1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới đất nớc hiện nay đòi hỏi phải phát huy đợc quyền
làm chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nớc,
kiểm soát nhà nớc, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và
nạn tham nhũng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ơng
Đảng khóa VIII (tháng 6 năm 1997) khẳng định, khâu quan trọng và cấp bách
trớc mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Bác Hồ nói rất giản
dị rằng dân chủ là dân là chủ, dân làm chủ, là dân tin, dân muốn nói, muốn
bàn việc nớc và làm việc nớc. Thực hành dân chủ là nhằm phát huy sức sáng
tạo, lực lợng vật chất và tinh thần của nhân dân trong công cuộc kiến tạo xÃ
hội mới ấm no, hạnh phúc. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động,
mở rộng dân chủ xà hội chủ nghĩa (XHCN) vừa là mục tiêu, vừa là động lực
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Với tinh thần ấy, Đại hội IX của Đảng xác định lại một lần nữa vị trí, tầm
quan trọng lâu dài và bức thiết của vấn đề dân chủ. Đại hội đà xác định mục
tiêu chiến lợc của cách mạng nớc ta trong thời kỳ mới là thực hiện dân giàu,
nớc mạnh, xà hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, quyền làm chủ
của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu,
tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng và cha bị đẩy lùi. Tình trạng khiếu kiện,
điểm nóng chính trị - xà hội còn xảy ra ở nhiều nơi làm giảm lòng tin của
nhân dân vào Đảng, Nhà nớc, ảnh hởng không tốt đến sản xuất và đời sống.
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18 tháng 2 năm 1998 của Bộ Chính trị về
việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 và Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 08 tháng
09 năm 1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và
trong hoạt động của cơ quan không chỉ nói lên tính cấp thiết của việc phát huy
2
quyền làm chủ của nhân dân mà còn đặt ra yêu cầu đối với việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, làm việc có năng suất, chất
lợng, hiệu quả, không tham nhũng, lÃng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu
nhân dân. Thực hiện chế độ dân chủ ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp
quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn bó với quyền lợi và
nghĩa vụ của họ, đồng thời phát huy dân chủ đại diện, nâng cao chất lợng và
hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phơng cơ sở.
Trong nhiều trờng trung học phổ thông (THPT) ở Hà Nội, việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30-CT/TW và Nghị định 71/1998 của Chính
phủ, Quyết định 04 của Bộ GD&ĐT đà bớc đầu tạo ra không khí dân chủ trong
các trờng học, góp phần vào việc dạy tốt, học tốt. Tuy nhiên cũng giống nh
nhiều cơ quan, đơn vị thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác, vẫn còn có trờng
học triển khai chậm hoặc triển khai hình thức. Có trờng do thiếu dân chủ dẫn
đến gây mất đoàn kết, khiếu kiện. Điều đó ảnh hởng không tốt tới chất lợng dạy
và học, đến uy tín của ngành giáo dục đối với xà hội, đối với nhân dân.
Thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy đợc quyền
làm chủ của cán bộ giáo viên - công nhân viên (CBGV-CNV) trong các trờng
THPT ở Hà Nội, do đó, vẫn là một đòi hỏi, một yêu cầu cấp bách của sự nghiệp
đổi mới trong ngành GD&ĐT ở Hà Nội. Vì vậy đề tài " Thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở trong trờng trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay Thực trạng và giải pháp" là nhằm góp sức vào việc nghiên cứu vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết đó và theo hớng nghiên cứu của chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dân chủ, dân chủ ở cơ sở, Quy chế dân chủ ở cơ sở là vấn đề đợc nhiều
nhà khoa học, những ngời làm công tác lý luận quan tâm ở những góc độ, khía
cạnh khác nhau. Đề tài "Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền
cấp xà ở nớc ta hiện nay" do TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông đồng chủ
trì. Có thể tìm hiểu khái quát về công trình nghiên cứu này qua cuèn s¸ch cïng
3
tên do Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm 2003. Đề tài khoa học độc lập cấp
Nhà nớc về "Củng cố và tăng cờng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển của nớc ta hiện nay" do PGS.TS Hoàng Chí Bảo - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, nghiệm thu 2002. Đề tài "Hệ
thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xà hội nông thôn miền núi,
vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miỊn nói phÝa B¾c níc ta" - TS. Ngun Qc
PhÈm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Đề tài "Hệ thống chính trị
cơ sở - Đặc điểm, xu hớng và giải pháp" của TS. Vũ Hoàng Công - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Néi, 2002. "Quy chÕ thùc hiƯn d©n chđ ë
cÊp x· - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của PGS. TS Dơng Xuân Ngọc, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Các công trình nghiên cứu kể trên đà đi sâu
nghiên cứu về việc thực hiện Quy chế dân chủ gắn với tăng cờng hệ thống chính
trị ở cơ sở nói chung, ở cấp xà nói riêng. ở đấy, các tác giả cũng chỉ ra phơng hớng và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện Quy chế dân chủ ở xÃ, phờng. Tuy
nhiên, ít có công trình nào nghiên cứu về thực hiện Quy chế dân chủ trong các cơ
quan và nhất là cha có công trình, bài viết nào đi sâu nghiên cứu Quy chế dân chủ
ở cơ sở trong các trờng THPT. Đề tài nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần làm
sáng tỏ thêm cả về lý luận và thực tiễn vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
cơ quan, mà ở đây là ở trờng THPT trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở trong các trờng THPT ở Hà Nội hiện nay, luận văn xác định một số giải
pháp và kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ trong trờng học
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đổi mới của ngành GD&ĐT Hà Nội hiện nay.
