Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

(Skkn 2023) dạy học sử dụng từ hán việt (phần thực hành tiếng việt) trong sgk ngữ văn 10, bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống theo hướng phát triển năng lực ngôn ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 75 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN

SÁNG KIẾN

DẠY- HỌC SỬ DỤNG TỪ HÁN- VIỆT
(PHẦN THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT) TRONG SGK
NGỮ VĂN 10, BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI
CUỘC SỐNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC NGÔN NGỮ

LĨNH VỰC: NGỮ VĂN

Năm thực hiện: 2022 - 2023


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG HỒNG MAI

SÁNG KIẾN

DẠY- HỌC SỬ DỤNG TỪ HÁN- VIỆT
(PHẦN THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT) TRONG SGK
NGỮ VĂN 10, BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI
CUỘC SỐNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC NGÔN NGỮ

LĨNH VỰC: NGỮ VĂN

Tác giả: Trần Thị Thương
Tổ: Ngữ văn
SĐT: 0912.955.348



Năm thực hiện: 2022- 2023


MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu

2

3. Giả thuyết khoa học

2

4. Phương pháp nghiên cứu

3

5. Những đóng góp của đề tài


3

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

4

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

4

1.1.Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu

4

1.1.1. Sơ lược vấn đề nghiên cứu

4

1.1.2. Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực

4

1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu

6

1.2.1. Đặc điểm cấu trúc chương trình, bài học và mục tiêu dạy học phần
Thực hành Tiếng việt (bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)


6

1.2.2. Thực trạng dạy và học từ Hán Việt trong môn Ngữ văn

7

Chương 2: KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HS CÁCH SỬ DỤNG TỪ
HÁN VIỆT THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGÔN NGỮ

11

2.1. Hướng dẫn HS nắm vững kiến thức nền tảng về từ Hán Việt

11

2.1.1. Hướng dẫn cách nhận diện, cấu tạo từ Hán- Việt

11

2.1.2. Hướng dẫn HS phương pháp giải nghĩa từ Hán- Việt

15

2.2. Hướng dẫn HS cách sử dụng từ Hán Việt phần thực hành tiếng
Việt nhằm phát triển năng ngôn ngữ
2.2.1. Hướng dẫn HS sử dụng từ Hán- Việt đúng âm, đúng nghĩa

19

19


Hướng dẫn HS sử dụng từ Hán- Việt đúng phong cách, phù hợp đối
tượng

20

2.2.3. Hướng dẫn HS sử dụng từ Hán- Việt theo hướng tích cực, chủ động,

21

2.2.2.


sáng tạo.
2.3. Tổ chức hoạt động dạy- học từ Hán Việt cho HS hướng vào hoạt
động giao tiếp

22

2.3.1. Xác định cốt lõi của vấn đề dạy học từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn
10, 2018 để đề xuất cách dạy phù hợp

22

2.3.2. Xác định quy trình dạy học cách sử dụng từ Hán Việt

24

2.3.3. Vận dụng một số phương pháp, hình thức tổ chức dạy học có ưu
thế trong việc phát huy tối đa năng lực ngôn ngữ của HS khi dạy học cách

sử dụng từ Hán- Việt
2.3.4. Dạy học kết nối, tích hợp giữa các phần trong SGK Ngữ văn 10
Chương 3: THỰC NGHIỆM

26

31
34

3.1. Mục đích thực hiện

34

3.2. Đối tượng thực hiện

34

3.3. Nội dung thực nghiệm

34

3.4. Cách thức thực nghiệm

34

3.5. Thiết kế giáo án đối chứng

35

3.6. Kết quả thực nghiệm


57

3.7. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất

61

3.7.1. Mục đích khảo sát

61
61

3.7.2. Nội dung khảo sát và phương pháp khảo sát
3.7.3. Đối tượng khảo sát
3.7.4. Kết quả khảo nghiệm về sự cấp thiết và tính khả thi của các biện
pháp đã đề xuất

62
62

PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

67

1. Kết luận

67

2. Khuyến nghị


67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN

Nội dung

Viết
tắt

Trung học phổ thông

THPT

Trung học cơ sở

THCS

Giáo dục phổ thông

GDPT

Học sinh

HS

Giáo viên


GV

Sách giáo khoa

SGK

Văn bản

VB

Đồn thanh niên

ĐTN

Giáo dục và Đào tạo

GDĐT

Cơng nghệ thông tin

CNTT

Sáng kiến kinh nghiệm

SKKN

5


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Từ Hán- Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của
người Việt Nam. Các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng đều thống nhất rằng số lượng
từ Hán- Việt chiếm khoảng 60-70% trong tiếng Việt. Từ Hán- Việt không những
được dùng trong giao tiếp hằng ngày mà cịn có vai trị quan trọng trong ngơn ngữ
văn học, ngơn ngữ hành chính và đặc biệt trong hệ thống ngơn ngữ thuật ngữ tiếng
Việt. Chính vì vậy, một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là làm thế nào để mọi người,
đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt, trong đó có việc
sử dụng từ Hán- Việt. Từ đó tận dụng hết cái hay, cái đẹp và giá trị của kho từ
vựng phong phú này trong khi tạo lập văn bản và cả giao tiếp ngồi đời sống.
Trọng trách đó trước hết thuộc về những người làm giáo dục.
1.2. Trong chương trình Ngữ văn cũ (chương trình 2006), từ bậc THCS cho đến
bậc THPT, trong phân môn tiếng Việt (SGK Ngữ văn), chưa có nhiều bài học về
từ Hán- Việt. Ở bậc THCS, chỉ đến lớp 7, học kỳ I có hai bài "Từ Hán- Việt" và
"Từ Hán- Việt" (tiếp theo); học kỳ II khơng có. Chương trình lớp 8 cũng khơng
đề cập đến từ Hán- Việt. Lớp 9 chỉ có một vài bài tập luyện tập có nhắc đến từ
Hán- Việt. Thế nhưng trong phân môn Đọc- hiểu văn bản của từ lớp 7 trở lên lại
có rất nhiều phẩm văn học trung đại phiên âm từ chữ Hán được đưa vào giảng
dạy. Ở bậc THPT, phần tiếng Việt của SGK Ngữ văn (ban cơ bản), khơng có bài
học nào đề cập đến từ Hán- Việt. Nhưng trong sách Ngữ văn lớp 10, 11 phần văn
học trung đại đưa những tác phẩm viết bằng chữ Hán vào chương trình như: Thuật
hồi - Phạm Ngũ Lão, Độc Tiểu Thanh ký - Nguyễn Du, Bình Ngơ đại cáo Nguyễn Trãi, Sa hành đoản ca - Cao Bá Quát… và rất nhiều văn bản văn học
khác nữa. Điều này tạo ra khơng ít khó khăn cho HS khi chưa được trang bị đầy
đủ và chắc chắn kiến thức về từ Hán- Việt mà vẫn phải tìm hiểu, cắt nghĩa, lí giải
về các văn bản đó.
1.3. Để khắc phục tình trạng này, trong SGK Ngữ văn 10, chương trình GDPT
2018, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, việc giảng dạy cho HS biết cách
sử dụng từ Hán- Việt rất được chú trọng. Cụ thể ở cả hai tập sách, bài “Sử
dụng từ Hán- Việt” được xây dựng thành bài riêng nằm trong phần thực hành
tiếng Việt. Tuy nhiên qua quá trình giảng dạy của bản thân, cùng với sự chia

sẻ của nhiều đồng nghiệp khác, tôi nhận thấy, GV vẫn chưa thực sự thay đổi
nhiều trong cách dạy thực hành tiếng Việt. Cụ thể, GV chủ yếu dạy hoạt động
Đọc, chú ý vào dạy các văn bản mà xem nhẹ phần thực hành tiếng Việt, phần Viết,
phần Nói- nghe. Một bộ phận GV dạy thực hành tiếng Việt nhưng chú trọng dạy
lí thuyết, nhắc lại kiến thức về từ Hán- Việt rất nhiều mà ít dành thời gian cho HS
thực hành sử dụng trong học tập và đời sống. Khơng ít GV chưa nắm chắc kiến
thức nền tảng về từ Hán- Việt, vẫn còn lúng túng về phương pháp dạy học. Việc
kiểm tra đánh giá thường xuyên cũng tránh hoặc không đề cập nhiều đến nội dung
này. Và dẫn đến hệ quả tất yếu, HS vì vậy cũng khơng biết cách sử dụng từ
6


