Câu 1: Phân tích các mục tiêu của việc DH Tiếng Việt hiện nay ở Tiểu học để
chỉ ra vai trị quan trọng của việc nghiên cứu Ngơn ngữ học trong nhà trường?
Việc nghiên cứu của Ngôn ngữ học ở cả 2 trạng thái tĩnh và động có vai trị như
thế nào đối với việc đổi mới dạy Tiếng Việt ở Tiểu học theo quan điểm giao tiếp
hiện nay?
Trả lời
Ngôn ngữ - tiếng Việt (tiếng mẹ đẻ) là phương tiện giao tiếp quan trọng trong
đời sống con người. Kiến thức về Ngôn ngữ học được giảng dạy trong nhà
trường từ cấp tiểuhọc đến bậc đại học như một môn học độc lập.
- Trong nhà trường tiểu học, mục đích mơn Tiếng Việt là phương tiện, công cụ
HS học tập, tư duy và giao tiếp của học sinh. Mục tiêu của môn Tiếng Việt là:
+ Cung cấp những kiến thức về tiếng Việt. Vận dụng sáng tạo thành tựu của
Ngữ âm học Tiếng Việt, Từ vựng học tiếng Việt, Ngữ pháp học tiếng Việt và
cách học tiếngViệt có chọn lọc để HS hiểu và s dụng tiếng Việt đạt hiêu quả cao
nhất.
+ Rèn luyện và nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt ở 4 phương diện: nghe đọc - nói- viết. HS hiểu và thực hiện nhuần nhuyễn chức năng giao tiếp của
ngôn ngữ. Nghĩa là dạy và học tiếng Việt nhằm giúp HS sử dụng TV có hiệu
quả trong hoạt động giao tiếp đa dạng,phong phú trong xã hội.
+ Rèn luyện và nâng cao năng lực thẩm mĩ cho HS. Ngôn ngữ là yếu tố thứ
nhất của văn học, nên học tiếng Việt giúp HS cảm thụ và chiếm lĩnh các tác
phẩm văn học, bồi dưỡng HS năng lực thẩm định văn chương, nâng cao tình
cảm yêu quý tiếng mẹ đẻ và văn học dân tộc.
+ Dạy tiếng Việt trong nhà trường còn rèn luyện năng lực tư duy cho HS.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, gắn liền quá trình nhận thức và tư duy của con
người.
+ Dạy tiếng Việt nhằm giúp HS sử dụng tiếng Việt tốt trong cuộc sống, học tập
vàgiao tiếp xã hội. Vì vậy, dạy học theo quan điểm giao tiếp trở thành một
nguyên tắc chủ đạo trong đổi mới DH tiếng Việt hiện nay và là một nội dung
trong Ngữ dụng học. Theo quan điểm này, tiếng Việt tiểu học tăng cường dạy
HS sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, xây dựng hệ thống bài tập tiếng Việt
hướng HS kĩ năng tạo lời nói vầ hiểu lời nói.
Ngôn ngữ học là khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ lồi người bao gồm
ngơn ngữ với tư cách là phương tiện giao tiếp chung và ngôn ngữ riêng của một
công đồng. Ngôn ngữ tồn tại 2 trạng thái: trạng thái tĩnh và trang thái động.
- Ngôn ngữ ở trạng thái tĩnh: Ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các đơn vị
ngôn ngữ, các quan hệ cùng các quy tắc kết hợp. Ngôn ngữ là tài sản chung của
một xã hội, là kết quả của sự quy ước của cả cộng đồng ngôn ngữ. Mỗi cá nhân
sử dụng theo cách riêng của mình trong tình huống giao tiếp cụ thể
- Ngôn ngữ ở trạng thái động: Là ngôn ngữ được sử dụng trong hoạt động hành
chức, thực hiện chức năng giao tiếp. Ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp tồn
tại ở dạng động nên nó chịu sự chi phối nhiều yếu tố bên ngoài như: hoàn cảnh,
nội dung, mục đích,nhân vật thời gian, khơng gian giao tiếp... và có sự biến đổi,
chuyển hóa so với chúng ở dạng tĩnh.
Ngôn ngữ vừa tồn tại trong trạng thái tĩnh như một hệ thống – kết cấu tiềm ẩn
trong năng lực ngơn ngữ của mỗi người, đồng thời nó cần phải hoạt động để
thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ vừa là
phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ giao tiếp nên dạy tiếng Việt tiểu
học là gắn với bản chất và chức năng của ngôn ngữ.Việc nghiên cứu ngôn ngữ ở
trạng thái động và trạng thái tĩnh có vai trị quan trọng trong nghiên cứu và
giảng dạy Tiếng Việt thể hiện ở:
-Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là môn học
dạy HS công cụ, phương tiện để các em giao tiếp, học tập và tư duy hàng
ngày.Tiếng Việt là môn học độc lập chiếm thời lượng nhiều nhất trong chương
trình Tiểu học với nhiệm vụ cung cấp tri thức tiếng Việt góp phần phát triển xã
hội và phát triển ngôn ngữ. HS tiểu học nắm được hệ thống các đơn vị tiếng Việt
và quy tắc của chung giúp các em tạo ra những sản phẩm giao tiếp đa dạng
phong phú góp phần đắc lực trong sự phát triển ngôn ngữ và tư duy ở các em.
-Dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp là nguyên tắc phổ biến hiện nay ở
bậc tiểu học nhằm chỉ rõ chức năng giao tiếp của ngôn ngữ trong xã hội. Theo
quan điểm này là dạy học hướng vào việc phân tích q trình tạo lời nói và lĩnh
hội lời nói, phân tích các yếu tố liên quan đến tạo lời nói. Mục đích cuối cùng
học sinh sử dụng thuần thục 4 kĩ năng nghe– nói – đọc – viết tiếng Việt.
Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt tiểu học thể hiện trong nội dung và
DH bộ mơn.
+Về nội dung: Đó là kiến thức về tiếng Việt nói chung bao gồm hệ thống các
đơn vị tiếng Việt và quy tắc sử dụng tiếng Việt, ngôn ngữ trong hoạt động hành
chức, các nhân tố trong hoạt động giao tiếp.Đặc biệt, quan điểm giao tiếp trong
dạy học tiếng Việt còn chú trọng đến cách sử dụng từ, câu trong giao tiếp. Các
kĩ năng này thuộc về 2 quá trình của hoạt động giao tiếp là:
*Một là kĩ năng sản sinh ngôn bản dạng nói (phát âm, ngữ điệu, s dụng từ
ngữ, nghi thức lời nói…) và dạng viết (dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, viết văn
bản…).
*Hai là kĩ năng tiếp nhận và lĩnh hội văn bản chính là rèn kĩ năng đọc – hiểu
văn bản, nghe và hiểu nội dung câu nói/bài nói
+Về phương pháp dạy – học:
*Khi dạy – học cần đặt ngơn ngữ và các yếu tố của nó trong hoạt động giao
tiếp. Trong dạy tiếng Việt vừa chú ý kiến thức về tiếng Việt vừa chú ý đến sử
dụng kiến thức đó trong hoạt động giao tiếp và chỉ ra giá trị, hiệu quả của nó
trong hoạt động giao tiếp.
