Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.32 KB, 24 trang )

Nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê
bình và phê bình trong Đảng hiện nay
Mục lục
Mở đầu
Phần 1: Nhận thức chung về tự phê bình và phê
bình trong Đảng
1.1Quan điểm của Chủ nghĩa Mac – Lenin về tự
phê bình và phê bình
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về tự phê bình và phê bình
1.3 Tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình
trong giai đoạn hiện nay
1.4 Thực trạng tự phê bình và phê bình trong Đảng
hiện nay
Phần 2: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng hiện nay
2.1 Phương hướng, mục tiêu chung
2.2 Một số giải pháp cơ bản
2.2.1 Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng
cao ý thức tự giác thực hiện tự phê bình và phê bình của
mỗi đảng viên
2.2.2 Thực hiện đúng phương châm, phương pháp
kiểm điểm tự phê bình và phê bình.
2.2.3 Có kế hoạch, biện pháp cụ thể, kịp thời để
khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm sau
kiểm điểm tự phê bình và phê bình.
2.2.5 Nâng cao tinh thần gương mẫu của người
đứng đầu, cán bộ quản lý, đảng viên các tổ chức cơ sở
đảng và chính quyền
Kết luận



Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Tự phê bình và phê bình là một vấn đề có tính
ngun tắc, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là
công cụ sắc bén để giáo dục đảng viên, rèn luyện cán bộ
lãnh đạo, quản lý và củng cố khối đoàn kết, thống nhất
trong Đảng. Để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chất
lượng sinh hoạt của các tổ chức cơ sở Đảng, nêu cao tính
tiền phong gương mẫu của cấp trên; giữ vững chế độ tập
trung dân chủ và chủ động đấu tranh, phê phán những
biểu hiện lệch chuẩn trong nội bộ Đảng.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi tự phê
bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật
phát triển của Đảng. Người chỉ rõ vị trí, mục đích, ý
nghĩa của tự phê bình và phê bình là: “Một đảng mà giấu
giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng
có gan thừa nhận khuyết của mình, vạch rõ những cái đó
vì đâu mà có khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để
sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ,
mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”
Thực tế thời gian qua cho thấy, chất lượng tự phê
bình và phê bình trong Đảng bị giảm sút, mang tính hình
thức, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên bị suy
giảm. Do thực hiện khơng nghiêm túc tự phê bình và phê
bình mà khơng ít tổ chức đảng và đảng viên thực chất bị
“yếu kém, bị “sai lầm, khuyết điểm”, thậm chí có vi phạm
vẫn được “bỏ qua”, chậm bị phát hiện để chấn chỉnh hoặc
xử lý kịp thời, nghiêm minh. Thậm chí, một số tổ chức
đảng có khuyết điểm, vi phạm chưa bị phát hiện còn được

khen thưởng. Sau một thời gian, qua kiểm tra mới phát
hiện ra khuyết điểm, vi phạm, gây tổn thất không nhỏ về
cán bộ và uy tín của Đảng.


Từ những lý do trên tôi xin chọn đề tài “Nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong Đảng hiện nay” làm đề tài tiểu luận thi kết thúc học
phần môn học Xây dựng đảng.
2.Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: Hiểu sâu, nắm vững những nội dung cơ
bản về tự phê bình và phê bình trong đảng, đề ra giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện công tác này.
Nhiệm vụ: khái quát lại những nhận thức chung về
tự phê bình và phê bình trong Đảng, phân tích thực trạng
thực hiện cơng tác này, đề ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài dựa trên thế giới quan phương
pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và các
quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh
cùng với quan điểm của Đảng, Nhà nước về thực hiện tự
phê bình và phê bình. Các phương pháp nghiên cứu cụ
thể: nghiên cứu tài liệu, phương pháp tổng kết thực tiễn,
so sánh, …
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Danh mục từ viết
tắt tiểu luận được cấu trúc thành 2 phần:
Phần 1: Nhận thức chung về tự phê bình và phê
bình trong Đảng