Nhiệm vụ:
Phân tích một số lý luận về dân chủ, dân chủ ở cơ sở và dân chủ trong
trờng học làm sáng tỏ sự cần thiết phải thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trong các trêng THPT ë Hµ Néi hiƯn nay.
4
Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trờng THPT ở Hà Nội hiện nay, dự báo
những vấn ®Ị ®Ỉt ra trong xu híng vËn ®éng cđa viƯc thực hiện Quy chế dân
chủ trong trờng học ở Hà Nội trong những năm tới.
Nêu một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu để thực hiện có hiệu quả
Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trờng THPT ở Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục hiện nay.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các
trờng THPT ở Hà Nội qua khảo sát thực tế tại một số trờng trong số 22 trờng nội
thành và 19 trờng ngoại thành từ khi có Quy chế dân chủ ở cơ sở đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và t
tởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đÃ
đợc tổng kết trong các văn kiện của Đảng; Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính
trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị định số 29/CP và
Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quy chế thực hiện dân chủ ở
xÃ, phờng và trong hoạt động của cơ quan; Quyết định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo (GD&ĐT) về việc thực hiện Quy chế dân chủ trong các nhà trờng và
các công trình nghiên cứu có liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng của việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở trong các trờng THPT ở Hà Nội những năm qua và hiện nay.
Phơng pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phơng pháp luận
mácxít; kết hợp lý luận với thực tiễn, sử dụng các phơng pháp thống kê, điều
tra xà hội học, so sánh chính trị học v.v...
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Góp phần luận chứng căn cứ khoa học của việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ së trong c¸c trêng THPT.
5
Nêu lên những yêu cầu mới về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trong các trờng THPT ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Nêu một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm thực hiện có
hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trờng THPT và trong ngành
GD&ĐT Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những cơ sở
khoa học nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trờng
THPT ở Hà Nội nói riêng, ở các trờng THPT và ngành giáo dục nói chung
trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 ch¬ng, 6 tiÕt.
6
Chơng 1
Dân chủ trong trờng học Một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay
1.1. Dân chủ, dân chủ cơ sở, dân chủ ở trờng học - một số
vấn đề lý luận
1.1.1. Khái niệm về dân chủ
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thời cổ đại. Ngời đầu tiên đa ra khái
niệm dân chủ là nhà sử học, nhà chính trị học ngời Hy Lạp là Hêrôđốt (484 425 trớc Công nguyên) khi ông xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử.
Theo ông, lịch sử đà xuất hiện ba kiểu thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc và
dân chủ, trong đó dân chủ là thể chế chính trị do nhân dân nắm quyền lực
thông qua con đờng bầu cử. Để chỉ một hiện thực dân chủ đà đợc thiết lập trên
thực tế, trong ngôn ngữ đà xuất hiện thuật ngữ democratia, nghĩa là quyền lực
thuộc về nhân dân (democratia là từ ghép của hai từ demos là nhân dân, cratos
là quyền lực). Nh vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực để tổ chức,
quản lý xà hội, ph¸t triĨn x· héi, ph¸t triĨn con ngêi. Víi ý nghĩa đó, dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xà hội - nhất là xà hội có
giai cấp.
Ngay từ xà hội cộng sản nguyên thủy con ngời đà biết sống gắn bó với
nhau thành cộng đồng để tồn tại và phát triển. Họ biết sử dụng sức mạnh của
cộng đồng để thực hiện quyền sống, quyền tự do và quyền mu cầu hạnh phúc.
Một hình thức đặc biệt của dân chủ đà xuất hiện mà Ăngghen gọi là dân chủ
quân sự hay dân chủ nguyên thủy. Thông qua Đại hội nhân dân, nhân dân đÃ
bầu ra Hội đồng thị tộc và Thủ lĩnh quân sự, đồng thời quyết định những vấn
đề quan trọng của thị tộc. Trong "nền dân chủ quân sự", quyền lực của nhân
dân "thiêng liêng và bất khả xâm phạm, đều lµ mét qun lùc tèi cao do tù
7
nhiên ban cho, quyền lực mà mỗi ngời phải phục tùng một cách vô điều kiện,
trong tình cảm, t tởng, và hành động của mình" [33, tr. 149-150].
Sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xà hội, phân hóa giai
cấp và đấu tranh giai cấp đà làm cho xà hội cộng sản nguyên thủy tan rÃ, hình
thành nên Nhà nớc chiếm hữu nô lệ. Giai cấp chủ nô đà biến Nhà nớc thành
công cụ thực hiện quyền lực chính trị, phục vụ lợi ích của mình. Nhà nớc chủ
nô dân chủ là hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ trong xà hội có giai cấp dân chủ của giai cấp chủ nô.
Theo Các Mác, trong tác phẩm Phê phán Cơng lĩnh Gôta (1875), dân
chủ tức là chính quyền của nhân dân. Trong tác phẩm Nhà nớc và cách mạng
Lênin cũng cho rằng chế độ dân chủ là một hình thức nhà nớc, một trong
những hình thái của Nhà nớc. Nhà nớc chủ nô là hình thái dân chủ đầu tiên
trong lịch sử nhng không phải giành cho nhân dân với t cách là số đông mà là
cho giai cấp chủ nô. Tuyệt đại bộ phận con ngời đà bị đẩy xuống hàng nô lệ
trở thành "con vật biết nói". Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến
cho cuộc đấu tranh giành quyền dân chủ trở thành một trong những nội dung
của cuộc đấu tranh giai cấp.
