Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Các loại lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh thcs yên bái nguyên nhân và cách chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.97 KB, 86 trang )

mở đầu
I. Lý do chọn đề tài

Nh chúng ta đà biết, để giao tiếp với ngời khác bằng ngôn ngữ, ta phải
nói thành lời. Muốn nói thành lời thì trớc hết phải nói thành câu. Câu là đơn vị
ngôn ngữ nhỏ nhất thực hiện đợc chức năng thông báo, nghĩa là trao đổi đợc
nhận thức, t tởng giữa ngời với ngời.
Câu là đơn vị dùng để giao tiếp giữa ngời với ngời trong xà hội. Vì vậy,
khi nói (hoặc viết), ngời nói (hoặc ngời viết) không thể tự do tùy tiện muốn
tạo câu thế nào cũng đợc. Muốn diễn đạt đúng ý và muốn ngời khác hiểu đúng
ý của mình, ngời nói (ngời viết) phải biết lựa chọn, biết tạo câu sao cho đúng
những quy tắc mà mọi ngời trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ chấp nhận và
sử dụng. Có đặt đợc câu đúng, câu hay hoạt động giao tiếp mới đạt đợc hiệu
quả.
Chính vì lẽ đó, từ nhiều năm nay, khi dạy học môn tiếng Việt ở trờng phổ
thông ngời ta đà rất chú trọng dạy phần ngữ pháp - câu cho học sinh. Câu
tiếng Việt đợc đa vào chơng trình dạy học môn tiếng Việt ở cả tiểu học, trung
học cơ sở lẫn bậc phổ thông trung học. Câu (tiếng Việt) đợc chú trọng nh vậy
là do hiƯu qu¶ sư dơng cđa nã trong giao tiÕp. NÕu một ngời không có kỹ năng
tạo câu tốt thì hoạt ®éng t duy, ho¹t ®éng giao tiÕp cđa ngêi ®ã sẽ gặp rất
nhiều khó khăn.
ý thức đợc điều này, các thầy cô giáo giảng dạy ngữ văn ở phổ thông đÃ
cố gắng cung cấp những kiến thức về câu và rèn luyện kỹ năng đặt câu đúng,
đặt câu hay cho học sinh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đà đạt đợc, việc
dạy và học về câu tiếng Việt ở nhà trờng phổ thông vẫn còn nhiều hạn chế.
Điều này đợc biểu hiện trực tiếp qua kết quả học tập của học sinh. Các em đợc
học rất nhiều về tiếng Việt, đợc rèn luyện các kỹ năng sử dụng tiếng Việt nhng các em vẫn mắc nhiều lỗi khi sử dụng tiếng Việt. Các em học nhiều về đơn
vị câu nhng khi đặt câu, các em vẫn mắc nhiều lỗi về câu. Vậy nguyên nhân
nào dẫn đến hiện trạng đó? Giải pháp nào hạn chế và khắc phục đợc việc mắc
lỗi đó của học sinh? Đây là những câu hỏi lâu nay các nhà nghiên cứu, các
thầy cô giáo giảng dạy môn Ngữ văn đà đặt ra và đi tìm lời giải đáp. Là một


giáo viên dạy ngữ văn ở một tỉnh miền núi, đứng trớc thực trạng học sinh của
mình học tiếng Việt nhng vẫn mắc nhiều lỗi khi sử dụng tiếng Việt trong đó
có lỗi về câu, chúng tôi cũng rất băn khoăn và mong muốn tìm ra lêi gi¶i cho

1


vấn đề này.
Nh trên đà trình bày, học sinh nói chung, học sinh tỉnh Yên Bái nói
riêng, khi sử dụng tiếng Việt thờng hay mắc lỗi. Đó là lỗi chính tả, lỗi dùng
từ, lỗi ngữ pháp v.v... Trong các loại lỗi đó chúng tôi tìm hiểu riêng lỗi về câu
trong các bài làm văn của học sinh THCS tỉnh Yên Bái. Tác giả luận văn chọn
tìm hiểu lỗi về câu bởi lẽ, câu có một vai trò quan trọng trong giao tiếp. Nếu
coi giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ là một quá trình thì việc lập câu, diễn ý là
một mắt xích cơ bản trong quá trình đó. Vì vậy, nếu mắc lỗi về câu thì dễ mắc
lỗi ở cấp độ trên câu. Do đó, việc giúp học sinh cách nhận diện lỗi, tìm
nguyên nhân mắc lỗi và chỉ ra cách chữa phù hợp cho những câu sai là một
việc làm hết sức quan trọng và cần đợc tiến hành ngay.
Đối với học sinh THCS, t duy của các em đà phát triển và các em đà có
một trình độ ngôn ngữ nhất định. Do đó, bên cạnh việc tiếp nhận những tri
thức mới, các em đà có khả năng nhận biết đợc câu đúng, nhận diện đợc
những câu sai, đà có khả năng phân tích những câu sai để tìm nguyên nhân và
đa cách chữa phù hợp.
Hơn nữa, nh chúng ta đà biết giáo dục THCS là cấp cơ sở của bậc trung
học tạo tiền đề cho phân luồng và liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo
dục chuyên nghiệp. Học sinh học xong THCS sẽ có một bộ phận các em ra đời
học nghề và một bộ phận các em sẽ tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn. Chính
vì những lẽ trên, việc giúp học sinh THCS biết phát hiện lỗi, hiểu nguyên nhân
mắc lỗi, biết cách chữa và tránh đợc lỗi về câu là một việc quan trọng và cần
thiết. Việc làm này gióp cho häc sinh "dÇn dÇn cã ý thøc, cã trình độ, có thói

quen nói và viết đúng tiếng Việt" (Phạm Văn Đồng - Giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt). Từ đó năng lực ngôn ngữ của học sinh ngày càng hoàn thiện
và nâng cao.
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc chuẩn hóa ngôn ngữ cho học
sinh nãi chung, häc sinh Trung häc c¬ së ë tØnh Yên Bái nói riêng, tác giả
luận văn chọn đề tài: "Lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh Trung học cơ
sở tỉnh Yên Bái - nguyên nhân và cách chữa".
II. Lịch sử nghiên cứu

Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, câu có vai trò rất quan trọng. Câu
giúp cho việc hình thành, biểu hiện và truyền đạt t tởng, tình cảm từ ngời này sang
ngời khác. Vì vậy, để hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả, ngời tham gia giao tiếp
phải đặt đợc câu đúng, câu hay. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi tạo câu ngời nãi,

2


ngời viết thờng hay mắc lỗi. Việc đặt câu sai dễ gây ra sự hiểu lầm làm cản trở đến
việc bày tỏ tình cảm, thái độ, nhận định, đánh giá cđa mäi ng cđa mäi ng êi víi nhau. V×
vËy, vấn đề này nếu không đợc tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra biện pháp khắc
phục thì sẽ ảnh hởng ®Õn hiƯu qu¶ giao tiÕp, t duy nãi chung, ¶nh hởng đến kết
quả dạy và học môn tiếng Việt ở nhà trờng phổ thông nói riêng.
Chính vì thế, vấn đề lỗi về câu - nguyên nhân và cách chữaluôn là một
vấn đề "nóng" thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, của các thầy cô
giáo giảng dạy môn Tiếng Việt.
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, nhóm tác giả Nguyễn Hữu Tởng Nguyễn Thu - Lê Xuân Khoa đà cho ra đời cuốn sách "Sai, đúng, hay trong việc
dùng từ, đặt câu, chấm câu" (Sách dùng cho học sinh cấp 2). Trong cuốn sách
này, các tác giả đà trình bày, giới thiệu cho học sinh cách đặt câu thế nào là đúng
và bớc đầu chỉ ra hai loại lỗi học sinh thờng mắc phải khi đặt câu là: câu viết sai
cú pháp và câu sai logic.