Phần 2: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng hiện nay


Phần 1: Nhận thức chung về tự phê bình và phê bình
trong Đảng
1.1Quan điểm của Chủ nghĩa Mac – Lenin về tự
phê bình và phê bình
Tự phê bình và phê bình trong Đảng, một nguyên
tắc xây dựng Đảng quan trọng, quy luật phát triển Đảng
đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
nghiên cứu và luận giải trên nhiều nội dung quan trọng.
C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê bình là
rất cần thiết cho hoạt động và phát triển bình thường của
Đảng Cộng sản. Ăngghen nhấn mạnh: Việc đảng phê
bình hoạt động đã qua của mình là việc làm tuyệt đối cần
thiết và bằng cách đó, đảng học cách hoạt động tốt hơn.
V.I.Lênin coi tự phê bình và phê bình là quy luật
phát triển của đảng cách mạng. V.I.Leenin đã viết: “tự
phê bình và phê bình là một việc tuyệt đối cần thiết cho
hết thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống. Khơng gì
tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn” và “tất cả
những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay đều bị
tiêu vong vì tự cao tự đại, vì khơng biết nhìn rõ cái gì tạo
nên sức mạnh của mình và sợ sệt, khơng dám nói lên
những nhược điểm của mình. Cịn chúng ta, chúng ta sẽ
khơng bị tiêu vong, vì chúng ta khơng sợ nói lên những
nhược điểm của chúng ta và những nhược điểm đó, chúng
ta sẽ học được cách khắc phục”. V.I.Lê-nin cũng khẳng
định: “Sai lầm cũng dạy chúng ta nhiều bài học. Trong

lĩnh vực này cũng như trong các lĩnh vực khác, chúng ta
nói rằng chúng ta sẽ học tập bằng tự phê bình”.
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về tự phê bình và phê bình
1.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê
bình


Kế thừa, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin
trong điều kiện lịch sử mới, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự
phê bình và phê bình” vừa là quy luật phát triển Đảng,
vừa là nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng. Trong các tác
phẩm, bài viết của mình, vấn đề này được Người thể hiện
hai quan điểm:
Thứ nhất, Người nhấn mạnh tự phê bình và phê
bình, xem đây như vũ khí sắc bén để Đảng thường xuyên
trở nên trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, Người đặt “phê bình” trước “tự phê bình”,
nhiều hơn cả là “tự phê bình” trước “phê bình” - đây
khơng phải là ngẫu nhiên, mà có dụng ý. Dụng ý thể hiện
trước hết cần coi trọng tự phê bình, muốn phê bình người
khác thì phải tự phê bình mình trước.
Điểm xuất phát của Hồ Chí Minh về tự phê bình và
phê bình là dân chủ và nhân đạo. Bản chất của nó là xây
dựng, vươn tới sự hồn mỹ, thúc đẩy tiến bộ, là cách
mạng và khoa học, là vì nhân dân, vì sự đồn kết nhất trí
trong tồn Đảng. Do đó, bản chất của tự phê bình và phê
bình là hướng tới cái đẹp, cái tốt.
Hồ Chí Minh hiểu rõ Đảng bao gồm đủ các giai
tầng trong xã hội và có tính cách mạng rất cao như: trung

thành, rất kiên quyết, hy sinh và rất vĩ đại... Song Đảng là
một phận của xã hội, cũng không tránh khỏi những tập
tục, tính nết, khuyết điểm, thói xấu của xã hội lây ngấm
và “không phải là người người đều tốt, việc việc đều
hay”. Do vậy, trong Đảng cần thường xuyên tự phê bình
và phê bình như con người ln cần khơng khí để sống.
Mục đích tự phê bình và phê bình theo Hồ Chí
Minh khơng đồng nghĩa với trừng trị, phê phán. Với
Người, phê bình chỉ là sự mổ xẻ một căn bệnh mang ý
nghĩa như một sự khởi nguồn của một quá trình để chữa


lành con bệnh, làm cho con người tồn tại, phát triển khoẻ
mạnh. Vì vậy, sự “mổ xẻ” chỉ có ý nghĩa khi nó đạt tới
cái thiện và cái đẹp.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mục đích phê bình cốt để
giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi
cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và
thống nhất nội bộ” để hành động đúng hơn, làm việc hiệu
quả và chất lượng cao hơn. Do đó, mỗi cán bộ đảng viên
hàng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như
rửa mặt mỗi ngày. Được như thế, trong Đảng sẽ ln
khẻo mạnh, khơng có bệnh tật gì.
Đối tượng trực tiếp của tự phê bình và phê bình,
theo Người là việc chứ khơng phải người. Phê bình việc
làm sai, khơng những khơng đem lại lợi ích cho dân cho
nước, mà cịn có hại cho cách mạng, cho nhân dân. Quan
điểm “phê bình việc chứ khơng phê bình người” làm cho
con người không bị rơi vào cái “tôi” vị kỷ, thấp hèn, thù
hận, tranh giành được thua, ghen ghét giữa con người với