Nền dân chủ sơ khai của xà hội loài ngời không đợc tiếp tục phát triển
ở thời kỳ lịch sử tiếp theo mà lại bị thủ tiêu bởi chế độ chuyên chế phong kiến.
Nhà nớc phong kiến, độc đoán chuyên quyền câu kết với các thế lực của thần
quyền đà gạt nhân dân lao động ra khỏi cơ chế quyền lực. Cuộc đấu tranh
giành quyền lực - giành quyền làm chủ lại tiếp tục diễn ra gay gắt. Kết quả là
chế độ chuyên chế phong kiến lại bị một trật tự dân chủ mới mạnh mẽ hơn
phủ định - đó là chế độ dân chủ t sản. Nền dân chủ t sản mạnh mẽ vì nó dựa
trên một nền kinh tế - xà hội phát triển hơn so với các chế độ trớc đó.
So với chế độ dân chủ sơ khai thời kỳ cổ đại, nền dân chủ t sản đạt tới
trình độ phát triển cao hơn. Theo đó, các quan niệm về dân chủ đợc bắt đầu từ
khái niệm nhân dân là ngời chủ của quyền lực, có quyền và nghĩa vụ công dân đợc pháp luật quy định và bảo vệ. Dới chế độ dân chủ t sản địa vị xà hội của công
8
dân đợc pháp luật thành văn và không thành văn quy định. Nhng nền dân chủ t
sản trong thực chất còn rất nhiều hạn chế và không thoát khỏi sự mị dân nhằm
bảo vệ quyền lợi cho giai cấp t sản cầm quyền. "Trong Nhà nớc t sản dân chủ
nhất, quần chúng bị áp bức đều luôn vấp phải các mâu thuẫn hiển nhiên giữa
quyền bình đẳng hình thức do "chế độ dân chủ" của bọn t bản ban bố với hàng
nghìn hạn chế và mánh khóe dối trá thực sự, đang biến những ngời vô sản thành
nô lệ làm thuê [26, tr. 36]. Sự hạn chế và tính chất mị dân của dân chủ t sản thể
hiện nh thế nào? Dới chế độ dân chủ t sản cùng với sù tha hãa cđa con ngêi lµ sù
tha hãa vỊ quyền lực, đặc biệt là quyền lực chính trị. Đúng nh nhận xét của
C.Mác về chế độ dân chủ t sản rằng bầu cử trong chủ nghĩa t bản là sự "tự do"
của nhân dân lựa chọn những ngời thống trị mình. Trong tác phẩm Nhà nớc và
cách mạng, Lênin có nhận xét tinh tế về bản chất chế độ dân chủ t sản: "Chế độ
đại nghị t sản là chế độ kết hợp chế độ dân chủ (không phải cho nhân dân) với
chế độ quan liêu (chống nhân dân)" [24, tr. 135].
Cơ sở bảo vệ lợi ích của nền dân chủ t sản là bảo vệ, bênh vực và tạo
mọi cơ hội cho giai cấp t sản ngày càng giàu có. Điều đó đợc thể hiện tập
trung trong các quy định pháp luật của Nhà nớc t sản. Chẳng hạn, các quy
định về kiểm soát tài sản, nơi c trú, quy định về vận động tài chính cho các
cuộc bầu cử v.v... Nhà nớc t sản luôn luôn đề cao chức năng chính trị (thống
trị giai cấp) khi hình thành bất kỳ một quy định pháp luật nào để thực thi trong
xà hội. Trong xà hội t bản mâu thn gi÷a tÝnh chÊt giai cÊp cđa giai cÊp t sản
cầm quyền với tính nhân dân (tính vô sản) của dân chủ càng trở nên gay gắt.
Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến cách mạng vô sản để giải quyết
mâu thuẫn trên bằng việc thiết lập chế độ dân chủ XHCN. Trong tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đà chỉ rõ: "Giai cấp vô
sản mỗi nớc trớc hết phải tự giành lấy chính quyền, phải tự mình vơn lên thành
giai cấp dân tộc" [32, tr. 623-624], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa trùc tiÕp
lµ giµnh lÊy qun lùc Nhµ níc (qun lµm chủ về chính trị), thiết lập Nhà nớc
dân chủ vô sản, chế độ dân chủ vô sản. Đó là "chế ®é sÏ thi hµnh ngay lËp tøc
9
những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những
biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá hủy chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn
toàn xây dựng một chế độ d©n chđ cho nh©n d©n" [24, tr. 135]. Víi ý nghĩa đó,
chế độ dân chủ vô sản, chế độ dân chủ XHCN đóng vai trò to lớn trong các
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xà hội và con ngời, trở thành
mục tiêu và động lực của cuộc cách mạng vô sản.
Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân
chủ, quyền lực của nhân dân đợc thể chế hóa thành pháp luật, thành những
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thành nguyên tắc mục
tiêu của sù ph¸t triĨn kinh tÕ - x· héi, c¸c gi¸ trị và chuẩn mực dân chủ chi phối
hoạt động của mäi lÜnh vùc x· héi. NỊn d©n chđ XHCN víi t cách là chế độ
chính trị, đồng thời với t cách là quyền lực của nhân dân sẽ từng bớc hoàn thiện
và phát huy vai trò to lớn trong tiến trình cách mạng, dới sự lÃnh đạo của Đảng
mácxít - lêninnít. Sự thống nhất giữa dân chủ về chính trị - pháp lý và dân chủ
trong kinh tế, làm chủ trong kinh tế và xà hội sẽ tạo điều kiện để dân chủ
XHCN ra đời, tồn tại và phát triển vì lợi ích của nhân dân lao động. Theo
Lênin:
Không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xà hội không thể thực
hiện đợc theo hai ý nghĩa sau đây: (1) giai cấp vô sản không thể hoàn
thành đợc cuộc cách mạng xà hội chủ nghĩa nếu họ không đợc chuẩn bị
cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân
chủ; (2) chủ nghĩa xà hội chiến thắng sẽ không giữ đợc thắng lợi
của mình và sẽ không dẫn đợc nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu Nhà nớc, nếu không thực hiện đợc đầy đủ chế độ dân chủ [26, tr. 167].
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng mời Nga, Nhà nớc Xô viết - chế
độ dân chủ XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời. Theo Lênin: "Chế độ Xô viết
là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông dân; đồng thời, nó
có nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ t sản và sự xuất hiện trong lÞch sư
1
0
thế giới một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô sản hay là
chuyên chính vô sản" [28, tr. 184].
Chế độ dân chủ ở nớc Nga Xô viết đà từng bớc hiện thực hóa quyền
dân chủ của nhân dân trên thực tế, hiện thực hóa sự bình đẳng của quần chúng
trong việc tham gia vào tổ chức và hoạt động chính quyền Nhà nớc - xác định
hình thức, nội dung và nhiệm vụ của Nhà nớc.
ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà
nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nớc công - nông đầu tiên ở Đông Nam á
đợc thiết lập. Nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê đà trở thành ngời chủ của
đất nớc. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc đi lên chủ
nghĩa xà hội (CNXH), nhân dân miền Bắc đà trở thành chủ thể của mọi quyền
lực. Năm 1975 đất nớc hoàn toàn thống nhất, nhân dân cả nớc ta trở thành ngời chủ của mọi quyền lực trong đó có quyền lực chính trị, quyền lực nhà nớc,
hệ thống chính trị XHCN đợc thiết lập trên phạm vi cả nớc. Từ đó đến nay nền
dân chủ XHCN đà và đang đợc xây dựng phát huy vai trò ngày càng to lớn,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nớc.
Dân chủ với t cách là khát vọng, là quyền tự nhiên của con ngời, trong
đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của ngời chủ và
quyền làm chủ đà lần lợt đợc nhiều giai cấp thống trị trong lịch sử nhận thức
và thể chế hóa thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nớc cùng các
thiết chế chính trị khác nhau. Tuy nhiên, trong các chế độ dân chủ đà từng tồn
tại cho đến nay thì chỉ có chế độ dân chủ vô sản - dân chủ XHCN mới thực sự
là chế độ dân chủ của đa số nhân dân trong xà hội, là chế độ dân chủ của dân,
do dân và vì dân.
1.1.2. Khái niệm về dân chủ ở cơ sở
Chủ nghĩa xà hội xác định mục tiêu xây dựng một nền dân chủ XHCN
"cao gấp triệu lần dân chủ t sản" (V.I. Lênin). Đó là một nền dân chủ toàn
diện và triệt để trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xà hội; tạo
1
1
điều kiện cho mọi thành viên trong xà hội làm chủ bản thân, làm chủ xà hội và
làm chủ tự nhiên. Đó là nhiệm vụ mà CNXH phải phấn đấu lâu dài mới thực
hiện đợc.
Trong chế độ dân chủ XHCN, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình vừa bằng hình thức gián tiếp thông qua bầu cử các cơ quan, tổ chức đại
diện thực hiện quyền tổ chức và quản lý xà hội; vừa bằng hình thức trực tiếp,
bảo đảm cho nhân dân có quyền tham gia quản lý xà hội một cách thiết thực
và hiệu quả, trớc hết là ở cơ sở theo phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Sức sống của nền dân chủ XHCN do Đảng cộng sản lÃnh đạo
dựa trên cơ sở thực hiện tốt và kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ nói trên,
từ đó động viên sức mạnh của toàn dân tham gia vào công cuộc phát triển kinh
tế - xà hội và bảo vệ tổ quốc. Theo Lênin:
Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố sắc lệnh về
dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân
chủ cho "những ngời đại diện" nhân dân trong những cơ quan đại diện
là đủ. Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở (tác giả
luận văn nhấn mạnh) dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với
sự tham gia thật sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nớc,
không có "sự giám sát" từ trên, không có quan lại [27, tr. 336-337].
Hiện nay, đề cao dân chủ trực tiếp là làm phong phú thêm hình thức
thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động, là xuất phát từ bản chất
của chế độ XHCN, mét chÕ ®é tõng bíc thùc hiƯn trong thùc tÕ mäi qun lùc
thËt sù thc vỊ nh©n d©n. Trong nhiều trờng hợp, dân chủ trực tiếp có những u điểm mà dân chủ gián tiếp không có đợc. Đó là khả năng thể hiện một cách
khách quan ý chí, nguyện vọng của nhân dân không cần thông qua một hình
thức trung gian nào. Theo Lênin "Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những
hình thức của sự phát triển ấy, đem thử nghiệm những hình thức ấy trong thực
tiễn v.v... đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh cách
1
2
mạng xà hội" [24, tr.97] và thể hiện một cách u việt nhất quyền lực của nhân
dân trong việc quản lý xà hội.