*Quán triệt quan điểm giao tiếp, sau khi dạy lí thuyết về tiếng Việt (từ ngữ,
ngữ pháp) cần củng cố, mở rộng bằng các bài tập thực hành phong ph , đa dạng,
đưa kiến thức vừa học vào tình huống giao tiếp mới nhằm củng cố khắc sâu kiến
thức cho các em, đồng thời rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt hướng học sinh
vào các hoạt động sản sinh ngôn bản hay tiếp nhận ngôn bản.
*Tăng cường hoạt động luyện tập – thực hành tiếng việt là yếu tố vận dụng
có hiệu quả quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt. “
- Dạy tiếng Việt ở trường tiểu học cần chú ý nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn
liềnvới rèn luyện tư duy. Dạy tiếng Việt chú trọng rèn luyện các thao tác của tư
duy như phân tích, tổng hợp, so sánh…phát triển HS tư duy lơ gic và các phẩm
chất của tư duy (cụ thể,trừu tượng, ghi nhớ, suy luận, phán đoán…). Dạy tiếng
Việt cho học sinh là phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn từ, dạy nghĩa từ, dạy cách
sử dụng từ không tách rời việc rèn luyện tư duy ở các em.
Câu 2:
14.Quan điểm giao tiếp trong việc dạy – học ngôn ngữ (TV) xuất phát từ đặc
trưng bản chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng. Vì ngơn ngữ là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người, có chức năng cơ bản nhất là chức
năng giao tiếp. Ngôn ngữ vừa tồn tại trong trạng thái tĩnh như một hệ thống –
kết cấu tiềm ẩn trong năng lực ngôn ngữ của mỗi người, đồng thời nó cần phải
hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn
ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp. Dạy
học ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp chính là dạy về phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của con người.
Quan điểm giao tiếp cũng phù hợp với mục tiêu của môn học: mơn ngơn ngữ nói
chung và phân mơn TV nói riêng khơng phải chỉ có mục đích trang bị kiến thức
khoa học về ngôn ngữ, về TV cho HS, mà điều quan trọng là rèn luyện và nâng
cao năng lực sử dụng TV trong các hoạt động tư duy, giao tiếp. Ngay trong lĩnh
vực kiến thức thì mơn ngơn ngữ cũng khơng phải chỉ cung cấp những kiến thức
có tính chất lí thuyết về cơ cấu tổ chức, về hệ thống ngôn ngữ, về nguồn gốc và
sự phát triển lịch sử, về loại hình các ngơn ngữ … mà cịn khơng thể thiếu được
những hiểu biết về quy tắc sử dụng, về các thao tác và kĩ năng sử dụng ngôn
ngữ. Do đó, quan điểm giao tiếp rất phù hợp với mục tiêu của môn học.
Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương
pháp dạy học. Về nội dung, phân môn TV tạo ra những mơi trường giao tiếp có
chọn lọc để HS mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị những tri thức nền và
phát triển các kĩ năng sử dụng TV trong giao tiếp. Về phương pháp dạy học, các
kĩ năng được hình thành thơng qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp
với những tình huống giao tiếp tự nhiên.
Dạy học TV theo quan điểm giao tiếp thực chất là dạy học vì mục đích giao tiếp.
Dạy về giao tiếp và dạy trong giao tiếp.
15.Cơ sở và những yêu cầu phát triển tư duy cho học sinh qua môn tiếng Việt:
-Ngơn ngữ và tư duy ln có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ. Thực tế cho
thấy trẻ em có kĩ năng giao tiếp bằng ngơn ngữ thì những năng lực, phẩm chất tư
duy của các em cũng được thể hiện rõ. Ngược lại, trẻ em khơng có ngơn ngữ
hoặc khả năng ngơn ngữ kém thì năng lực tư duy cũng hạn chế. Tuy vậy, cần
nhận thức rằng, ngôn ngữ và tư duy thống nhất chứ không đồng nhất.
-Mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và tư duy cho thấy mơn Tiếng Việt có
nhiều lợi thế trong việc rèn luyện và phát triển tư duy cho học sinh vì vậy phải
thường xuyên luyện tập cho học sinh khả năng diễn đạt tư tưởng của mình bằng
nhiều hình thức ngơn ngữ khác nhau. Lời nói cần có nội dung, trong dạy học
tiếng có thể đi từ tư duy đến ngôn ngữ hoặc ngược lại (giải nghĩa từ là đi từ
ngôn ngữ đến tư duy; viết câu, dựng đoạn là đi từ tư duy đến ngôn ngữ).Phương
pháp dạy học tiếng không dựa vào sự phát triển tương hỗ giữa lời nói và tư duy
thì đó là phương pháp sai lầm vì vậy cần tuân thủ nguyên tắc phát triển tư duy
cho học sinh với những yêu cầu:
+ Phải chú ý rèn luyện các thao tác và phẩm chất tư duy trong giờ dạy tiếng
cho các em;
+ Phải làm cho học sinh thông hiểu được ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ
+ Phải tạo điều kiện cho học sinh nắm được nội dung các vấn đề cần nói cần
viết và biết thể hiện nội dung này bằng các phương tiện ngôn ngữ.
-Phát triển tư duy cho học sinh qua dạy học Tiếng Việt cần đặc biệt quan tâm
đến việc rèn luyện các thao tác tư duy lơgich, hình thành các phẩm chất tư duy,
góp phần hình thành tư duy hình tượng cho các em.
+ Ngơn ngữ là phương tiện của nhận thức lơgích, lí tính nên chúng ta phải
rèn luyện các thao tác tư duy lơgích cho học sinh. Chính trong các đơn vị và các
dạng thức ngơn ngữ có sự khái qt hố, trừu tượng hố.
VD:khi chúng ta nói “danh từ” nghĩa là khơng phải nói đến một danh từ cụ
thể nào cả mà nói đến tất cả các danh từ trong sự đối chiếu với động từ, tính từ.
Để rèn luyện tư duy lơgích cho học sinh, phải đặc biệt quan tâm những lỗi về
câu do diễn đạt thiếu lơgích
VD: “Mắt đăm đăm nhìn ra cửa bể, ta thấy Kiều nghĩ tới tương lai tối tăm, mù
mịt của mình”
“Anh Hai bị thương hai vết, một vết ở đùi và một vết ở Khe Sanh”
“Nước giếng này rất trong, pha trà rất ngon mà lại gần nhà”
=>Đây là những trường hợp không tương hợp về ý giữa các thành phần câu
+ Ngoài việc rèn luyện thao tác tư duy lơgích cho học sinh, trong giờ Tiếng
Việt, chúng ta cần hình thành và phát triển các phẩm chất tư duy cho các em.
Muốn vậy, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh nắm được các vấn đề cần
nói và viết, biết thể hiện nội dung các vấn đề đó bằng các phương tiện ngơn ngữ
khác nhau.Cần xây dựng các đề bài kiểm tra phù hợp với trình độ tư duy của học
sinh. Ngồi ra, cần rèn cho học sinh nói/viết từ một ý bằng nhiều cách khác
nhau, cần biết sử dụng các dạng ngôn ngữ nói/viết cho phù hợp với hồn cảnh
giao tiếp.
+ Mơn Tiếng Việt cũng có nhiều lợi thế để hình thành tư duy hình tượng
cho học sinh vì chữ viết được xem là một biểu tượng. Học chữ là một trong
những con đường để hình thành biểu tượng. Việc tích hợp dạy Văn qua môn
Tiếng Việt được xem là một biện pháp để hình thành và phát triển tư duy hình
tượng văn học cho các em.
