Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế tại bệnh viện đa khoa tỉnh ninh bình năm 2020 và một số yếu tố ảnh hưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.69 MB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

NGUYỄN THI THU HIỀN

H
P

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH BÁO CÁO SỰ CỐ Y KHOA CỦA
NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NINH BÌNH
NĂM 2020 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG

U

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN

H

MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 8720802

HÀ NỘI, 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

NGUYỄN THI THU HIỀN
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH BÁO CÁO SỰ CỐ Y KHOA

H
P



CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NINH
BÌNH NĂM 2020 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG

U

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 8720802

H

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Nguyễn Tuấn Hƣng
2. Ths. Phạm Quỳnh Anh

HÀ NỘI, 2021


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................................ iv
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................ 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ......................................................................................... 3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU...................................................................... 4
1.1. Đại cương về sự cố y khoa ............................................................................... 4
1.2. Bộ công cụ đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa ........ 7

H
P


1.3. Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế trên thế
giới và ở Việt Nam .................................................................................................. 8
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành báo cáo sự cố y khoa ...................... 13
1.5. Khung lý thuyết .............................................................................................. 19
1.6. Sơ lược về địa điểm nghiên cứu ..................................................................... 21

U

CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 23
2.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 23
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu .................................................................. 23

H

2.3. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................................ 23
2.4. Cỡ mẫu ............................................................................................................ 24
2.5. Phương pháp chọn mẫu .................................................................................. 24
2.6. Phương pháp thu thập số liệu ......................................................................... 25
2.7. Biến số nghiên cứu ......................................................................................... 27
2.8. Khái niệm, thước đo, tiêu chuẩn đánh giá ...................................................... 28
2.9. Phương pháp phân tích số liệu ........................................................................ 29
2.10. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ................................................................. 29
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.................................................................. 31
3.1. Một số đặc điểm chung của người tham gia nghiên cứu ................................ 31
3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa ....................................... 33


3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành báo cáo sự cố y khoa ...................... 45
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN .......................................................................................... 55

4.1. Bàn luận về một số đặc điểm của người tham gia nghiên cứu và phương pháp
nghiên cứu.............................................................................................................. 55
4.2. Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa ....................................... 56
4.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành báo cáo sự cố y khoa ...................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 66
KHUYẾN NGHỊ.......................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 69

H
P

Phụ lục 1 QUY TRÌNH QUẢN LÝ VÀ BÁO CÁO SỰ CỐ Y KHOA................... 73
Phụ lục 2 BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU .......................................................................... 76
Phụ lục 3 PHIẾU PHÁT VẤN VỀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH BÁO
CÁO SỰ CỐ Y KHOA CỦA NVYT BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NINH BÌNH
....................................................................................................................................... 81

U

Phụ lục 4 HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN CÁN BỘ QUẢN LÝ................................ 90
Phụ lục 5 HƢỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM ...................................................... 92
Phụ lục 6 PHÂN LOẠI SỰ CỐ Y KHOA THEO MỨC ĐỘ TỔN THƢƠNG ..... 93

H

Phụ lục 7 DANH MỤC SỰ CỐ Y KHOA TỔN THƢƠNG NẶNG (NC3) ............ 96
Phụ lục 8 THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ .................................................................... 100
Phụ lục 9 PHIẾU ĐIỀU TRA VỀ BÁO CÁO SỰ CỐ Y KHOA CỦA NHÂN VIÊN
Y TẾ SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ TRẦN THỊ BÍCH BO
..................................................................................................................................... 103

Phụ lục 10 MẪU TÌM HIỂU VÀ PHÂN TÍCH SỰ CỐ ........................................ 110


ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVĐK

Bệnh viện Đa khoa

ĐTNC:

Đối tượng nghiên cứu

ĐTV:

Điều tra viên

HSOPSC:

IOM:

Hospital Survey on Patient safety culture - Cơ quan đo lường
(giám sát) văn hóa an tồn người bệnh
International Organization for Migration - Tổ chức di cư
quốc tế