Nền dân chủ XHCN ở nớc ta đợc khẳng định trong đờng lối của Đảng,
Hiến pháp, Pháp luật cđa Nhµ níc. HƯ thèng chÝnh qun ë níc ta gồm 4 cấp:
Trung ơng, tỉnh (thành phố trực thuộc), huyện (thị, quận) và xà (phờng) đều
vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc cơ bản của nền dân
chủ XHCN. Hiệu quả của dân chủ thể hiện trực tiếp đến nhân dân là ở cấp cơ
sở. Đờng lối của Đảng, chính sách của Nhà nớc có đi vào cuộc sống hay
không tùy thuộc chủ yếu vào sự quán triệt và thực hiện nh thế nào ở cấp c¬ së.
C¬ së x·, phêng, c¬ quan, doanh nghiƯp v.v.. là nơi trực tiếp thực hiện đờng
lối chính sách của Đảng và Nhà nớc; là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động,
sản xuất, học tập và công tác; là nơi diễn ra các mối quan hệ nhiều mặt giữa
các tầng lớp nhân dân với các cấp ủy Đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên,
công chức điều hành và xử lý công việc hàng ngày. Nhân dân đòi hỏi đợc biết,
đợc bàn và đợc tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có
yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt động hàng ngày của cấp ủy, chính quyền và
cán bộ lÃnh đạo. Điều đó có nghĩa là nhân dân có quyền làm chủ từ cơ sở và ở
cơ sở.
Nhận rõ bản chất của dân chủ XHCN, ngay từ khi chính quyền nhân
dân mới đợc thành lập, Hồ Chí Minh đà khẳng định quyền lực Nhà nớc là của
nhân dân. Theo đó, "Nhà nớc ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt
chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm
cho mọi ngời công dân Việt Nam thực sự tham gia công việc quản lý cđa Nhµ
níc" [38, tr. 590]. Hå ChÝ Minh thÊy rÊt rõ rằng: "Có lực lợng dân chúng việc
to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng đợc. Không có, thì việc gì làm cũng không
xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ, mà những ngời tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ m·i kh«ng ra"
[35, tr. 295].
1
3
Ngời nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng địa phơng, từng cơ sở,
từng cán bộ, từng ngời dân, từng công việc cụ thể. Vận động tất cả lực lợng của
mỗi một ngời dân phải làm cho dân hiểu đợc quyền lợi và nghĩa vụ của mình
trong vị thế của ngời làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, "chế độ ta là chế độ dân chủ, t
tởng phải đợc tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi ngời tự do bày tỏ
ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một
nghĩa vụ của mọi ngời" [37, tr. 216]. Vì vậy, Ngời yêu cầu: "Bất cứ việc gì đều
phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế
hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phơng" [35, tr. 698-699].
Khi dân đợc biết, đợc hiểu, đợc bàn bạc xây dựng kế hoạch của địa phơng, cơ sở mình, họ sẽ dùng chính sức lao động của họ và những việc làm cụ
thể một cách tự giác. Khi thi hành một c«ng viƯc xong, theo Hå ChÝ Minh,
viƯc kiĨm tra rót kinh nghiệm là vô cùng quan trọng và cần thiết giúp chúng ta
thực hiện tốt những công việc khác. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân,
dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động. "Lề lối làm việc phải dân chủ.
Cấp trên phải thờng xuyên kiểm tra cấp dới. Cấp dới phải phê bình cấp trên"
[36, tr. 9]; "nhất là phê bình từ dới lên" [37, tr. 157]. Dân kiểm tra là một nội
dung quyền dân chủ của nhân dân về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nớc và
các đoàn thể nhân dân thật sự vững mạnh, trong sạch; bảo vệ lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân. Việc đấu tranh chống tham ô, lÃng phí, quan
liêu, cậy thế trái phép v.v... chỉ có thể thực hiện có hiệu quả nếu thật sự dựa
vào sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân.
Ngày nay phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là thể
hiện t tởng đó của Hồ Chí Minh. Từ Đại hội VI, Đảng ta đà chủ trơng thực
hiện có nề nếp phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và chủ trơng đó ngày càng đợc thực tế kiểm nghiệm tính cần thiết khách quan của nó.
Để quá trình dân chủ hóa thực sự đi vào cuộc sống cần cụ thể hóa phơng châm
này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ơng Đảng khóa VIII
(tháng 6/1997) khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trớc mắt là phát huy
1
4
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trơng,
chính sách của Đảng và Nhà nớc, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân
dân một cách trực tiếp và rộng rÃi nhất. Theo tinh thần Nghị quyết đó, Bộ
Chính trị đà ra Chỉ thị 30CT-TW tháng 2/1998 và Chính phủ đà ban hành Quy
chế dân chủ ở xÃ, phờng, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp nhà nớc. Đó là
những văn bản có tính chính trị và pháp lý làm cơ sở để mọi ngời, mọi tổ chức
ở cơ sở xây dựng và thực hành dân chủ - làm chủ.
