Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Tác động của chính sách kinh tế quân sự của thái lan đối với mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.15 KB, 66 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

M U
1. Lý do chọn đề tài
Thái Lan là một quốc gia nằm ở phía Tây bán đảo Đơng Dương và
phía Bắc bán đảo Malắcca, giáp với Mianma, Lào, Campuchia, Malaixia,
Vịnh Thái Lan và biển Anđaman. Nhà nước Thái Lan hình thành từ thế kỷ
XIII-XIV, đến đầu thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến ở Thái Lan đã bắt đầu
phát triển. Đầu thế kỷ XIX, Thái Lan trở thành đối tượng xâm lược của
nhiều nước đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ… Nhiều hiệp ước bất bình đẳng
được ký kết với các nước đế quốc phương Tây. Những điều khoản trong đó
đã tạo điều kiện “mở cửa” cho tư bản nước ngoài thâm nhập vào Thái Lan
và có những tác động quan trọng đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội,
đưa Vương quốc Thái Lan bước lên vũ đài quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại
giao với hầu hết các nước tư bản châu Âu và các nước khác.
Trong lịch sử lập quốc của mình, Thái Lan từng là một nước lớn theo
chủ nghĩa Đại Thái, lấn át các quốc gia láng giềng khi có thể, nhưng Thái
Lan ln có chính sách ngoại giao khéo léo đối với các cường quốc Tây Âu
và Nhật Bản trong thời cận và hiện đại. Thái Lan luôn biết tận dụng vị thế
địa lí để làm trái độn giữa các cường quốc. Nhờ thế Thái Lan đã tránh được
các cuộc xâm lược và được hưởng thời gian độc lập, hịa bình tương đối lâu
dài trong thời kỳ đế quốc thực dân xâm chiếm thuộc địa và trong Thế chiến
thứ hai.
Thái Lan đã kí Hiệp ước hữu nghị và thương mại với Anh năm 1826
và với Mỹ năm 1833, Hiệp ước trao đổi biên giới các tỉnh phía Bắc
Malaysia năm 1909, nhờ đó thốt khỏi ách thuộc địa của các nước đế quốc
lúc bấy giờ đang tranh giành nhau vùng Đơng Nam Á. Thái Lan cũng đã kí
Hiệp định phân định biên giới sông Mekong với Pháp và tránh né xung đột
với thực dân Pháp vào cuối thế kỷ 19.



Lớp: K55A - Khoa Lịch sử

1

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

Trong Th chin th hai, Thái Lan là đồng minh lỏng lẻo của Nhật
Bản, cho Nhật đi qua đất Thái tiến đánh Malaysia, Miến Điện. Lợi dụng thế
suy yếu của nước Pháp (bị Đức quốc xã xâm chiếm) và sức mạnh hải quân
khá hiện đại Thái Lan đã gây chiến với Pháp để tranh giành lãnh thổ Đông
Dương. Sau khi bị hải quân Pháp bất ngờ tiến công đánh bại cùng với sự
suy yếu của quân đội phát xít Nhật vào cuối thế chiến, Thái Lan làm đảo
chính vào ngày ngày 1 tháng 8 năm 1944 và ngay lập tức chuyển nước Thái
từ một đồng minh lỏng lẻo của Nhật trong một đêm trở thành đồng minh
của Mỹ và tiếp tục giữ được độc lập và hịa bình.
Sau thế chiến, Thái Lan bị đối xử như một quốc gia đối địch bởi Anh
và Pháp, mặc dù Mỹ đã can thiệp để giảm nhẹ các điều khoản trừng phạt
Thái Lan. Thái Lan không bị lực lượng Đồng Minh chiếm đóng, nhưng
phải trả lại các lãnh thổ mà họ đã chiếm đóng trong thời gian chiến tranh
cho Anh và Pháp. Thời kỳ hậu chiến cũng là thời kỳ Thái Lan thắt chặt
quan hệ với Hoa Kỳ, như để bảo trợ Thái Lan khỏi nguy cơ chủ nghĩa cộng
sản lan truyền từ các quốc gia liên bang. Sau Chiến tranh thế giới thứ II,
Mỹ mở rộng ảnh hưởng của mình ở Đơng Nam Á, hất cẳng Anh, Pháp ở
khu vực…Chính phủ mới của Thái Lan đã thi hành chính sách ngoại giao

thân Mỹ, ảnh hưởng của Mỹ ở Thái Lan ngày càng tăng.
Vậy, nguyên nhân, cơ sở để Thái Lan thực hiện chính sách thân Mỹ
như thế nào? Và q trình cũng như những nội dung chính trong chính sách
thân Mỹ của Thái Lan đối với Mỹ ra sao? Với những tìm tịi của mình, đề
tài mong muốn giải đáp được các câu hỏi đó; mong muốn sẽ hồn thiện
hơn kiến thức lịch sử của mình trong giai đoạn cận hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Trước hết ta thấy rằng đây không phải là một vấn đề mới, nhưng lại
là một vấn đề điển hình trong lịch sử các quốc gia Đông Nam Á. Song cho
đến nay chưa có một cơng trình nào đề cập đến một vấn đề tổng hợp cụ thể

Líp: K55A - Khoa LÞch sử

2

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

v chớnh sỏch ca Thái Lan đối với Mỹ trên nhiều lĩnh vực và tác động của
nó mà chỉ mới đề cập trong các đề tài nghiên cứu ở phạm vi lớn hơn.
Dưới đây chúng tôi xin được điểm qua về lịch sử nghiên cứu của vấn đề.
Các sử gia nước ngoài từ lâu đã rất quan tâm đến tình hình Thái Lan.
Trong giai đoạn xảy ra của vấn đề (thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai)
đã xuất hiện nhiều cơng trình nghiên cứu về tình hình chính trị Đơng Nam
Á, trong đó đề cập khá kỹ tới vấn đề Thái Lan. Riêng với mối quan hệ giữa
Thái Lan và Mỹ giai đoạn sau có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau.