nhau. Phê bình việc là sự gột rửa “cái bên ngồi” con
người, khơng cho nó ngấm vào bên trong trở thành bản
chất, làm “ô nhiễm” con người. Tự phê bình và phê bình
theo Hồ Chí Minh như dùng khăn, xà phòng để gột rửa
cái nhơ bẩn bám con người, chứ không phải cắt bỏ thân
thể con người.
Thái độ đối với tự phê bình và phê bình, theo Hồ
Chí Minh là: “lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy đủ”, phải
xuất phát từ “tình đồng chí u thương lẫn nhau”, thấm
đượm “lòng nhân ái”, phải thành khẩn, kiên quyết và có
văn hố. Tự phê bình và phê bình “phải ráo riết”, “triệt
để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt”. Phê bình
khơng phải là cơ hội để soi mói nhau, nhằm “lật đổ
nhau”, hay làm mất mặt nhau trước tập thể. Phê bình phải


thực hiện công khai, như vậy mới tránh được thái độ
“bưng mắt bắt chim”, thái độ “giấu bệnh sợ thuốc” …
Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật tự giác, nên sự thành
khẩn trong tự phê bình và phê bình là địi hỏi tiên quyết
trong cơng tác xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh ln nhấn
mạnh quan điểm: nếu khơng kiên quyết thực hiện tự phê
bình và phê bình thì giống như con người có bệnh nhưng
khơng uống thuốc.
Tự phê bình và phê bình phải có “tính chất xây
dựng”, “khơng mỉa mai, nói xấu”, khơng trù dập người
phê bình. Đối với người phê bình phải chỉ ra được cụ thể
những ưu, nhược điểm của đồng chí từ đó tìm cách giúp
đỡ họ, đồng thời phải luôn chịu trách nhiệm về những lời
nói của mình. Trong phê bình phải chú ý tới thái độ dân

chủ, phải để cho người khác được phát biểu, được nêu lên
những sai trái của mình trong nhận thức cũng như hành
động. Nhiều người phát biểu sẽ chỉ ra được đầy đủ những
ưu, nhược điểm của mình, vấn đề sẽ được xem xét một
cách đầy đủ và toàn diện, từ đó mỗi người tự hồn thiện
mình thơng qua sự giúp đỡ của người khác và nỗ lực của
bản thân.
Trong phê bình phải bình tĩnh, khơng nơn nóng,
khơng hình thức, “... có gì cứ bình tĩnh bảo nhau, bàn với
nhau. Càng cáu càng khó nghe. Muốn dân chủ tốt, kỷ luật
cao, cán bộ phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Ví
dụ: Bác và các chú khai hội với nhau, Bác tự phê bình
trước thì các chú mới dám phê bình. Các chú có khuyết
điểm, Bác phê bình lại. Mục đích tự phê bình và phê bình
là để học cái hay, tránh cái dở, chứ không phải để nói xấu
nhau”. Phê bình “những người có thói hư tật xấu, trừ
hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải
giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái thiện trong con


người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho
tơi bời”.
Thực hành tự phê bình và phê bình cần cơng khai,
thật sự dũng cảm Phê bình phải từ cấp dưới lên và cấp
trên phải nêu gương tự phê bình để cấp dưới noi theo. Hồ
Chí Minh thường nhắc nhở các đồng chí của mình: tơi
làm điều xấu, các đồng chí trơng thấy, lại lấy cớ “nể” cụ
khơng nói, là tơi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì khơng
quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần,
mà không nói cho người ta sửa tức là hại người.

1.2.2 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
tự phê bình và phê bình
Cơng cuộc đổi mới đất nước những năm qua đã
giành được nhiều thành tựu to lớn, đã và đang tạo ra thế
và lực mới cho đất nước. Để có những thành tựu to lớn đó
trước hết là sự lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng muốn
lãnh đạo được thì bản thân phải trong sạch, vững mạnh,
luôn đổi mới, chỉnh đốn ngang tầm với nhiệm vụ và đòi
hỏi mới của lịch sử. Nhận thức được điều này, tại các Đại
hội VI, VII, Đảng ta luôn có sự quan tâm lớn đến cơng
tác xây dựng Đảng, đặc biệt từ Đại hội VIII đến nay,
nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong đó thực hiện tự phê bình
và phê bình được xem là nhiệm vụ then chốt bên cạnh
xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Các Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3, 5, 6 (lần 2) khoá VIII, đều đề cập
sâu sắc, toàn diện vấn đề này.
Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII ra nghị
quyết về một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng, mở rộng và đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng
chỉnh đốn Đảng, trong đó Ban Chấp hành Trung ương
đặc biệt chú ý thực hiện cuộc vận động tự phê bình và


phê bình trong Đảng nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhờ sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát của Ban Chấp hành
trung ương, các cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng đã tích cực
đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, đặc
biệt thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng. Qua
quá trình triển khai thực hiện, tuy chưa đáp ứng được yêu