Hán - Việt để trong tạo lập văn bản và giao tiếp hàng ngày, mặc dù các em đã có
kiến thức về bộ phận từ loại này được trang bị từ các bậc học trước đó, và sau khi
đã được học xong bài cách sử dụng từ Hán- Việt. Không thể tạo lập văn bản,
không thể sử dụng các kiến thức đã học vào đời sống hằng ngày, nghĩa là năng
lực ngôn ngữ, kĩ năng giao tiếp của HS chưa được phát huy. Vì vậy, việc dạy học
Ngữ văn nói chung, dạy học tiếng Việt nói riêng chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu
cầu lớn nhất của chương trình GDPT 2018 là dạy học theo định hướng phát triển
phẩm chất, năng lực của HS.
1.4. Từ đó, tơi thiết nghĩ rằng, dạy học phần thực hành tiếng Việt nói riêng và các
phần khác của SGK Ngữ văn 10 nói chung đều cần thay đổi theo hướng phát triển
năng lực ngôn ngữ cho HS để đáp ứng yêu cầu của chương trình mới. Xác định
được tính cấp thiết, tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học từ HánViệt trong SGK Ngữ văn 10, 2018, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài: “Dạy- học sử
dụng từ Hán- Việt (phần thực hành tiếng Việt) trong SGK Ngữ văn 10, bộ sách
Kết nối tri thức với cuộc sống theo hướng phát triển năng lực ngơn ngữ” để giúp
HS có thêm kiến thức vững chắc, biết cách sử dụng thành thạo từ Hán- Việt, giúp
GV có thêm phương pháp giảng dạy từ Hán- Việt đạt hiệu quả cao.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

- Xác định cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về việc dạy học từ Hán- Việt cho HS
trong chương trình Ngữ văn THPT.
- Xác định được tầm quan trọng của việc phát triển năng lực ngơn ngữ cho HS lớp
10, chương trình GDPT 2018 thông qua dạy học cách sử dụng từ Hán- Việt, phần
Thực hành tiếng Việt. Từ đó, xây dựng các biện pháp và hình thức hướng dẫn HS
biết cách sử dụng từ Hán- Việt đảm bảo đúng chuẩn mực và hay, đạt hiệu quả
giao tiếp cao trong tạo lập văn bản cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
-Thực nghiệm dạy học từ Hán- Việt trong phần thực hành tiếng Việt cho HS lớp
10 theo hướng phát triển năng lực ngôn ngữ
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu cách thức dạy- học sử dụng từ Hán- Việt, phần Thực
hành tiếng Việt trong SGK Ngữ văn lớp 10, chương trình GDPT 2018, bộ sách
Kết nối tri thức với cuộc sống, theo hướng phát triển năng lực ngôn ngữ cho HS
- Về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu trong năm học 2022 - 2023.
- Địa bàn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài ở trường THPT Hoàng Mai
3. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả
thi nhằm giúp HS biết cách sử dụng từ Hán- Việt như đã được đề xuất trong
SKKN thì có thể nâng cao được khả năng ngôn ngữ của các em. Qua đó đáp ứng
7


đúng yêu cầu của chương trình GDPT 2018 là phát triển phẩm chất và năng lực
của HS.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn
- Phương pháp thống kê, so sánh
- Phương pháp phân tích, khái qt hóa, hệ thống hóa
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm….
5. Những đóng góp mới của đề tài

Đề tài phân tích và chứng minh việc thực hiện phưng pháp giảng dạy giúp
HS học tập tốt mơn Ngữ văn nói chung, nội dung tiếng Việt thực hành nói riêng
đã góp phần khơng nhỏ giúp HS học tập tốt hơn bộ môn này. Quan trọng hơn,
thông qua việc giảng dạy này, HS đã rèn luyện được năng lực và phẩm phẩm chất
của mình. Đặc biệt là phát triển khả năng ngôn ngữ của các em.
Những giải pháp đưa ra trong đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng sáng
tạo những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có sức thuyết phục, phù hợp với tình
hình thực tiễn của nhà trường và địa phương nên đã đem lại kết quả đáng kể góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT Hồng Mai.
Những cách làm đã được trình bày ở đề tài là kết quả của q trình nghiên
cứu có tính hệ thống, đã được áp dụng có hiệu quả trong năm học 2022-2023 và
đảm bảo tính khả thi, có chất lượng hiệu quả. Hướng đi của đề tài không trùng lặp
với bất cứ SKKN nào trước đó.

8


Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Một trong những thuận lợi khi thực hiện đề tài này là những vấn đề lí luận
quanh từ Hán- Việt, được các nhà các nhà ngôn ngữ học hàng đầu của nước ta
như Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Quang Hồng, Nguyễn Ngọc San,
Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Khang, Lê Xuân Thại… đã giải quyết một cách khá
thấu đáo, đạt được nhiều thành tựu quan trọng không chỉ cho ngành ngôn ngữ mà
còn là điểm tựa cho cả việc giảng dạy về từ Hán- Việt ở các bậc học.
Về dạy học tiếng Việt nói chung, dạy- học từ Hán- Việt nói riêng cũng được
rất nhiều người quan tâm và nghiên cứu chuyên sâu. Nhiều thành tựu quan trọng
trong số đó đã giúp ích không nhỏ cho việc dạy học bộ phận từ loại này của GV

và HS ở các cấp học. Tiêu biểu có thể kể đến nghiên cứu như cuốn sách “Từ và
vốn từ tiếng Việt hiện đại” của Nguyễn Văn Tu, cơng trình “Nguồn gốc và q
trình hình thành cách đọc Hán- Việt” của nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn,“Từ vựng
gốc Hán trong Tiếng Việt” của Lê Đỉnh Khẩn, “Mẹo giải nghĩa từ Hán- Việt và chữa
lỗi chính tả” của tác giả Phan Ngọc. Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu hệ thống
và chuyên sâu về từ Hán- Việt, còn có một số các tài liệu phục vụ cho việc giảng
dạy từ Hán- Việt trong trường phổ thông như cuốn “Dạy và học từ Hán- Việt ở
trường phổ thông” của tác giả Đặng Đức Siêu, “Xử lí các yếu tố gốc Hán trong
ngôn ngữ sách giáo khoa phổ thông” của tác giả Phan Văn Các, “Xung quanh
vấn đề dạy và học từ Hán- Việt” của tác giả Lê Xuân Thại và các luận án, luận
văn của các nghiên cứu sinh, học viên cao học nghiên cứu về phương pháp dạy
học từ Hán- Việt trong nhà trường. Các tài liệu được đăng tại trên mạng Internet
cũng trở thành kho tư liệu khổng lồ để tôi tham khảo khi tiến hành thực hiện đề
tài.
Nhìn chung, các tài liệu trên có giá trị rất to lớn trong việc nghiên cứu một bộ
phận từ ngữ quan trọng trong tiếng Việt. Đồng thời, cũng trở thành những điểm
tựa vững chắc, rất cần thiết cho việc giảng dạy từ Hán- Việt của GV. Các cơng
trình đều nỗ lực nghiên cứu hệ thống về nguồn gốc, cấu tạo, ý nghĩa, giá trị của
từ Hán- Việt. Đúng hơn là các tư liệu thiên nhiều về lí thuyết hàn lâm, un bác,
chưa có cơng trình nghiên cứu cụ thể nào về việc dạy cho HS cách sử dụng từ
Hán- Việt theo chương trình dạy học mới nhằm phát triển năng lực ngôn ngữ của
người học.
1.1.2. Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực
“Dạy học theo hướng phát triển năng lực” có lẽ là một trong những từ khóa
được tìm kiếm nhiều nhất về giáo dục trong vài năm trở lại đây. Hiện nay, SGK
lớp 10 đang thực hiện theo chương trình GDPT 2018 theo mục tiêu dạy học này
với nhiều bộ sách khác nhau.
9



Dạy học theo hướng phát triển năng lực đang bám sát theo những yêu cầu của
chương trình GDPT mới (được Ban hành kèm theo thông tư 32/2018/TTBGDĐT). Sự thay đổi rõ rệt nhất của chương trình này là chuyển từ chỗ quan tâm
đến việc giảng dạy kiến thức hàn lâm, nặng về lí thuyết sang việc quan tâm HS
vận dụng kiến thức như thế nào để hình thành năng lực giải quyết vấn đề. Để đảm
bảo được điều đó, phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học.
Người GV dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên
tắc “HS tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức (tự chiếm lĩnh kiến thức) với sự
tổ chức, hướng dẫn của GV”.
Theo đó, mơn Ngữ văn trong chương trình GDPT 2018 cũng đã xác định rõ
mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực cho HS phổ thơng. Riêng về năng lực,
ngồi những năng lực chung, chương trình nhấn mạnh vào việc hình thành và phát
triển hai năng lực đặc thù cho người học, đó là “năng lực ngơn ngữ” và “năng lực
văn học”. Chương trình 2018 lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết,
nói và nghe) làm trục chính xun suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp
học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học
được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực
tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe của HS
Đồng thời, việc dạy học Ngữ văn hướng vào việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp,
phát triển ngôn ngữ cho HS rất phù hợp với xu thế chung của thế giới. “Chương
trình dạy tiếng mẹ đẻ của các nước trên thế giới đều xây dựng theo phương hướng
lấy giao tiếp làm môi trường và phương pháp học tập, lấy việc phục vụ giao tiếp
làm nhiệm vụ và mục đích. Chương trình nào cũng dạy cả ngơn ngữ nói và ngơn
ngữ viết trong đó ngôn ngữ viết là trọng tâm. Theo xu hướng này, chương trình
nào cũng coi trọng cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết nhưng khơng qn nền tảng
của nó là các kiến thức ngơn ngữ. Chương trình nào cũng chú ý rèn luyện các kĩ
năng bộ phận khi nghe, nói, đọc, viết đồng thời chú ý rèn luyện tổng hợp các kĩ
năng đó trong q trình sử dụng lời nói để giao tiếp. Từ đó dần dần tạo nên sự
chuyển hố về chất, biến các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thành năng lực lời nói
cá nhân” (Nguyễn Trí)