Trong cuốn “Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ hai” do
G.A.Mac-tư-xê-va viết năm 1962 cũng đã đề cập đến mối quan hệ giữa
Thái Lan và Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tác giả đã phân tích rằng,
cũng như ở các nước khác, việc bành trướng của chủ nghĩa đế quốc vào
Thái Lan phần lớn thực hiện dưới hình thức “viện trợ”. “Về thực chất tất cả
những hiệp ước có tính chất nơ dịch mà Thái Lan buộc phải ký đều gọi là
hiệp ước “viện trợ””. Trên cơ sở đó, G.A.Mac-tư-xê-va đã rút ra nguyên
nhân tại sao Thái Lan buộc phải tham gia vào các cuộc chiến tranh xâm
lược, cụ thể đầu tiên là chiến tranh xâm lược Triều tiên. Tất cả cũng vì sự
phụ thuộc quá lớn vào Mỹ về mặt kinh tế và chính trị. Tác phẩm cũng đã
đưa ra một số tư liệu, cũng như những nhận định về kết quả của việc thực
thi chính sách thân Mỹ của chính phủ Thái Lan, trong đó có cả kết quả tích
cực lẫn tiêu cực.
Tác giả Epghêni Đênixốp đã viết cuốn “Đế quốc Mỹ ở Đông Nam
Á” vào năm 1972. Ông đã nêu ra hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế của
đường lối thân Mỹ của Thái Lan: “Các chi phí quân sự lớn và sự quân phiệt
hóa ở Thái Lan đã làm cho nước này hết sức nghèo nàn. Thậm chí các giới
chính trị ở Mỹ cũng phải thú nhận rằng nền kinh tế Thái Lan bị suy yếu
nghiêm trọng. Ngân sách nhà nước khơng đủ để bù đắp các khoản chi phí
về nhu cầu quân sự ngày càng tăng trong điều kiện thỏa mãn hết sức ít
những nhu cầu Xã hội”.

Líp: K55A - Khoa Lịch sử

3

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp


Lê Thị Thanh Nhàn

Vit Nam, ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đã có một số bài
viết về Thái Lan, mối quan hệ giữa Thái Lan và Mỹ, tác động của chính
sách thân Mỹ của chính phủ nước này. Tiêu biểu vào năm 1959, trên Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, tác giả Hồng Thị Lịch cũng đã có bài viết “Viện
trợ Mỹ và Thái Lan”; tiếp sau đó có bài “Kinh tế Thái Lan”. Các bài viết
này cho chúng ta những tư liệu và cách nhìn thực tế về tình hình Thái Lan
lúc bấy giờ, sự tác động của Mỹ đối với đất nước này.
Ngoài ra, vào năm 1965, Huỳnh lứa cũng đã đưa ra một bài viết khá
thuyết phục: “Thái Lan, thuộc địa kiểu mẫu của Mỹ” trên tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, số 55. Bài viết đã đưa ra những dẫn chứng cũng như cơ sở để nhận
định rằng, thực chất, Thái Lan lúc này là một thuộc địa kiểu mẫu của Mỹ, trở
thành tay sai thân cận của Mỹ, phụ thuộc vào Mỹ cả về kinh tế lẫn chính trị.
Trong thập kỷ gần đây, hai nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Oanh và Bùi
Văn Ban cũng đã có những đề tài, bài viết nghiên cứu về tình hình Thái Lan.
Năm 1993, trong thơng báo khoa học của các trường đại học, hai ông đã có
bài viết “Quan hệ Mỹ - Thái Lan (1940 – 1989)”. Bài viết đã làm rõ được sự
thật mối quan hệ giữa Mỹ và Thái Lan, vị trí chiến lược của Thái Lan về mặt
quân sự trong kế hoạch tồn cầu của Mỹ. Năm 1994, trong tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á, hai nhà nghiên cứu này lại công bố bài viết: “Hoa Kỳ và
bước phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Thái Lan thập kỷ 60”. Trong bài viết
này, hai ông đã làm nổi bật được sự ảnh hưởng của Mỹ đối với tình hình
kinh tế Thái Lan trong thập kỷ 60. Thơng qua đó giúp chúng ta có cách nhìn
tổng quan nhất về tình hình kinh tế Thái Lan sau khi thực hiện chính sách
thân Mỹ.
Cũng trong năm đấy, nhà nghiên cứu Bùi Văn Ban đã có bài viết “Về
mối quan hệ của Mỹ với chính phủ tự do ở Thái Lan 1946 - 1947” trong
thông báo Khoa học, chuyên ngành sử - chính trị số 5.1996 của trường

ĐHSP Quy Nhơn. Đọc bài viết chúng ta có thể hình dung được thực chất về

Líp: K55A - Khoa Lịch sử

4

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

mi quan h chớnh trị giữa Mỹ và Thái Lan trong những năm đầu thực hiện
chính sách thân Mỹ.
Năm 1990 và năm 1994, nhà sử học Vũ Dương Ninh đã cho ra đời
hai cuốn: “Vương quốc Thái Lan: Lịch sử và hiện tại”, và “Lịch sử Vương
quốc Thái Lan”. Cả hai tác phẩm đã cùng đề cập tới tình hình Thái Lan sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Thái Lan
sau khi thực hiện đường lối thân Mỹ.
Năm 1998, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã cho ra đời cuốn
sách “Lịch sử Thái Lan” do Phạm Nguyên Long và Nguyễn Tương Lai
đồng chủ biên. Trong sách cũng có đề cập tới chính sách thân Mỹ của
Thái Lan, nguyên nhân và một số biểu hiện cũng như tác động của nó
đối với Thái Lan.
Cách đây khơng lâu, nhóm các giáo sư, tiến sĩ sử học đầu ngành như
Lương Ninh. Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh… đã xuất bản cuốn “Lịch sử
Đông Nam Á”. Cuốn sách không chỉ trình bày một cách chi tiết tình hình
các nước Đơng Nam Á từ khi khai lập cho đến nay mà cịn đưa ra những
đánh giá, nhìn nhận khách quan về những vấn đề nảy sinh trong quá trình

phát triển của mỗi quốc gia. Lịch sử Thái Lan được đặt trong bối cảnh
chung của tình hình chính trị Đơng Nam Á…
Hiện nay vấn đề này cũng đang được nhiều nhà sử học nghiên cứu
sâu hơn. Càng ngày càng có nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu tiếp cận
sâu hơn, hợp lý hơn về mối quan hệ giữa Thái lan đối với Mỹ. Trong các
cơng trình bảo vệ luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ hay luận văn tốt nghiệp… vấn
đề này cũng được nghiên cứu nhiều.
Trước tình hình nghiên cứu vấn đề này chúng tơi quyết định chọn
vấn đề “Chính sách kinh tế, quân sự của Thái Lan đối với Mỹ từ sau Chiến
tranh thế giới thứ II đến 1975”. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cơ và các bạn để chúng tôi học hỏi và rút kinh nghim.