cầu đặt ra, nhưng đã đạt được nhiều thành quả lớn và kinh
nghiệm quan trọng.
Để thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, qua đó
góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững
mạnh, lãnh đạo thực hiện thắng lợi cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần thực hiện tốt
những nội dung sau:
Một là, Tiến hành nghiêm túc và thường xuyên tự
phê bình và phê bình theo đúng điều lệ Đảng và tinh thần
chỉ thị của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII, tránh lối làm việc hình thức, chiếu lệ
cho xong việc.
Yêu cầu của tự phê bình và phê bình phải đạt được:
nói thật, nói hết những sai lầm, khuyết điểm đã mắc phải
trước tổ chức Đảng và công khai trước nhân dân. Việc xử
lý những sai lầm, khuyết điểm phải được tiến hành công
minh và theo phương châm “trị bệnh cứu người”. Dần
làm cho mọi người thấy rõ kết quả tự phê bình và phê
bình ngồi việc trị bệnh cứu người, cịn có tác dụng “tơi
luyện” thêm phẩm chất, năng lực lãnh đạo và tổ chức
thực hiện chủ trương đường lối của Đảng cho đội ngũ cán
bộ đảng viên. Đồng thời qua đó giúp Đảng lựa chọn được
những cán bộ đủ đức, đủ tài để gánh vác nhiệm vụ cách
mạng.


Hai là, Tự phê bình và phê bình phải nói đầy đủ hai
mặt: ưu và khuyết điểm về thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo,
quản lý, tổ chức thực hiện chủ trương đường lối của
Đảng, Nhà nước; về quan điểm, lập trường, tư tưởng,

chính trị, đạo đức lối sống và tác phong công tác của cán
bộ đảng viên. Đối với khuyết điểm phải nói hết, nói đúng,
khơng né tránh, khơng nể nang, không đổ lỗi cho khách
quan hoặc cho người khác. Cần trình bày rõ nguyên nhân
đưa đến sai lầm, khuyết điểm. Khi đã được tập thể Đảng,
quần chúng góp ý phê bình phải báo cáo đầy đủ, trung
thực lên cấp trên để tùy theo mức độ mà xử lý theo quy
định điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cần có những
hình thức khen thưởng kịp thời những cán bộ, đảng viên,
tập thể có thành tích, giúp họ kịp thời phát huy hơn nữa
những thành tích trong cơng tác.
Ba là, Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây
là chính, coi trọng giáo dục, nâng cao nhận thức để phát
huy ưu điểm, ngăn ngừa sai phạm. Qua tự phê bình và
phê bình, từng cán bộ đảng viên ở các cấp cần tự xem xét
mình có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, tư cách là cán
bộ đảng viên của Đảng nữa hay khơng; nếu khơng thì
phải tự nguyện rút khỏi vị trí đương nhiệm, chịu hình
thức kỷ luật tương xứng, hoặc xin ra khỏi Đảng để đảm
bảo tổ chức Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
Bốn là, Việc thi hành kỷ luật đối với những cán bộ
đảng viên cần thông báo công khai trước tổ chức đảng và
nhân dân. Việc làm này hết sức cần thiết để quần chúng
nhân dân thấy rõ sự nghiêm minh của Đảng và sự tôn
trọng của Đảng đối với quần chúng; biết lắng nghe ý kiến
đúng đắn của nhân dân từ đó góp phần tăng cường mối
quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân.


Năm là, Phát động phong trào rộng rãi, sâu sắc,

liên tục trong nhân dân bằng tất cả các phương tiện thông
tin đại chúng để nêu gương người tốt, việc tốt, lên án
những khuyết điểm, lỗi lầm của những người vi phạm kỷ
luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bất cứ ai, ở cương vị
nào cũng phải tuân theo pháp luật. Công khai, minh bạch
là cách làm tốt nhất để tiến hành tự phê bình và phê bình.
Cán bộ đảng viên đặc biệt là những người có chức có
quyền phải thực sự là tấm gương sáng trong tự phê bình
và phê bình.
Sáu là, Làm theo phương pháp Hồ Chí Minh: làm
trong sạch từ trong nội bộ Đảng và trong các cơ quan Nhà
nước, bắt đầu từ trên để kiểm tra, lãnh đạo dưới, để nhân
dân tin và tham gia phê bình cán bộ đảng viên. Loại bỏ,
trừng trị ngay những con sâu dân, mọt nước, những kẻ
làm ô danh Đảng và tham nhũng, cơ hội để nêu gương
cho người khác.
Bảy là, Mọi đảng viên, nhất là các cấp ủy viên phải
luôn nhận thức đúng, đủ về vai trò, tầm quan trọng, mục
đích tự phê bình và phê bình, từ đó có sự chuẩn bị chu
đáo về mọi mặt và tiến hành thật nghiêm túc, thẳng thắn,
trung thực tự phê bình và phê bình. Phát huy vai trị, thực
hiện tốt chức năng “cầm cân nảy mực” của từng cấp ủy
viên, bí thư trong thực hiện tự phê bình và phê bình, đồng
thời làm tốt công tác theo dõi, kiểm tra việc tiếp thu phê
bình, sửa chữa khuyết điểm của từng đảng viên sau khi đã
tự phê bình và được góp ý kiến phê bình của chi bộ Đảng.
1.3 Tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình
trong giai đoạn hiện nay
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khoá XI) ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp

bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết khẳng


định phải tiếp tục tiến hành củng cố, xây dựng Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta,
coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta. Cán
bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình rất cao với Nghị
quyết cũng như nội dung bài phát biểu khai mạc và bế
mạc Hội nghị của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng. Đặc biệt là vấn đề tự phê bình và phê bình được
nhấn mạnh trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị: “Lâu
nay chúng ta vẫn nói, tự phê bình và phê bình là quy luật
tồn tại và phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén để xây
dựng Đảng, để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng
viên.Thực tế cũng có khơng ít tập thể và cá nhân làm tốt
việc này. Nhưng nhìn chung, do chỉ đạo không tốt, do ý
thức tự giác của một số cán bộ, đảng viên không cao, cho
nên kết quả còn hạn chế” …
Cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, phấn
khởi vì đồng chí Tổng Bí thư của Đảng đã nêu “trúng”
giải pháp quan trọng và căn bản nhằm xây dựng Đảng
ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới, đó là thường xun tự
phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng. Thực hiện tốt
việc này mới có thể ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp.
Trong những năm gần đây, nhất là từ khi nước ta
bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập, công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng làm

khơng được thường xuyên, nền nếp. Một số tổ chức Đảng
và cán bộ, đảng viên có sai lầm, khuyết điểm nhưng
khơng được phê bình, nhắc nhở kịp thời nên dẫn đến sai
lầm nghiêm trọng. Cơng tác tự phê bình và phê bình thực
hiện chưa thường xuyên, nặng về hình thức; bên cạnh xu


hướng đúng đắn, lành mạnh, đã thấy một số dạng tự phê
bình và phê bình khơng đúng đắn, thiếu nghiêm túc như
đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra. Đó là
biến cuộc họp tự phê bình và phê bình thành nơi “ca
tụng” lẫn nhau hoặc “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những
động cơ khơng trong sáng!
Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp nhau
phát huy ưu điểm, đẩy lùi những mặt xấu, tiêu cực. Khi
tiến hành tự phê bình và phê bình phải nêu rõ cả ưu điểm
và khuyết điểm, phải khách quan, trung thực đồng thời
coi trọng tính nhân văn, tạo lập văn hố phê bình; hướng
vào phê bình việc làm chứ khơng phải phê bình người. Sự
phê bình, nhắc nhở với động cơ trong sáng chân thành sẽ
giúp những đảng viên mắc khuyết điểm tự điều chỉnh,
phịng tránh tiêu cực có hiệu quả. Làm sao những lời mỉa
mai, châm chọc, vụ lợi động cơ cá nhân khi phê bình phải
nhường chỗ cho tính trung thực, khách quan, lẽ phải, tình
thương và lịng nhân ái.
Để đưa Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay” vào cuộc sống, cần thường
xuyên quán triệt nghiêm túc thật thà tự phê bình và phê
bình. Trung ương Đảng, các cấp uỷ đảng phải có cơ chế
quy định cụ thể chế độ tự phê bình và phê bình trong

Đảng, nhất là ở chi bộ, gắn với việc “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hàng tháng, hàng q
có chế độ để cấp trên tự phê bình trước cấp dưới, cán bộ
chủ chốt tự phê bình trước cán bộ, đảng viên. Cán bộ lãnh
đạo chủ chốt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải thật
sự gương mẫu trong tự phê bình và phê bình. Đây là điều
hết sức quan trọng trong tình hình hiện nay, bởi vì đảng
viên và quần chúng biết rõ những ưu điểm, khuyết điểm,
sai lầm của cán bộ lãnh đạo. Họ sẽ nhìn vào cán bộ lãnh