NB:

Người bệnh


NC0:

Cấp độ nguy cơ chưa xảy ra

NC1

Cấp độ nguy cơ tổn thương nhẹ

NC2

Cấp độ nguy cơ tổn tương trung bình

NC3

Cấp độ nguy cơ tổn tương nặng

NCV:

Nghiên cứu viên

NVYT:

Nhân viên y tế

PVS:

Phỏng vấn sâu

SCYK:


Sự cố y khoa

TLN:

Thảo luận nhóm

WHO:

World Health Organization – Tổ chức y tế thế giới

H
P

H

U


iii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Thông tin chung của người tham gia nghiên cứu

31

Bảng 3.2. Thái độ của NVYT về sự sẵn sàng báo cáo SCYK

37


Bảng 3.3. Thái độ của NVYT về nội dung báo cáo SCYK

38

Bảng 3.4. Thái độ của NVYT về lợi ích của báo cáo SCYK

39

Bảng 3.5. Thái độ của NVYT về thực hành báo cáo SCYK

39

Bảng 3.6. Số lượng sự cố y khoa đã từng gặp và đã báo cáo năm 2020

42

Bảng 3.7. Dự định thực hành báo cáo SCYK của NVYT

44

Bảng 3.8. Rào cản tác động tới báo cáo sự cố y khoa

53

H
P

H

U



iv

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa (7) ...................................................... 19
Hình 1.2. Mơ hình báo cáo sự cố y khoa ....................................................................... 22

H
P

H

U


v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân loại nhân viên y tế theo chức danh nghề nghiệp .............................. 33
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ nhân viên y tế định nghĩa đúng về sự cố y khoa .............................. 33
Biểu đồ 3.3. Kiến thức về người chịu trách nhiệm báo cáo, mục đích báo cáo, người
cần báo cáo, trình tự báo cáo và nhận diện SCYK......................................................... 34
Biểu đồ 3.4. Kiến thức về mức độ tổn thương ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng
người bệnh và số lượng danh mục các sự cố nghiêm trọng cần báo cáo ....................... 35
Biểu đồ 3.5. Kiến thức về các sự cố nghiêm trọng cần báo cáo .................................... 36
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ kiến thức đạt về báo cáo SCYK của NVYT .................................... 37

H
P


Biểu đồ 3.7. Đánh giá chung thái độ của NVYT về báo cáo SCYK ............................. 40
Biểu đồ 3.8. Tỷ lệ nhân viên y tế đã từng báo cáo sự cố y khoa ................................... 41
Biểu đồ 3.9. Phân loại sự cố y khoa đã báo cáo ............................................................. 43
Biểu đồ 3.10. Đánh giá chung thực hành và dự định thực hành báo cáo sự cố y khoa
của nhân viên y tế ........................................................................................................... 45

H

U


vi

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Sự cố y khoa (SCYK) là một trong những thách thức hàng đầu trong lĩnh vực y
tế hiện nay. Khi SCYK xảy ra sẽ gây áp lực lên các bệnh viện phải gánh chịu như uy
tín, tiền bạc, con người và gây ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình khám, chữa bệnh.
Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) tỉnh Ninh Bình là bệnh viện hạng I, trực thuộc Sở Y tế,
năm 2015 hoạt động báo cáo SCYK đã được triển khai trên toàn bệnh viện nhưng đến
năm 2019 bệnh viện mới ban hành quy trình quản lý và báo cáo SCYK. Tăng cường
báo cáo SCYK sẽ giúp cải thiện chất lượng chăm sóc và điều trị. Tuy nhiên, qua theo
dõi trong ba năm gần đây số lượng báo cáo SCYK nhận được rất ít và có xu hướng

H
P

giảm dần: 67 báo cáo SCYK (năm 2018), 35 báo cáo SCYK (năm 2019), 17 báo cáo
SCYK (năm 2020). Vì vậy nghiên cứu này được thực hiện nhằm: (1) Mô tả kiến thức,
thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh

Ninh Bình và (2) Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành báo cáo sự cố y
khoa của nhân viên y tế.