Lớp: K55A - Khoa Lịch sử

5

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

3. i tng, phm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của người viết trong cơng trình này là nhằm
làm sáng tỏ các nhân tố ảnh hưởng cũng như q trình hình thành, nội dung
chính của chính sách kinh tế, quân sự của Thái Lan đối với Mỹ. Từ đó thấy
được tác động của nó đối với Thái Lan, Mỹ và cả khu vực Đông Nam Á.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu vấn đề này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên

cứu như: Phương pháp lịch sử, logic, tổng hợp… trong đó chủ yếu là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo ra, nội dung đề tài
bao gồm:
Chương 1: Những nhân tố ảnh hưởng tới chính sách của Thái Lan
đối với Mỹ.
Chương 2: Những nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế - quân
sự của Thái Lan đối với Mỹ
Chương 3: Tác động của chính sách kinh tế - quân sự của Thái Lan
đối với Mỹ.

Líp: K55A - Khoa Lịch sử

6

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

CHNG 1
Những nhân tố ảnh hởng tới chính sách
của Thái Lan đối với Mỹ
I. Tình hình trong nước
1. Chính sách đối ngoại của Thái Lan
Thái Lan là một quốc gia nằm ở khu vực Đơng Nam Á, có lịch sử
phát triển tương đồng với các quốc gia trong khu vực. Sau phát kiến địa lý,

thực dân phương Tây bắt đầu nhịm ngó vào Đơng Nam Á, Thái Lan là
nước duy nhất không bị sự thống trị trực tiếp của các nước phương Tây.
Được như vậy, một phần là nhờ vào những cải cách kinh tế, chính trị, xã
hội rất quan trọng của các vua Xiêm, từ vua Rama IV trở đi. Song song với
cải cách trong nước là việc thực thi chính sách đối ngoại hết sức mềm dẻo,
linh hoạt khéo léo đã duy trì được một nền hịa bình q giá hiếm hoi.
Chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của chính sách đối nội về mặt
chính trị, vì vậy nó ln ln có mối quan hệ hữu cơ, chặt chẽ, tác động
qua lại lẫn nhau. Thái Lan đã thực thi một cách có hiệu quả chính sách đối
ngoại, phục vụ đắc lực cho việc phát triển và canh tân đất nước.
Đến thế kỷ XIX, ở Đông Nam Á, Xiêm (Thái Lan) vẫn là một nước
phong kiến mạnh và cũng trở thành đối tượng xâm lược của thực dân châu
Âu. Để tránh khỏi sự nơ dịch trực tiếp, khơng cịn cách nào khác là Xiêm
đã đồng ý ký với các nước phương Tây những hiệp ước bất bình đẳng, mở
đầu là ký với Hà Lan hiệp ước 18 điều (22/8/1644). Đến năm 1855 ký với
Anh; 1856 : Với Mỹ và Pháp; 1858: Đan Mạch; 1859: Bồ Đào Nha; 1860:
Hà Lan; 1862: Phổ; 1868: Thụy Điển, Na Uy, Italia, Bỉ; Đến năm 1898 tiếp
tục ký với Nga. Những hiệp ước này đều cho phép người nước ngồi được
tự do bn bán, chịu thuế xuất nhập khẩu nhẹ, được tự do truyền giáo.
Như vậy, nhờ đó mà Xiêm vẫn là nước độc lập, nhưng về nhiều mặt
đã phụ thuộc vào nước ngồi.

Líp: K55A - Khoa Lịch sử

7

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp


Lê Thị Thanh Nhàn

Vo nhng nm 80 – 90 của thế kỷ XIX, ở phía Tây bán đảo Đơng
Dương, thực dân Anh đã thơn tính xong Miến Điện; ở phía Đơng, thực dân
Pháp làm chủ Đơng Dương. Hai nước thực dân đều muốn tiến vào Xiêm,
Xiêm đứng trước nguy cơ bị xâm lược của cả Anh và Pháp. Mâu thuẫn của
hai nước thực dân Anh và Pháp về vấn đề Xiêm đã buộc chính phủ Pháp đi
tới một đề nghị hòa giải để đảm bảo quyền lợi của Anh và Pháp: biến Xiêm
thành nước đệm giữa hai đế quốc này. Ngày 15/1/1896, Anh và Pháp đã ký
một hiệp ước về phân chia ảnh hưởng ở Xiêm mà khơng có sự tham gia của
Xiêm. Tuy vậy, Xiêm đã có được cơ may thốt được nguy cơ bị xâm chiếm
hoàn toàn.
Trong hơn nửa thế kỷ (từ sau thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX)
cũng như nhiều nước Đông Nam Á, Xiêm cũng bị thực dân châu Âu xâu
xé. Nhưng nhờ thực hiện đường lối ngoại dao mềm dẻo và tiến hành cơng
cuộc hiện đại hóa đất nước có hiệu quả, Xiêm đã hịa nhập vào hệ thống tư
bản chủ nghĩa với tư cách là nước độc lập. Tuy thế, Xiêm vẫn phải từng
bước xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng, để trở thành một nước độc lập
thực sự.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, xuất hiện những nhân tố mới,
ảnh hưởng trực tiếp tới chủ quyền quốc gia, chính sách đối ngoại của Thái
Lan với những đặc trưng riêng lại được biểu hiện một cách rõ nét hơn.
Chính sách đối ngoại của Thái Lan đối với các nước phương Tây,
một mặt là để duy trì độc lập quốc gia, bảo vệ lợi ích dân tộc và giai cấp, có
điều kiện phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Theo những biến động của
lịch sử, có thể thấy được một số đặc điểm cơ bản của chính sách đối ngoại
Thái Lan như sau:
1.1. Mềm dẻo, biết lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước đế quốc để
duy trỡ nn c lp.