Cùng với những thành tựu của ngành Dụng học và xu thế hội nhập toàn diện
của đất nước ta, việc dạy học môn Ngữ văn hướng vào hoạt động giao tiếp là một
trong những nguyên tắc quan trọng qua trình biên soạn chương trình. Bởi Ngữ
văn là mơn học vừa có tính cơng cụ, vừa có tính thẩm mỹ - nhân văn. Thơng qua
mơn học này HS được hình thành, phát triển các năng lực chung và năng lực môn
học như năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mỹ để sống và làm việc hiệu quả, để
học tập tốt các môn học khác, cũng như để học suốt đời.
Đối với phần tiếng Việt (một nội dung dạy học không thể thiếu trong môn
Ngữ văn), quan điểm này càng phải đề cao và tn thủ triệt để, vì mục tiêu cuối
cùng của mơn học này là làm cho người học sử dụng được và sử dụng hiệu quả
10


tiếng Việt như một công cụ giao tiếp quan trọng nhất trong đời sống. Chương trình
mơn Ngữ văn được xây dựng lấy năng lực giao tiếp là mục tiêu của q trình dạy
học, kiến thức ngơn ngữ là phương tiện để hình thành và phát triển các kỹ năng
giao tiếp thơng qua nghe, nói, đọc, viết. PGS.TS Đỗ Ngọc Thống khẳng định mục
tiêu môn học “Về năng lực: Giúp HS phát triển năng lực giao tiếp ở tất cả các hình
thức đọc, viết, nói, nghe và năng lực giao tiếp đa phương thức thông qua nội dung
những tri thức phổ thơng nền tảng về tiếng Việt và văn học, góp phần phát triển
vốn tri thức căn bản của một người có văn hóa”. Thơng qua việc hình thành và
phát triển năng lực giao tiếp mà giáo dục tâm hồn, nhân cách và khả năng sáng
tạo văn học của HS.
Cơ sở lý luận đã chứng minh ưu thế của việc dạy học Ngữ văn nói chung, dạy
học tiếng Việt nói riêng trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ của HS rất hiệu
quả.
1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Đặc điểm cấu trúc chương trình, bài học và mục tiêu dạy học phần Thực
hành Tiếng việt (bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
Đề tài dạy- học sử dụng từ Hán- Việt cho HS nhằm phát triển năng lực ngơn

ngữ cho HS hồn tồn phù hợp với đặc điểm, cấu trúc SGK và nội dung, mục tiêu
yêu cầu của việc giảng dạy phần thực hành tiếng Việt trong chương trình mới.
Trước hết, xét về mặt cấu trúc, SGK Ngữ văn 10 của chương trình giáo dục
GDPT 2018, gồm 2 tập. Tập một có 5 bài học, tập trung vào các loại, thể loại VB
cơ bản: truyện (thần thoại, truyện ngắn), sử thi, thơ trữ tình, kịch bản văn học chèo
và tuồng, VB nghị luận. Tập hai có 4 bài học, tập trung vào các loại, thể loại VB:
truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ trữ tình, VB nghị luận, VB thơng tin.
Trong đó, mỗi bài đều có cấu trúc theo mơ típ rất tiện theo dõi và thực hiện,
với 4 hoạt động Đọc- Viết- Nghe và nói. Trong đó, hoạt động đọc chiếm thời gian
nhiều hơn cả với số lượng văn bản đa dạng, phong phú trên nhiều thể loại. Phần
Thực hành tiếng Việt (được đặt sau VB cuối cùng của phần Đọc) bao gồm Bài tập;
Khung kiến thức sơ giản (giúp nhận biết các hiện tượng, vấn đề được thực hành).
Ngữ liệu để thiết kế các bài tập của phần thực hành tiếng Việt chủ yếu lấy từ các
VB đọc hiểu trong bài học. Các kiến thức tiếng Việt và văn học được cài đặt dựa
vào yêu cầu phát triển năng lực ngôn ngữ và văn học trong mỗi bài học. Những
kiến thức này mang tính chất công cụ, giúp HS đọc hiểu hiệu quả các VB chính
của bài học và vận dụng linh hoạt vào việc viết, nói và nghe.
Về kiến thức tiếng Việt được đưa vào Ngữ văn 10 (bộ Kết nối tri thức với cuộc
sống) theo yêu cầu của Chương trình GDPT 2018. Bao gồm các nội dung có liên
quan đến các đơn vị ngôn ngữ như từ vựng, ngữ pháp, hoạt động giao tiếp, phương
tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Ở phần từ ngữ là cách viết, phát âm, dùng từ đúng
ngữ nghĩa; lỗi dùng từ, cách sửa lỗi; Ở phần ngữ pháp, đó là kỹ năng đặt câu, tạo
lập văn bản sao cho vừa phù hợp với các quy tắc cú pháp tiếng Việt, vừa thích
11


hợp với hoàn cảnh giao tiếp, biết cách sửa lỗi về mạch lạc trong đoạn và văn bản;
Các biện pháp tu từ về từ, về câu; Các hoạt động giao tiếp, kỹ năng tiếp nhận và
lĩnh hội được các câu, các văn bản…
Thêm vào đó, cần thấy rằng mục tiêu, nguyên tắc của việc dạy học tiếng Việt

trong môn Ngữ văn là trang bị cho HS công cụ để Đọc hiểu văn bản, vận dụng
kiến thức tiếng Việt để thực hành, qua đó phát triển kĩ năng giao tiếp, năng lực
ngơn ngữ chứ khơng nhằm cung cấp kiến thức lí thuyết theo logic của khoa học
nghiên cứu về ngôn ngữ. Các đơn vị, hiện tượng tiếng Việt không được tập hợp
để tạo thành một “phân mơn” riêng mà tích hợp kiến thức Ngữ văn vào bài học
lấy VB làm trung tâm. Ở Ngữ văn 10, mục tiêu phát triển kĩ năng đọc, viết thông
qua thực hành tiếng Việt thể hiện rất rõ.
Riêng về từ Hán- Việt trong SGK Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc
sống, được cấu tạo thành 2 bài riêng, nằm ở cả tập 1 và tập 2 với tên gọi: “Sử dụng
từ Hán- Việt”. Theo yêu cầu dạy học của chương trình mới, cách dạy từ Hán- Việt
(một trong những bài học của phần thực hành tiếng Việt) cũng cần đảm bảo quá trình
dạy học hướng tới hình thành và phát triển các năng lực sử dụng từ Hán- Việt cho
người học trong môi trường học tập và đời sống hàng ngày của HS. Cụ thể, với các
tiết về từ vựng không chỉ dừng lại ở việc yêu cầu HS tìm từ, thuộc từ, mà chưa hướng
tới việc hiểu nghĩa từ (trong nhiều trường nghĩa khác nhau), cách sử dụng từ HánViệt một cách linh hoạt trong nói và viết, giúp các em tăng vốn từ và khả năng dùng
từ khi giao tiếp hoặc khi viết đoạn văn, bài văn.
Từ nhận thức trên, tôi nhận thấy khi giảng dạy cần định hướng về cách thức tổ
chức dạy học từ Hán- Việt sao cho phát triển tốt nhất các năng lực sử dụng từ
Hán- Việt đối với HS. Thơng qua đó giúp các em nâng cao được năng lực ngôn
ngữ và khả năng giao tiếp của bản thân hiệu quả nhất.
1.2.2. Thực trạng dạy và học từ Hán- Việt trong mơn Ngữ văn
Như đã trình bày ở phần lí do chọn đề tài, việc dạy- học từ Hán- Việt trong
chương trình biên soạn từ 2006, đã bắt đầu từ bậc Tiểu học đến THPT. Tuy nhiên,
các đơn vị bài học, dung lượng thời gian, hàm lượng kiến thức dành cho mỗi khối
lớp, các cấp học là khác nhau. Cụ thể:
- Ở bậc Tiểu học
Mục tiêu của Tiếng Việt là cung cấp cho HS kiến thức sơ giản về tiếng Việt,
trong đó cung cấp vốn từ. Từ Hán- Việt cũng đã xuất hiện trong các bài học vần,
tập đọc, luyện từ và câu. Đến lớp bốn và lớp năm thì được dạy thành các bài cụ
thể.