Vấn đề dân chủ ở cơ sở hiện đang đợc nhiều nớc trên thế giới quan
tâm từ nhiều năm nay. Đặc biệt là ở Trung Quốc và ấn Độ v.v... Hệ thèng
chÝnh qun cđa Trung Qc cịng gåm 4 cÊp lµ trung ơng, tỉnh (khu tự trị,
thành phố trực thuộc trung ơng); huyện, thị; phờng, trấn. Trung Quốc thực
hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ đến cấp trấn (xÃ) phờng, mà còn thực hiện dân
chủ ở cả cấp thôn, khu phố, đơn vị, xí nghiệp, trờng học, bệnh viện v.v...
Trung Quốc và Việt Nam hiện nay đều nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và thực
hiện dân chủ ở cơ sở nh là những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của công
cuộc cải cách và đổi mới theo con đờng của CNXH.
Dân chủ ở cơ sở là quyền dân chủ trực tiếp của ngời dân, đợc tiến
hành từ cấp xÃ, phờng trở xuống (đến cấp thôn xóm, đơn vị, cơ quan, nhà
máy, xí nghiệp) theo phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Dân chủ ở cơ sở - trớc hết là dân chủ trực tiếp - là hình thức nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình bằng c¸ch trùc tiÕp thĨ hiƯn ý chÝ (qua ý kiÕn)
ngun vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền
ở cơ sở. Có nhiều cách thức để thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở nh: trng cầu
dân ý; bầu và bÃi miễn đại biểu cơ quan dân cử; bàn bạc - thảo luận - tham gia
quyết định - giám sát - kiểm tra việc thực hiện các vấn đề phát triển kinh tế - x·
héi, trËt tù an ninh ë c¬ së; tè cáo - khiếu nại; xây dựng quy định, quy ớc tự
quản v.v... và cơ sở ở đây là xÃ, phờng; là cơ quan, đơn vị, trong đó có trờng
học, trờng THPT.
1.1.3. Khái niệm về dân chủ ở trờng học
1
5
Trờng học là nơi thực hiện nhiệm vụ GD&ĐT, bồi dỡng và phát triển
các phẩm chất và năng lực cho công dân về t tởng và đạo đức, tri thức khoa
học và kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, giáo dục rÌn lun thĨ chÊt v.v...
Sù nghiƯp x©y dùng CNXH ë nớc ta là vì con ngời và do con ngời làm
nên. Vì vậy, con ngời đứng ở vị trí trung tâm, là mục tiêu và động lực chính của
chiến lợc phát triển kinh tế - xà hội. Trong đó, giáo dục đóng vai trò vô cùng
quan trọng vì nó góp phần trực tiếp trong việc bồi dỡng, đào tạo các nguồn lực
con ngời. Giáo dục trong nhà trờng là con đờng cơ bản nhất, vững bền nhất để
hình thành ngời lao động có kỹ thuật, có kỷ luật cao đáp ứng những yêu cầu của
phát triển kinh tế - xà hội. Nhờ GD&ĐT mà trình độ học vấn của nhân dân mới
đợc nâng cao, mở ra những khả năng to lớn trong việc nắm bắt và sử dụng những
thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển nh vũ bÃo trên thế
giới, thúc đẩy nhanh nhịp ®é ph¸t triĨn cđa ®Êt níc.
Kinh nghiƯm cđa c¸c níc có nền kinh tế phát triển cao và nhảy vọt nh
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo v.v... cho thấy đều có sự u tiên cho phát triển
giáo dục. Một trong những nguyên nhân thành công của công cuộc hiện đại
hóa đất nớc Trung Quốc những năm qua là do họ đà xác định u tiên phát triển
giáo dục là một trong bốn hiện đại hóa của mình.
Tri thức khoa học, cốt lõi của văn hóa, đà đợc Mác và Ăngghen xác
định là động lực của phong trào cách mạng. Hai ông đà dành tâm huyết và trí
tuệ của mình vào việc xây dựng hệ thống lý luận cách mạng. Theo các ông,
công nhân đà có một trong những yếu tố của thành công là số lợng, nhng số lợng chỉ giải quyết đợc vấn đề khi quần chúng đợc tổ chức lại và đợc tri thức
chỉ đạo. Mác đà nhận xét rằng: Sự ngu dốt, đó là cái sức mạnh quỷ sứ và
chúng tôi sợ rằng nó sẽ còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch. Là ngời kế tục
thiên tài của Mác và Ăngghen, Lênin đặc biệt coi trọng học tập, nhìn nhận văn
hóa nh một động lực để củng cố những thắng lợi chính trị, xây dựng thành
công nền kinh tế, phát triển và hoàn thiện nền văn hóa tinh thần của chế độ
mới. Lênin khẳng định:
1
6
Muốn đổi mới bộ máy nhà nớc của chúng ta, phải cố hết sức
tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba
là học tập mÃi và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nớc ta không
nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa (điều này, phải thú
thực là thờng hay xảy ra ở nớc ta), phải làm sao cho học thức thật sự
ăn sâu vào trí nÃo, hoµn toµn vµ thùc tÕ trë thµnh mét bé phËn khăng
khít của cuộc sống chúng ta [29, tr. 444].
Ngời cho rằng, có ba kẻ thù chính của đảng viên, của tổ chức đảng và
bộ máy nhà nớc là:
"- Kẻ thù thứ nhất - tính kiêu ngạo cộng sản...