Lớp: K55A - Khoa Lịch sử

8

Trờng ĐHSP Hµ Néi


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

Trong Chin tranh th giới thứ nhất (1914 – 1918), chính sách đối
ngoại của Thái Lan là biểu hiện thắng lợi điển hình của sách lược lợi dụng
mâu thuẫn giữa các cường quốc phương Tây, là sự lựa chiều khôn khéo
phục vụ cho lợi ích dân tộc. Do đó Thái Lan bước ra khỏi chiến tranh với
tư thế của người chiến thắng trong cuộc chiến tranh đế quốc. Điều đó tạo
cho Thái Lan một tiềm năng chính trị lớn, tham gia Hiệp ước Vecxây
(1919) và trở thành một trong những quốc gia thành viên đầu tiên của Hội
quốc liên thành lập năm 1920.
Cho đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai Thái Lan là nước duy
nhất ở Đông Nam Á không bị các nước đế quốc thực dân xâm lược. Thái
Lan đã khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, dùng cường quốc
này chế ngự cường quốc kia, để duy trì nền độc lập của mình, dù chỉ là
hình thức.
Các sử gia phương Tây thường rất ca ngợi lịch sử ngoại giao của
Thái Lan trước Chiến tranh thế giới thứ hai, cho rằng Thái Lan đã bảo vệ
được nền độc lập của đất nước bằng cách lợi dụng cường quốc này chế ngự
cường quốc kia. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi mà hầu hết các
nước trên thế giới, khơng ít thì nhiều đều trở thành nơi đấu sức của các

nước phát xít thì Thái Lan lại thốt khỏi cuộc chiến tranh vì đã khơn ngoan
đặt mình dưới quyền bảo hộ của Nhật.
Như vậy, Thái Lan đã biết lợi dụng mâu thuẫn của Anh, Pháp, Mỹ,
Nhật trong việc tranh giành ảnh hưởng ở Thái Lan, để giữ gìn nền độc lập
dân tộc và thực hiện những tham vọng của mình. Nền độc lập ấy tuy
khơng chính thức nhưng nếu xét trong bối cảnh hầu hết các quốc gia ở
Đông Nam Á đều bị xâm lược hết rồi thì lại có ý nghĩa vô cùng to lớn.
1.2. Thực dụng, dựa vào kẻ mnh

Lớp: K55A - Khoa Lịch sử

9

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

Trong Chin tranh th giới thứ hai, khi nhận thấy Nhật đang chiếm
ưu thế, Thái Lan ngay lập tức đã tỏ rõ thiện chí của mình đối với Nhật.
Thái Lan đã ký kết liên minh với Nhật với mục đích là duy trì nền độc lập
dân tộc; mặt khác đánh đuổi bọn tư bản phương Tây đã cắm rễ ở Thái Lan.
Thái Lan lần lượt xóa bỏ được các hiệp ước bất bình đẳng; thực hiện tham
vọng mở rộng lãnh thổ và hưng thịnh kinh tế.
Tuy nhiên, đến cuối cuộc chiến, khi Mỹ nhảy vào thì Thái Lan lại
thấy được sự thay đổi của thời cuộc, và tất yếu lúc này, Thái Lan thực hiện
chính sách ngoại giao thân Mỹ, đánh đuổi quân Nhật và ngăn chặn âm mưu
quay trở lại thơn tính Thái Lan của Anh.

1.3. Dựa theo tiêu chí: Tât cả vì quyền lợi của giai câp, quyền lợi của
dân tộc.
Xuyên suốt chính sách đối ngoại của Thái Lan, chúng ta có thể thấy
rằng, mục đích cuối cùng đều nhằm duy trì nền độc lập dân tộc, hưng thịnh
kinh tế và xóa bỏ những hiệp ước bất bình đẳng.
Khi thực dân phương Tây bắt đầu xâm nhập và tiến hành xâm lược
Đông Nam Á, mặc dù chịu ký những hiệp ước bất bình đẳng như vậy, nhưng
Thái Lan lại coi đấy như một kế sách sáng suốt, bởi ít nhất, Thái Lan đã trở
thành nước duy nhất Đông Nam Á không bị sự thống trị trực tiếp của thực
dân, nhân dân Thái vẫn sống trong hịa bình, độc lập, chú tâm vào canh tân,
hiện đại hóa đất nước.
Chiến tranh thế giới bùng nổ, Thái Lan hết thân thiện với nước này, lại
nhảy sang thân thiện với nước khác. Tất cả cũng vì nhận thấy sự cái lợi của
đất nước mình trong việc đặt mối quan hệ như vậy. Tất nhiên, Thái Lan cũng
đã phải chịu những hậu quả nặng nề về mặt kinh tế, xã hội…Nhưng trên tất cả
đấy là sự xóa bỏ dần dần của các hiệp ước bất bình đẳng đã ký từ xưa, là sự
độc lập của cả một dõn tc.

Lớp: K55A - Khoa Lịch sử

1
0

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn


ng trc mi nguy chính trị chung của cả Đơng Nam Á, Thái Lan
đã chấp nhận sự hợp tác, chấp nhận cho các nước thực dân lấy đất nước mình
làm bàn đạp chung cho âm mưu xâm lược Đông Nam Á, châu Á của mình.
Và những hậu quả để lại khơng phải Thái Lan không nhận thấy, nhưng vẫn
chấp nhận. Tuy nhiên, sự chấp nhận này cũng có những giới hạn của nó, và
Thái Lan lại tiếp tục những mưu tính mới khi cảm thấy sự hợp tác ấy ngày
càng gây tổn thất lớn cho mình.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, khi Nhật nhảy vào Đông Dương,
Thái Lan cũng rất muốn đi theo con đường trung lập. Nhưng thực thế lịch sử
lại không cho phép như vậy. Thái Lan đã nằm trong kế hoạch bành trướng
xuống phía Nam của Nhật. Chính phủ Phibun Songkram đã đốn trước được
điều đó, Phibun Songkram đã nhận định qn Nhật có thể tấn cơng Hồng
Kơng, xâm lược Mã Lai, xuyên qua lãnh thổ Thái Lan chắc chắn bằng đường
bộ ở sơng Kla. Tình thế lúc này khơng thể đưa đất nước đi theo con đường
trung lập, lại càng không thể dựa vào Anh, Mỹ để chống lại cuộc tấn cơng của
Nhật. Trước tình hình đó, chính phủ Phibun Songkram đã quyết định liên
minh với Nhật. Nhưng khi kéo vào Thái Lan, quân đội Nhật đã xâm phạm đến
quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp (cướp bóc, hãm hiếp người dân Thái
Lan, gây rối loạn chính trị, xã hội của đất nước này). Lúc này, Thái Lan biết
không thể liên minh lâu dài với Nhật được nữa, và bắt đầu có những hành
động gây thiện cảm với Mỹ. Đến khi nhận thấy sự thất bại không thể tránh
khỏi của Nhật thì Thái Lan đã ngả hẳn về phía Mỹ, khơng chút e ngại.
Như vậy, với những đặc điểm của chính sách đối ngoại nêu trên, chúng ta
có thể nhận thấy, việc Thái Lan đặt quan hệ thân thiết với Mỹ trong tình hình
mới là điều tất yếu, hồn tồn phù hợp với những mục đích mà Thái Lan muốn
đạt tới trong đường lối thực chính sách đối ngoại với các nước đế quốc thực dân.
Tóm lại: Trong lịch sử phát triển của mình, đặc biệt trong giai đoạn
thực dân phương Tây tiến hành xâm lược và thống trị Đơng Nam Á, bằng