Tiếp theo, trên tạp chí Ngôn ngữ, số 1 năm 1969, tác giả Trần Phô đăng
bài: "Có thể tìm con đờng ngắn nhất để dạy viết đúng câu". Trong năm bài
dạy về câu mà Trần Phô đa ra có một bài dạy về lỗi câu và cách chữa. Trong
bài viết của mình, Trần Phô bớc đầu chỉ ra ba trờng hợp câu sai là: thiếu hẳn
hạt nhân, thiếu một vế của hạt nhân và cấu trúc hạt nhân bị phá vỡ rối nát.
Theo tác giả Trần Phô, nguyên nhân dẫn đến câu sai là vì không xác lập
đợc hạt nhân của câu. Ông đa ra cách chữa là phải lập nên hạt nhân của câu
rồi thêm phụ ngữ để bổ sung ý nghĩa.
Chịu ảnh hởng quan điểm ngôn ngữ học truyền thống, một số tác giả đÃ
dựa vào cấu trúc câu để tìm hiểu lỗi câu, phân loại lỗi của câu và đề ra phơng
pháp chữa. Tiêu biểu cho nhóm tác giả này là Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn
Xuân Khoa.
Trong bài viết: "Mấy gợi ý về việc phân tích lỗi và sửa lỗi ngữ pháp cho
học sinh" đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, số 3 năm 1974, tác giả Nguyễn Minh
Thuyết đề cập đến hai loại lỗi về câu : lỗi vi phạm quy tắc về cấu tạo câu và
lỗi vi phạm quy tắc về cấu tạo tổ.
Còn Nguyễn Xuân Khoa, trong bài "Lỗi ngữ pháp của học sinh, nguyên
nhân và cách chữa" đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, số 1 năm 1975 đà trình bày tơng đối cụ thể về phân loại lỗi ngữ pháp, cách xác định các loại lỗi về câu,
nguyên nhân mắc lỗi về câu đồng thời chỉ ra nguyên tắc và phơng pháp chữa
lỗi. Theo Nguyễn Xuân Khoa, lỗi ngữ pháp thờng gặp trong bài viết của häc

3


sinh là lỗi về cấu trúc câu và ông đà quy những lỗi ngữ pháp đó vào năm loại
lỗi: câu thiếu thành phần hạt nhân; câu có các thành phần không có quan hệ ý
nghĩa chặt chẽ, chính xác; câu có kết cấu rối nát; lỗi về dùng quan hệ từ; lỗi về
dùng dấu chấm câu.
Dựa vào cấu trúc câu để xác định, phân loại lỗi về câu và đề ra cách chữa
là những đóng góp quan trọng của các tác giả trên trong việc chữa câu sai cho

học sinh. Việc giải quyết lỗi về câu dựa vào cấu trúc câu giúp cho học sinh
viết đợc những câu độc lập đầy đủ các thành phần, tức là đúng về mặt ngữ
pháp. Tuy nhiên, phơng pháp chữa lỗi này chỉ tìm và chữa đợc những câu sai
vì thừa thành phần câu, thiếu thành phần câu hoặc lẫn lộn một số thành phần
câu mà cấu trúc đầy đủ của câu có thể chứa mà không giải thích đợc những
câu sai ở phơng diện chức năng.
Đứng trớc thực tế này, một số tác giả đà có những đề nghị cải tiến cách
xác định lỗi về câu và cách chữa lỗi câu. Tác giả Nguyễn Mai Hồng trong bài
viết: "Mối quan hệ giữa ý và lời trong quá trình hình thành một số kiểu câu sai
của học sinh" đa ra ý kiến: "Việc phân tích cấu trúc nội bộ của từng câu sai
riêng lẻ là việc làm đầu tiên không thể thiếu đợc. Song nếu chỉ chú ý câu sai
trong khuôn khổ một câu riêng lẻ, chúng ta sẽ bị hạn chế tầm nhìn và đi tới
việc phân tích nguyên nhân không đầy đủ, đề ra cách chữa không sát hợp"
[25,42]. Để chữa lỗi về câu, tác giả Nguyễn Mai Hồng đề xuất: "Việc chữa
câu sai có thể đợc tiến hành ở một khâu sâu hơn cấu trúc bề mặt của nó: chữa
ở quá trình tạo câu, ở nơi sẽ sản sinh ra hàng loạt câu sai" [25,42].
Nh vậy, trong bài viết này, Nguyễn Mai Hồng đà đề cập đến hớng giải quyết
lỗi về câu của học sinh từ góc độ t duy của các em. Đây là một đề xuất đúng, tích
cực nhng rất khó thực hiện để giáo viên có thể chữa lỗi cho học sinh.
Cũng bàn về vấn đề dựa vào cấu trúc câu để chữa câu sai, trong bài viết:
"Tìm cách giúp thêm cho học sinh viết đúng câu tiếng Việt", tác giả Diệp
Quang Ban khẳng định: "Việc nghiên cứu câu sai của học sinh dựa vào cấu
trúc là một việc cần thiết, bổ ích... nhng cha đủ. ĐÃ đến lúc phải áp dụng vào
việc dạy viết văn, cái bậc nỉi h¬n bËc cÊu tróc thùc sù thêng dïng hiƯn nay
nhằm trang bị thêm cho học sinh một số kiến thức nữa giúp họ tránh lỗi. Nói
cách khác, cần đề cập đến một số nhân tố trong việc chuyển từ ngôn ngữ sang
lời nói chứ không dừng lại ở một số mô hình tiềm tàng của ngôn ngữ thuần
túy"[9,63].
Đề xuất của hai tác giả Nguyễn Mai Hồng và Diệp Quang Ban bớc đầu


4


đà tiếp cận với những yêu cầu của việc chữa câu sai ở bình diện chức năng.
Tiếc rằng, những đề nghị này lại cha đợc hai tác giả tiếp tục triển khai một
cách cụ thể mà mới chỉ dừng lại ở bớc đặt vấn đề.
Cùng nghiên cứu về câu sai của học sinh, tác giả Nguyễn Đức Dân lại
xem xét ở một góc độ khác: góc độ tâm lí và ông đà chỉ ra hiện tợng: "Chập
cấu trúc - một quá trình tâm lí trong những câu sai của học sinh" (NCGD, số 7
năm 1982). Có thể nói, đề xuất của Nguyễn Đức Dân là những gợi ý lí thú
trong việc xem xét và chữa câu sai cho học sinh.
Vào cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dới ánh sáng của
quan điểm ngôn ngữ học hiện đại, lí thuyết ngôn ngữ học văn bản, lí
thuyết hoạt động giao tiếp dần dần đợc phổ biến rộng rÃi ở nớc ta, việc
nghiên cứu lỗi về câu có nhiều chuyển biến. Lỗi về câu đợc nhìn nhận và
xem xét ở diện rộng hơn, toàn diện hơn, phơng pháp chữa lỗi về câu đợc
trình bày cụ thể hơn.
Trong bài: "Về các phơng pháp chữa câu sai cho học sinh" đăng trên tạp
chí NCGD, số 6 năm 1985, bên cạnh việc nêu lên những mặt mạnh, những
điểm hạn chế của phơng pháp chữa câu sai dựa theo cấu trúc câu, tác giả Trần
Thanh Bình đề xuất phơng pháp chữa câu sai dựa vào cấu trúc của những đơn
vị lớn hơn câu.
Từ năm 1980, do yêu cầu cải cách giáo dục, môn Tiếng Việt có vị trí tơng xứng ngang tầm với các môn học khác. Môn tiếng Việt có nhiệm vụ dạy
và nâng cao trình độ tiếng Việt cho ngời Việt Nam, nhất là cho đối tợng học
sinh. Vì vậy, ngoài việc nghiên cứu lí thuyết về câu, có một số công trình
nghiên cứu dạy tiếng Việt theo hớng thực hành. Trong các cuốn giáo trình viết
theo hớng thực hành, các tác giả của sách đà chú ý đến dạy học câu, xây dựng
các bài tập câu trong đó có bài tập chữa lỗi câu nhằm rèn luyện kỹ năng sử
dụng câu cho học sinh, sinh viên.
Cuốn giáo trình đầu tiên ta phải kể đến là cuốn giáo trình "Làm văn" của