- Ở bậc THCS
+ Từ mượn (SGK lớp 6, tập 1)
+ Từ Hán- Việt (2 tiết, SGK lớp 7, tập 1)
12


- Ở bậc THPT chương trình cũ (SGK Ngữ văn ban Cơ bản), khơng có bài dạy
riêng về từ Hán- Việt.
So với SGK của chương trình cũ (ở đây chỉ bàn về bậc THPT), chương trình
mới rất chú trọng dạy từ Hán- Việt. Bằng chứng là, sách Ngữ văn 10, bộ Kết nối
tri thức với cuộc sống, được triển khai dạy- học từ năm học 2022-2023, có 2 bài
dạy về từ Hán- Việt nằm trong phần Thực hành tiếng Việt ở cả tập 1 và tập 2
+ Thực hành tiếng Việt: Sử dụng từ Hán- Việt, trang 28, tập 1
+ Thực hành tiếng Việt: Sử dụng từ Hán- Việt (tiếp theo), trang 26, tập 2
Nhìn vào thống kê ở trên ta cần suy nghĩ rằng, HS THPT (cụ thể là HS lớp 10
hiện nay) có chất lượng học từ Hán- Việt phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết,
đó là kết quả của một quá trình lâu dài mà các em đã được các thầy cô giảng dạy
ở các cấp học trước (Tiểu học, THCS). Yếu tố thứ nữa chi phối đến chất lượng
học tập của bộ phận từ loại này còn do phương pháp giảng dạy của các thầy cô ở
THPT. Bởi, GV THPT hiện nay đang phải tiếp cận với một nội dung mới mà trước
đó, các thầy cơ chưa hề được giảng dạy trong chương trình cũ.
Vì vậy, để có sự tổng hợp chính xác và khách quan nhất về thực trạng dạy và
học từ Hán- Việt trong mơn Ngữ văn. Từ đó, xác định phương hướng dạy học
phần từ Hán- Việt ở trường THPT có hiệu quả, chúng tôi đã thực hiện một cuộc
khảo sát quy mô nhỏ với nội dung xoay xung quanh phương pháp dạy-học và chất
lượng giảng dạy từ Hán- Việt cho HS theo định hướng phát triển năng lực.
TT

Trường


Số lượng GV Ngữ văn

Số lượng HS

1

Tiểu học Quỳnh Lập B

10

0

2

THCS Quỳnh Thiện

5

40

3

THPT Hoàng Mai

10

150

Link khảo sát GV
/>QfDd93CyTiếng Việtcr4cgxPNlcQ/viewform

Link khảo sát HS:
/>cA3_0kHhM8wo2Ngu9Ce9Hi0A/viewform
(Câu hỏi của phiếu khảo sát tham khảo Phụ lục 1)
Đồng thời, tôi đã tiến hành tổ chức kiểm tra với 2 lớp 10A1 và 10A13 trước
khi thực hiện áp dụng các biện pháp của đề tài. Đề kiểm tra (Phụ lục 2). Kết quả
điểm số được đặt ở phần đối chiếu với kết quả sau tác động.
Từ thực tế giao tiếp với HS, cũng như qua các phiếu thăm dò ý kiến từ phiếu
khảo sát trên và qua kết quả của bài kiểm tra mà HS đã thực hiện, cho thấy:
13


Về phía GV, các thầy cơ khẳng định rằng đã giảng dạy rất đầy đủ nội dung
chương trình trong SGK, kể cả những kiến thức liên quan đến các bài tiếng Việt
và từ Hán- Việt. Các thầy cơ đều có tinh thần trách nhiệm, ln mong muốn học
hỏi tìm tịi các phương pháp dạy học. GV luôn muốn nâng cao năng lực sử dụng
từ Hán- Việt cho HS thông qua mỗi tiết học. Đa số GV đều nắm chắc kiến thức
về từ Hán- Việt và bắt đầu vận dụng những phương pháp dạy học phát huy năng
lực HS. Tuy nhiên, vẫn cịn một số ít thầy cơ khẳng định, từ Hán- Việt là bộ phận
từ loại khó, vì đây là bộ phận từ mượn, đa dạng với cả GV và HS. Vì sự phong
phú đa dạng của nó nên khơng ít thầy cô chưa nắm vững về cách cấu tạo, giải
nghĩa từ Hán- Việt… Khi dạy từ Hán- Việt, GV thường bám sát và tuân thủ vào
SGK, tức là GV chỉ giảng giải cho các em những từ Hán- Việt và những nghĩa của
từ Hán- Việt có trong phần chú giải mà chưa mở rộng thêm nghĩa của từ đó trong
nhiều ngữ cảnh khác nhau để các em hiểu rõ hơn về nghĩa của các từ và có thể sử
dụng từ Hán- Việt linh hoạt trong các bài tập. Vì vậy, khả năng sử dụng từ HánViệt của các em còn rất nhiều hạn chế. Việc dạy học từ Hán- Việt theo định hướng
rèn luyện năng lực ngôn ngữ, rèn kĩ năng giao tiếp cho HS mới chỉ được thể hiện
một cách chung chung và khái qt, khơng có định hướng cụ thể cho HS.
Về những thông tin phản hồi thu nhận được từ phía HS, kết quả khơng mấy
khả quan. Đa số HS đều cho rằng từ Hán- Việt rất khó học, khó từ việc phân biệt
từ thuần, Hán- Việt đến cách cắt nghĩa, từ cấu tạo đến giá trị biểu đạt của từ. Đa

số các em HS vẫn chưa thể hiểu được từ Hán- Việt nên không thấy được giá trị
và tầm quan trọng mà nó. Khơng những thế, các em cũng chưa ý thức được vai
trò của việc học tiếng Việt là rèn luyện khả năng giao tiếp mà chỉ chú ý hoàn thành
bài tập được thầy cô giao cho. Tập trung học thuộc các văn bản thơ, truyện trong
chương trình. Các em cho rằng các văn bản văn học thú vị hơn nhiều mà không
biết rằng một khối lượng lớn ngôn ngữ văn chương được làm từ chất liệu là kho
từ vựng Hán- Việt.
Nguyên nhân của hiện trạng này phần lớn là do bản thân GV và HS chưa nhận
thức được tầm quan trọng của việc học tiếng Việt nói chung và học từ Hán- Việt
nói riêng là phát triển vốn từ, vốn ngôn ngữ của bản thân nên chưa có ý thức rèn
luyện khả năng nghe nói đọc viết của các em. Một bộ phận không nhỏ GV và HS
vẫn giữ quan điểm khi học môn Ngữ văn chỉ quan tâm đến việc đọc hiểu các văn
bản văn học, cịn khơng chú ý đến các bài tiếng Việt và Làm văn trong chương
trình. Tuy nhiên, cũng có em thẳng thắn nhìn nhận, nếu lớp học mà thầy cô yêu
cầu khắt khe về việc học tiếng Việt thì có thể HS đã cải thiện được rất nhiều năng
lực ngơn ngữ của mình, nhưng điều đó đã không xẩy ra. Bởi các thầy cô cũng chỉ
quan tâm “học những nội dung phục vụ kiểm tra, thi cử là chủ yếu”. Bởi các bài
thi, kiểm tra hầu như chỉ yêu cầu trình bày lại kiến thức đã học ở phần Đọc – hiểu
văn bản văn học.
Còn nếu dạy tiếng Việt, dạy đến các đơn vị từ Hán- Việt, các GV chỉ yêu cầu
14


HS hoàn thành hết bài tập đã cho trong SGK, nhiều HS chỉ việc chép sách học tốt
Ngữ văn, lên ghi bảng, lấy điểm một cách dễ dàng mà không cần phải trình bày
gì thêm. Thậm chí nhiều GV khi đến tiết tiếng Việt cũng chỉ dạy qua loa, hướng
dẫn HS làm bài tập sơ lược và để dành thời gian dạy những bài mà theo GV là
cần thiết hơn (ở đây là văn bản văn học). Chính vì vậy, sau khi học xong kiến thức
về từ Hán- Việt, thậm chí hằng ngày được tiếp cận với rất nhiều văn bản có từ
Hán- Việt, nhưng cả GV và HS vẫn chưa nắm được nghĩa của từ Hán- Việt, khiến

từ trở nên vơ nghĩa hoặc dẫn đến sai trầm trọng. Tình trạng này kéo dài khiến việc
rèn luyện và phát triển năng lực ngơn ngữ cho HS càng khó thực hiện. Các thầy
cô quên mất rằng Tri thức về từ Hán- Việt nói riêng về các quy tắc ngơn ngữ nói
chung chỉ được cũng cố, được khắc sâu khi người học thực hành vận dụng. Việt
thực hành từ Hán- Việt, có thể tiến hành ngay trong giờ học từ Hán- Việt, hoặc
tiến hành thông qua giờ dạy học các phân môn khác (văn học, làm văn)
Trong các kì thi, kiểm tra đánh giá HS, hầu hết đều dùng hình thức viết, và
chỉ chú trọng vào kiểm tra kiến thức văn bản văn học, cịn thực hành, rèn luyện kĩ
năng ngơn ngữ rất ít được sử dụng. Nếu HS có được đánh giá trong khi tham gia
thảo luận, trình bày kết quả làm việc nhóm, phát biểu trả lời các câu hỏi, thì GV
thường quan tâm về nội dung nói (nói những gì) mà chưa quan tâm về cách nói
(nói như thế nào). Vì vậy, một hiện tượng có tính chất dây chuyền diễn ra là đa số
HS coi tiếng Việt là “bài phụ” trong môn Ngữ văn. Khi GV dạy học tiếng Việt,
từ Hán- Việt mà hạn chế sử dụng những phương pháp dạy học có tính tương tác
cao cũng đồng nghĩa với việc HS bị giảm đi những cơ hội được giao tiếp, trình
bày, phát biểu trước tập thể. Và như vậy, năng lực ngơ ngữ, kĩ năng nghe nói đọc
viết dù có vai trị rất quan trọng đối với HS, nhưng các em vẫn chưa được rèn
luyện thường xuyên trong quá trình học tập.
Từ thực tế nêu trên, chúng ta cần phải có những giải pháp khắc phục tình trạng
học tiếng Việt nói chung, học từ Hán- Việt qua loa, xong chuyện để đối phó. Từ
đó, tạo ra sự hứng thú trong việc học tập tiếng Việt của các em, hướng các em đến
cách sử dụng ngơn ngữ có hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu giao tiếp thực tiễn, đảm
bảo sự trong sáng, giàu có của tiếng mẹ đẻ
Như vậy, qua khảo sát, người viết nhận thấy cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc dạy học Ngữ văn, dạy học thực hành tiếng Việt hướng vào việc phát triển
năng lực ngôn ngữ HS là điểm tựa, là nguồn tư liệu phong phú, đáng tin cậy giúp
người viết có căn cứ để thực hiện đề tài này.