đạo của mình để noi gương, có cách ứng phó cho phù
hợp. Vì vậy người càng ở vị trí quan trọng, càng giữ chức
vụ cao càng phải gương mẫu, nghiêm túc.
Có thể khẳng định hiệu quả của chế độ tự phê bình
và phê bình phần lớn phụ thuộc thủ trưởng cơ quan, đơn
vị và các cán bộ lãnh đạo. Bên cạnh đó cũng cần phát huy
dân chủ để quần chúng, nhân dân phê bình, góp ý cán bộ,
đảng viên và tổ chức đảng. Đảng ta là đảng của dân, vì
nhân dân mà phục vụ, do đó phải liên hệ mật thiết với
quần chúng. Tình trạng tổ chức đảng, đảng viên ít liên hệ
gắn bó với nhân dân trên địa bàn, nơi cư trú đang làm cho
đảng viên xa rời quần chúng là khuyết điểm cần khắc
phục.
Cần có cơng tác kiểm tra, giám sát, xử lý việc thực
hiện chế độ tự phê bình và phê bình. Khi đã có cơ chế,
quy định của đảng về chế độ tự phê bình và phê bình thì
cũng cần có cơ chế kiểm tra, giám sát và thực hiện các
quy định. Đồng thời xử lý những vi phạm quy định cũng
như sự không thật thà, thiếu nghiêm túc hay những hành

động trả thù, trù dập, ức hiếp…đối với những người
thẳng thắn đấu tranh phê bình. Bảo vệ những người thẳng
thắn, thật thà, dám đấu tranh vì lẽ phải cũng là một trong
những vấn đề cấp bách để cho cơng tác tự phê bình và
phê bình đạt hiệu quả như mong muốn; biến Nghị quyết
của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống.
1.4 Thực trạng tự phê bình và phê bình trong Đảng
hiện nay
Việc thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình
gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã có tác dụng
và đạt được một số kết quả bước đầu. Các cấp ủy, tổ chức
đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nhận thức sâu sắc
hơn ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng đảng;


thấy rõ hơn sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn
Đảng; tự nhìn nhận, soi xét lại bản thân, thấy rõ những ưu
điểm, khuyết điểm của mình; đồng thời phân tích, làm rõ
nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan của những
khuyết điểm, yếu kém để đề ra kế hoạch, biện pháp khắc
phục. Qua kiểm điểm, đã có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh,
răn đe, phòng ngừa sai phạm; đồng thời giúp hiểu biết
nhau hơn, tăng cường hơn tình đồn kết thống nhất, thơng
cảm và chia sẻ về những khó khăn, hạn chế trong thực
hiện nhiệm vụ. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được thực
hiện tốt hơn; tác phong, lề lối làm việc có đổi mới; tinh
thần, thái độ trách nhiệm đối với công việc được giao của
từng cán bộ, đảng viên thể hiện rõ nét hơn.
Tuy nhiên, việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình
vẫn cịn bộc lộ khơng ít hạn chế, yếu kém:

Một là, phê bình - nhận xét để cho có, chiếu lệ, làm
qua loa đại khái, phê theo kiểu “bắn súng lên trời”, “hét
to giữa sa mạc”, nhưng rút cuộc chẳng trúng ai, chẳng ai
làm sao cả, “chắc nó chừa mình ra”. Đây thực chất là một
cách vơ hiệu hóa phê bình.
Hai là, phê bình - nhận xét để tâng bốc, xu nịnh, cố
tình phóng đại những cái tốt cái hay về đồng chí, đồng
nghiệp nhằm củng cố “lực lượng” của mình. Đó là loại
phê bình khơng nghiêm túc. Loại phê bình có hại cho cả
cá nhân và tổ chức.
Ba là, biến quá trình phê bình thành cơ hội để
cường điệu hóa khuyết điểm nhằm bôi nhọ, vu khống để
hạ bệ đồng nghiệp hoặc “dọn đường” cho nhau, giành vị
thế chính trị; bao vây, cơ lập, vơ hiệu hóa những nhân tố
tốt và những con người khẳng khái, trung thực, có tinh
thần đổi mới; lấy cớ tự phê bình để triệt hạ những người
mình khơng ưa, “trả thù vặt” theo kiểu “gắp lửa bỏ tay


người”. Nguy hiểm hơn họ biến thủ đoạn này thành địn
lơi kéo, “đánh hội đồng” rất tinh vi. Đây được coi là thủ
đoạn phi tính đảng bậc nhất của một “đảng viên”, đi
ngược lại với luận điểm “Đảng ta là đạo đức là văn minh”
của Hồ Chí Minh.
Nguyên nhân chất lượng tự phê bình và phê bình ở
các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên còn hạn chế. Tất cả
những biểu hiện và hành động trên đây sẽ gây ra những
hậu quả vô cùng tai hại, phá vỡ tinh thần đồn kết thống
nhất, tạo nên tình trạng lập bè kết cánh trong Đảng, làm
cho chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng bị