hai tác giả Đình Cao - Lê A. Đây là cuốn giáo trình đà đợc Hội đồng thẩm
định sách của Bộ Giáo dục giới thiệu làm sách dùng chung cho các trờng Đại
học và Cao đẳng s phạm. ở tập I của cuốn giáo trình này, hai tác giả Đình Cao
- Lê A đà dành một phần của sách trình bày lý thuyết chung về câu, việc rèn
luyện kĩ năng viết câu, cách nhận diện câu đúng. Đồng thời, ở phần này các
tác giả đà nêu ra một số câu sai phổ biến cần phải chú trọng khắc phục: câu
sai cấu trúc nòng cốt; câu thiếu vế; câu sai quan hƯ logic; c©u cã kÕt cÊu rèi

5


nát; câu không đảm bảo sự phát triển liên tục của ý trong đoạn văn.
Sau mỗi loại câu sai, các tác giả trình bày nguyên nhân sai và phơng hớng sửa chữa lỗi.
Tiếp theo ta phải kể đến cuốn "Tiếng Việt (thực hành)" của Nguyễn Đức
Dân (Tủ sách Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995). Trong cuốn
sách này, Nguyễn Đức Dân dành cả chơng II của phần: "Một số vấn đề của
câu" để trình bày về câu sai, những loại câu sai. Trong sách, Nguyễn Đức Dân
đa ra 6 loại lỗi về câu là: câu sai do sai chính tả, những câu sai về từ ngữ,
những câu sai về ngữ pháp, sai logic,sai phong cách và sai trong liên kết câu.
ở mỗi loại lỗi, tác giả đa ra ví dụ cụ thể, phân tích nguyên nhân dẫn đến
vi phạm lỗi và đề ra cách sửa cho mỗi loại câu sai.
Trong cuốn: "Tiếng Việt thực hành" của Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên)
và Nguyễn Văn Hiệp, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997, các tác giả dành
chơng II để trình bày về câu, trong đó có viết về lỗi câu. ở phần này, hai tác
giả quy lỗi về câu về ba loại: các lỗi về cấu tạo câu, các lỗi về dấu câu và các
lỗi về liên kết câu.
Đồng thời với việc phân loại lỗi, các tác giả của sách còn đa ra một hệ
thống bài tập thực hành chữa lỗi về câu khá phong phú.
Năm 1997, nhóm tác giả Bùi Minh Toán - Lê A - Đỗ Việt Hùng cũng
xuất bản cuốn giáo trình mang tên: "Tiếng Việt thực hành" (NXB Giáo dục,

1997). Trong cuốn sách, phần chữa các lỗi về câu, các tác giả phân loại câu
mắc lỗi thành 5 loại: lỗi về cấu tạo ngữ pháp của câu, lỗi về quan hệ ngữ nghĩa
trong câu, lỗi về câu thiếu thông tin, lỗi về dấu câu và lỗi về phong cách.
Trong sách, các tác giả đa ra hệ thống bài tập đa dạng, tiêu biểu cho từng
loại lỗi nhằm rèn luyện kỹ năng nhận diện, phân tích và nắm đợc cách chữa
câu sai cho sinh viên. Cuốn giáo trình biên soạn bám sát chơng trình thực
hành do Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành nên đáp ứng phần nào nhu cầu dạy
học môn tiếng Việt, nhu cầu dạy - học câu, chữa lỗi về câu tiÕng ViƯt cho sinh
viªn cịng nh cho häc sinh trong nhà trờng phổ thông.
Cùng năm 1997, tác giả Trần Chí Dõi cũng cho ra mắt độc giả cuốn sách
"Tiếng Việt thực hành" (NXB Giáo dục, 1997). Trong sách, Trần Chí Dõi đÃ
xây dựng các bài tập về câu khá công phu, đa ra các lỗi về câu rất đa dạng và
phức tạp khiến ngời học muốn sửa đợc các lỗi đó phải có kiến thức khá chắc
về lí thuyết câu.
Gần đây nhất phải kể đến cuốn giáo trình "Tiếng Việt thùc hµnh” do hai

6


tác giả Bùi Minh Toán và Nguyễn Quanh Ninh biên soạn. Giáo trình này đợc
biên soạn nhằm phục vụ cho việc dạy và học học phần tiếng Việt thực hành
thuộc chơng trình Cao đẳng S phạm ngành ngữ văn đào tạo giáo viên Trung
học cơ sở. Giáo trình đợc biên soạn hớng tới mục tiêu rèn luyện và nâng cao
các kỹ năng sử dụng tiếng Việt trong đó có kỹ năng đặt câu. Trong giáo trình,
sau phần trình bày những yêu cầu chung về câu trong văn bản, các tác giả đa
ra bốn loại câu sai: câu sai về cấu tạo ngữ pháp, câu sai về quan hệ ngữ nghĩa
giữa các bộ phận, câu sai về dấu câu, câu sai về mạch lạc và liên kết câu trong
văn bản. Ngoài việc phân loại câu sai, chỉ ra nguyên nhân và cách chữa từng
loại câu sai, trong giáo trình, các tác giả còn đa ra một hệ thống bài tập thực
hành chữa lỗi về câu. Có thể nói, đây là cuốn giáo trình có nội dung gần gũi

và gắn với việc dạy và học tiếng Việt ở bậc Trung học cơ sở.
Ngoài những bài viết, những cuốn sách giới thiệu ở trên còn có những bài
viết của một số tác giả khác cũng đề cập đến vấn đề lỗi về câu. Chẳng hạn nh
bài viết của Nguyễn Thị Ban "Nhận diện các dạng lỗi về câu từ góc độ văn bản"
đăng trên tạp chí NCGD, số chuyên đề quý I, năm 1999; bài "Một số biện pháp
hạn chế tình trạng viết c©u sai cđa häc sinh ci bËc TiĨu häc" cđa Đinh Thị
Oanh (tạp chí NCGD, số 11 năm 1999); cuốn sách "Lỗi ngữ pháp và cách khắc
phục" của nhóm tác giả Cao Xuân Hạo - Lí Tùng Hiếu - Nguyễn Kiên Trờng Trần Thị Tuyết Mai (NXB Khoa học Giáo dục, năm 2002)..v.v...
Nhng do khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ có thể điểm qua đợc
một số bài viết, một số cuốn sách của một số tác giả tiêu biểu. Có thể nói,
trong các công trình nghiên cứu đợc giới thiệu ở trên, các tác giả đà rất cố
gắng trong việc nghiên cứu, phân loại và đề xuất các phơng pháp chữa lỗi về
câu. Một số tác giả đà xây dựng đợc một số dạng bài tập rèn luyện kĩ năng tạo
lập câu, kĩ năng nhận diện và chữa lỗi câu cho học sinh, sinh viên.
Tuy nhiên, do xuất phát từ cách tiếp cận, cách nhìn nhận câu sai dựa trên
những quan điểm khác nhau mà giữa các tác giả cha có sự thống nhất trong
cách phân loại lỗi về câu cũng nh phơng pháp chữa cho từng loại lỗi. Chính
điều này đà gây trở ngại cho ngời dạy, ngời học. Họ lúng túng trong việc lựa
chọn cách nhận diện và chữa lỗi câu.
Hơn nữa, hầu hết các công trình nghiên cứu nêu trên, khi khảo sát lỗi về
câu, các tác giả chủ yếu khảo sát các lỗi trên sách, báo hoặc trên bài viết của
học sinh Trung học phổ thông, sinh viên ở một số trờng đại học mà cha có
công trình nào đi sâu vào nghiên cứu lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh

7


THCS để đa ra phơng hớng chữa câu cho phù hợp với các em. Vì vậy, vấn đề
"lỗi về câu - nguyên nhân và cách chữa" vẫn là một vấn đề ngỏ, tiếp tục thu
hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các thầy cô giáo giảng dạy tiếng

Việt.
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu lỗi về câu trong bài làm văn của học
sinh THCS tỉnh Yên Bái, tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi và đa ra cách chữa
phù hợp nhằm rèn luyện cho học sinh biết phát hiện lỗi, biết cách chữa lỗi
trong bài văn của mình cũng nh của ngời khác. Đồng thời giúp các em tránh
đợc các lỗi về câu khi tạo lập văn bản. Lỗi về câu là lỗi thờng gặp trong bài
làm của học sinh. Để chữa đợc lỗi, học sinh phải có kiến thức về ngữ pháp, về
câu tiếng Việt. Việc cung cấp kiến thức đó không phải là nhiệm vụ của đề tài.
Song, khi tìm hiểu lỗi về câu, những kiến thức về ngữ pháp - câu và ngữ pháp
văn bản của mọi ng sẽ là cơ sở giúp nhận diện ra lỗi và chữa lỗi. Vì vậy, chúng tôi đÃ
xây dựng một hệ thống lý thuyết đáng tin cậy nhằm hệ thống lại những kiến
thức tiếng Việt có liên quan phục vụ cho việc chữa lỗi về câu.
Yên Bái là một tỉnh miền núi xa xôi, đời sống của học sinh và của giáo
viên còn nghèo, các tài liệu phục vụ cho giảng dạy thiếu, tài liệu tham khảo
dùng để chữa lỗi về câu cho học sinh THCS của tỉnh hầu nh không có, vì vậy
chúng tôi hi vọng rằng luận văn này giúp giáo viên THCS Yên Bái có thêm tài
liệu tham khảo để chữa lỗi về câu cho học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đợc mục đích đà trình bày ở trên, luận văn phải thực hiện các
nhiệm vụ sau:
- Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc xác định, phân loại lỗi và
chữa lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh THCS tỉnh Yên Bái.
- Xác định, phân loại các loại lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh;
tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi và đa ra quy trình chữa lỗi, cách chữa từng loại
lỗi về câu; xây dựng các bài tập rèn luyện kĩ năng chữa lỗi về câu cho học
sinh.
- Tiến hành thực nghiệm nhằm đánh giá tính khả thi của các vấn đề đợc

đa ra trong luận văn.
IV. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu

Trong khi sử dụng ngôn ngữ, học sinh có thể mắc nhiều loại lỗi nh : lỗi

8


chính tả, lỗi dùng từ, lỗi về câu, lỗi dựng đoạn văn.v.v... Mắc lỗi nào cũng làm
cho lời nói không rõ ràng, thiếu trong sáng, do đó đều phải khắc phục, sửa
chữa. Trong nhiều loại lỗi mà học sinh vi phạm, tác giả luận văn chỉ đi sâu tìm
hiểu, nghiên cứu riêng lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh THCS tỉnh
Yên Bái. Lỗi về câu là một trong những loại lỗi mà học sinh THCS Yên Bái
mắc nhiều trong khi viết văn. Đây là loại lỗi nếu giáo viên không có biện pháp
khắc phục kịp thời sẽ có ảnh hởng lớn đến khả năng tạo lập văn bản của các
em học sinh.
Khảo sát một số bài văn viết của học sinh THCS tỉnh Yên Bái, chúng tôi
nhận thấy các em mắc khá nhiều lỗi về câu. Lỗi về câu các em mắc phải rất đa
dạng và trong một câu có thể có nhiều lỗi chồng chéo nhau. Vì vậy, trong
khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ có thể đa ra một số loại lỗi về câu
phổ biến mà các em thờng mắc và chỉ ra nguyên nhân, cách khắc phục các
loại lỗi đó.
Những lỗi về câu mà học sinh THCS Yên Bái thờng vi phạm là:
- Lỗi về cấu tạo ngữ pháp
- Lỗi về nội dung logic - ngữ nghĩa
- Lỗi về dấu câu
- Lỗi về liên kết câu trong văn bản
V. Phơng pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phơng pháp sau:

1. Phơng pháp điều tra, khảo sát thực tiễn
Chúng tôi sử dụng phơng pháp này nhằm tìm hiểu thực tiễn mắc lỗi và
chữa lỗi về câu trong nhà trờng THCS tỉnh Yên Bái. Để tìm ra các loại lỗi về
câu, chúng tôi đà tiến hành khảo sát một số bài làm văn của học sinh THCS để
tìm hiểu những lỗi về câu mà các em đà mắc phải. Đồng thời, tác giả luận văn
còn dự giờ, khảo sát các tiết dạy, phỏng vấn giáo viên, soạn phiếu điều tra
dành cho giáo viên giảng dạy môn ngữ văn ở các trờng THCS trong tỉnh Yên
Bái về các vấn đề có liên quan đến đề tài.
2. Phơng pháp thống kê
Phơng pháp thống kê nhằm xác định, phân loại các loại lỗi về câu có
trong bài làm văn của học sinh làm cơ sở để có thể chữa lỗi câu cho các em.
Bên cạnh đó, phơng pháp thống kê còn đợc sử dụng để xử lí các kết quả thu đợc sau khi tiến hành thực nghiệm s phạm.
3. Phơng pháp phân tích ngôn ngữ

9


Phơng pháp phân tích ngôn ngữ đợc sử dụng trong việc phân tích câu
nhằm xác định câu đúng, phát hiện câu sai phân tích tìm nguyên nhân dẫn đến
việc viết câu sai của học sinh THCS tỉnh Yên Bái để từ đó đa ra cách chữa phù
hợp.
4. Phơng pháp thực nghiệm s phạm
Phơng pháp thực nghiệm s phạm đợc dùng để xem xét, xác nhận tính
đúng đắn,tính hợp lí và tính khả thi của vấn đề mà luận văn đa ra. Đó là tổ
chức kiểm tra (có sự đánh giá) khả năng làm các bài tập nhận diện, sửa chữa
lỗi vỊ c©u cđa häc sinh ë mét sè trêng THCS tỉnh Yên Bái, từ đó có kết luận
về quy trình chữa lỗi, các dạng bài tập luyện kỹ năng chữa lỗi về câu mà tác
giả luận văn đà đề xuất.
VI: Đóng góp của luận văn


Tác giả luận văn thực hiện đề tài với mong muốn:
- Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn cho vấn đề chữa lỗi về câu cho HS
THCS Yên Bái
- Khảo sát, thống kê và đa ra những đánh giá có ý nghĩa khoa học về thực
trạng mắc lỗi và nguyên nhân mắc lỗi về câu của HS ở các trờng THCS Yên
Bái
- Xây dựng quy trình chữa lỗi về câu, các dạng bài tập chữa lỗi câu nhằm
rèn luyện kĩ năng chữa lỗi về câu cho HS, từ đó giúp học sinh tránh đợc các
lỗi về câu khi tạo lập văn bản
VIi. Cấu trúc của luận văn

Luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận văn gồm ba
chơng :
Chơng I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
Chơng II: Các loại lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh THCS Yên Bái nguyên nhân và cách chữa.
Chơng III: Thực nghiệm s phạm.