U

Nghiên cứu áp dụng phương pháp mơ tả cắt ngang kết hợp định lượng và định
tính. Phương pháp định lượng sử dụng phiếu phát vấn tự điền thu thập trên 297 nhân
viên y tế (NVYT) nhằm mô tả kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo SCYK của NVYT.

H

Phương pháp định tính tiến hành phỏng vấn sâu (PVS) với 4 NVYT quản lý và 02 cuộc
thảo luận nhóm (TLN) với 16 NVYT tham gia nhằm thu thập thêm các thơng tin sâu
hơn để phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành báo cáo SCYK của NVYT.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đánh giá chung tỷ lệ NVYT có kiến thức đạt về
báo cáo SCYK là 15,8%. Cụ thể: tỷ lệ NVYT trả lời đúng về định nghĩa SCYK là
20,5%. Tỷ lệ NVYT trả lời đúng về thứ tự các bước báo cáo SCYK là 32%, tỷ lệ
NVYT biết về người cần báo cáo là 28,6% và tỷ lệ NVYT trả lời đúng bộ phận/cá nhân
nhận báo cáo là 45,5%. Tỷ lệ NVYT có kiến thức đúng về số lượng mức độ tổn thương
ảnh hưởng đến sức khỏe, tình trạng người bệnh là 69,7%. Tỷ lệ NVYT có kiến thức
đúng về số lượng danh mục các sự cố nghiêm trọng cần báo cáo là 51,5%. Tỷ lệ NVYT
có thái độ đạt về báo cáo SCYK là 88,6%. Trong đó, tỷ lệ NVYT có thái độ báo cáo sự


vii

cố chưa xảy ra nhưng có khả năng xảy ra trong tương lai là thấp hơn cả 62,6%. Tỷ lệ
NVYT thực hành hoặc dự định thực hành đạt về báo cáo SCYK là 79,8%. Thực hành
báo cáo SCYK của NVYT bị ảnh hưởng bởi 3 nhóm yếu tố chính: Yếu tố từ cá nhân:
người có nhiều năm trong nghề thường chủ quan hơn với báo cáo SCYK, kiến thức của

NVYT về báo cáo SCYK còn hạn chế, tâm lý lo sợ để xảy ra SCYK sẽ ảnh hưởng đến
bản thân, khoa, phòng và sợ bị khiển trách. Yếu tố từ mơi trường chung: văn hóa báo
cáo SCYK trong bệnh viện, áp lực công việc. Yếu tố từ quản lý: tần suất tập huấn đào
tạo báo cáo SCYK cho NVYT còn hạn chế, hoạt động kiểm tra, giám sát chưa thực
hiện thường xuyên, hoạt động quản lý, phân tích và phản hồi báo cáo SCYK cịn yếu,

H
P

hình thức động viên, khen thưởng đối với NVYT tự nguyện báo cáo SCYK hay hình
thức khiển trách đối với NVYT che giấu khơng báo cáo SCYK chưa thực hiện nghiêm
minh.

Từ những kết quả thu được cho thấy nhằm góp phần nâng cao thực hành báo
cáo SCYK của NVYT cần: Đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại hàng năm về báo

U

cáo SCYK cho NVYT. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát báo cáo SCYK: thành
lập Tổ kiểm tra, giám sát báo cáo SCYK của bệnh viện. Đẩy mạnh hoạt động quản lý,
phân tích và phản hồi báo cáo SCYK: đưa vào nội dung giao ban hàng ngày của bệnh

H

viện. Tiếp tục thực hiện nghiêm minh hình thức động viên, khen thưởng đối với NVYT
tự nguyện báo cáo SCYK và hình thức khiển trách đối với NVYT che giấu và không
báo cáo SCYK.