3.Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp, được con người hay động vật sử dụng để
liên lạc hay giao tiếp với nhau, cũng như chỉ chính năng lực của con người có
khả năng sử dụng một hệ thống như vậy.Ngơn ngữ do cá nhân tiến hành có thể
có những xu hướng, mục đích khác nhau nhằm truyền đạt một thông báo mới,
những tri thức mới, giải quyết một nhiệm vụ tư duy mới...Ngôn ngữ của mỗi cá
nhân phát triển cùng với năng lực nhận thức của cá nhân đó và bao giờ cũng
mang dấu ấn của những đặc điểm tâm lý riêng. Song ngôn ngữ của mỗi cá nhân
không chỉ phản ánh nghĩa của các từ mà còn phản ánh cả thái độ của bản thân
đối với đối tượng của ngơn ngữ và đối với người đang giao tiếp.Vì thế ngơn ngữ
đặc trưng cho từng người.Nhưng đó chỉ là những biến thể của ngơn ngữ tồn
dân,là cái riêng trong quan hệ với cái chung có tính quy luật .Nếu khơng có
ngơn ngữ chung để thống nhất thì ta khơng thể giao tiếp với nhau được, nếu
khơng có ngơn ngữ chung thì khơng có lời nói cá nhân và như thế con người sẽ
không thể giao tiếp nhằm trao đổi thơng tin, tình cảm… để xây dựng một cộng
đồng, một quốc gia vững mạnh.
Vậy nên quan điểm của Sakhomanop là quan điểm sai lầm
Câu 4: Hãy tóm tắt nội dung giả thuyết về nguồn gốc Môn – Khmer của tiếng
Việt. Việc tìm hiểu nguồn gốc của tiếng Việt theo giả thuyết này có những mặt
mạnh nào?
Trả lời
Dựa vào những cứ liệu mới ,nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và ngôn ngữ đã đưa ra
1 giả thuyết có nhiều sức thuyết phục:Tiếng Việt bắt nguồn từ một ngữ hệ lớn
sinh thành trong khung cảnh Đông Nam Á tiền sử mà địa bàn của nó là bao trùm
cả một vùng rộng lớn ,từ bờ sông Dương Tử cho tới vùng Atsam ,vùng núi cao
nguyên này thuộc về đất Thái Lan ,Lào,Việt Nam,Campuchia,…về phía nam thì
lan tỏa tới các bán đảo và đảo giáp Châu Đại Dương .Trong nhiều thiên niên
kỉ ,qua sự tiếp xúc với các ngơn ngữ thuộc loại hình khác ,ngữ hệ nà đã phân
chia thành một số dịng,trong đó có dịng Mơn-Khomer phân bố ở Nam Đơng
Dương và phụ cận ở vùng núi Bắc Đông Dương .Hai ngôn ngữ Mơn và khomer
được nêu làm tiểu biểu cho dịng vì hai ngơn ngữ đó sớm có chữ viết ,những tộc
người nói hai ngơn ngữ này đã xây dựng những nền văn hóa khá phát
triển .Tiếng Việt từ chỗ là một ngơn ngữ thuộc dịng Mơn –Khomer đã chuyển
thành Chi Việt Mường chung hoặc Tiếng Việt cổ và cuối cùng tách thành Tiếng
Việt và Tiếng Mường .Qúa trình chuyển biển đã để lại nhiều dấu vết có thể khảo
sát qua việc được đối chiếu ,so sánh tiếng việt với Tiếng Mường ,tiếng Tày –thái
,Khomer.
Cơ sở từ vựng học liên kết tiếng Việt với tiếng Môn-Khme gồm vốn từ vựng cơ
bản chung chung về mặt ngữ nghĩa, và điều quan trọng là đó chính là vốn từ
vựng liên kết giữa các ngôn ngữ khác với các tiểu nhánh của các ngôn ngữ
Môn-Khme.Các ngôn ngữ Môn-Khme khác bắt nguồn từ bốn tiểu nhánh khác
nhau của Môn-Khme và bao phủ phạm vi địa lý rộng lớn, song tất cả đều có các
từ ngun Mơn-Khme rất phổ biến này, một thực tế củng cố thêm việc gộp tiếng
Việt vào họ Môn-Khme và làm suy yếu khả năng của một tình huống vay mượn
nhiều về ngơn ngữ.Chất lượng của vốn từ vựng cơ bản Môn-Khme trong tiếng
Việt cũng cao. Ví dụ, ngược với từ có thể là vay mượn từ tiếng Tai gà[chicken],
hay công[peacock] từ tiếng Môn-Khme, chúng ta sẽ thấy từ ít tiêu biểu nhất về
mặt ngữ nghĩa, và phổ thông hơn là từ chim[bird]. Trong số các từ có gốc MơnKhme trong tiếng Việt, chúng ta cũng sẽ thấy các từ chỉ con vật thực sự cơ bản
như từ chó[dog],cá[fish],và đối ngược với những chủng loại cụ thể hơn của các
động vật này. nguồn gốc Môn-Khme của tiếng Việt. Thứ nhất, tiếng Việt có
bằngchứng cả về các nhóm đầu từ và các tiếp đầu ngữ hay trung tố, mà một số
tương ứng với các hình thể ngôn ngữ Môn-Khme. Những bằng chứng như vậy
gần như bị thất thốt trong q trình đơn âm hố. Thứ hai, các mơ hình của các
từ láy, trong đó một âm tiết đơn nhất đượclặp lại một phần nhưng thường với
một âm thay đổi, là một khía cạnh gợi ra sự giống nhau về chữ viết với các ngôn
ngữ Môn-Khme.Ngôn ngữ Môn-Khme khác bắt nguồn từ bốn tiểu nhánh khác
nhau của Môn-Khme và bao phủ phạm vi địa lý rộng lớn, song tất cả đều có các
từ ngun Mơn-Khme rất phổ biến này, một thực tế củng cố thêm việc gộp tiếng
Việt vào họ Môn-Khme và làm suy yếu khả năng của một tình huống vay mượn
nhiều về ngơn ngữ.
Những tương ứng về âm vị giữa Môn –khome với Tiếng Việt cung cấp không
chỉ bằng chứng để liên kết tiếng Việt với tiếng Mơn-Khme mà cịn là một
phương tiện để phục nguyên tiếng Việt ở các giai đoạn cách đây vài thế kỷ và
sớm hơn nữa. Một số tiếp đầu ngữ sơ khai của tiếng Mơn-Khme cũng có thể
được phục ngun trong tiếng Việt.
Câu 5: Chứng minh chữ Quốc ngữ đóng vai trò quan trọng để xây dựng một nền
văn học Việt Nam mới đậm đà bản sắc dân tộc.
Trả lời
‘Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước". Một dân tộc hồn cốt mạnh sẽ có thể hiên
ngang sánh vai cùng các dân tộc tiên tiến trên thế giới.