1
0


nội dung
Chơng I:
Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
A. Cơ sở lí luận

Để có thể nhận diện và chữa lỗi về câu cho học sinh một cách chính xác,
toàn diện, khoa học, trớc tiên chúng ta phải dựa vào tiền đề lí thuyết khoa học.
Có rất nhiều lí thuyết khoa học liên quan và giúp ích cho việc chữa lỗi về câu
nh Giáo dục học, Tâm lí học, Tâm lí ngôn ngữ học. v.v... nhng do khuôn khổ

của luận văn, tác giả luận văn chỉ trình bày những vấn đề lí thuyết cần yếu có
liên quan trực tiếp đến việc giải quyết nhiệm vụ của đề tài. Đó là về câu tiếng
Việt; về văn bản và những yêu cầu chung của việc đặt câu trong văn bản.
I. câu tiếng Việt

Khi nghiên cứu ngôn ngữ, câu là một trong những đối tợng đợc các nhà
ngôn ngữ học đặc biệt quan tâm. Trong các tài liệu ngôn ngữ học ở nớc ta
cũng nh trên thế giới đà có rất nhiều định nghĩa về câu nhng do nghiên cứu từ
những góc độ khác nhau, phơng diện khác nhau mà các định nghĩa về câu của
các nhà nghiên cứu có những điểm khác nhau. Hiện nay, khi nghiên cứu về
câu các nhà nghiên cứu thờng xem xét câu ở ba bình diện: kết học, nghĩa học,
dụng học. Khi tìm hiểu câu trên ba bình diện ấy ta thấy câu có những nét
chung nh:
- Về chức năng, câu có chức năng thông báo và là đơn vị thông báo nhỏ
nhất.
- Về nội dung, câu thông tin cho ngời ta biết một tin nào đấy và kèm theo
tin đó câu còn cho ta biết thái độ, tình cảm cách đánh giá của ngời nói (hoặc
ngời viết) với nội dung tin đợc nói tới và đối với ngời nghe (hoặc ngời đọc).
- Về hình thức, câu đợc cấu tạo theo các quy tắc nhất định của một ngôn
ngữ, có tính tự lập và mang ngữ điệu kết thúc.
Nh vậy, với cách hiểu nh trên câu đợc xem xét toàn diện hơn. ở đây, câu
đợc xem xÐt kh«ng chØ bã hĐp trong cÊu tróc có pháp của nó mà còn đợc xem
xét ở phơng diện nghĩa và phơng diện chức năng. Trong luận văn này, chúng
tôi cũng vận dụng cách hiểu nh trên để tìm hiểu về câu trong các bài tập làm
văn của học sinh THCS Yên Bái và đó cũng là cơ sở để tác giả luận văn xác
định câu đúng/ câu sai trong các bài văn do các em tạo lập.
II.Văn bản

2.1. Khái niệm về văn bản


1
1


Văn bản là sản phẩm ngôn ngữ do con ngời tạo ra trong quá trình giao
tiếp.Nó vừa là sản phẩm vừa là phơng tiện của hoạt động giao tiếp. Văn bản là
một đơn vị ngôn ngữ đợc tổ chức từ các câu, thờng bao gồm nhiều câu (cũng
có trờng hợp chỉ có một câu).Văn bản bao gồm nhiều câu, nhng những câu đó
phải liên hệ, gắn bó với nhau để tạo thành một thể thống nhất. Tuy là sự tập
hợp của các câu nhng văn bản luôn luôn là một chỉnh thể. Tính chỉnh thể của
văn bản đợc biểu lộ ë tÝnh chÊt trän vĐn vỊ néi dung vµ tÝnh chất hoàn chỉnh
về hình thức. Mỗi văn bản có một tổ chức kết cấu bên trong chặt chẽ và mỗi
văn bản hớng tới một mục tiêu nhất định. Từ trên, ta có thể hiểu: Văn bản là
sản phẩm của hoạt động giao tiếp ngôn ngữ ở dạng viết,thờng là tập hợp của
các câu, có tính trọn vẹn về nội dung,tính hoàn chỉnh về hình thức, có tính liên
kết chặt chẽ và hớng tới một mục tiêu giao tiếp nhất định [45, 27].
2.2. Liên kết liên câu trong văn bản
Văn bản thờng bao gồm nhiều câu nhng văn bản không phải là sự ghép
nối, không phải là một phép cộng đơn giản của các câu rời rạc, lẻ tẻ mà là một
thể thống nhất hữu cơ. "Trong văn bản các câu móc nối với nhau tạo thành
một mạng lới dày đặc của những mối quan hệ trong đó từng câu phải nằm
trong mạng lới và gắn bó không thể tách rời với các câu khác. Những mối
quan hệ đó giữa các câu đợc ngôn ngữ học văn bản gọi là liên kết liên
câu[11,15]. Sự liên kết của các câu trong đoạn văn, văn bản thể hiện ở hai phơng diện: nội dung và hình thức. Giữa hai phơng diện này có mối quan hệ biện
chứng chặt chẽ với nhau. Liên kết về nội dung đợc thể hiện bằng một hệ thống
các phơng tiện liên kết về hình thức, và liên kết về hình thức chủ yếu dùng để
diễn đạt sự liên kÕt vỊ néi dung. Sù liªn kÕt vỊ néi dung của các câu đợc biểu
hiện ở việc tất cả các câu trong văn bản phối hợp với nhau một cách hài hoà và
bổ sung cho nhau để cùng thể hiện một nội dung của văn bản.
Liên kết hình thức chính là sự sử dụng phối hợp hài hoà các yếu tố ngôn ngữ

để vật chất hoá sự liên kết nội dung.
Có thể nói, chính sự liên kết của các câu là nhân tố khiến cho một tập
hợp các câu trở thành một văn bản thống nhất, đồng thời cũng chính sự liên
kết này là điều kiện cho sự tồn tại và đứng vững của mỗi câu trong đoạn văn
và văn bản. Tìm hiểu lỗi về câu trong các bài tập làm văn là xem xét những
văn bản mà học sinh tạo ra. Vì vậy, những vấn đề lí luận về văn bản, về liên
kết liên câu trong văn bản là cơ sở để tác giả luận văn xem xét một cách thoả
đáng những trờng hợp câu không đầy đủ cấu trúc có trong các bài văn, là cơ

1
2


sở để xem xét những trờng hợp nào câu đợc coi là đúng, những trờng hợp nào
câu bị coi là sai. Đồng thời, những hiểu biết về văn bản và liên kết câu trong
văn bản còn là cơ sở chúng tôi dựa vào đó để xác định những lỗi về liên kết
câu có trong bài làm văn của học sinh, từ đó đa ra cách chữa phù hợp.
III. Những yêu cầu chung của việc đặt câu trong văn bản