1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự cố y khoa (SCYK) là các tình huống khơng mong muốn xảy ra trong q
trình chẩn đốn, chăm sóc và điều trị do các yếu tố khách quan, chủ quan mà không
phải do diễn biến bệnh lý hoặc cơ địa người bệnh (NB), tác động tới sức khỏe, tính
mạng của NB (1). SCYK là nguyên nhân của khủng hoảng niềm tin ở NB, NB
khơng hài lịng, chi phí y tế cao, hành hung NVYT. Do đó, báo cáo SCYK là một
công cụ quan trọng trong việc nâng cao an toàn người bệnh, hạn chế tối đa, đồng
thời ngăn chặn những sự cố không mong muốn, đảm bảo an tồn cho cơng tác khám
chữa bệnh.
Tuy nhiên, kiến thức, thái độ và thực hành báo cáo SCYK của NVYT còn hạn

H
P

chế và còn nhiều rào cản. Một nghiên cứu tại Bệnh viện quận Thủ Đức (2017) cho
thấy tỷ lệ NVYT có kiến thức đúng về báo cáo SCYK là 10,4%, tỷ lệ NVYT có
thực hành đúng là 25,7% (2), Bệnh viện Da liễu Trung ương (2019) tỷ lệ thực hành
báo cáo SCYK trong 6 tháng chỉ là 17,3% (3). Nghiên cứu của Lauris C.Kaldjian và
các cộng sự (2008) tại khu vực tây giữa Đại Tây Dương và đông bắc Hoa Kỳ cho

U

thấy chỉ có 17,8% NVYT báo cáo SCYK gây mức độ tổn thương nhẹ hoặc trung
bình, 3,8% NVYT báo cáo SCYK gây mức độ tổn thương nghiêm trọng (4). Một
nghiên cứu tại Úc (2013) chỉ ra kiến thức về báo cáo SCYK khác nhau giữa các

H

nhóm NVYT và điều dưỡng thực hành báo cáo SCYK được cho là tốt hơn các

nhóm NVYT khác. Rào cản được nhắc đến nhiều nhất đối với việc thực hành báo
cáo SCYK của NVYT là kiến thức về báo cáo SCYK, quy trình báo cáo SCYK
chưa đạt và tâm lý lo sợ khi thực hiện báo cáo (5). Ở Việt Nam, Bộ Y tế đã ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn quy trình báo cáo SCYK, chương trình và tài liệu an
tồn NB. Nhìn chung, quy trình báo cáo SCYK và đảm bảo an tồn cho NB vẫn cịn
mới và trong q trình hồn thiện.
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình là bệnh viện hạng I trực thuộc Sở Y tế.
Năm 2019, Bệnh viện đã xây dựng và ban hành quy trình quản lý và báo cáo SCYK
(ban hành kèm theo Quyết định số 398/QĐ-BVĐK ngày 01/3/2019 của Giám đốc
BVĐK tỉnh). Bệnh viện đã tập huấn cho tồn bộ NVYT quy trình báo cáo SCYK
được 01 lần. Theo báo cáo ghi nhận của phòng Quản lý chất lượng bệnh viện, năm


2

2019 bệnh viện có 35 trường hợp SCYK được báo cáo, năm 2020 bệnh viện chỉ có
17 SCYK được báo cáo. Để nâng cao chất lượng bệnh viện, đảm bảo an tồn NB,
thì các SCYK cần được cơng khai, báo cáo và phân tích một cách đầy đủ, khoa học,
giúp ngăn chặn những sự cố không mong muốn xảy ra. Trước thực tế đó, câu hỏi
được đặt ra: hiện nay kiến thức, thái độ và thực hành báo cáo SCYK của NVYT tại
bệnh viện như thế nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến thực hành báo cáo của
NVYT? Làm thế nào để khắc phục những yếu tố cản trở việc thực hành báo cáo
SCYK ở NVYT? Để trả lời cho những câu hỏi trên và có thêm bằng chứng tin cậy
đề xuất các giải pháp nâng cao thực hành báo cáo SCYK của NVYT tại bệnh viện,
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y

H
P

khoa của nhân viên y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình năm 2020 và

một số yếu tố ảnh hƣởng”.