15



Chương 2: KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HS CÁCH SỬ DỤNG TỪ HÁNVIỆT THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGÔN NGỮ
2.1. Hướng dẫn HS nắm vững kiến thức nền tảng về từ Hán- Việt
Chương trình Ngữ văn theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực vẫn coi
trọng hệ thống kiến thức cơ bản về văn học và tiếng Việt nhưng khơng lấy đó làm
mục tiêu cuối cùng. Trong tương quan với mục tiêu cuối cùng của giáo dục nhà
trường thì kiến thức là phương tiện; nhưng trong tương quan với mỗi năng lực
môn học, nhất là các năng lực thành phần thì kiến thức là nịng cốt. Khơng có kiến
thức khơng thành năng lực được. Vì vậy, khi giảng dạy cho HS cách sử dụng từ
Hán- Việt, GV trước hết cần hướng dẫn HS nắm chắc các kiến thức nền tảng về
bộ phận từ loại này bằng nhiều cách.
2.1.1. Hướng dẫn cách nhận diện, cấu tạo từ Hán- Việt.
2.1.1.1 Cách nhận diện từ Hán- Việt trong hệ thống từ vựng tiếng Việt
Muốn nhận diện từ Hán- Việt, trước hết GV cần yêu cầu HS nắm chắc về các
lớp từ trong tiếng Việt, bao gồm Lớp từ thuần Việt và Lớp từ vay mượn. (Đây là
kiến thức đã được học ở lớp 6 bậc THCS, nên các em có thể dễ dàng nhắc lại
được). Trong đó, từ thuần Việt là một khái niệm chưa được hiểu thống nhất trong
giới nghiên cứu. Đại đa số ý kiến đều cho rằng từ thuần Việt là những từ người
Việt dùng quen thuộc, dễ hiểu, thường trùng với bộ phận từ vựng gốc của tiếng
Việt, chúng biểu thị những sự vật, hiện tượng cơ bản nhất, lâu đời nhất, tồn tại từ
rất lâu đời.
Còn lớp từ vay mượn trong vốn từ tiếng Việt có số lượng rất lớn, thường được
chia thành hai bộ phận là từ Việt gốc Hán (Từ Hán- Việt và từ Việt gốc Ấn- Âu).
Từ vay mượn nói chung, từ Hán- Việt nói riêng là một bộ phận của vốn từ tiếng
Việt. Tuy chúng có nguồn gốc là từ ngữ của tiếng nước ngoài nhưng khi được vay
mượn vào tiếng Việt, diện mạo ngữ âm và ngữ nghĩa của từ ít nhiều thay đổi,
chúng chịu sự chi phối và hoạt động theo quy luật của từ tiếng Việt, trở thành một
bộ phận hữu cơ của vốn từ tiếng Việt. Từ Việt gốc Hán trong tiếng Việt có bộ
phận đã được Việt hóa cao độ, cảm thức tự nhiên của người Việt xem chúng là
những từ thuần Việt, có bộ phận khác mức độ Việt hóa thấp hơn nhưng chúng

cũng được người Việt dùng một cách bình thường theo thói quen như những lớp
từ khác. GV có thể cho HS về hệ thống từ ngữ Hán- Việt thuộc các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, xuất hiện ngay trong các văn bản của hoạt động Đọc,
SGK Ngữ văn 10
Ví dụ:
Trong SGK Ngữ văn 10, khi bàn về thơ ca, nghệ thuật, có hàng loạt các thuật
ngữ: Thi phẩm, nghệ thuật, Chủ đề, Cảm hứng, Nội dung, Nghệ sĩ, Chủ đề
Hoặc đoạn văn về vấn đề chính trị có thể xuất hiện nhiều: Triều đình, chế độ,
áp bức, chủ quyền, bờ cõi, phong tục, văn hiến…
16


Tiếp đó, GV có thể hướng dẫn cho HS một số căn cứ có thể tin cậy được để
xác định, nhận diện từ Hán- Việt bằng nhiều cách.
Có thể nhận thấy từ Hán-Việt là từ có vỏ ngữ âm là âm Hán –Việt: Như ta đã
biết, từ Hán-Việt là những từ gốc Hán được tiếng việt vay mượn và đọc theo âm
Hán-Việt. Do vậy, âm Hán-Việt trở thành một căn cứ để nhận diện từ Hán-Việt.
Âm Hán-Việt được hình thành một cách đồng loạt, hệ thống cho tất cả mọi chữ
Hán, theo những qui luật ngữ âm khá chặt chẽ. GV có thể giúp HS hiểu vấn đề
này rất nhanh bằng việc lấy dẫn chứng từ các bộ phim của Trung Quốc, đặc biệt
là phim cổ trang. Khi nghe các nhân vật trong phim giao tiếp với nhau, có rất
nhiều từ có vỏ âm thanh nghe kĩ rất giống với vỏ ngữ âm của người Việt.
Ví dụ:

Ví dụ về chữ Hán, âm Hán- Việt và từ Hán- Việt
Một dấu hiện nhận diện từ Hán-Việt khác nữa mà GV có thể hướng dẫn thêm
cho HS là những từ viết ra được bằng chữ Hán. Nói đến từ Hán-Việt trước hết
phải nói đến âm Hán-Việt, đó là âm do người Việt Nam tạo ra trên cơ sở những
âm tiếng Hán đời Đường. Về chữ viết thì chỉ có chữ Hán chứ khơng có chữ HánViệt. Do vậy, đã là từ Hán-Việt thì từ đó phải viết ra được bằng chữ Hán khối
vng mà người Hán tạo ra. (Cách nhận diện này tương đối khó và cũng khơng

q cần thiết với HS THPT bởi chúng ta đang dạy từ Hán- Việt chữ không phải
là dạy chữ Hán. Vì vậy nếu có thời gian GV có thể giới thiệu thêm cho HS được
biết)
Ví dụ: trong hình ảnh ở trên, các từ thủy, hỏa, điền, thổ, sơn, thạch, phụ, mẫu,
nhi, nữ đều có thể được biểu thị bằng chữ Hán- văn tự của người Trung Quốc.
Từ đó, GV có thể mở rộng nâng cao thêm cho HS (nếu có điều kiện), những
từ do người Việt tạo nên bằng cách ghép yếu tố Hán-Việt với yếu tố Việt không
17


viết ra được bằng chữ Hán thì khơng được xem là từ Hán-Việt.
Một cách nhận diện từ Hán- Việt tương đối phổ biến mà tôi thường dùng để
hướng dẫn HS là có thể đối chiếu nghĩa từ Hán-Việt với từ ngữ thuần Việt. Đây
là cách dễ làm và phổ biến nhất được nhiều GV lựa chọn khi giúp HS xác định từ
Hán- Việt
Từ Hán-Việt là lớp từ vay mượn tiếng Hán gián tiếp qua sách vở chữ Hán,
nhưng lại mượn sau khi vốn từ tiếng Việt đã khá phong phú. Do vậy, lớp từ này
chưa được Việt hóa một cách triệt để. Phần lớn các đơn vị gốc Hán loại này khi
đưa vào tiếng Việt xung đột đồng nghĩa với các từ thuần Việt sẵn có nên chúng
mất khả năng hoạt động tự do. Do vậy, các yếu tố trong từ Hán-Việt thường đồng
nghĩa với một từ thuần Việt. Đó là cơ sở cho phép ta nhận diện từ Hán-Việt, bằng
cách đối chiếu yếu tố trong từ Hán- Việt về nghĩa với từ thuần Việt, hoặc đối chiếu
nghĩa của từ Hán-Việt với một từ ngữ thuần Việt tương ứng. Nghĩa là khi gặp một
từ nào đó, nếu dẫn ra được từ ngữ thuần Việt tương đồng về nghĩa như vậy (hoặc
phải giải thích nghĩa của từ đó bằng các từ thuần Việt) thì từ đó là từ Hán-Việt.
Ví dụ: Các từ thuần Việt tương ứng về nghĩa với yếu tố Hán-Việt trong từ:
thiên = trời, địa = đất, tử = mất, tồn = cịn, tử = con, tơn = cháu, lục = sáu, tam
= ba,…
Một căn cứ khác GV có thể hướng dẫn HS nhận diện từ Hán- Việt là khả năng
sản sinh và tính độc lập hay khơng độc lập của các yếu tố Hán-Việt