- Kẻ thù thứ hai - nạn mù chữ...
- Kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ" [28, tr. 128].
Chính Lênin đà phê phán tình trạng thiếu quan tâm tới giáo dục, tới
đội ngũ giáo viên, đà phê phán tính chất "nửa á châu" của nớc Nga sau Cách
mạng Tháng Mời. Ngời viết: "Chúng ta không quan tâm hoặc còn quan tâm
rất ít đến việc nâng cao địa vị ngời giáo viên nhân dân lên trình độ xứng đáng,
mà thiếu cái đó, thì không thể nói đến một nền văn hóa nào cả, dù là t sản đi
nữa, chứ đừng nói gì đến văn hóa vô sản" [30, tr. 145].
Lênin đặc biệt tôn trọng và giúp đỡ đội ngũ trí thức - cột trụ của văn hóa
mới. Lênin yêu cầu "phải giữ gìn để những chuyên gia lớn không phải chết đói
hoặc chạy ra nớc ngoài mất" [30, tr. 145]. Đồng thời đề nghị cắt giảm các khoản
chi phí, giảm biên chế ở các bộ phận khác để đầu t cho giáo dục và đảm bảo
những điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần cho các nhà bác học, những nhà
khoa học tự nhiên và xà hội, những nhà hoạt động văn hóa, nghệ thuật. "Chính
sách nh thế là tốt nhất, là c¸ch kinh doanh tiÕt kiƯm nhÊt" [30, tr. 50].
TiÕp thu và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh ý thức rằng, "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và "Dốt nát cũng là kẻ
địch". Ngay sau khi nớc nhà giành đợc độc lập, Ngêi ®· lo ngay ®Õn viƯc
1
7
"giáo dục lại nhân dân", nhiệm vụ diệt giặc đói và giặc dốt gắn liền với nhau.
Mục đích của học tập theo Ngời, là để làm việc, làm ngời, làm cán bộ. Học để
phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại.
Muốn đạt đợc mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô t. Vì vậy,
"vì lợi ích mời năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng ngời"
[38, tr. 222].
Hơn một tháng sau khi tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đà xác định:
"Nay chúng ta đà giành đợc quyền độc lập. Một trong những công việc phải
thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí" [34, tr. 36], vì "Nớc nhà
cần phải kiến thiết, kiến thiết cần phải có nhân tài" [34, tr. 451]. Ngời nhấn
mạnh: "Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm đợc. Không có
giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong
việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bớc đầu" [37, tr. 184]. Khi dân tộc bớc vào
cuộc trờng kỳ kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có một nền
giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc
phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lợc xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu
tranh giải phóng miền Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: "Văn hóa giáo dục là một
mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu
tranh thực hiện thống nhất nớc nhà" [39, tr.190]. Khi đế quốc Mỹ mở rộng
chiến tranh ra cả nớc, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định "Trong hoàn cảnh cả nớc có chiến tranh, sự nghiệp giáo dục của chúng ta vẫn phát triển nhanh, mạnh
hơn bao giê hÕt" [40, tr. 402].
§èi víi Hå ChÝ Minh, cách mạng càng phát triển càng đòi hỏi đông
đảo đội ngũ cán bộ các thế hệ, đòi hỏi dân trí phải đợc nâng cao, giáo dục phải
phát triển để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dỡng các thế hệ cách mạng. Xác định
đợc vị trí, vai trò của GD&ĐT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nên từ những năm tháng đấu tranh giành chính quyền Hồ Chí Minh đà chủ trơng khi cách mạng thành công sẽ thực hiện nền giáo dục cách mạng. Ngời xác
định trờng học là nơi đào tạo những ngời chủ tơng lai của đất nớc, những công
1
8
dân có ích cho nớc Việt Nam. Và, do đó, trờng học của chúng ta khác hẳn với
trờng học của thực dân và phong kiến. Ngời nói: "Trờng học của chúng ta là
trờng học của chế độ dân chủ nhân dân, (tác giả luận văn nhấn mạnh), nhằm
mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những ngời chủ tơng lai tốt
của nớc nhà. Về mọi mặt, trờng học của chúng ta phải hơn hẳn trờng học của
thực dân và phong kiến" [37, tr. 80].
Chính vì trờng học của chúng ta là trờng học của chế độ dân chủ nhân
dân nên cần phải thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. Hồ Chí Minh
dạy, trong trờng học cần phải có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng
nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì cha thông suốt,
thì hỏi, thì bàn cho thông suốt. Dân chủ nhng trò phải kính thầy, thầy phải quý
trò, chứ không phải là "Cá đối bằng đầu". Đồng thời, thầy và trò cần giúp đỡ
những anh em phục vụ cho nhà trờng. Các anh chị em nhân viên thì nên thi
đua để cho cơm lành canh ngọt để học sinh ăn no, học tốt. Quan điểm về dân
chủ trong trờng học của Hồ Chí Minh đợc thể hiện đầy đủ qua các mối quan
hệ trong nhà trờng, mối quan hệ giữa nhà trờng với nhân dân: "Giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ XHCN, xây dựng
quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò,
giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trờng và nhân dân để
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó" [40, tr. 403].