Líp: K55A - Khoa LÞch sử


1
1

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

nhiu con ng khỏc nhau, Thái Lan đã thoát khỏi sự thống trị trực tiếp của
thực dân phương Tây. Xuất phát từ lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, Thái
Lan đã thi hành đường lối chính sách ngoại giao có tính chất thực dụng “lựa
chiều” và “cân bằng lực lượng”. Nhận thấy hiệu quả của đường lối ngoại giao
ấy, Thái Lan đã ln thực thi nó một cách có hiệu quả trên cơ sở tìm hiểu và
phân tích kỹ tình hình chính trị trên thế giới. Do đó, việc Thái Lan chuyển từ
thân Nhật sang thân Mỹ là điều dễ hiểu.
2. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc ngả dần sang Mỹ của Thái Lan
Trong 2 năm 1940 – 1941, Thái Lan có nhiều hoạt động ngoại giao
củng cố quan hệ với Anh, Mỹ, Liên Xô. Tuy nhiên, trước sức mạnh quân
sự của Nhật Bản khi tiến vào Đông Dương, ngày 01/12/1941, Chính phủ
Thái Lan đã ký Hiệp ước liên minh với Nhật. Tháng 1/1941, Thái Lan
tuyên chiến với Anh, Mỹ. Nhật Bản đã coi Thái Lan như một đồng minh.
Ngày 21/12/1941, Thái Lan ký hiệp ước liên minh với Nhật. Quân
đội Nhật được phép đóng trên lãnh thổ Thái cho đến khi chiến tranh kết
thúc. Ngày 25/1/1942, Chính phủ Bangkok tuyên chiến với Anh và Mỹ,
đồng thời tịch thu các cơ sở kinh doanh của Anh. Trước đó, “tư bản Anh
chiếm 80% số vốn nước ngoài đầu tư ở Thái Lan, làm chủ ba trong số sáu
ngân hàng lớn, chiếm 1/3 ngoại thương ở Thái Lan” [14,359]. Chính sách

của Phibun đã giáng một đòn đau vào thực dân Anh, tiến hành thành lập
Ngân hàng quốc gia Thái Lan ở trung ương và địa phương, khai trương
Công ty quốc gia sản xuất thiếc và cao su Thái Lan, thiết lập công ty khai
thác rừng. Nhờ đó, hoạt động cơng thương nghiệp của người Thái có phần
khởi sắc.
Sau khi vào Thái Lan, Nhật Bản đã có những hành động chính trị
cũng như qn sự, có ảnh hưởng trực tiếp lên đời sống của người dân Thái
Lan. Khắp mọi nơi, nhân dân biểu lộ sự bất bình. Mặt khác, từ năm 1943,
trên thế giới, phe phát xít ngày càng bị sa lầy. Hồng quân Liờn xụ bt u

Lớp: K55A - Khoa Lịch sử

1
2

Trờng ĐHSP Hµ Néi


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

phn cụng. Phỏt xớt Đức bị thất bại liên tiếp ở mặt trận Xô – Đức. Ở mặt
trân Bắc Phi, Anh – Mỹ cũng bắt đầu phản công, liên quân Đức – Ý cũng
thất bại. Trên mặt trận Thái Bình Dương quân đội Anh – Mỹ bắt đầu phản
công từ tháng 11/1943, quân Nhật cũng bị thất bại liên tiếp, bị dồn trên
các đảo Thái Bình Dương. Những thất bại liên tiếp của phe phát xít trên
chiến trường Âu, Á làm cho hoạt động kinh tế của Thái Lan bị ngừng trệ,
ngoại thương bị giảm sút. Trong khi đó, “chi phí chiến tranh của Thái Lan
trong thời gian 1941 – 1945 tăng từ 36% lên 51%” [14,359]. Xu hướng

chống Nhật ngày càng lan tràn trong dư luận xã hội. Năm 1942, Đảng
Cộng sản Thái Lan thành lập. Năm 1943, phong trào “Thái tự do” chống
phát xít ra đời.
Tuy nhiên, tình hình chiến sự như vậy đặt Thái Lan trước nguy cơ
thành kẻ bại chiến. Chính phủ Phibun Songkram bị đặt vào thế bế tắc về
đường lối đối nội và đối ngoại. Nghị viện Thái Lan hoang mang liền chất
vấn Phibun và bỏ phiếu không tín nhiệm chính phủ của ơng ta. Chính phủ
mới được thành lập do Khuông Aphayvông làm Thủ tướng để mong tìm
đường cho Thái Lan rút khỏi cuộc chiến.
Ngày 15/8, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Lúc
này, Anh và Pháp coi Thái Lan là nước bại trận thuộc phe phát xít, phải
chịu những điều khoản quy định đối với tội phạm chiến tranh. Anh đã đưa
ra bản u sách 23 điều có tính chất như một tối hậu thư: Đòi nắm độc
quyền ngoại thương, vận tải đường thủy và đường hàng không của Thái
Lan; quân Anh được đóng ở những vị trí chiến lược then chốt trên lãnh thổ,
phía Thái Lan phải đài thọ tồn bộ chi phí mỗi ngày khoảng 4 vạn đơ la Mỹ
cho lực lượng chiếm đóng này. Tương tự Pháp cũng đưa ra những yêu sách
riêng của mình, bắt Thái Lan phải thực hiện những yêu cầu và nộp tiền
chiến phí. Thực tế, cả Anh, Pháp đều mong muốn nhân cơ hội này có thể
biến Thái Lan thành thuộc địa.