H

U


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y
tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành báo cáo sự cố y khoa
của nhân viên y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình năm 2020.

H
P

H

U


4

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương về sự cố y khoa
1.1.1. Định nghĩa
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), sự cố y khoa là tác hại liên quan đến quản
lý y tế (khác với biến chứng do bệnh) bao gồm các lĩnh vực chẩn đoán, điều trị,

chăm sóc, sử dụng trang thiết bị y tế để cung cấp dịch vụ y tế (6).
Tại Việt Nam, Bộ y tế sử dụng định nghĩa sự cố y khoa (Adverse Event) là các
tình huống khơng mong muốn xảy ra trong q trình chẩn đốn, chăm sóc và điều
trị do các yếu tố khách quan, chủ quan mà không phải do diễn biến bệnh lý hoặc cơ
địa người bệnh, tác động sức khỏe, tính mạng của người bệnh (1).

H
P

Tình huống có nguy cơ gây ra sự cố (near – miss) là tình huống đã xảy ra
nhưng chưa gây hậu quả hoặc gần như xảy ra nhưng được phát hiện và ngăn chặn
kịp thời, chưa gây tổn thương đến sức khỏe người bệnh (1).

Nguyên nhân gốc là nguyên nhân ban đầu có mối quan hệ nhân quả trực tiếp
dẫn đến việc xảy ra sự cố y khoa, nguyên nhân gốc có thể khắc phục được để phòng

U

ngừa sự cố y khoa (1).
1.1.2. Phân loại sự cố y khoa

Tùy theo mục đích mà có các cách phân loại SCYK khác nhau:

H

 Phân loại SCYK theo mức độ tổn thương (1):
- SCYK chưa xảy ra (NC0): Tình huống có nguy cơ gây ra sự cố (near miss)
- Tổn thương nhẹ (NC1): Sự số đã xảy ra, chưa tác động trực tiếp đến người

bệnh; sự cố đã xảy ra tác động trực tiếp đến người bệnh, chưa gây nguy hại; sự cố

đã xảy ra tác động trực tiếp đến người bệnh, cần phải theo dõi hoặc đã can thiệp
điều trị kịp thời nên không gây nguy hại.
- Tổn thương trung bình (NC2): Sự cố đẫ xảy ra gây nguy hại tạm thời và cần

phải can thiệp điều trị; sự cố đã xảy ra, gây nguy hại tạm thời, cần phải can thiệp
điều trị và kéo dài thời gian nằm viện.
- Tổn thương nặng (NC3): Sự cố đã xảy ra gây nguy hại kéo dài, để lại di

chứng; sự cố đã xảy ra gây nguy hại cần phải hồi sức tích cực; sự cố đã xảy ra có
ảnh hưởng hoặc trực tiếp gây tử vong.


5

 Phân loại SCYK theo mức độ nguy hại (7):
- Ảnh hưởng đến người bệnh: Khuyến khích báo cáo khi phát hiện các SCYK

chưa xảy ra, đã xảy ra, không gây hại; bắt buộc phải báo cáo khi phát hiện các
SCYK đã xảy ra, có gây hại, đã xảy ra, tổn thương nặng hay tử vong
- Ảnh hưởng trên tổ chức: gồm các sự cố tổn hại tài sản; tăng nguồn lực phục

vụ cho người bệnh; quan tâm của truyền thông; khiếu nại của người bệnh; tổn hại
dan tiếng; pháp luật vào cuộc.
(Chi tiết xin xem tại Phụ lục 6)
 Phân loại SCYK theo đặc điểm chuyên môn (7):

- Nhầm tên người bệnh.