Hồ Chí Minh khẳng định để thực hiện dân chủ cần quan niệm giáo dục
không bó hẹp trong nhà trờng mà giáo dục trong nhà trờng chỉ là một phần,
ngoài ra cần có sự giáo dục trong gia đình, ngoài xà hội để giúp cho việc giáo
dục trong nhà trờng đợc tốt hơn. Ngày 31/10/1955, khi miền Bắc mới đợc giải
phóng, Hồ Chí Minh viết: "Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với
nhà trờng, giúp nhà trờng giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập,
sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp Ých nh©n d©n" [37, tr. 81].
1
9
Dới sự lÃnh đạo của Đảng, sự nghiệp giáo dục mà chúng ta xây dựng
là một bộ phận cấu thành quan trọng của công cuộc xây dựng CNXH ở nớc ta.
Sự nghiệp giáo dục này có nhiệm vụ đào tạo ra các thế hệ công dân trung
thành với sự nghiệp cách mạng, có đầy đủ năng lực và bản lĩnh vợt qua mọi
thách thức của thời đại, đa đất nớc tiến lên đuổi kịp trào lu phát triển tiến bộ
chung của khu vực và quốc tế. Bản chất của nền giáo dục nớc ta từ sau cách
mạng tháng 8 năm 1945 đến nay là nền giáo dục XHCN. Nền giáo dục này
luôn gắn bó với những nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nớc trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Mục đích chung của nền giáo dục ở nớc ta là phấn
đấu xây dựng nền giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân. Nền giáo dục
này hớng tới xóa bỏ mọi sự bất bình đẳng về giai cấp, dân tộc và xà hội, phát
huy mọi tiềm năng văn hóa của nhân dân. Đảng và Nhà nớc ta xây dựng và
phát triển hệ thống giáo dục quốc dân theo hớng mục tiêu của từng cấp học
gắn với quá trình dân chủ hóa giáo dục, tạo cơ hội để các cá nhân và cộng
đồng có điều kiện học tập và phát triển năng lực của mình.
Quá trình dân chủ hóa giáo dục đợc thể hiện trong toàn bộ hệ thống giáo
dục, cho đến từng cơ sở trờng học. Trong trờng học, dân chủ đợc thể hiện ở
quyền và nghĩa vụ của CBGV-CNV đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
nhà trờng. CBGV-CNV trong nhà trờng phát huy quyền làm chủ của mình theo
phơng châm: đợc biết, đợc bàn, đợc tham gia ý kiến, đợc giám sát kiểm tra mọi
mặt hoạt động của nhà trờng. Dân chủ gắn với kỷ cơng, việc thực hiện dân chủ
nhng vẫn đảm bảo các nguyên tắc, sự lÃnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nớc
đối với sự nghiệp ph¸t triĨn gi¸o dơc. Trong trêng häc, viƯc thùc hiƯn dân chủ
của CBGV-CNV, của ngời học trên cơ sở sự lÃnh đạo của chi bộ, sự quản lý của
Ban Giám hiệu. Các đoàn thể, tổ chức trong nhà trờng có vai trß to lín trong viƯc
tham gia, viƯc thùc hiƯn dân chủ ở trờng học.
Nh vậy, dân chủ ở cơ sở trong trờng học là việc thực hiện một cách
trực tiÕp qun lµm chđ cđa CBGV-CNV, thùc hiƯn qun lµm chđ trùc tiÕp
cđa häc sinh vµ phơ huynh häc sinh trong việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ
2
0
của giáo dục. Dân chủ, thực hành dân chủ - cụ thể ở cơ sở trong trờng học là
yêu cầu khách quan và ngày càng bức thiết đối với các tổ chức đảng, chính
quyền và đoàn thể trong nhà trờng nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy và học,
xây dựng nền giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân.
1.2. Dân chủ trong trờng học ở nớc ta hiện nay
1.2.1. Các trờng học trớc yêu cầu đổi mới ở nớc ta hiện nay
Từ xa đến nay ông cha ta đà sớm có ý thức về tầm quan trọng của giáo
dục đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lê Quý Đôn - nhà bác học
lớn của dân tộc ta đà khẳng định phi trí bất hng. Coi trọng giáo dục, coi trọng
ngời hiền tài đà trở thành truyền thống của dân tộc ta.
Trong suốt quá trình lÃnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nớc ta đà có
nhiều chủ trơng, chính sách phát triển về giáo dục. Khát vọng lớn lao nhất của
Hồ Chí Minh là "Nớc ta đợc hoàn toàn độc lập, dân ta đợc hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đợc học hành" [34, tr. 161]. Hå ChÝ
Minh thêng nh¾c nhë mäi ngêi nhí lêi Khỉng Tử rằng, học không biết chán,
dạy không biết mỏi.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đà khẳng định, phát
triển GD&ĐT và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Hội nghị lần
thứ t Ban chấp hành Trung ơng khóa VII đà có nghị quyết về tiếp tục đổi mới
sự nghiệp GD&ĐT. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ơng
Đảng khóa VIII đà có nghị quyết về "Định hớng chiến lợc phát triển GD&ĐT
trong thời kỳ CNH-HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000". Nghị quyết đà chỉ rõ:
"Nhận thức sâu sắc GD&ĐT cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết
định tăng trởng kinh tế và phát triển xà hội, đầu t cho GD&ĐT là đầu t cho
phát triển" [13, tr. 29].
Với t cách là một thành tố cơ bản của nền văn hóa dân tộc, GD&ĐT có
vị trí trọng yếu hàng đầu trong chiến lợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát triển