Việc sử dụng chữ Quốc ngữ đã tạo điều kiện hình thành tầng lớp trí thức mới,
với đại diện đầu tiên là những người tiếp thu tốt cả hai nền văn minh Đông và
Tây như Phan Châu Trinh.Ông đi đầu phong trào viết tiếng Việt, ra sức xây
dựng nền văn học Việt Nam độc lập tự chủ.Chữ Quốc ngữ cịn giúp nước ta
"Thốt Hán" về ngơn ngữ.Nước ta chính thức bắt đầu "Thốt chữ Hán" từ năm
1919. Chữ Quốc ngữ đã cứu dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Pháp đồng
hóa về ngơn ngữ. Thiết nghĩ đó là do thực dân Pháp thấy tiếng Việt và chữ Quốc
ngữ có năng lực diễn đạt được các tri thức hiện đại và do đó đáp ứng nhu cầu
khai hóa Việt Nam nên đã không buộc dân ta bỏ tiếng mẹ đẻ, chỉ dùng tiếng
Pháp – như chúng đã thực hành với nhiều thuộc địa ở châu Phi.Thử hỏi xem nếu
như :Nếu cho tới nay vẫn dùng chữ Hán hoặc Nơm thì đất nước ta sẽ như thế
nào? Rõ ràng chữ Quốc ngữ đã làm một cú hích lịch sử đưa dân tộc Việt Nam ra
khỏi vũng bùn lạc hậu, bước lên quỹ đạo phát triển sáng láng của nhân loại.
Ngôn ngữ là công cụ tư duy; chữ viết là công cụ ghi chép ngơn ngữ, tức ghi
chép tư duy. Khi chưa có chữ viết thì tư duy khơng được ghi lại, do đó khơng
được lưu trữ và giao lưu, kế thừa; vì thế trí tuệ bị kìm hãm khơng phát triển
được. Chữ Quốc ngữ gắn liền với tiếng Việt như hình với bóng có thể làm tốt
nhất chức năng ghi chép, trao đổi, kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc ta. Chữ
Hán tách rời tiếng Việt, và chữ Nơm khó hơn chữ Hán khơng làm được chức
năng đó. Học giả Phạm Quỳnh nói "chữ Quốc ngữ là cơng cụ kỳ diệu giải phóng
trí tuệ người Việt Nam".Do gắn liền với tiếng nói nên chữ Quốc ngữ có sức sống
mãnh liệt và luôn phát triển cùng tiếng Việt.
Chữ Quốc ngữ là công cụ tốt nhất để dịch các ngôn ngữ khác thành tiếng Việt,
nhờ thế dân tộc ta biết tới các thành quả tiến bộ xã hội của nhân loại.Lần đầu
tiên những tư tưởng tiên tiến như bình đẳng, tự do, dân chủ, nhân quyền… du
nhập đã thức tỉnh dân ta. "Hải ngoại Huyết thư" Phan Bội Châu viết bằng chữ
Hán được nhà Nho Lê Đại chuyển thành thơ Quốc ngữ với những câu kích động
lịng u nước như "Cờ độc lập xa trơng phấp phới, Kéo nhau ra địi lại nước
nhà" được đồng bào học thuộc lòng truyền đi khắp nơi đã khiến thực dân Pháp
hoảng sợ. Từ đó trở đi tất cả các phong trào chính trị đều dùng chữ Quốc ngữ để
truyền bá học thuyết, quan điểm của mình. -Chữ Quốc ngữ đã góp phần quyết
định nâng cao dân trí, qua đó thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng đất nước
khỏi ách thực dân phong kiến tiến tới thắng lợi cuối cùng.
Chữ Quốc ngữ có khả năng chuyển được kho tàng tri thức văn minh nhân loại
thành tiếng Việt, qua đó giúp dân ta thừa hưởng các thành tựu khoa học kỹ
thuật, khoa học xã hội-nhân văn và văn học nghệ thuật của thế giới, đẩy lùi các
quan điểm lạc hậu và nạn mê tín dị đoan, thực hiện hiện đại hóa xã hội.Trong
thế kỷ XX ,hầu hết tác phẩm lớn của văn học nước ngoài đã được người Việt
biết tới. Các thư tịch chữ Nho, Nôm của tổ tiên ta đều phải dịch ra Quốc ngữ thì
con cháu mới có thể đọc hiểu,cho tới nay nhiều thư tịch Hán Nôm đều đã được
chuyển ngữ thành Quốc ngữ, nhờ thế các thế hệ sau không bị đứt quãng với di
sản văn hóa cổ.
Chữ Quốc ngữ thuận tiện nhất dùng để viết văn, làm thơ… qua đó hình thành
nền văn học tiếng Việt của tồn dân, khơng như văn học Hán/Nôm chỉ do tầng
lớp trên độc quyền sở hữu. Năm 1887 Sài Gòn xuất bản tiểu thuyết chữ Quốc
ngữ "Thầy Lazaro Phiền" của Nguyễn Trọng Quản, đánh dấu sự ra đời văn học
tiểu thuyết tiếng Việt. Tại Hà Nội năm 1925 Hoàng Ngọc Phách cho ra mắt "Tố
Tâm", tiểu thuyết Quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc. Trong thế kỷ XX văn học
tiếng Việt phát triển như vũ bão, xuất hiện nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng. Chữ
Quốc ngữ đã góp phần quan trọng hình thành Thơ Mới, loại thơ không tuân theo
luật của thơ cổ.
Do giúp chuyển tải nhanh chóng các kiến thức thể hiện bằng chữ alphabet của
văn minh phương Tây, như tốn học, hóa học, vật lý học… nên chữ Quốc ngữ
trở thành bà đỡ cho sự ra đời ngành giáo dục toàn dân ở nước ta,cao trào học
chữ trong cả nước nở rộ nổi bật là Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội đã tạo sức
ép khiến chính quyền cai trị phải mở trường dạy chữ Quốc ngữ ở các tỉnh, hình
thành hệ thống giáo dục tồn dân.
Chữ Quốc ngữ góp phần quyết định sự ra đời ngành thông tin, truyền thông,
đầu tiên là báo chí, xuất bản.Ngành báo chí nhanh chóng phát triển, làm cho đời
sống tinh thần dân ta trong một thời gian ngắn có bước tiến chưa từng thấy theo
hướng dân chủ hóa. Báo chí trở thành nơi gây dựng phong trào viết tiếng
Việt,nước ta khó có thể phát triển được ngành xuất bản, bưu chính viễn thơng
nhanh đến vậy nếu không dùng chữ Quốc ngữ
Việc sử dụng chữ Quốc ngữ đã tạo điều kiện hình thành tầng lớp trí thức mới,
với đại diện đầu tiên là những người tiếp thu tốt cả hai nền văn minh Đông và
Tây như Phan Châu Trinh.Ông đi đầu phong trào viết tiếng Việt, ra sức xây
dựng nền văn học Việt Nam độc lập tự chủ.Chữ Quốc ngữ cịn giúp nước ta
"Thốt Hán" về ngơn ngữ.Nước ta chính thức bắt đầu "Thốt chữ Hán" từ năm
1919. Chữ Quốc ngữ đã cứu dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Pháp đồng
hóa về ngơn ngữ. Thiết nghĩ đó là do thực dân Pháp thấy tiếng Việt và chữ Quốc
ngữ có năng lực diễn đạt được các tri thức hiện đại và do đó đáp ứng nhu cầu
khai hóa Việt Nam nên đã khơng buộc dân ta bỏ tiếng mẹ đẻ, chỉ dùng tiếng
Pháp – như chúng đã thực hành với nhiều thuộc địa ở châu Phi.
Câu 6: a. Chọn 1 bài tập trắc nghiệm theo kiểu điền khuyết ở Tiểu học (bài tập
điền âm, điền vần trong Chính tả, điền từ trong Luyện từ và câu) và phân tích cơ
sở ngơn ngữ học của kiểu bài tập này.
b. Cho ví dụ: Xe bị lên dốc; Hổ mang bò vào rừng; Mẹ con đi chợ chiều mới về
- Phân tích cơ sở ngơn ngữ học của kiểu bài tập trên.