Líp: K55A - Khoa Lịch sử

1
3

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp


Lê Thị Thanh Nhàn

Trc nhng yờu sỏch của Anh và Pháp, Chính phủ và nhân dân
Thái Lan phản ứng dữ dội. Chính phủ Thái Lan tuyên bố sẽ tự giải tán nếu
bị ép buộc ký những hiệp ước theo nội dung trên. Và vào thời điểm đó,
khơng cịn cách nào khác hay hơn là tìm sự đồng tình của Mỹ. Do vậy, để
tranh thủ sự cơng nhận của Đồng minh (Mỹ), ngày 31/8/1945, chính phủ
của K.Apaivơng đã từ chức, và chính phủ mới được thành lập do Tavi
Bunhiaket, một thành viên của phong trào “Thái tự do” làm thủ tướng. Đến
ngày 17/9/1945, Đại sứ của Thái Lan tại Mỹ là Xênhi Pramốt được gọi về
và cử lên làm thủ tướng chính thức. Điều này đã thể hiện rõ ý đồ ngoại giao
tranh thủ sự đồng tình của Đồng minh với Thái Lan sau chiến tranh, bởi
Xênhi Pramốt lúc đó thực ra là một chính khách cịn chưa thật nổi tiếng,
nhưng lại là người cầm đầu phong trào “Thái tự do” ở ngoại quốc, ngay từ
đầu đã chống lại quan điểm thân Nhật của chính phủ mình, do đó rất được
Mỹ ủng hộ. Tính tốn này đã một lần nữa giúp Thái Lan thoát ra khỏi nguy
cơ bị quy là tội phạm chiến tranh. Mỹ đã tuyên bố “không bao giờ coi Thái
Lan là một nước bại trận hay một nước thù địch chống Đồng Minh, mà chỉ
là một nước bị Nhật chiếm đóng cần được giải phóng” [28;196]. Do đó,
theo quan điểm của Mỹ, trong thời gian chiến tranh, người đại diện cho
Thái Lan không phải là chính phủ của Phibun Songkram, mà là phong trào
“Thái tự do”.
Như vậy, do những nỗ lực của bản thân mình với chính sách “lựa
chiều” khơn khéo, từ chỗ là kẻ hợp tác với phát xít Nhật trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, Thái Lan đã có thể khơng chỉ bước ra khỏi chiến tranh với những
thiệt hại tối thiểu, mà còn thủ tiêu được cả những hậu quả do việc hợp tác liên
minh Nhật gây nên, trở thành thành viên của Liên hợp quốc ngày từ thời gian
đầu tổ chức này mới thành lập. Từ đây, lịch sử Thái Lan bước sang một giai
đoạn mới, giai đoạn hợp tác với Mỹ, đón nhận những “ưu ái” mà Mỹ dành


Líp: K55A - Khoa Lịch sử

1
4

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

cho, v tt nhiờn, bù lại, Thái Lan đã có những chính sách có lợi nhằm thể
hiện rõ thái độ “thân thiện” đầy thiện chí của mình.
II. Thái độ của Mỹ đối với Thái Lan
1. Chính sách đối ngoại của Mỹ
Nước Mỹ hay Hoa Kỳ có tên gọi đầy đủ là Hợp Chủng quốc châu
Mỹ (The United States of America), là một quốc gia thuộc vào loại trẻ nhất
thế giới nhưng lại có sức vươn và bành trướng rất mạnh mẽ.
Từ thuở sơ khai là một số vùng thuộc địa vô danh bên bờ biển Đại
Tây Dương, Hoa Kỳ đã trải qua một thời kỳ lịch sử chuyển biến lớn lao để
trở thành một xứ sở mà nhà phân tích chính trị Ben Wattenberg từng gọi là
dân tộc có tầm cỡ thế giới, với số dân gần 300 triệu người, đại diện cho hầu
hết các quốc tịch và nhóm dân tộc trên trái đất. Đó cũng là một dân tộc mà
tại đó, tốc độ và phạm vi của sự thay đổi - về kinh tế, cơng nghệ, văn hóa,
nhân khẩu học và xã hội - đã diễn ra không ngừng.
Chỉ sau hơn 100 năm độc lập, từ một thuộc địa của Vương quốc
Anh, đến cuối thế kỷ XIX, nước Mỹ đã vươn mình trở thành một cường
quốc đứng đầu thế giới về tiềm lực kinh tế quốc dân. Từ 13 bang, nay đã

lên tới 50 bang, chiếm một diện tích khơng nhỏ. Để có được như vậy là nhờ
vào chính sách đối ngoại bành trướng liên tục của các chính phủ Mỹ. Bên
cạnh đó, các chính quyền Mỹ kế nhiệm cũng đã nhiều lần viện đến lợi ích
và an ninh quốc gia để tiến hành các cuộc chiến tranh nhằm giành giật
thuộc địa và vùng ảnh hưởng với các cường quốc châu Âu.
Những thập niên cuối thế kỷ XIX là giai đoạn bành trướng đế quốc
của Mỹ. Tuy nhiên, q trình đế quốc hóa tại Mỹ không diễn ra như ở các
nước châu Âu đối địch khác, bởi lịch sử đấu tranh chống các đế quốc châu
Âu của Mỹ và bởi cả sự phát triển độc nhất vô nhị của nền dân chủ tại đây.
Nguồn gốc dẫn đến sự bành trướng của Mỹ cuối thế kỷ XIX là do
nhiều lý do. Xét tình hình quốc tế, đây là giai đoạn mà chủ nghĩa đế quc