giảm sút, mang tính hình thức, sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng, đảng viên bị suy giảm, thậm chí một số
chi bộ bị tê liệt, mất vai trò lãnh đạo và năng lực chiến
đấu. Có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến
chất lượng tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên còn hạn chế trong thời gian qua như
sau:
Thứ nhất, từ đảng viên, chi bộ tới các tổ chức cơ sở
đảng chưa nhận thức đúng, đầy đủ về vai trò, mục đích, ý
nghĩa, tác dụng của phê bình và tự phê bình trong sinh
hoạt đảng nên chưa chú trọng, nghiêm chỉnh, tự giác thực
hiện. Nếu có thực hiện thì làm một cách qua loa, xuê xoa,
đại khái, do thiếu bản lĩnh, chính kiến và sức chiến đấu
kém.
Thứ hai, đảng viên, chi bộ, các tổ chức cơ sở đảng
không tự giác phê bình mà tìm mọi cách để giấu giếm,
bao che, đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan, tổ chức, cơ
chế, tệ hại hơn là lấy lý do bảo vệ chính trị nội bộ. Một số
cấp trên còn bị chi phối do tâm lý sợ “vạch áo cho người
xem lưng”, lo “rút dây động rừng”, sợ trách nhiệm liên


đới… Tất cả những nguyên nhân này khiến họ thường có
xu hướng khơng triệt để ủng hộ tự phê bình và phê bình.
Thứ ba, cán bộ, lãnh đạo đơn vị thấy nhân viên,
cấp dưới của mình có khuyết điểm, vi phạm kỷ luật
nhưng vì sợ mất thành tích đơn vị hay sợ mất phiếu khi
bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, bình bầu thi đua,
khen thưởng, xếp hạng cán bộ, xếp loại đảng viên,… nên
không kiên quyết đấu tranh, không xử lý nghiêm túc;

hoặc nhân viên, cấp dưới khơng dám phê bình, đấu tranh
với cấp trên vì lợi ích của mình theo kiểu “ngậm miệng
ăn tiền”, sợ bị trù dập, ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị
và sự thăng tiến của bản thân.
Thứ tư, một số cấp ủy chưa chú trọng và chưa ý
thức được việc bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên trong
công tác sinh hoạt, phát triển đảng nên ảnh hưởng rất
nhiều đến năng lực điều hành, tổ chức sinh hoạt đảng, đặc
biệt là công tác phê bình và tự phê bình.
Thứ năm, một số đồng chí đảng viên hiện nay vẫn
suy nghĩ rằng tự phê bình và phê bình thì chỉ đề cập ưu
điểm là chính, nhấn mạnh điểm tốt cịn khuyết điểm, hạn
chế thì nên lược bỏ, và nhận xét hoặc tự nhận xét một
cách chung chung, khơng ảnh hưởng đến ai. Thậm chí
trước sự chân thành, trung thực của người tự phê bình và
phê bình có cấp ủy và đảng viên cịn định hướng “lệch
chuẩn” cho họ.
Phần 2: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng hiện nay
2.1 Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng
cao ý thức tự giác thực hiện tự phê bình và phê bình của
mỗi đảng viên
Tự phê bình và phê bình là một quy luật cơ bản
trong tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam,


là một công việc phải được tiến hành thường xuyên, tự
giác của mỗi cán bộ, đảng viên, trong đó, cán bộ lãnh đạo
chủ chốt càng phải thực sự là tấm gương để cho cấp dưới
và quần chúng noi theo.

Để nâng cao hiệu quả của hoạt động tự phê bình và
phê bình biện pháp vừa mang tính trước mắt, vừa lâu dài
là tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tính
tự giác, gương mẫu của đội mỗi đảng viên. Đây là một
trong những biện pháp quan trọng hàng đầu quyết định
đến hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và
phê bình.
Để xác định được nội dung cần thiết và phương
pháp phù hợp trong việc giáo dục chính trị tư tưởng đối
với đội ngũ cán bộ, đảng viên cần xuất phát từ đặc thù
của từng đối tượng và yêu cầu của cuộc vận động xây
dựng và chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay. Giáo
dục chính trị tư tưởng tập trung vào nội dung chủ yếu về
tính đảng, phong cách đảng, kỷ luật đảng, bản lĩnh chính
trị, rèn luyện đạo đức cách mạng và một số biện pháp cụ
thể để phịng ngừa sự suy thối đạo đức, lối sống, phẩm
chất chính trị của cán bộ, cơng chức trong điều kiện một
đảng cầm quyền, coi trọng việc giáo dục về truyền thống
cách mạng của dân tộc, của Đảng. Về biện pháp giáo dục
cần phải được cải tiến, đổi mới phù hợp với đa dạng các
đối tượng. Cần đầu tư để xây dựng chương trình giảng
dạy khoa học, thiết thực, ngắn gọn, gắn với đối tượng
nhất định. Về nội dung giáo dục cụ thể cần đi sâu vào
những nội dung sau:
Một là, Giáo dục lý luận chính trị tư tưởng:
Cần tập trung giáo dục lý luận chính trị tư tưởng, lý
luận cách mạng, lý luận Mác - Lênin với tư cách là khoa
học về xây dựng đảng, về đảng cầm quyền, trong đó có