- Xác định các tình huống để giải mẫu bài tập đó.
Trả lời
Câu 7: Trong tiếng Việt, để xác định quan hệ ngữ pháp giữa các từ và chức
năng ngữ pháp của chúng, người ta thường căn cứ vào tiêu chuẩn nào? Tại sao?
Hãy lấy một vài dẫn chứng để phân tích và minh họa cho quan điểm của mình.
Trả lời
Trong tiếng Việt,để xác định quan hệ ngữ pháp giữa các từ và chức năng ngữ
pháp của chúng ,người ta thường căn cứ vào đặc trưng của Tiếng Việt:
-Đơn vị cơ sở của ngữ pháp Tiếng Việt:Về ngữ pháp, tiếng được xem là “đơn vị
cơ sở của cấu tạo ngữ pháp tiếng Việt” .Tiếng trong tiếng Việt là đơn vị dễ nhận
diện vì nó có cấu tạo bằng một âm tiết, mỗi một tiếng (âm tiết) được phát âm
tách rời nhau và được thể hiện bằng một chữ viết.
-Các phương thức ngữ pháp chủ yếu trong tiếng Việt:Tiếng Việt thuộc loại hình
ngơn ngữ đơn lập. Từ của tiếng Việt khơng biến đổi hình thái. Các phương thức
ngữ pháp bên ngoài từ chủ yếu trong tiếng Việt là: trật tự từ, hư từ và ngữ điệu.
a)Phương thức trật tự từ là sự sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định để biểu
thị các quan hệ cú pháp. Trong phần lớn trường hợp, sự thay đổi trật tự từ tiếng
Việt kéo theo sự thay đổi vai trò cú pháp của chúng trong cụm từ và câu.
Ví dụ:
- bàn năm ≠ năm bàn
- sân trước ≠ trước sân
- Nó đi đến trường ≠ Đến trường nó đi.
b)Phương thức hư từ cũng là phương thức ngữ pháp chủ yếu của tiếng Việt. Hư
từ khơng có chức năng định danh, khơng có khả năng độc lập làm thành phần
câu, dùng để biểu thị các quan hệ ngữ nghĩa - cú pháp khác nhau giữa các thực
từ.
Ví dụ:
-“anh của em” khác với “anh và em“, “anh vì em”;
-“Bây giờ mới 8 giờ” ≠ “Bây giờ đã 8 giờ”.
c)Phương thức ngữ điệu giữ vai trò trong việc biểu hiện quan hệ cú pháp
của các yếu tố trong câu, nhờ đó nhằm đưa ra nội dung muốn thông báo. Trên
văn bản, ngữ điệu thường được biểu hiện bằng dấu câu.
Ví dụ :Nhờ ngữ điệu mà các câu sau có sự khác nhau trong nội dung thông
báo
“Đêm hôm qua, cầu gãy”≠ “Đêm hôm, qua cầu gãy”
Câu 8: Ở các sách ngữ pháp tiếng Việt viết trước những năm 60, các tác giả
thường chủ yếu viết về phần hình thái học (cấu tạo từ và từ loại). Các sách tiếng
Việt ngày nay lại chú ý đến phần cú pháp (cụm từ và câu). Anh (chị) tán thành
cách viết nào? Tại sao?
Trả lời
Để giải thích sự thay đổi trong việc bố trí trọng tâm chương trình căn cứ vào
loại hình của tiếng Việt – loại hình ngơn ngữ đơn lập.
- Loại hình là tập hợp sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản
nào đó. Vậy, loại hình ngơn ngữ là một hệ thống trừu tượng những đặc trưng cơ
bản (phổ niệm) nào đó về cơ cấu của ngơn ngữ.
- Loại hình ngơn ngữ đơn lập:
+ Từ thường được tạo ra bằng căn tố nên khơng biến hình. Từ làm bất cứ chức
năng nào trong câu cũng vẫn có chung một hình thái như nhau.
+ Hình thái của từ đứng ở trong câu cũng như đứng biệt lập một mình.
+ Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng hư từ và
trật tự từ.
+ Đặc biệt, trong ngôn ngữ đơn lập, âm tiết được phân lập một cách rõ ràng: nói
thành từng tiếng một, viết thành từng chữ một (tính phân tiết).
Có thể thấy rằng, việc sách Tiếng Việt chú trọng nhiều hơn đến phần cú pháp
là vô cùng hợp lí. Bởi lẽ, loại hình ngơn ngữ đơn lập cũng bộc lộ nhiều điểm hạn
chế trong dạy học tiếng Việt vì âm tiết được phân lập một cách rõ ràng: nói
thành từng tiếng một, viết thành từng chữ một. Đơi khi, phương pháp này chỉ có
thể giải quyết duy nhất một vấn đề đặt ra. Còn khi chú trọng đến cú pháp, tức là
dựa trên lối tư duy loogic và xuất phát từ tính trọn vẹn của câu mà xác định
nịng cốt câu, tình huống của câu và tính đa nghĩa của từ, từ đó xác định các
thành phần chính của câu là chủ ngữ, vị ngữ và bổ ngữ. Nhờ vào dạng thức của
từ được thay đổi thế nào trong lời nói, ta có thể biết được các phạm trù ngữ pháp
cũng như chức năng ngữ pháp của nó trong câu. Sự kết hợp, sắp xếp trật tự trong
câu khiến lời nói tiếng Việt trở nên phong phú, đa dạng, mang nhiều ý nghĩa mà
không khô khan, ngược lại có thể áp dụng vào nhiều tình huống khác nhau. Vì
vậy, việc dạy học theo sách tiếng Việt ngày nay sẽ phù hợp hơn.
Câu 9: Phân tích khái niệm âm vị. Chỉ ra sự khác nhau và mối quan hệ giữa âm
vị và âm tố. Phân tích mối quan hệ giữa âm vị với chữ ghi âm vị. Từ đó chỉ ra
vai trò của mối quan hệ này trong việc dạy chính tả ở tiểu học.
Trả lời
-Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất được một cộng đồng ngôn ngữ sử dụng để
cấu tạo và phân biệt phần âm thanh của các đơn vị có nghĩa nhỏ nhất (hình vị,
từ).Tùy theo đặc điểm riêng của mình, mỗi dân tộc lựa chọn trong số lượng vô
hạn các âm tố trong chuỗi âm thanh lời nói để xác lập một số lượng hữu hạn các
âm vị với những nét chung về mặt cấu âm - âm học và về mặt chức năng biểu
đạt. Vì thế mỗi ngơn ngữ có một hệ thống âm vị riêng , khác nhau cả về mặt số
lượng âm vị cũng như về giá trị của từng âm vị. Thí dụ, trong tiếng Anh, có âm
vị "i" đối lập với âm vị "i dài (sit [sit] ( seat [si:t]). Trong khi ở tiếng Pháp, tiếng
Việt, hai âm ấy chỉ là hai cách phát âm khác nhau của cùng một âm vị /i/.
Tương tự, trong tiếng Việt có âm vị "tờ" (/t/), âm vị đờ" (/d/), nhưng trong tiếng
Hán, "tờ" và "đờ" chỉ là hai cách phát âm khác nhau của cùng một âm vị. Dù có
nói "đại đồn kết" hay "tại tồn kết" thì cũng chỉ có một nội dung biểu đạt.
