Kèo nèo mà lại làm chua
Ăn với cá rán chẳng thua món nào.
Kèo nèo (hay còn gọi là “cù nèo” theo cách phát âm của một số người dân
miền Tây) đó là một loại rau cọng xộp có rất nhiều ở miệt vườn sông nước
Nam bộ. Thường thì không cần phải làm chua, kèo nèo ăn cũng rất ngon vì
có thể dùng nấu canh chua hoặc ăn sống chấm với nước cá kho. Tuy nhiên
theo cách nói của người xưa trong câu ca dao trên thì có lẽ kèo nèo làm chua
ăn với cá rán (cá chiên) thì là ngon nhất.
Tới miền Tây mà không nhậu cá lóc nướng trui thì coi như chưa tới, người
dân miệt vườn sông nước vốn rất hiếu khách, sẵn sàng:
Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa
Cá lóc nướng trui ở miền Tây là một món ăn có cách chế biến rất giản dị
nhưng cũng rất độc đáo. Người miền Tây có khi nướng trui cá lóc ngay lúc
làm đồng, lúc vừa mới bắt được. Từ họng con cá lóc người ta xỏ vào một
thanh tre sau đó cấm đầu còn lại của thanh tre ấy xuống đất. Tiếp theo là
dùng rơm khô có sẵn ngoài đồng ruộng chất lên và đốt. Cá lóc nướng như
thế này chín rất đều, thịt cá vừa tươi vừa ngọt lại thơm mùi rơm khô, nếu có
thêm xị rượu trắng (rượu đế), tí hạt muối ngồi nhâm nhi với vài ba chiến hữu
thì có lẽ đến Thượng đế cũng phải thèm.
Người dân Nam bộ từ lâu đã rất tự hào về sự giàu có bởi những sản vật mà

thiên nhiên đã ban tặng cho xứ sở mình. Vì thế “dân nhậu” miệt vườn miền
Tây nhiều khi cũng rất “kén chọn”:
Cần chi cá lóc, cá trê
Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều.
Quả thật, đến miền Tây ăn nhậu ngoài món cá lóc nướng trui ra phải công
nhận còn món nào ngon bằng chuột nướng, rắn hầm sả hay rắn xào lá cách
Cuối cùng, một món ăn có thể nói đối với người Nam bộ xưa là dân dã
nhưng với chúng ta ngày nay đã trở thành đặc sản vì không phải ai cũng dễ
dàng thưởng thức được:
Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen
Rõ ràng, với chúng ta ngày nay, canh bông bí, chè hạt sen thì có thể còn tìm
được nhưng cháo le le thì không đơn giản chút nào.
***
Qua việc tìm hiểu những món ăn dân dã được người dân Nam bộ xưa hát lên
bằng những lời ca, câu hò, điệu lý cho chúng ta thấy được nét đẹp văn hóa
trong suy nghĩ và ứng xử của những con người ở vùng quê sông nước nơi
đây. Đó là nét đẹp rất đời thường nhưng cũng chính là cái hồn của dân tộc,
của quê hương.
Người dân thôn quê hát lên những câu ca ấy cũng chính là cất lên tiếng nói
tâm tình nhằm bày tỏ niềm tự hào về sự phong phú của những sản vật mà
thiên nhiên đã ban tặng cũng như nói lên sự gắn bó của họ đối với quê
hương xứ sở.
Những món ăn dân dã cũng nói lên một điều người dân thôn quê có một
cuộc sống vô cùng giản dị. Họ biết tận dụng những thứ có sẵn ở xứ sở mình
chứ không xa hoa phung phí. Những món ăn của họ là những loại rau, củ,
cây, trái có sẵn quanh nhà và rất rẻ tiền. Chân thật và đầy tự hào họ nói về
điều đó một cách rất tự nhiên:
Má ơi, đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ.