Muốn giao tiếp với nhau chúng ta không những phải huy động, lựa chọn
từ ngữ mà còn phải biết tạo câu, đơn vị ngôn ngữ có chức năng thông báo. Khi
đặt câu, nhất là đặt câu trong văn bản, ngời viết cần đáp ứng những yêu cầu
chung về câu nh sau:
3.1. Đặt câu phải đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt
Ngôn ngữ là phơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngời trong xÃ
hội. Để thực hiện chức năng giao tiếp, trong mỗi cộng đồng ngôn ngữ tồn tại
những quy tắc tạo câu đặc trng cho ngôn ngữ của cộng đồng đó. Vì vậy, trong
quá trình sử dụng, ngời tham gia giao tiếp không thể tùy tiện muốn tạo câu thế
nào cũng đợc.Muốn giao tiếp đợc và giao tiếp có hiệu quả, mỗi cá nhân trong
cộng đồng ngôn ngữ đó phải đặt câu đúng các quy tắc ngữ pháp. Câu không

đặt đúng quy tắc ngữ pháp là những câu sai. Khi đặt câu tiếng Việt, chúng ta
cần lu ý một số quy tắc ngữ pháp cơ bản sau:
3.1.1. Cấu tạo đúng các cụm từ
Muốn cấu tạo đúng câu, trớc hết cần cấu tạo đúng các cụm từ. Cụm từ là
sự tổ hợp của các từ theo các quan hệ ý nghĩa và ngữ pháp để tạo nên một đơn
vị thống nhất, đảm nhiệm một thành phần ngữ pháp trong câu.
Căn cứ vào quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong cơm tõ, ta cã mét
sè lo¹i cơm tõ:
- Cơm tõ chính phụ
- Cụm từ đẳng lập
- Cụm từ chủ vị
Mỗi loại cụm từ nêu trên đều có quy tắc cấu tạo riêng. Quy tắc đó thể
hiện ở sự kết hợp, sắp xếp các từ trong cụm từ theo một trật tự nhất định. Vì
vậy, khi đặt câu, ta phải chú ý đến quy tắc đó.
3.1.2. Cấu tạo đúng các kiểu câu theo cấu tạo ngữ pháp
3.1.2.1. Cấu tạo đúng kiểu câu đơn
3.1.2.1.1. Câu đơn bình thờng, các thành phần câu
a. Câu đơn bình thờng là câu đợc cấu tạo gồm hai thành phần : chủ ngữ
và vị ngữ. Hai thành phần này tạo nên nòng cốt của câu đơn.

1
3


b. Các thành phần câu:
* Các thành phần chính: chủ ngữ và vị ngữ.
- Chủ ngữ
Chủ ngữ là thành phần câu có quan hệ qua lại và quy định lẫn nhau với
thành phần vị ngữ,chủ ngữ nêu ra vật,hiện tợng nằm trong mối quan hệ nghĩa
chặt chẽ và trực tiếp với đặc trng và quan hệ sẽ đợc nói đến trong vị ngữ. [6,

39]
- Vị ngữ
Vị ngữ là thành phần câu có quan hệ qua lại và quy định lẫn nhau với
chủ ngữ,vị ngữ nêu lên đặc trng hoặc quan hệ vốn có ở vật nói ở chủ ngữ hoặc
có thể áp đặt chúng một cách có lí do cho vật đó" [6, 43].
* Các thành phần ngoài nòng cốt câu
- Thành phần trạng ngữ
Thành phần trạng ngữ là thành phần phụ của câu trình bày hoàn cảnh
diễn ra sự kiện đợc miêu tả ở nòng cốt của câu.
Ví dụ: Sáng nay, trời bắt đầu trở lạnh.
- Thành phần đề ngữ
Thành phần đề ngữ là thành phần phụ của câu, đứng trớc nòng cốt câu, đợc dùng để nêu một vật, một đối tợng, một nội dung cần bàn bạc, với t cách
chủ đề của câu chứa nó.
Ví dụ: Lũ chúng tôi, bọn ngời tứ xứ.
- Thành phần tình thái
Thành phần tình thái là thành phần phụ biểu thị quan hệ giữa nội dung
câu nói với hiện thực, giữa ngời nói với nội dung sự việc đợc nói tới, giữa ngời
nói và ngời nghe.
Ví dụ: Vâng, cháu cũng đà nghĩ nh cụ.
- Thành phần phụ chú
Thành phần phụ chú là thành phần có tác dụng ghi chú các chi tiết về thái
độ, tình cảm, về nguồn gốc... làm cho ngời ta hiểu câu nói đúng hơn, rõ hơn.
Ví dụ: Nguyễn Du, tác giả truyện Kiều, là đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
- Thành phần liên kết (chuyển tiếp)
Thành phần liên kết thờng đứng ở đầu câu, thực hiện chức năng chuyển
tiếp từ câu nọ sang câu kia hoặc liên kết các câu với nhau.
Ví dụ: Tóm lại, nhiệm vụ nghiên cứu mặt trăng rất quan trọng.
(Tạ Quang Bửu)

1

4


Nh vậy, việc cấu tạo câu đơn nói chung, việc cấu tạo các thành phần câu
nói riêng đều có các quy tắc riêng nên khi đặt câu nếu không tuân thủ các quy
tắc đó câu sẽ sai.
3.1.2.1.2. Câu đơn đặc biệt và câu rút gọn
- Câu đơn đặc biệt:
Bình thờng, câu đơn đợc cấu tạo bằng một nòng cốt gồm hai thành phần
chính: CN và VN và có thể có thành phần phụ. Nhng trong những hoàn cảnh
giao tiếp nhất định, câu có thể có cấu tạo đặc biệt chỉ có một từ hoặc một cụm
từ chính phụ hay đẳng lập. Từ hay cụm từ đó không thể phân tách thành hai
thành phần chủ ngữ và vị ngữ tuy chúng vẫn thực hiện đợc chức năng thông
báo nh một câu đơn bình thờng. Những câu đó đợc gọi là câu đơn đặc biệt. Để
hiểu đợc câu đơn đặc biệt, ta không cần hoặc không thể thêm vào câu một
thành phần nào khác. Tự bản thân mình, câu đơn đặc biệt là một đơn vị thông
báo.
Ví dụ: Trờng đại học S phạm Hà Nội.
(biển đề trớc cổng trờng)
Ngoài từ hay cụm từ làm nòng cốt câu, câu đơn đặc biệt cũng có thể có
thành phần phụ nh câu đơn bình thờng.
- Câu rút gọn (câu bị tỉnh lợc thành phần) là câu chỉ tồn tại đợc trong một
ngữ cảnh nhất định. Dựa vào ngữ cảnh, ngời ta có thể tỉnh lợc thành phần câu
khi nó đà rõ. Cũng dựa vào ngữ cảnh, ngời ta có thể khôi phục đợc một cách
chính xác thành phần câu đà bị tỉnh lợc.
Ví dụ :
(1) Bạn làm bài tập toán cha?
- Làm rồi.
(tỉnh lợc chủ ngữ)
(2) Sáng nay ai đến cơ quan sớm nhất?