Về đặc điểm cấu âm - âm học của từng âm vị, do mỗi dân tộc khi phát âm tiếng
nước mình, có thói quen sử dụng bộ máy phát âm riêng, thêm nữa, cấu tạo sinh
lí của bộ máy phát âm cũng có nét riêng, nên về nguyên tắc, rất hiếm khi một âm
vị của ngôn ngữ này có đặc trưng cấu âm - âm học giống hệt với một âm vị nào
đó của một ngơn ngữ khác.
-Âm vị là tổng thể các đặc trung khu biệt được thể hiện đồng thời ,có chức năng
phân biệt nghĩa và nhận diện từ.
Nét khu biệt còn được gọi là nét thỏa đáng âm vị học, và nét khơng khu biệt cịn
được gọi là nét không thỏa đáng âm vị học.
Giữa hai âm vị của một ngơn ngữ, có thể có một hoặc hơn một nét khu biệt. Thí
dụ:
Một nét khu biệt:
/m/ Phụ âm mũi, vang, môi-môi
/n / Phụ âm mũi, vang, đầu lưỡi-lợi
Nhiều nét khu biệt:
/m/ Phụ âm mũi, vang, môi-môi
/t / Phụ âm tắc, vô thanh, đầu lưỡi-lợi
Trong tiếng Việt, hai từ "má", "ná" khác nhau do một nét khu biệt (môi-môi /
đầu lưỡi-lợi); hai từ "mi", "ti" khác nhau do nhiều nét khu biệt (mũi / tắc; vang /
vô thanh; môi-môi / đầu lưỡi-lợi).
Do ảnh hưởng các âm tố kế cận mà một âm tố được phát ra thường cũng có kèm
theo một số đường nét cấu âm - âm học bổ sung, tạo ra một sự biến đổi ngữ âm
nhất định. Những đường nét cấu âm - âm học bổ sung này có tính bắt buộc, tất
yếu, có tác dụng phụ trợ cho chức năng khu biệt nghĩa, nhận diện từ của âm vị.
Phân biệt âm vị với âm tố:
-âm vị:+đơn vị trừu tượng thuộc bình diện ngơn ngữ ,đã được khái quát hóa từ
những âm tố cụ thể trong lời nói hàng ngày của người sử dụng ngơn ngữ
+nằm trong âm tố và được thể hiện qua âm tố,là đơn vị trừu tượng ,thuộc
ngôn ngữ
VD:âm vị /i/ được thể hiện qua âm tố{i} trong ‘im,tìm’
+nói đến âm vị là nói đến mặt xã hội
+chỉ bó hẹp trong một ngôn ngữ nhất định
+được ghi giữa 2 gạch xiên /k/
+được cảm nhận bằng tri giác
+được nhận biết một cách dễ dàng
+số lượng hữu hạn(có vài chục âm vị)
-âm tố :+đơn vị cụ thể thuộc bình diện lời nói tồn tại thực tế trong thế giới khách
quan
+gồm cả những đặc trưng khu biệt và không khu biệt
+nói đến âm tố là nói đến mặt tự nhiên của ngữ âm
+chung cho mọi ngôn ngữ
+được ghi giữa ngoặc vng/k/
+được cảm nhận bằng thính giác
+phải chú ý ngoặc trước nhưng cách phát âm phải đặc biệt mới nhận ra
được
+số lượng vô hạn
Mối quan hệ giữa âm tố và âm vị:
+Âm vị là một đơn vị trừu tượng còn âm tố là một đơn vị cụ thể.
+Âm vị được thể hiện ra bằng các âm tố và âm tố là sự thể hiện của âm vị.
+Những âm tố cùng thể hiện một âm vị được gọi là các biến thể của âm vị.
Mối quan hệ giữa âm vị và chữ ghi âm vị:Để ghi âm vị ,người ta quy ước dùng
dấu // đưa kí hiệu âm vị vào trong hai vạch nghiêng.VD:/i/ (phân biệt với [i])
Mỗi con chữ ghi một âm vị ,người ta không thể và không cần thiết ghi hết
những cách phát âm khác nhau của mỗi người trong mỗi hồn cảnh khác
nhau ,chính vì vậy chỉ có âm vị được phản ánh trong chữ viết chứ không phải
âm tố hay biến thể của âm vị.
Về chữ viết ,cần lưu ý là con chữ bao giờ cũng có một tên gọi riêng gắn với
âm vị mà nó phản ánh.Những chữ và âm là hai phạm trù khác nhau.Âm vị /b/
trong tiếng Việt ,tiếng Anh,tiếng Pháp được thể hiện về mặt âm vvij căn bản
giống nhau nhưng khi được phản ánh bằng chữ viết thì lại có tên gọi khác nhau .
VD:trong tiếng Việt ta có chữ ‘bê’ ,tiếng Nga ‘be’,..
Con chữ phản ánh âm vị nhưng mối quan hệ giữa chúng ít khi đạt được mức lí
tưởng là sự tương ứng 1:1.Một âm vị có khi được ghi bằng nhiều cách khác
nhau ngược lại một chữ cái có khi được phản ánh bằng nhiều âm vị
Câu 10: Chỉ ra cơ sở ngữ âm học của các quan điểm:
1. Hình thức âm tiết tiếng Việt cố định, có sự tương hợp cao giữa các thành phần
âm vị cấu tạo âm tiết với chữ viết. Mỗi thành phần chữ viết ghi một thành phần
ngữ âm và kết hợp theo trật tự thành một khối để biểu thị âm tiết.
2. Quy trình dạy tiếng Việt lớp 1 theo sách thực nghiệm (dạy cho người lớn) của
tác giả Nguyễn Thế Lịch khai thác kĩ các thể loại âm tiết và theo sơ đồ sau:
Âm tiết
Âm tiết khơng có
âm đệm
Âm
Âm
tiết
tiếttương hợp
1. Sự
hơi
qua mở
sơ đồ sau:
mở
Phụ
âm
đầu
Âm
tiết
giữa hơi
các
đóng
Thanh điệu
Vần
Âm
Âm
đệm chính
Âm tiết có âm
đệm
Trả lời
Âm
thànhtiết
phần
đóng
Âm
cuối
→
←
a. Cấu trúc ngữ âm âm tiết tiếng Việt
b. Chữ ghi âm tiết tiếng Việt
âm vị cấu
Âm
tiết
mở
tạo âm
Âm
tiết
tiếthơi
và
mở
chữ
Âm
Âm
tiết
tiết
hơi
đóng
viết thể hiện
đóng
Dấu ghi thanh
Chữ
Chữ ghi vần
phụ
Chữ
Chữ
Chữ
âm nguyên nguyên nguyên
âm
âm
âm và
phụ âm
Dấu ghi thanh
Sự tương ứng giữa các thành phần âm vị và chữ ghi âm vị trong thành phần cấu
trúc âm tiết tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy học tiếng Việt nói chung, nhất
là dạy đọc – viết ở lớp 1. Cấu trúc chữ ghi âm tiết chứa đựng tất cả các chữ
Latinh ghi âm vị tiếng Việt. Khơng có chữ cái nào vô can với chức năng biểu âm
(không có chữ cái câm trong ghi âm tiết như ở ngôn ngữ Ấn – Âu).