Lớp: K55A - Khoa Lịch sử

1
5

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

phỏt trin iờn cung. Các thế lực châu Âu xâu xé châu Phi và, cùng với
Nhật Bản, cạnh tranh lẫn nhau nhằm giành quyền lực chính trị và thương
mại tại châu Á. Rất nhiều người Mỹ, trong đó có các nhân vật đầy thế lực
như Theodore Roosevelt, Henry Cabot Lodge và Elihu Root nhận thấy
rằng, để đảm bảo quyền lợi của chính mình, nước Mỹ cũng cần phải giành
lấy cho mình những lợi ích kinh tế. Quan điểm này được tiếp sức bởi các

cuộc vận động hành lang mạnh mẽ của lực lượng hải quân, theo đó mạng
lưới các cảng biển và đội tàu của Mỹ được mở rộng, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia. Nhìn chung, học thuyết bành
trướng do định mệnh, trước đây thường được viện dẫn tới nhằm biện minh
cho công cuộc bành trướng lục địa của Mỹ nay lại được khẳng định lại với
tuyên bố rằng nước Mỹ có quyền và nghĩa vụ mở rộng ảnh hưởng cũng như
nền văn minh của mình ra Bán cầu Tây và vùng biển Caribê cũng như các
nước bên kia Thái Bình Dương.
Tham vọng duy trì và củng cố hệ thống tư bản chủ nghĩa, mưu đồ
nắm quyền thống trị thế giới và định đoạt số phận của tồn thể lồi người
vì lợi ích ích kỷ của các nhóm lũng đoạn là nền tảng mang tính chiến lược
của Chủ nghĩa đế quốc Mỹ. [17;4] Mỹ đã liên tiếp đưa ra những quan điểm
thực thi chính sách đối ngoại mới như “can thiệp”, “cái gậy lớn”…nhằm
thực hiện chính sách đối ngoại tồn cầu với sự tun truyền rằng nước Mỹ
có sứ mệnh chống lại mọi sự “đe dọa” của các chế độ độc tài. Đến Chiến
tranh thế giới thứ hai thì xu hướng này đã được khẳng định hồn tồn.
Chính quyền Mỹ đã can thiệp vào các vấn đề quốc tế bằng sức mạnh kinh
tế và quân sự của mình. Đối tượng chính sách đối ngoại của Mỹ đã mở
rộng ra phạm vi toàn cầu, tới cả những vùng vốn truyền thống là của các
nước đế quốc “già” như Anh, Pháp.
Ngày 12 – 3 – 1947, trong diễn văn đọc trước Quốc hội Mĩ, Tổng
thống Tơruman chính thức đề ra “Chủ nghĩa Tơruman”, mở đầu cho thời

Líp: K55A - Khoa Lịch sử

1
6

Trờng ĐHSP Hà Nội



Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

k bnh trng, vn lên thống trị thế giới của Mĩ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai. “Chủ nghĩa Tơruman” công khai nêu lên “sứ mạng” của Mĩ trong
“sự nghiệp lãnh đạo thế giới tự do chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa
Cộng sản”; xúc tiến việc thành lập các liên minh quân sự nhằm bao vây
Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và kêu gọi các nước đồng minh của Mĩ
ra sức chạy đua vũ trang, chuẩn bị tiến hành một cuộc “chiến tranh tổng
lực” nhằm tiêu diệt Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, “Chủ
nghĩa Tơruman” cịn chủ trương thơng qua “viện trợ” kinh tế và quân sự
cho các nước đồng minh của Mĩ, qua đó, khống chế, nô dịch các nước này.
Sau khi lên làm Tổng thống Mĩ năm 1953, Aixenhao tiếp tục thực hiện
“Chủ nghĩa Tơruman” nhưng bổ sung thêm “Chủ nghĩa Aixenhao”, thường
được gọi là “chủ nghĩa lấp chỗ trống” (tức Mĩ tìm mọi cách “lấp chỗ trống”
sau khi Anh, Pháp bị thất bại ở Đông Dương năm 1954, ở Trung Cận Đông
năm 1957…). Tiếp đó, hầu như mỗi đời Tổng thống Mĩ khi lên cầm quyền
lại đề ra một học thuyết hoặc đường lối của mình để thực hiện “chiến lược
tồn cầu”, như “chiến lược hồ bình” của Giơn Kennơđi (1961), “Học
thuyết Nichxơn” (1969), “Học thuyết Rigân” (1980), “Học thuyết Busơ”
(1989)… Năm 1993, Tổng thống B.Clintơn thực hiện “Chiến lược dính líu
và mở rộng” nhằm áp đặt nền thống trị về kinh tế và quân sự của Mĩ trên
khắp thế giới.
Mặc dù mang tên gọi khác nhau, đường lối có thể cứng rắn hoặc ơn
hồ khác nhau, và các biện pháp cụ thể cũng có nhiều nội dung khác nhau,
nhưng “Chiến lược toàn cầu” của Mĩ trước sau đều nhất quán 3 mục tiêu:
1 – Ngăn chặn, đẩy lùi, rồi tiến tới tiêu diệt các nước xã hội chủ
nghĩa; 2 – Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cơng

nhân và phong trào hồ bình dân chủ thế giới;
3 - Khống chế, nơ dịch các nước đồng minh của Mĩ.

Líp: K55A - Khoa Lịch sử

1
7

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

i vi bt kỡ học thuyết hoặc đường lối của tổng thống nào là đi
nữa, để đạt ba mục tiêu trên, chính sách cơ bản của Mĩ là “chính sách thực
lực” (tức chính sách dựa vào sức mạnh Mĩ).
Từ sau chiến tranh thế giới đến nay, để thực hiện “chiến lược tồn
cầu” của mình, Mĩ đã thành lập các khối quân sự NATO, SEATO,
ANZUS, CENTO… ra sức chạy đua vũ trang kể cả các vùng vũ khí hạt
nhân chiến lược, và phát động hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược hoặc
can thiệp vũ trang ở khắp các khu vực trên toàn thế giới.
2. Vị trí của Thái Lan trong chính sách đối ngoại của Mỹ
Ngay từ rất lâu, các nước đế quốc đã nhận thấy được vị trí chiến lược
của Thái Lan cả về quân sự, giao thông, thương mại, kinh tế… Mỹ cũng
không phải là trường hợp ngoại lệ.
Vùng Đông Nam Á chiếm giữ vị trí nổi bật trong các kế hoạch của
Mỹ. Mỹ đang tìm cách củng cố vị trí dọc biên giới các nước XHCN ở vùng
này nhằm mục đích sử dụng các quần đảo trên Thái Bình Dương làm hậu