+ Đối với các từ Hán-Việt đơn tiết hoạt động tự do, mức độ Việt hóa của chúng
rất sâu vì thế rất khó nhận ra các từ này là gốc Hán. Với loại này ta có thể dùng
phép thử cấu tạo từ song tiết, theo cách ghép nó với một yếu tố Hán-Việt khác,
nếu được thì đó là từ Hán-Việt (những từ này có mặt trong tiếng Việt).
Ví dụ: Xét các từ thê, khám, phi ta có thể khẳng định chúng là từ Hán-Việt,
vì các yếu tố đó có thể xuất hiện từ trong các từ thê thiếp, tiện thiếp, tiểu thiếp,…
thê tử, thê nhi, thê phụ,… khám nghiệm, khám phá, khám sát, khám thương… Phi
cơ, phi cơng, phi ngã…
Cũng có thể áp dụng biện pháp này cho cả cách xác định yếu tố Hán-Việt.
Ví dụ, xét yếu tố hải”, ta có thể căn cứ vào khả năng sản sinh của nó, hải đã
liên kết với hàng loạt yếu tố Hán-Việt khác để sản sinh ra các từ Hán-Việt như:
hải dương, hải đảo, hải quân, hải sản, hải triều…
Đối với các từ Hán-Việt đa tiết, tuy các yếu tố trong từ đều có nghĩa thực
nhưng phần lớn chúng lại không thể tách thành từ hoạt động tự do. Do vậy, nếu
ta gặp một từ đa tiết thỏa mãn hai điều kiện. Một là, các yếu tố đều có nghĩa thực
(có thể đối chiếu nghĩa với từ thuần Việt). Hai là, tất cả các yếu tố đó đều khơng
thể tách thành từ hoạt động tự do thì từ đó là từ Hán-Việt.
Ví dụ: Từ “thảo mộc” (thảo có nghĩa là cỏ, mộc chỉ cây, nhưng khơng ai nói
cắt thảo, chặt mộc).
18


Tương tự, từ “giang sơn”, trong đó “giang” là sơng, sơn là núi nhưng khơng
ai có thể nói lội giang, trèo sơn.
2.1.1.2. Các xác định cấu tạo từ Hán- Việt
Về cách hướng dẫn HS cách xác định cấu tạo từ Hán- Việt, GV có thể căn cứ
phân loại cụ thể về cấu tạo từ Hán- Việt đơn tiết và từ Hán- Việt đa tiết để HS xác
định được cấu tạo của từ. Trong đó,
Cấu tạo từ đơn tiết Hán- Việt: Đây là lớp từ cấu tạo chỉ một tiếng được dùng
tự do trong tiếng Việt. Các từ đơn tiết tiếng Hán vào tiếng Việt, phần lớn vẫn giữ

được khả năng hoạt động tự do là do chúng gọi tên những sự vật, đặc điểm, tính
chất mà tiếng Việt chưa có từ để gọi. Mặt khác, đại bộ phận các từ đó lại khơng
đồng âm với từ thuần Việt có sẵn. Nói cách khác, tuyệt đại đa số các từ đơn tiết
tiếng Hán vào tiếng Việt hoạt động tự do là do chúng không đồng nghĩa và không
đồng âm với từ có sẵn của tiếng Việt.
Cịn từ đa tiết Hán- Việt, bao gồm từ ghép, từ láy và bằng phương thức rút
gọn cũng có những cách cấu tạo khác nhau.
Từ ghép bao gồm từ ghép phân nghĩa (chính- phụ) có hai loại. Chiếm số lượng
lớn nhất là loại có cấu tạo yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau.
Ví dụ: Đảng kì, quốc ca, lễ đường, thanh niên, hải qn
Từ ghép phân nghĩa có yếu tố chính đứng trước và yếu tố phụ đứng sau (như
trật từ từ thuần Việt) khơng nhiều.
Ví dụ: Đa tài, vơ danh, nhập ngũ, lưu tâm, khai bút…
Các từ ghép phân nghĩa thì HS phải chú ý đến nghĩa chính của từ tập trung
vào một âm tiết trong từ đó.
Một loại từ ghép khác là từ ghép hợp nghĩa (từ ghép đẳng lập) có cấu tạo như
từ ghép hợp nghĩa thuần Việt, nghĩa là các yếu tố có vai trị ngữ pháp ngang nhau,
cùng chỉ một phạm trù, có quan hệ đồng nghĩa hay liên quan với nhau trong một
trường nghĩa, hoặc trái nghĩa. Vì vậy mà tạo cho từ ghép đẳng lập có nghĩa khái
quát, tổng hợp
Ví dụ: Bại vong, độc ác, hưng thịnh, gian ác, nhân nghĩa, thương vong, đế
vương, viên mãn, huynh đệ, giang sơn… là các từ được cấu tạo từ các yếu tố đồng
nghĩa hoặc liên quan với nhau về nghĩa trong một trường.
Các từ như chiến bại, chung thủy, tồn vong, hưng phế, sinh tử, lợi hại…là các
ví dụ quen thuộc điển hình cho các từ được cấu tạo từ các yếu tố có quan hệ trái
nghĩa.
(Ngồi ra, trong từ Hán- Việt cịn có cấu tạo của các từ láy và cấu tạo từ bằng
phương thức rút gọn. GV có thể chỉ giới thiệu thêm cho HS được biết vì hai bộ
phận này khơng chiếm số lượng nhiều trong tiếng Việt.
19



Từ láy trong tiếng Việt tuyệt đại đa số là từ thuần Việt. Trong lớp từ đa tiết
Hán- Việt, có một số từ, giữa các âm tiết có hình thức âm thanh được láy lại, và
nếu xét theo đồng đại, các yếu tố trong từ đều khơng có nghĩa thực nên các từ đó
được xem là từ láy. Ví dụ không nhiều: Phảng phất, xán lạn…
Cấu tạo từ Hán- Việt bằng phương thức rút gọn cũng chỉ là số ít, được tạo ra
theo lối nói tắt)
2.1.3. Hướng dẫn HS phương pháp giải nghĩa từ Hán- Việt
Muốn giúp cho HS hiểu đúng từ Hán- Việt thì quan trọng là cần dạy các nét
nghĩa khác nhau của từ được sử dụng trong các văn cảnh giao tiếp khác nhau. GV
cần nắm chắc cách giải nghĩa từ Hán- Việt để từ đó hướng dẫn HS giải nghĩa
thành thạo, vững vàng. Trong quá trình dạy học, tôi thường giúp HS hiểu nghĩa
của từ Hán- Việt bằng những cách sau:
2.1.2.1. Giải nghĩa từ Hán- Việt bằng cách thuyết minh nghĩa yếu tố cấu tạo và
quan hệ giữa chúng
Mỗi yếu tố Hán - Việt tuy đều viết ra được bằng một chữ Hán, có ý nghĩa
nhưng vai trò khả năng hoạt động của các yếu tố trong tiếng Việt lại khác nhau,
do vậy phải có cách giải nghĩa khác nhau.
GV cần nắm rõ vấn đề rằng các yếu tố tiếng Hán khi vào tiếng Việt, chúng bị
đặt trong hai thế đối lập chủ yếu với các từ đồng nghĩa và từ đồng âm có sẵn của
tiếng Việt vì thế dẫn đến kết quả có những yếu tố gốc Hán thì hoạt động tự do với
tư cách là từ nhưng có những yếu tố gốc Hán lại hoạt động hạn chế với tư cách là
yếu tố của từ. Do vậy vấn để đặt ra đối với dạy và học từ Hán - Việt trong tiếng
Việt về nghĩa là loại yếu tố Hán - Việt nào thì cần phải giải nghĩa, và giải nghĩa
bằng nào.
Đối với các từ Hán - Việt đơn tiết thì chúng được sử dụng như các từ thuần
Việt, đã trở nên quen thuộc dễ hiểu với người Việt, do vậy khi dạy từ Hán- Việt
với loại này, chúng ta không cần giải nghĩa
Đối với các từ Hán - Việt đa tiết: Đây là bộ phận từ vựng chiếm số lượng tuyệt