2. Cơ sở ngữ âm của giải pháp này là: Tác giả đã dựa vào sự phân loại cấu trúc
âm tiết tiếng Việt (nhất là cách phân loại dựa vào kết thúc âm tiết) để dạy đọc
chữ, viết chữ.
Câu 11: Muốn dạy trẻ biết đọc biết viết vì sao phải chọn đơn vị cơ bản là âm
tiết (tiếng)?:
Trả lời
- Do đặc trưng của tiếng Việt là một ngơn ngữ đơn lập, có tính phân tiết rõ ràng:
+ Ranh giới của các âm tiết tách bạch rõ ràng.
+ Mỗi âm tiết của tiếng Việt gắn với một thanh điệu và trùng với đơn vị nhỏ
nhất có nghĩa.
Đặc trưng của tiếng Việt được thể hiện trong âm tiết
- Xét về mặt cấu tạo: Âm tiết tiếng Việt có tính độc lập cao, tách bạch và rõ ràng
trong phát âm và chữ viết.
- Mỗi một phát ngôn tiếng Việt được coi là một chuỗi hạt mà mỗi âm tiết là một
hạt độc lập.
Như vậy, âm tiết là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, là cơ sở để tạo nên các thành tố
khác trong một câu hoàn chỉnh. Nhiều âm tiết tạo thành từ, từ tạo thành cụm từ
và câu. Như vậy, âm tiết chính là hạt nhân quan trọng có vai trị cấu tạo nên các
đơn vị cú pháp lớn hơn. Nếu không nắm chắc về âm tiết thì sẽ khơng thể tạo
thành cú pháp. Vì vậy, dạy âm tiết trong tiếng Việt là một nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu và trước tiên đối với HSTH.
Câu 13:
a. Các từ: ồn ã, ấm áp, ép uổng, êm ái, im ắng, ế ẩm, êm ả, ít ỏi, oằn oại, oi ả,
ốm o, yếu ớt, ấm ức,… có phải là từ láy khơng? Vì sao anh (chị) hiểu như vậy?
b. Các từ: cuống quýt, cập kềnh, cồng kềnh, cò kè, cót két, cọt kẹt,… có phải là
từ láy khơng? Vì sao anh (chị) lại hiểu như vậy?
Trả lời
12.Ồn ã,ấm áp,ép uổng,êm ái,im ắng,ế ẩm,êm ả,ít ỏi,oằn oại ,oi ả,ốm o, yếu ớt,
ấm ức,…đều là từ láy.Vì các từ trên đều giống nhau về hình thức ngữ âm :cùng
vắng khuyết phụ âm đầu ;đặc trưng ngữ nghĩa của những từ này rất gần với đặc
trưng ngữ nghĩa của từ láy(từ mất nghĩa thường đứng sau:ã,uổng,áp,…)
13.Cuống qt ,cập kênh,cồng kềnh,cị kè,cót két,cọt kẹt,… đều là từ láy.Đó là
những từ láy âm :phụ âm đầu “cờ” được lặp lại ,hình thức ngữ âm giống nhau,
được ghi bằng những chữ cái khác nhau.
Câu 14: Xác định các nghĩa biểu vật khác nhau của từng từ nhiều nghĩa (đa
nghĩa) sau:
- đầu, mặt, nghiêng, chân (danh từ)
- đi, chạy (động từ)
- nặng, nhẹ (tính từ)
Trả lời
- đầu:
+ Bộ phận trên cùng, trước hết của người, động vật, trong chứa nào: đầu người,
đầu cá,…
+ Bộ phận ở vị trí trên cùng của sự vật: đầu súng,…
+ Bộ phận ở vị trí trước hết của sự vật: đầu tàu
+ Bộ phận ở vị trí ngồi cùng, tận cùng của sự vật: đầu cầu, đầu đường, đầu nhà
+ Trí tuệ, ý chí: cứng đầu, đầu óc,…
+ Đơn vị tính tốn: cá kể đầu, râu kể mớ;…
- mặt:
+ phần phía trước, từ trán đến cằm của người, hay phần phía trước của đầu con
thú, nơi có các bộ phận như mắt, mũi, mồm: rửa mặt, vẻ mặt,…
+ những nét trên mặt người, biểu hiện thái độ, tâm tư, tình cảm (nói tổng quát):
mặt lạnh như tiền, tay bắt mặt mừng,…
+ mặt người, để phân biệt người này với người khác; dùng để chỉ từng cá nhân
khác nhau: ba mặt một lời, gặp mặt,…
+ mặt con người, được coi là biểu trưng cho thể diện, danh dự, phẩm giá: lên
mặt,…
+ phần phẳng ở phía trên hoặc phía ngồi của vật, phân biệt với phần bên dưới
hoặc bên trong: mặt bàn, mặt giấy,…
+ phía nào đó trong khơng gian, trong quan hệ với một vị trí xác định: bốn mặt,
mặt trước của ngơi nhà,…
+ phần được trừu tượng hố khỏi chỉnh thể để xem xét, phân biệt với phần đối
lập hoặc những phần cịn lại: mặt hình thức,…
+ hình được vẽ bởi một điểm mà vị trí phụ thuộc liên tục vào hai tham số: mặt
phẳng, mặt tròn xoay,…
- nghiêng:
+ bộ phận dưới cùng của cơ thể người hay động vật, dùng để đi, đứng, chạy,
nhảy,…: chân người, chân mèo,…
+ chân con người, coi là biểu tượng của cương vị, tư cách hay phận sự nào đó
trong một tổ chức: kế chân người khác,…
+ (Khẩu ngữ) một phần tư con vật có bốn chân, khi chung nhau sử dụng hoặc
chia nhau thịt: hai nhà chung nhau một chân lợn,…
+ bộ phận dưới cùng của một số đồ dùng, có tác dụng đỡ cho các bộ phận khác:
chân đèn, chân giường
+ phần dưới cùng của một số vật, tiếp giáp và bám chặt vào mặt nền: chân núi,
chân tường, chân răng,…
+ từ dùng để chỉ từng đơn vị những đám ruộng thuộc một loại nào đó: chân
ruộng trũng, chân đất bạc màu, chân mạ (chuyên để gieo mạ)
- đi:
+ (người, động vật) tự di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác bằng những bước
chân nhấc lên, đặt xuống liên tiế: tập đi,…
+ (người) di chuyển đến nơi khác, không kể bằng cách gì, phương tiện gì: đi
chợ, đi máy bay, đi du lịch,…
+ chết (lối nói kiêng tránh): ơng cụ như cố chờ con trai về rồi mới đi
+ di chuyển đến chỗ khác, nơi khác để làm một công việc nào đó: đi ngủ, đi chợ,
đi bộ đội
+ (phương tiện vận tải) di chuyển trên một bề mặt: xe đi chậm rì rì, ca nơ đi
nhanh hơn thuyền
+ từ biểu thị hướng của hoạt động dẫn đến sự thay đổi vị trí: quay mặt đi, nhìn đi
chỗ khác, kẻ chạy đi, người chạy lại
+ từ biểu thị hoạt động, q trình dẫn đến kết quả làm cho khơng cịn nữa, khơng
tồn tại nữa: xố đi một chữ, việc đó rồi sẽ qua đi, cố tình hiểu khác đi
+ từ biểu thị kết quả của một quá trình giảm sút, suy giảm: mặt tái đi, giảm đi
+ (Ít dùng) biến mất một cách dần dần, khơng cịn giữ ngun hương vị như ban