- Tôi.
(tỉnh lợc vị ngữ)
(3) Bạn đà đến gặp thầy giáo cha?
- Cha.
(tỉnh lợc cả chủ ngữ và vị ngữ)
Những hiểu biết về câu đơn bình thờng, câu đặc biệt, câu rút gọn là cơ sở
để chúng ta phân biệt, xác định đợc đâu là câu đúng, đâu là câu sai do thiếu
thành phần.
3.1.2.2. Cấu tạo đúng kiểu câu phức thành phần câu
Câu phức thành phần câu là câu có chứa thêm cụm chủ vị khác trong
nòng cốt.

1
5


- Câu có chủ ngữ là một cụm chủ vị
Ví dụ: Cách mạng tháng Tám thành công đà tạo bớc tiến nhảy vọt cho
Việt Nam.
- Câu có vị ngữ là một cụm chủ vị
Ví dụ: Giếng làng em nớc rất trong.
- Câu có cụm chủ vị làm thành tố phụ cho danh từ hoặc động từ
Ví dụ: (1) Cái áo tôi mới mua rất đẹp.
(2) Tôi thấy anh ấy ở nhà.
3.1.2.3. Cấu tạo đúng kiểu câu ghép
Câu ghép là câu có từ hai cụm chủ vị trở lên (hai nòng cốt câu đơn) đồng
thời các cụm chủ vị có tính độc lập tơng đối so với nhau, không có cụm chủ vị
nào làm thành phần cho một cụm chủ vị nào. Mỗi cụm chủ vị nh thế làm
thành một vế và chúng ghép lại để tạo thành một đơn vị mới.
Trong câu ghép, về mặt ngữ pháp, các vế câu có thể có quan hệ đẳng lập

hay quan hệ chính phơ víi nhau, vỊ mỈt ý nghÜa, cã nhiỊu quan hệ khác nhau.
- Câu ghép đẳng lập biểu hiện quan hệ ý nghĩa liệt kê
Ví dụ: Mặt trời lên và sơng mù tan dần.
- Câu ghép đẳng lập có quan hệ lựa chọn
Ví dụ: Ngày mai, hoặc là anh đi hoặc là tôi đi.
- Câu ghép đẳng lập có quan hệ đối nghịch, tơng phản
Ví dụ: Tôi đến chơi nhng anh ấy đi vắng.
- Câu ghép đẳng lập có quan hệ hô ứng
Ví dụ: Ma càng to, gió càng mạnh
- Câu ghép chính phụ có quan hệ giả thuyết (điều kiện) - hệ quả
Ví dụ: Nếu tôi đợc về Hà Nội thì tôi sẽ đi thăm lăng Bác.
- Câu ghép chính phụ có quan hệ nhân quả
Ví dụ: Vì nó lời học nên nó bị điểm kém.
- Câu ghép chính phơ cã quan hƯ mơc ®Ých - sù kiƯn
VÝ dơ: Anh ấy chơi đàn cho tôi nghe.
- Câu ghép chính phụ có quan hệ nhợng bộ - tăng tiến
Ví dụ: Không những cây không có hoa, mà lá cũng khô héo dần.
Khi đặt câu trong văn bản, tùy theo nhu cầu biểu hiện nội dung và phụ
thuộc vào phong cách văn bản, vào thể loại văn bản mà ngời viết cần lựa chọn
và đặt câu theo đúng quy tắc ngữ pháp của tiếng Việt. Nếu nói và viết một
cách tùy tiện, không đáp ứng chuẩn ngữ pháp chung thì câu sÏ bÞ sai.

1
6


3.2. Câu cần đúng về nội dung ý nghĩa
Trong quá trình đặt câu, ngoài yêu cầu viết đúng cấu tạo ngữ pháp, ngời
viết còn phải chú ý đến nội dung ý nghĩa của câu. "Nghĩa của câu bao gồm
toàn bộ nội dung mà ngời phát ngôn thông báo bằng chỉnh thể câu (tức là toàn

bộ cấu trúc cú đoạn và siêu cú đoạn của câu) đặt trong mối quan hệ với ngữ
cảnh, ngữ huống, với hiện thực đợc phản ánh và cả với tâm lí của chính ngời
phát ngôn" [29, 1]. Nói đến nội dung ý nghĩa của câu là nói đến hai thành
phần nghĩa cơ bản: nghĩa miêu tả, nghĩa tình thái.
- Nghĩa miêu tả trong câu là thành tố nghĩa phản ánh vật,việc, hiện tợng
cần đợc nói đến vào trong câu qua nhận thức của con ngời.
- Nghĩa tình thái trong câu là thành tố chỉ ý định (ý chí, ý muốn),thái độ,
tình cảm của ngời nói đối với điều đợc nói ra.
Vì vậy, khi tạo lập văn bản, để đặt câu đúng về nội dung ý nghĩa, ta cần
chú ý đến các mặt sau:
- Nội dung mà câu biểu hiện cần phản ánh đúng hiện thực (hiện thực
ngoài ngôn ngữ). Những câu phản ánh không đúng hiện thực khách quan là
những câu sai.
- Quan hệ ý nghĩa trong câu phải có tính lôgic; có nghĩa là ý nghĩa trong
câu phải phù hợp với những quan hệ trong thực tế, phù hợp với các quan hệ và
quy luật cña nhËn thøc, t duy chung cña con ngêi.
- Quan hệ ý nghĩa giữa các bộ phận trong câu phải phù hợp với các phơng tiện hình thức thể hiện quan hệ, nếu không có sự phù hợp đó, câu cũng
sai.
- Nội dung của các thành phần câu, các bộ phận trong câu phải có sự tơng hợp, không đợc mâu thuẫn nhau.
- Về mặt nghĩa, câu trong văn bản còn yêu cầu phải có thông tin mới.
Mỗi câu vừa duy trì, vừa phát triển nội dung chung của văn bản, của câu đi trớc. Nếu câu không có thông tin thì vô bổ và không góp phần vào sự phát triển
nội dung của văn bản.
3.3. Câu phải đợc đánh dấu câu thích hợp
Chúng ta đều biết, ngôn ngữ viết không giống với ngôn ngữ nói. Một
trong những điểm quan trọng để phân biệt sự khác nhau ấy là ngôn ngữ viết
không có những điều kiện phụ trợ để diễn tả (nh ngữ điệu, cử chỉ...) bên cạnh
những tín hiệu của nó là chữ viết. Thay cho những điều kiện ấy, chữ viết cần
có các dấu ngắt câu. Dấu ngắt câu là những kí hiệu dùng trong chữ viết giúp