đại đa số trong lớp từ Hán - Việt, phần lớn các yếu tố trong từ đều có nghĩa nhưng
khơng có khả năng hoạt động tự do trong tiếng Việt, nên việc hiểu đúng nghĩa của
từ ít nhiều phụ thuộc vào việc hiểu nghĩa các yếu tố trong từ. Các từ loại này có
đặc điểm về cấu tạo là chúng được tạo nên từ các yếu tố có nghĩa độc lập. Trong
tiếng Hán các yếu tố đó thường được dùng với tư cách là từ. Cho nên việc nắm
được nghĩa của từng yếu tố trong từ là rất quan trọng. Vậy nên, đối với loại từ
Hán - Việt cấu tạo theo kiểu này, phải giải nghĩa thì HS mới có thể hiểu một cách
đầy đủ, chính xác. Có nhiều cách giải nghĩa từ Hán - Việt, cách đầu tiên mà người
ta hay áp dụng đó là giải nghĩa của từ qua nghĩa của các yếu tố trong từ. Phương
pháp này thường được mọi người quen gọi là “chiết tự”.
Phương pháp chiết tự được dùng để giải nghĩa đối với phần lớn các từ phép
20


và thành ngữ để tìm hiểu nghĩa của chúng theo cấu tạo. Muốn nắm hay giải nghĩa
từ và thành ngữ các từ Hán- Việt trước hết phải nắm được đặc điểm cấu tạo từ và
thành ngữ. Các từ đa tiết Hán – Việt đa số được cấu tạo theo phương thức ghép;
còn thành ngữ Hán – Việt là ngữ cố định cũng có cấu tạo tương tự như thành ngữ
thuần Việt.
Trước hết, đối với từ ghép Hán - Việt:
- Kiểu ghép đẳng lập: các yếu tố trong từ có vai trò ngữ pháp ngang nhau,
nghĩa của chúng cũng chỉ một phạm trù (hoặc cùng chỉ sự vật, hoặc cùng chỉ hoạt
động, hoặc cùng chỉ tính chất), nằm trong một trường nghĩa, có quan hệ đồng
nghĩa, gần nghĩa, liên quan với nhau hoặc trái nghĩa nhau, vì thế mà nghĩa của
chúng hợp lại tạo cho từ có nghĩa khái quát.
Cũng cần chú ý thêm, nghĩa của từ không phải là phép cộng đơn giản từ nghĩa
của các yếu tốc trong từ mà nó đã được cấu trúc hóa, khái quát hóa, có thể theo
hướng biểu trưng. Do vậy quan hệ nghĩa giữa các yếu tố có thể nảy sinh nét nghĩa
bổ sung nằm ngồi nghĩa các yếu tố. Nét nghĩa đó ta có thể suy ra từ nghĩa các
yếu tố, từ ngữ cảnh. Nắm được đặc điểm ấy để từ chỗ giải thích cụ thể của từng

yếu tố, ta đi đến khái qt hóa, hoặc biểu trưng hóa thành nghĩa chung.
Ví dụ: Giang = sông, sơn = núi, giang sơn = sông núi, đất nước.
Thảo = cỏ, mộc = cây, thảo mộc = cỏ cây nói chung
Vĩ = to lớn, đại = to, lớn, vĩ đại = rất lớn lao
Từ ghép chính phụ Hán – Việt có hai loại. Loại thứ nhất có cấu tạo: yếu tố
phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau (trật tự ngược). Khi giải nghĩa từ, chúng
ta cũng giải nghĩa từng yếu tố như loại từ ghép đẳng lập, nhưng khi ghép thành
nghĩa chung của từ thì lại phải bắt đầu từ nghĩa của yếu tố (đứng sau).
Ví dụ: Quốc = nước, kì = cờ, Quốc kì = cờ nước
Thiên = trời, tử = con, thiên tử = con trời
Nhân = người, tâm = lòng, nhân tâm = lịng người
Loại từ ghép chính phụ thứ hai có cấu tạo: yếu tố chính đứng trước, yếu tố
phụ đứng sau (như trật tự từ thuần việt). Trình tự giải nghĩa loại này phải bắt đầu
từ yếu tố đứng trước.
Ví dụ: Đại = thay, diện = mặt, đại diện = thay mặt
Lưu = ở lại, giữ lại, ban = lớp, lưu ban = ở lại lớp
2.1.2.2. Giải nghĩa từ Hán- Việt cần đặt từ vào văn cảnh, ngữ cảnh cụ thể
Trong tiếng Việt, có những từ Hán - Việt, chúng ta không thể chỉ sử dụng
phương pháp thuyết minh nghĩa yếu tố cấu tạo và quan hệ giữa chúng là có thể
giải thích dùng nghĩa của từ. Bởi vì, có những từ, nghĩa của nó gắn với điển tích,
điển cố. Có những từ, nghĩa gốc của các yếu tố trong từ đã mờ, hoặc đã biến đổi
21


nghĩa. Lại cịn có những từ mà sự kết hợp ngữ nghĩa giữa các yếu tố hồn tồn
chỉ có tính chất võ đốn, hoặc chỉ theo thói quen nào đó vv..
Ví du: Phu nhân, nếu giải nghĩa theo kiểu chiết tự, phụ là “chồng”, nhân là
"người, phu nhân là “người chồng” thì sai.
Gia nhân nếu giải nghĩa theo kiểu chiết tự thì sẽ có nghĩa là “người nhà”
(thực ra phải hiểu là "người ở giúp việc trong nhà - đầy tớ trong nhà mới đúng).

Ngoài ra cũng cần thấy một thực tế trong tiếng Việt, số lượng các các yếu tố
Hán- Việt đồng âm là rất lớn, do vậy rất dễ nhầm lẫn yếu tố này với yếu tố kia,
nếu chỉ áp dụng phương pháp giải nghĩa yếu tố. Mặt khác cịn có hiện tượng, một
yếu tố Hán – Việt có thể có nhiều nghĩa nhưng trong một ngữ cảnh lại chỉ có một
nghĩa cụ thể của nó được sử dụng mà thơi. Vậy nên, đó cũng là một khó khăn đối
với việc giải nghĩa từ Hán- Việt.
Ví dụ, với một âm Phụ, ít nhất trong tiếng Việt hiện nay cũng có 6 yếu tố HánViệt đồng âm có nghĩa khác nhau, trong đó có nhiều yếu tố đa nghĩa. Phụ = kèm
thêm (phụ cấp, phụ lục). Phụ = mang gánh vác (phụ trách), Phụ = cha (phụ huynh,
phụ hệ…)Phụ = giúp (phụ đạo, phụ tá)
Như vậy, ta có thể hình dung, cơng việc giải nghĩa từ Hán- Việt rất phức tạp,
không phải với bất cứ yếu tố nào cũng có thể áp dụng phương pháp “chiết tự”. Ta
có thể áp dụng phối hợp với nhiều phương pháp khác, một trong những phương
pháp đó là đặt từ trong ngữ cảnh cụ thể. Khi từ nằm trong ngữ cảnh, nhờ quan hệ
với những yếu tố đi kèm, nghĩa của từ cần xét sẽ được xác định.
2.1.2.3. Giải nghĩa từ Hán – Việt bằng cách đối chiếu với từ thuần Việt đồng
nghĩa
Cùng với phương pháp chiết tự các thành tố trong từ Hán- Việt, cách đối chiếu
với từ thuần Việt đồng nghĩa là cách làm phổ biến, dễ hiểu nhất mà GV thường
HS thực hiện khi muốn giải nghĩa từ Hán- Việt.
Điều này rất dễ hiểu, do vay mượn từ nên trong tiếng Việt, hiện tượng đồng
nghĩa giữa từ Hán – Việt với từ thuần Việt khá phong phú. Nếu như từ Hán- Việt
phần lớn có tần số sử dụng thấp, các yếu tố luôn nằm trong kết cấu cố định của từ
vì thế chúng thường tạo ra sắc thái nghĩa trừu tượng khó hiểu thì ngược lại các từ
thuần Việt, do được dùng phổ biến, thường xuyên mà trở thành quen thuộc để
hiểu với mọi người. Cho nên, ngoài hai biện pháp giải nghĩa đã nói đến ở trên,
GV cũng có thể hướng dẫn HS kết hợp áp dụng phương pháp đối chiếu từ HánViệt với từ thuần Việt tương đồng về nghĩa để giải nghĩa từ Hán- Việt tốt hơn, dễ
dàng hơn. Đây là cách làm dùng từ đã quen thuộc, dễ hiểu để giải thích cho từ
khơng quen thuộc, khó hiểu
Trước hết, vì nhiều lý do mà các từ Hán – Việt đồng nghĩa có thể cũng song
hành trong tiếng Việt bên cạnh từ thuần Việt. Hiện tượng đồng nghĩa như vậy

khơng phải là sự dư thừa, lãng phí của ngơn ngữ. Để có thể cùng tồn tại, các đơn
22


vị đồng nghĩa “tự điều chỉnh” để tạo ra giá trị riêng cho mình về nghĩa, về sắc thái
phong cách hay phạm vi sử dụng. Do vậy, khi đối chiếu từ Hán- Việt với từ thuần
Việt đồng nghĩa cần chú ý đến ba loại sau đây:
+ Những từ tương đồng về nghĩa: Những từ Hán- Việt nói ở đây thường có nội
dung, ngữ nghĩa tương đồng với từ thuần Việt ở mức độ tương đối cao. Cho nên
nếu cần giải nghĩa từ Hán- Việt loại này, chỉ cần dẫn ra từ thuần Việt đồng nghĩa
tương ứng là HS có thể hiểu ngay được ngữ nghĩa.
Ví dụ: Rất nhiều từ Hán- Việt có mặt trong phần tiếng Việt thực hành có sự tương
đồng về nghĩa rất rõ với từ thuần Việt
Từ Hán- Việt