Hay:
Má ơi, đừng đánh con hoài
Để con kho cá bằm xoài má ăn.
II.ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA ẨM THỰC SÀI GÒN
Văn hóa ẩm thực Sài Gòn được ví như một nồi lẩu thập cẩm, nơi hội tụ và
giao thoa nhiều luồng văn hóa Đông-Tây, cổ xưa và hiện đại
Sài Gòn trong tâm thức của những khách ẩm thực vẫn được mệnh danh là
thành phố không “đêm”. Bởi lẽ, từ sáng tinh mơ cho đến tối muộn, vẫn một
cuộc sống nhộn nhịp, rộn rã những thanh âm, người mua, kẻ bán… Cái tuổi
300, cái tuổi không già bởi “thành phố tôi rất trẻ”. Trẻ trung trong diện mạo,
trẻ trong sự năng động và phát triển nhanh chóng của một thành phố công
nghiệp và “trẻ” trong việc tiếp biến văn hóa ẩm thực cổ-kim, Đông-Tây.
Không ít khách thập phương đổ về Sài gòn để hòa vào nhịp sống “không
biết mệt mỏi” của xứ sở này. Một nét riêng, hào phóng, sôi động và lộng lẫy
khác hẳn với sự trầm tư, thanh tao, nho nhã và cổ kính của người Bắc hay
cái dặt dè, chu đáo, lo xa của người miền Trung. Sài Gòn kiêu hãnh là thế
Nói là ẩm thực Sài Gòn có lẽ là chưa đủ mà phải gọi cho ra, cho đúng cái tên
ẩm thực Sài Gòn-Nam Bộ, bởi Sài Gòn là tâm điểm của toàn vùng Nam Bộ
và là ngã ba đường của Bắc-Nam -Đông –Tây. Mà Bắc ở đây bao gồm cả
miền Bắc và miền Trung, Đông là vùng Đông Nam bộ, Tây là Tây Nam bộ
và cũng là chỉ phương Tây- luồng văn hóa mới thổi hồn vào văn hóa Sài
Gòn nói chung và văn hóa ẩm thực Sài Gòn nói riêng
Hòn ngọc Viễn Đông ấy là nơi tiếp biến của văn hóa ẩm thực Trung Quốc,
Ấn, Pháp, Mỹ, Nhật, Úc….và nhiều, nhiều những vùng quốc gia, lãnh thổ từ
thế kỷ 18 đến nay. Khách trong nước hay ngoài nước, khi tìm đến Sài Gòn
đều có thể thõa mãn hương vị ẩm thực của mình bởi ở xứ sở giàu có này,
không có gì là không tìm thấy. Từ khu phố của người Tây, người Hoa hay
người Việt, đâu đâu cũng có thể gọi cho mình các món ngon của người Hoa,
Ấn, Nhật, Tây Ban Nha hay các món Pháp nổi tiếng, xúc xích Đức,
humburger Mỹ, nhiều món ăn truyền thống của người Nga và say xưa hương

vị thịt nướng của Tiệp khắc với đủ các loại rượu bia nổi tiếng nhất.
Sài Gòn đã mở lòng mình ra mà giao lưu tiếp biến những tinh hoa văn hóa
ẩm thực của mọi miền, mọi quốc gia trên thế giới, không như cách mà
những người ít tìm hiểu về văn hóa của người Sài Gòn vô tình nói “Văn hóa
Sài Gòn lai căng”. Sự mở rộng đó không làm mất đi cái truyền thống văn
hóa lâu đời của người Việt Nam. Bởi đâu đó, ở những khu phố Tây, bạn sẽ
thấy cảnh những người Mỹ, người Anh cầm đũa ngồi ăn phở bò Hà Nội mà
trầm trồ khen món quà đất bắc ấy hay vài anh bạn Hoa muốn tìm hiểu nét Cố
Đô giữa lòng Sài Gòn mà thưởng thức Bánh khoái, bún bò Huế. Và những
món như nem tré Huế, mì Quảng, cao lầu Hội An, canh chua, canh cá tộ, cá
lóc, lẩu mắm Châu Đốc của người Nam Bộ, hủ tiếu đất Mỹ Tho, nấm tràm
Phú Quốc dần trở thành quà của khách mời nhau thưởng ngoạn
Ẩm thực Sài Gòn đa dạng và phong phú là thế. Người đến Sài Gòn thuộc
lòng những tên những con phố ăn uống, những con đường, những quán xá
với hàng trăm món ăn độc đáo. Và sẽ là không quá đáng khi tặng cho miền
đất hoa lệ ấy cái tên “Xứ sở vàng của ẩm thực Việt Nam”. Du khách có dịp
thăm thú thành phố này, hãy kiên tâm thưởng thức ẩm thực ở đây sẽ thấy
không mảnh đất nào trên dải đất Việt Nam hội tụ nhiều nền văn hóa ẩm thực
đến thế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Bằng, Mai Khôi, Thượng Hồng. Văn hóa ẩm thực Việt Nam, các
món ăn Miền Nam-H: NXB Thanh Niên, 2002
2. Trần Đức Tuyên. Gia vị Việt Nam, tạp chí Văn hóa nghệ thuật ăn
uống, 2004, số 111, tr 22
3. Phạm Hương Trà. Văn hóa ẩm thực- yếu tố quan trọng trong đời sống
xã hội, Văn hóa nghệ thuật ăn uống, 2005, số 144, tr 16-17
4. Các trang web:
- vietbao.vn
- vnexpress.vn
- vietnamnet.vn

-

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×