các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng, nhất là
nguyên tắc tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên.
Để quá trình giáo dục và học tập chính trị tư tưởng
đạt được hiệu quả cao thì cần tuân thủ nguyên tắc lý luận
gắn chặt với thực tiễn, mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý
luận, phải đem áp dụng vào công việc thực tế. Kết hợp
chặt chẽ lý luận với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng chính là phương thức để chữa bệnh kém lý luận,
khinh lý luận và lý luận suông vẫn thường hay dẫn đến
bệnh chủ quan ở cán bộ lãnh đạo. Hơn nữa, lý luận đó
phải được mổ xẻ, xem xét, so sánh kỹ càng với thực tế để
được kiểm nghiệm, kết luận tổng kết và phát triển.
Hai là, giáo dục đạo đức, lối sống.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
là nhiệm vụ cơ bản để đảm bảo cho các đảng bộ, chi bộ
thật sự trong sạch, vững mạnh. Để đạt được mục đích đó,
cơng tác giáo dục đạo đức lối sống hiện nay cần tiến hành
những nội dung: Đẩy mạnh việc học tập tư tưởng và phong
cách đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng đạo đức cách mạng.
Chú trọng việc giáo dục, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc và của Đảng ta. Giáo dục
đạo đức, lối sống phải gắn liền với giáo dục chủ trương,
đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước. Giáo dục
đạo đức đi đôi với tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm tra,
giám sát của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội và
nhân dân đối với cán bộ lãnh đạo; phối hợp hoạt động
thanh tra của các cơ quan nhà nước, kiểm tra của Đảng.
Ba là, Nâng cao tính tự giác, tính tích cực chính trị
của người cán bộ, đảng viên trong tự phê bình và phê bình
Cán bộ, đảng viên phải là người tích cực phê bình

và tự phê bình. Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, đảng viên:
"Mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và


kiểm điểm đồng chí của mình. Để thấy khuyết điểm phải
kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa.
Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, cơng việc mới
chóng thành cơng". Khi tiến hành tự phê bình và phê bình
cần phải qn triệt tính đảng, tính giáo dục, tính khách
quan, trung thực, chân thành và cơng khai cũng như tính
cụ thể, thiết thực và kịp thời. Muốn vậy mỗi cán bộ, đảng
viên phải không ngừng học tập, trau dồi tri thức toàn diện
qua sách vở trường lớp và qua việc “lấy người khác làm
gương”.
2.2 Thực hiện đúng phương châm, phương pháp
kiểm điểm tự phê bình và phê bình.
Tiến hành kiểm điểm với phương châm nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá khách quan, thể hiện tính chiến đấu,
khơng nể nang, né tránh, giúp nhau cùng tiến bộ, vì sự
trong sạch, vững mạnh của mỗi cá nhân, tổ chức. Trong
kiểm điểm, tham gia góp ý chủ yếu vào hạn chế, khuyết
điểm và biện pháp khắc phục sửa chữa, không lợi dụng để
đấu đá, trù dập, vu cáo lẫn nhau với động cơ khơng trong
sáng. Tự phê bình và phê bình phải vừa giữ đúng ngun
tắc, vừa phải có tính thuyết phục, có lý, có tình; khơng
chủ quan, nóng vội, máy móc, cứng nhắc, đồng thời kiên
quyết xử lý nghiêm những trường hợp cố tình khơng tự
giác nhận và sửa chữa khuyết điểm, những trường hợp cố
tình bao che cho những sai phạm, khuyết điểm.
Về phương pháp kiểm điểm, cấp trên gương mẫu

kiểm điểm trước để cấp dưới làm theo; tập thể kiểm điểm
trước, cá nhân kiểm điểm sau. Cấp uỷ viên, cán bộ lãnh
đạo, quản lý kiểm điểm trước, đảng viên kiểm điểm sau.
Lấy kiểm điểm của tập thể bổ sung, đối chiếu, kiểm điểm
của cá nhân và ngược lại. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và
cán bộ, đảng viên phải tự giác, trung thực, xem xét, để



×