Từ thuần Việt

Phi cơ

Máy bay

Giang sơn

Sông núi

Huynh đệ

Anh em

Bằng hữu


Bạn bè

+ Những từ vừa tương đồng vừa phân biệt với nhau về nghĩa, sắc thái nghĩa
nhất định: Có một số từ ngữ Hán- Việt đồng nghĩa với từ thuần Việt nhưng nghĩa
của chúng khơng hồn tồn đồng nhất. Do nhiều lí do mà các cặp từ đồng nghĩa
này có sự khác nhau ít nhiều về nghĩa. Có thể ngay từ đầu, giữa yếu tố bản địa và
yếu tố vay mượn vốn đã có sự khác nhau ít nhiều, nhưng cũng có thể do sự hành
chức của chúng trong ngơn ngữ, khơng chấp nhận sự giống nhau hồn tồn. Do
vậy khi giải thích nghĩa từ Hán – Việt bằng cách đối chiếu với từ thuần Việt,
chúng ta đồng thời cần chỉ ra nghĩa hoặc nét nghĩa khác nhau giữa chúng.
Ví dụ: Vĩ đại (Hán- Việt) là to lớn (thuần Việt) nhưng sắc thái nghĩa của từ Vĩ
đại không chỉ là to và lớn mà cịn có thêm tầm vóc, tầm cỡ đáng khâm phục (sắc
thái này từ thuần Việt không thể hiện được)
+ Những từ tương đồng về nghĩa nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm và
phong cách: Từ Hán- Việt và từ thuần Việt ngoài sự phân biệt với nhau về nghĩa,
sắc thái nghĩa, trong nhiều trường hợp cần thiết cũng cần chỉ ra sắc thái biểu cảm
và phong cách đối lập. Thông thường, từ Hán- Việt mang phong cách trang trọng,
cổ kính, tao nhã và trong rất nhiều trường hợp cần đến sắc thái này, chúng ta chỉ
có thể lựa chọn từ Hán- Việt chứ khơng thể dùng từ thuần Việt
Ví dụ: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (không thể dùng Hội Liên hiệp đàn bà
Việt Nam, dù Phụ nữ và đàn bà tương đồng về nghĩa)

23


2.2. Hướng dẫn HS cách sử dụng từ Hán- Việt phần thực hành tiếng Việt
nhằm phát triển năng ngôn ngữ
2.2.1. Hướng dẫn HS sử dụng từ Hán- Việt đúng âm, đúng nghĩa
Từ Hán- Việt là một loại từ đặc biệt trong vốn từ vựng tiếng Việt, là một bộ

phận rất quan trọng của kho từ vựng tiếng Việt. Lớp từ Hán- Việt có khối lượng
lớn, được sử dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, nghệ thuật... Tuy nhiên, theo thống
kê đáng tin cậy thì có tới 16 hình thức sử dụng sai từ Hán- Việt khá phổ biến hiện
nay như: sai vì khơng hiểu gốc Hán- Việt, sai vì cố ý sửa gốc của từ, sai vì khơng
hiểu văn phạm giữa Hán- Việt và Hán Nơm, sai vì dùng từ thiếu chính xác ngữ
cảnh; dùng sai nghĩa từ thuần Việt lại tưởng từ Hán- Việt, dùng từ Hán- Việt vô
nghĩa và lộn xộn. Vì vậy, trước hết, GV cần hướng dẫn HS khi sử dụng từ HánViệt phải đúng âm, đúng nghĩa.
2.2.1.1. Sử dụng từ Hán- Việt đúng âm, phân biệt các từ gần âm
Muốn sử dụng từ Hán –Việt tốt trước hết phải nhớ đúng âm, hiểu đúng nghĩa
của từ. Đối với từ, âm và nghĩa là hai mặt có quan hệ khăng khít như hai mặt tờ
giấy, khơng tách rời. Do vậy, không nhớ đúng âm hay không hiểu nghĩa của từ
đều dẫn tới việc dùng từ sai. Hiện tượng sai phổ biến nhất là do người dùng đã
không phân biệt được các từ gần âm.
Ví dụ: Phê phán thái độ thờ ơ, đứng ngồi cuộc mà nhìn , đáng lẽ phải nói
thái độ bàng quan lại nói thành thái độ bàng quang. Từ Hán-Việt bàng quan thì
bàng có nghĩa là “bên,cạnh”, quan là “nhìn”, bàng quan là đừng ngồi cuộc mà
nhìn, coi là khơng dính đến mình”, cịn bàng quan lại có nghĩa là “bọng đái”
Phần lớn các trường hợp hiểu lầm hay phân biệt khơng rạch rịi, khơng
chính các các từ Hán-Việt gần âm, gần nghĩa là do trong các từ đó có những yếu
tố chung về cấu tạo .
2.2.1.2. Sử dụng từ Hán- Việt đúng nghĩa; phân biệt hiện tượng đồng âm
Như ta đã biết, hiện tượng đồng âm giữa các yếu tố Hán -Việt và giữa yếu tố
Hán-Việt với yếu tố thuần Việt là rất phổ biến, cho nên đây cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng dùng sai, hiểu nhầm từ Hán- Việt.
Ví dụ: Trong tiếng Việt có nhiều yếu tố Hán- Việt khác nhau về nghĩa những
đều phát âm là đồng do vậy có thể gây ra hiện tượng nhầm lẫn giữa đồng tử là
“trẻ em , con trai theo hầu” và đồng tử là con ngươi của mắt”.
Đồng thanh là “cùng một lời”(đồng là cùng) cho nên suy ra đồng thoại có
nghĩa là “cùng nói”thực ra , đồng ở đây là “trẻ con”, cho nên đồng thoại là “truyện

dành cho trẻ em”.
Qua một vài ví dụ như trên để thấu rằng, GV cần hướng dẫn cho HS sử dụng
từ Hán- Việt chính xác, đúng âm đúng nghĩa khơng những cần phải chú ý phân
24


biệt từ gần âm, gần nghĩa mà còn phải phân biệt các yếu tố, các từ đồng âm
2.2.4. Hướng dẫn HS sử dụng từ Hán- Việt đúng phong cách, phù hợp đối
tượng
2.2.4.1. Sử dụng từ Hán-Việt đúng phong cách
Như ta đã thấy, nằm trong sự đối lập với từ thuần Việt đồng nghĩa, các từ HánViệt có thể mang sắc thái tao nhã, trang trọng, cổ kính. Xét về mặt hình thức, tùy
theo đặc điểm, nội dung và hình thức, đối tượng giao tiếp mà người ta chia sản
phẩm ngôn ngữ thành các loại phong cách khác nhau. Ngôn ngữ dùng trong phong
cách khoa học, nghệ thuật, chính luận,...khơng giống ngôn ngữ dùng trong phong
cách khẩu ngữ. Ngôn ngữ trong hội đàm ngoại giao, trong hội nghị khoa học có
đặc điểm riêng không giống trong ngôn ngữ giao tiếp thông thường. Do vậy để
phát huy hiệu quả của từ Hán- Việt, chúng ta cần phải dùng từ Hán- Việt chính
xác, phù hợp phong cách. Nếu dùng từ đúng phong cách thì phát huy được hiệu
quả của từ, sử dụng từ Hán- Việt khơng phù hợp phong cách thì sẽ phản tác dụng.
Từ Hán- Việt cũng như từ thuần Việt đều có ưu thế riêng của nó, khơng phải mọi
trường hợp dùng từ Hán- Việt là hay, mọi trường họp dùng từ thuần Việt đều là
tốt. Giá trị của từ, được đánh giá là “hay” hay “tốt” không phải là do bản thân từ
mà là do quan hệ của nó trong ngữ cảnh, hồn cảnh giao tiếp, hợp hay khơng hợp.
Ví dụ: Trong hội nghị, hội thảo, trên các phương tiện thông tin, trong ngoại
giao,... người ta thường dùng từ Hán – Việt thay thế từ thuần Việt. Chẳng hạn phụ
nữ thay đàn bà, thiếu nhi thay trẻ con, nông dân thay dân cày, công nhân thay thợ
thuyền, hôn lễ thay lễ cưới v.v…
Trong một hội nghị, ta có thể thấy hàng loạt các từ Hán – Việt được dùng như:
chủ tọa, thư kí, chủ tịch đồn, thư kí đồn, khai mạc, chử trì, điều hành, báo cáo,
báo cáo viên, trình bày, phát biểu, ý kiến, thuyết trình, thảo luận, tranh luận, phản

bác, phản biện, đề tài, chủ đề, vấn đề, luận điểm, hệ thống, phân tích, tổng hợp,
khái quát, tổng kết, tuyên bố, bế mạc,...
Sự có mặt của lớp từ Hán – Việt như vậy là phù hợp, góp phần làm cho khơng
khí hội nghị trang trọng, nghiêm túc.
2.2.4.2. Sử dụng từ Hán – Việt phù hợp đối tượng
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của giao tiếp là các phương
tiện được sử dụng phải phù hợp đối tượng. Từ Hán – Việt là loại đơn vị có đặc
điểm ngữ nghĩa như ta đã thấy, với đối tượng nhỏ tuổi hoặc với những người
khơng có điều kiện học hành nhiều, nếu chúng ta dùng nhiều từ ngữ Hán – Việt
khơng có sự chọn lọc thì sẽ khơng đạt hiệu quả giao tiếp. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là người mẫu mực trong việc dùng từ ngữ phù hợp đối tượng. Trong các bài nói,
viết của Chủ Tịch Hồ Chí Minh ta thấy bao giờ Người cũng dùng từ ngữ khác
nhau cho những đối tượng khác nhau.
Từ Hán- Việt có những sắc thái tu từ mà từ thuần Việt không thể có được.
25


×