phương chiến lược và trong trường hợp nổ ra chiến tranh thế giới có thể
đẩy những hành động chiến sự khả dĩ ra xa biên giới nước mình hơn nữa.
Những người lãnh đạo Mỹ mơ uớc biến vùng Đông Nam Á thành một khối
nước phụ thuộc vào Mỹ, chỗ dựa vững chắc về quân sự, chính trị và kinh tế
để thực thi có hiệu quả chính sách tồn cầu. Tuy nhiên, khơng dễ để thực
hiện được mục tiêu đó, muốn thực hiện phải đi từng bước, tính tốn cẩn
thận. Và Mỹ đã nhìn ra Thái Lan, đối tượng với vị trí q thuận lợi để thực
hiện kế hoạch của mình. Giơn Kennơđi (1961) đã từng phát biểu: “..rút
khỏi Việt Nam hoặc Thái Lan sẽ có nghĩa là mất cả vùng này” [25;16].
Những năm 1945 – 1989, chính quyền Mỹ nhìn nhận Thái Lan như
là một địa bàn quan trọng trong chính sách “ngăn chặn cộng sản” ở Đông
Nam Á. Thái Lan được chính quyền Mỹ coi là “phịng tuyến Tây sơng Mê
công” là nước tiền tiêu bảo vệ “thế giới tự do” ở khu vực Đơng Nam Á.

Líp: K55A - Khoa Lịch sử

1
8

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn

Nh vy, Thỏi Lan có một vị trí khá trọng yếu trong chiến lược toàn
cầu của đế quốc Mỹ. Thứ nhất, Thái lan là mắt xích nối các khối quân sự
Bắc – Đại Tây Dương, khối Trung tâm và khối Đông Bắc Á, thành một
vành đai bao vây phe xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, Thái Lan sẽ là bàn đạp để

tiến công phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Đơng Dương và
Đông Nam Á. Thứ ba, Thái Lan sẽ trở thành căn cứ hậu cần lớn để chuẩn
bị chống các nước trong hệ thống XHCN và phong trào giải phóng dân tộc.
Ngồi ra, Thái Lan cịn là một mảnh đất vơ cùng giàu có, tài nguyên
thiên nhiên phong phú và đa dạng.
Từ xưa, Thái lan vốn đã được ca ngợi như là vựa lúa của phương
Đông. Thực tế là ngay trong những năm khủng hoảng kinh tế thế giới
(1929 – 1933) thì 80% hàng xuất khẩu của Thái Lan vẫn là gạo. Do điều
kiện thuận lợi của đất đai, khí hậu, mức sản lượng lúa hàng năm của Thái
Lan đạt rất cao và đều so với khu vực Đông Nam Á. Điều ấy được thể hiện
rõ qua bảng thu nhập sau:
Bảng 1: Diện tích và sản lượng lúa thu hoạch được của Thái Lan (1964-1967)
Năm
1964
1965
1966
1967
Diện tích trồng lúa
5.971
5.959
6.949
5.601
(1000 ha)
Sản lượng (1000 tấn)
9.408
9.054
11.186
9.444
Nguồn: [10;10]
 Ngồi ra, Thái Lan cịn là mảnh đất chứa rất nhiều nông

sản khác như vừng, ngô, thuốc lá…
Bảng 2: Sản lượng nông sản từ 1944 đến năm 1947 (Đơn vị: Nghìn tấn)
Năm
1944
1945
1946
1947

Bơng sợi
49
60
89
80

Mía
5.074
4.463
3.829
4.500

Dừa
1.155
1.170
1.170
1.200

Vừng
13
18
20

19

Ngơ
935
1.021
1.122
1.122

Thuốc lá
63
68
81
68

Nguồn: [10;11]

 Thái Lan có một trữ lượng thiếc rất lớn.

Líp: K55A - Khoa LÞch sử

1
9

Trờng ĐHSP Hà Nội


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thanh Nhàn


Bng 3: Sn lng thiếc quặng tính (Đơn vị: Tấn)
Năm
Châu á
Thái Lan

1956
106.787
12.481

1965
99.000
19.047

1966
105.700
22.555

1967
1968
110.070
117.110
22.490
236.01
Nguồn: [10;12]

Bảng 4: Sản lượng thiếc sơ khai (Đơn vị: Tấn)
Năm
Châu á
Thái lan


1956
76.674
-

1965
80.800
5.524

1966
20.700
16.990

1967
1968
106.830
119.040
26.551
24.434
Nguồn: [10;12]

 Nổi tiếng về những khu rừng chứa đầy gỗ tếch
Bảng 5: Số lượng gỗ (Đơn vị: m³)
Năm
1963
Gỗ tếch
143.977
Các loại 1.539.095

1964
143.199

1.673.309

1965
223.313
1848.713

1966
134.416
1.931.566

1967
182.076
2.147.989

gỗ khác
Nguồn: [10;13]
Như vậy, Thái Lan không chỉ là một vị trí chiến lược quan trọng mà
cịn là một mảnh đất rất đáng thèm khát của bất cứ một đế quốc nào. Các
công ti tư bản Mỹ nhận thấy Thái Lan là một thị trường đầu tư và tiêu thụ
hàng hóa khá hấp dẫn. Bỏ vốn vào Thái Lan, các cơng ty Mỹ khơng
những có thể lợi dụng được nguồn nhân cơng rẻ mạt, nguồn tài ngun
sẵn có, mà cịn giải quyết được khó khăn về thị trường và đẩy được những
cơng nghệ lạc hậu ra bên ngồi, tạo điều kiện cho họ chuyển sang những
công nghệ cao hơn.
Nhằm đạt được ý đồ của mình, dưới cải vỏ “những người bạn của
nhân dân Thái Lan”, được ngụy trang dưới chiêu bài “chống chủ nghĩa thực
dân”, cùng với việc sử dụng tất cả mọi thủ đoạn thâm độc và tàn bạo – từ
bịp bợm về chính trị, mua chuộc và gây sức ép về kinh tế cho đến đảo
chính lật đổ chính quyền, trong vịng hơn 10 năm sau chiến tranh, M ó


Lớp: K55A - Khoa Lịch sử

2
0

Trờng ĐHSP Hà Nội



×