1

7


cho sự diễn đạt ngôn ngữ đợc minh bạch. Nó có tác dụng làm cho cấu tạo câu
văn và quan hệ ngữ pháp giữa các từ trong câu đợc rõ ràng, giúp cho việc diễn
đạt nội dung đợc chính xác. Nếu không dùng dấu câu hoặc dùng dấu câu
không thích hợp thì nghĩa của câu có thể bị hiểu sai hoặc đợc hiểu theo nhiều
cách khác nhau, gây khó khăn cho việc lĩnh hội văn bản.
Chữ viết của tiếng Việt hiện nay có 10 dấu câu:
- Dấu chấm đánh dấu kết thúc câu trần thuật
- Dấu hỏi đánh dấu kết thúc câu hỏi
- Dấu chấm than đánh dấu kết thúc câu cầu khiến và câu cảm thán
- Dấu hai chấm là dấu dùng ở trong câu báo hiệu phần đi sau có tính chất
giải thích, cụ thể hóa, nêu dẫn chứng hay liệt kê các phơng diện khác nhau
của nội dung mà bộ phận câu đi trớc biểu hiện.
- Dấu ba chấm biểu thị sự liệt kê cha hết, biểu thị lời nói bị ngắt quÃng
hoặc lời nói kéo dài hoặc phần câu bị tỉnh lợc (lúc đó dấu ba chấm đặt trong
ngoặc đơn).
- Dấu chấm phẩy là dấu dùng trong câu. Nó đợc dùng để ngăn cách các
bộ phận của câu khi các bộ phận này về mặt ngữ pháp có thể tồn tại độc lập
nh một câu, nhng về mặt ý nghĩa thì vẫn có quan hệ rõ rệt với bộ phận đi trớc.
- Dấu phẩy là dấu dùng trong câu. Nó dùng để ngăn cách các thành phần
cùng loại, ngăn cách các vế trong câu ghép hoặc ngăn cách các thành phần
phụ, thành phần biệt lập với các thành phần chính của câu.
- Dấu gạch ngang là dấu dùng để phân cách thành phần chú thích ở trong
câu hoặc đặt ở đầu dòng trớc các ý liệt kê hoặc đặt trớc các lời đối thoại...
- Dấu ngoặc đơn là dấu dùng để tách biệt các thành phần biệt lập hay bổ
sung hoặc các phần chỉ nguồn gốc, xuất xứ...
- Dấu ngoặc kép là dấu dùng để đánh dấu các từ, cụm từ, câu hoặc cả
một đoạn trích dẫn nguyên văn của ngời khác; đánh dấu lời nói trực tiếp của

nhân vật, đánh dấu từ ngữ với ý mỉa mai hoặc dùng để ghi tên tác phẩm, tên
sách... trong một câu văn đề cập đến chúng.
Trên đây là một số chức năng, công dụng cơ bản của các dấu câu tiếng
Việt. Trong thực tế sử dụng, các dấu câu còn có thể có những công dụng khác.
Những vấn đề về dấu câu vừa trình bày ở trên là cơ sở lí thuyết để chúng tôi
dựa vào đó nhận diện và lí giải những lỗi dùng dấu câu có trong bài làm văn
của học sinh.
3.4. Các câu cần liên kết chặt chẽ trong văn bản

1
8


Văn bản là một đơn vị ngôn ngữ đợc tổ chức từ các câu,thờng bao gồm
nhiều câu. Để văn bản là một thể thống nhất, các câu phải có sự liên kết
chặt chẽ với nhau. Sự liên kết của các câu trong văn bản thể hiện ở hai ph ơng diện:
3.4.1. Liên kết nội dung
Các câu khi đi vào văn bản đà mất đi phần nào tính độc lập so với khi
đứng biệt lập. Chúng chịu sự chi phối của một hạt nhân nghĩa. Hạt nhân nghĩa
chính là nội dung cô đúc và khái quát của văn bản. Muốn thể hiện đợc hạt
nhân nghĩa của văn bản các câu cần phải liên kết với nhau. Đó là sự liên kết
nội dung. Liên kết nội dung trong văn bản đợc thể hiện cụ thể ở sự thống nhất
về đề tài, ở sự nhất quán về chủ đề và sự chặt chẽ về lôgic.
- "Đề tài đợc hiểu là mảng hiện thực đợc tác giả nhận thức và thể hiện
trong văn bản. Khi tất cả các câu trong văn bản cùng tập trung nói về một đề
tài,một phạm vi hiện thực.v.v..., thì văn bản đó đợc xác nhận đà có sự thống
nhất về đề tài" [32].
- "Chủ đề trong văn bản là quan điểm, là thái độ hoặc điều mà tác giả
muốn dắt dẫn ngời đọc đến thông qua đề tài của văn bản.Khi tất cả các câu
trong một văn bản đều đợc viết theo một quan điểm, một chính kiến..., văn

bản ®ã sÏ cã sù thèng nhÊt chđ ®Ị" [32].
- "L«gÝc là những quy luật tồn tại, vận động và phát triển của hiện thực
khách quan, đồng thời cũng còn là những quy luật của nhận thức về hiện thực
khách quan. Vì thế, muốn văn bản bảo đảm đợc sự thống nhất lôgíc, câu cần
phải phản ánh đúng quy luật ấy" [32].
Nh vậy, trong văn bản liên kết chủ đề thể hiện ở việc duy trì chủ đề và
triển khai chủ đề. Hơn nữa, sự triển khai chủ đề giữa các câu phải có tính
logic. Nghĩa là, quan hệ về nội dung của các câu phải có sự phù hợp với các
quan hệ và quy luật trong thực tế khách quan cịng nh phï hỵp víi quy lt
nhËn thøc, t duy của con ngời.
3.4.2. Liên kết hình thức
Liên kết hình thức là sự sử dụng phối hợp một cách hài hòa các yếu tố
ngôn ngữ để vật chất hóa sự liên kết nội dung, nghĩa là, giữa các câu với nhau
có những phơng tiện hình thức để biểu hiện sự liên kÕt néi dung. C¸c yÕu tè

1
9


ngôn ngữ đó thuộc một số phơng thức hay phơng tiện liên kết sau:
- Phơng thức lặp: dùng lặp lại ở các câu một hay một số yếu tố ngôn ngữ
nào đó.
- Phơng thức liên tởng: dùng các từ ngữ cùng trờng nghĩa, gần nghĩa hoặc
trái nghĩa ở các câu trong văn bản để tạo quan hệ liên tởng.
- Phơng thức thế: là phơng thức thay thế từ, ngữ ở câu đi trớc bằng các từ
ngữ tơng đơng ở các câu đi sau. Nhờ đó, các câu này liên kết đợc với nhau.
- Phơng thức nối: dùng các từ ngữ chuyên thực hiện chức năng nối kết
các câu với nhau.
- Phơng thức tỉnh lợc: tỉnh lợc từ ngữ ở câu đi sau khi nó đà đợc thể hiện
ở câu đi trớc, nhờ đó hai câu liên kết với nhau.

- Phơng thức trật tự: để đảm bảo cho liên kết chủ đề và liên kết logic, các
câu phải đợc sắp xếp theo một trật tự nhất định. Chính trật tự sắp xếp các câu
là một nhân tố thể hiện sự liên kết của chúng.
3.5. Câu viết phải phù hợp với phong cách văn bản
Việc phân chia văn bản thành các phong cách khác nhau là do hoàn cảnh
giao tiếp, phạm vi giao tiếp chi phối. Mỗi loại văn bản có những đặc điểm sử
dụng khác nhau. Vì thế, các câu đặt ra phải thỏa mÃn những đặc điểm của
từng loại văn bản. Nếu những câu đặt ra không phù hợp với đặc điểm phong
cách văn bản thì đó là những câu sai.
Chữa lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh chính là hiệu đính lại
những chỗ học sinh đà vi phạm các quy tắc chung về câu tiếng Việt. Những
kiến thức cơ bản về câu, về văn bản và những yêu cầu chung của việc đặt câu
trong văn bản vừa trình bày ở trên là cơ sở lý luận tin cậy mà chúng ta có thể
dựa vào đó để xem xét, nhận diện câu sai, tìm ra nguyên nhân dẫn đến câu sai
và đề ra cách chữa phù hợp.
B. Cơ sở thực tiễn
I. Sơ lợc về tình hình kinh tế- xà hội và giáo dục của tỉnh
Yên Bái

Yên Bái là một tỉnh miền núi đợc đánh giá là một trong nh÷ng tØnh nghÌo
trong níc. TØnh cã diƯn tÝch tù nhiên là 6882km 2. Dân c phân bố không tập
trung và có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng, miền trong tỉnh. Yên Bái là
một tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cùng sinh sống nh dân téc Tµy,

2
0




×