đầu: nồi cơm đã đi hơi, trà để lâu nên đã đi hương
+ chuyển vị trí quân cờ để tạo ra thế cờ mới (trong chơi cờ): đi con mã, đi nước
cờ cao
+ biểu diễn, thực hiện các động tác võ thuật: đi vài đường kiếm, đi một bài
quyền,…
+ làm, hoạt động theo một hướng nào đó: đi chệch khỏi quỹ đạo
+ tiến đến một kết quả nào đó: chẳng đi đến đâu, đi đến thống nhất
+ chuyển sang, bước vào một giai đoạn khác: đi vào con đường tội lỗi, công việc
đã đi vào nền nếp
+ (Khẩu ngữ) đem đến tặng nhân dịp lễ tết, hiếu hỉ: đi một câu đối nhân dịp
mừng thọ, đi phong bì hai trăm nghìn đồng
+ mang vào chân hoặc tay để che giữ, bảo vệ: chân đi bít tất, đi găng tay
+ gắn với nhau, phù hợp với nhau: ghế thấp quá, không đi với bàn, màu quần
không đi với màu áo
+ đi ngồi (nói tắt): đi kiết, đi lỏng,…
- chạy:
+ (người, động vật) di chuyển thân thể bằng những bước nhanh, mạnh và liên
tiếp: chạy một mạch về nhà, đi nhanh như chạy
+ (người) di chuyển nhanh đến nơi khác, khơng kể bằng cách gì: chạy xe lên
thành phố (đi bằng xe), chạy vội ra chợ mua ít thức ăn
+ (phương tiện giao thông) di chuyển nhanh đến nơi khác trên một bề mặt: tàu
chạy trên đường sắt, thuyền chạy dưới sơng
+ (máy móc hoặc đồ dùng có máy móc) hoạt động, làm việc: máy chạy thơng ca,
đồng hồ chạy chậm, đài chạy pin (hoạt động bằng pin)
+ điều khiển cho phương tiện, máy móc di chuyển hoặc hoạt động: làm nghề
chạy xe ôm, chạy máy phát điện
+ điều khiển cho tia X, tia phóng xạ hoặc các thiết bị chuyên dụng tác động đến
bộ phận cơ thể để chữa bệnh: chạy tia tử ngoại
+ mang và chuyển đi nhanh (nói về cơng văn, thư từ): liên lạc chạy cơng văn
hoả tốc, chạy thư
+ nhanh chóng tránh trước đi điều gì khơng hay, thường bằng cách chạy hoặc
chuyển đi nơi khác: chạy lụt, chạy con mã (trong cờ tướng)
+ chịu bỏ dở, không theo đuổi đến cùng: các thầy lang đều chạy, vì bệnh đã quá
nặng
+ khẩn trương tìm kiếm, lo liệu để mau chóng có được, đạt được cái đang rất
cần, rất muốn: chạy thầy chạy thuốc, chạy đủ tiền học phí cho con, chạy theo
thành tích
+ nằm trải ra thành dải dài và hẹp: con đường chạy qua làng, dãy núi chạy dọc
theo bờ biển
+ làm nổi lên thành đường dài để trang trí: chạy một đường viền
- nặng:
+ có trọng lượng bao nhiêu đó: cân nặng
+ có trọng lượng lớn hơn mức bình thường hoặc lớn hơn so với trọng lượng của
vật khác: nặng trịch,…
+ (chất) có tỉ trọng lớn: kim loại nặng
+ ở mức độ cao, có tác dụng làm cho phải chịu đựng nhiều, địi hỏi nhiều sự vất
vả hoặc có thể dẫn đến hậu quả tai hại, nghiêm trọng: phạt nặng, sưu cao thuế
nặng
+ (đất) có nhiều sét, ít tơi xốp, cày cuốc nặng nhọc, vất vả: đất nặng
+ (ở một bộ phận nào đó của cơ thể) có cảm giác khó chịu, khơng thoải mái, tựa
như có cái gì đó đè lên: mi mắt nặng trĩu vì buồn ngủ, ăn đêm nên bị nặng bụng,
nỗi lo đè nặng tâm trí
+ (âm thanh hoặc mùi vị) có tác động khơng êm dịu đến giác quan, gây cảm giác
khó chịu: nặng giọng, rượu nặng, nặng mùi
+ có tình cảm gắn bó, khơng dễ dứt bỏ được: ơn nặng như núi, nặng tình, nặng
lòng
+ thiên về một phía nào đó, trong khi ít chú ý đến những phía khác: sống nặng
về tình cảm; nặng về lí, nhẹ về tình
- nhẹ:
+ có trọng lượng nhỏ hơn mức bình thường hoặc so với trọng lượng của vật
khác: nhẹ cân
+ có tỉ trọng nhỏ: kim loại nhẹ
+ có sức tác động yếu, cường độ hoạt động thấp: gió nhẹ, mưa nhẹ hạt
+ khơng gây cảm giác nặng nề, khó chịu cho cơ thể hoặc tinh thần: thức ăn nhẹ,
rượu nhẹ, việc nhẹ
+ ở mức độ thấp, không nghiêm trọng, không gây hậu quả tai hại: ốm nhẹ,
thương nhẹ, máy bị hỏng nhẹ
+ gồm những thành phần giản tiện, không phức tạp, không cồng kềnh: bữa liên
hoan nhẹ, trang bị vũ khí nhẹ, hành trang gọn nhẹ
+ (đất) có pha cát, tơi xốp, cày cuốc dễ: cày ruộng nhẹ
+ có tác động êm dịu, gây cảm giác dễ chịu: mùi thơm nhẹ, vàng nhẹ, giọng nói
nhẹ và êm
+ có cảm giác thanh thốt, thoải mái như vừa trút được gánh nặng: nhẹ người,
nhẹ lịng
+ tỏ ra ít chú ý, không coi trọng (trong khi coi trọng cái khác, phần khác hơn):
nặng về hình thức, nhẹ về nội dung; xem nhẹ hiểm nguy.
Câu 15: “Việc dạy từ ngữ theo các chủ đề, chủ điểm từ ngữ hiện nay ở trường
tiểu học thực chất là dạy từ ngữ theo các trường biểu vật hoặc trường biểu niệm,
cũng có nghĩa là dạy từ ngữ theo hệ thống.”
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Lấy ví dụ trong SGK Tiếng Việt tiểu
học để minh họa.
Trả lời
Từ có vai trị rất quan trọng trong hệ thống ngơn ngữ.Khơng có vốn từ đầy đủ,
con người không thể sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Việc dạy
từ ngữ ở tiểu học sẽ tạo cho học sinh có năng lực từ ngữ, giúp cho học sinh nắm
được tiếng mẹ đẻ, có phương tiện giao tiếp để phát triển tồn diện. Vốn từ của
học sinh càng giàu bao nhiêu thì khả năng sử dụng từ càng lớn, càng chính xác,
hoạt động giao tiếp sẽ thể hiện rõ ràng và nhạy bén hơn.
Chương trình SGK Tiếng Việt từ lớp 2 đến lớp 5 đều được sắp xếp theo cấu trúc
chủ điểm. Nội dung các bài tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và cầu đều
hướng vào chủ điểm đó. Ở lớp 2, 3, các chủ điểm đều là những sự vật, những
mối quan hệ gần gũi, quen thuộc với học sinh, trong đó học sinh là trung tâm.