H
P


- Thông tin bàn giao không đầy đủ.

- Nhầm lẫn liên quan tới các thuốc có nguy cơ cao.
- Nhiễm trùng bệnh viện.
- Người bệnh ngã.

Hiện nay, các cơ sở y tế vẫn đang sử dụng hai tài liệu chính của Bộ Y tế ban

U

hành về phịng ngừa và báo cáo SCYK trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Tài
liệu đào tạo liên tục an toàn người bệnh được Bộ Y tế ban hành năm 2014 với nội
dung nhằm cung cấp các kiến thức hiểu biết về tần suất các sai sót chun mơn,

H

SCYK, các ngun nhân và các giải pháp để hạn chế các sai sót chun mơn và
SCYK tới mức thấp nhất có thể (6). Đến năm 2018, Bộ Y tế ban hành Thông tư số
43/2018/TT-BYT hướng dẫn phòng ngừa SCYK trong các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh, nội dung chính nhằm hướng dẫn việc báo cáo SCYK, phân tích, phản hồi và
xử lý SCYK; khuyến cáo, cảnh báo và khắc phục để phòng ngừa SCYK và trách
nhiệm thực hiện của từng bộ phận (7). Ngồi ra, trong Bộ tiêu chí chất lượng bệnh
viện Việt Nam (phiên bản 2.0), trong đó tại chương D2 có 05 tiêu chí đánh giá
phịng ngừa các sự cố và khắc phục SCYK/83 tiêu chí để đánh giá, chấm điểm chất
lượng bệnh viện hàng năm của Bộ Y tế ban hành kèm theo Quyết định số 6858/QĐBYT ngày 18/11/2016 (8).


6


1.1.3. Tác động của sự cố y khoa
Theo báo cáo của WHO (2019), trên thế giới, hàng năm có ít nhất 7 triệu
người trải qua biến chứng phẫu thuật và 1 triệu người trong số đó dẫn đến tử vong.
Mặc dù tỷ lệ tử vong liên quan đến phẫu thuật và gây mê đã giảm dần trong 50 năm
gần đây, đặc biệt đó là kết quả của nỗ lực khơng ngừng nghỉ để cải thiện an tồn
người bệnh nhưng nó vẫn nhiều hơn gấp 2 đến 3 lần ở các nước thu nhập thấp và
trung bình so với các nước thu nhập cao. Ở những nước đang phát triển cứ 10 người
bệnh thì có 1 người bệnh bị tổn hại khi nhận dịch vụ chăm sóc tại bệnh viện. Trong
một nghiên cứu về tần số và khả năng phòng ngừa SCYK từ nghiên cứu cắt ngang
thực hiện tại 26 nước có thu nhập thấp và trung bình, tỷ lệ SCYK khoảng 8% trong

H
P

đó có khoảng 83% sự cố là có thể phòng ngừa được và 30% dẫn đến tử vong (9).
Các chuyên gia về y tế của Mỹ đã nhận định ―Chăm sóc y tế tại Mỹ khơng an
tồn như người dân mong đợi và như hệ thống y tế có thể‖, số lượng người bệnh tử
vong do sự cố y khoa tại các bệnh viện ở Mỹ còn cao hơn số người tử vong do tai
nạn giao thông (43.458), do ung thư vú (42.297) và do HIV/AIDS (16.516) là ba

U

vấn đề người dân Mỹ đang quan tâm nhiều (10, 11, 12). Mỗi năm tại đây có ít nhất
44.000 tới 98.000 cái chết và 1 triệu thương tích quan tới sự cố sai sót y khoa (12).
Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ tổng thanh tra kiểm tra hồ sơ sức khỏe của bệnh viện

H

người bệnh nội trú năm 2008, báo cáo 180.000 ca tử vong do sai sót y khoa trong
một năm (11). Theo nghiên cứu của David C.Classen và các cộng sự công bố vào

tháng 4/2011, 91 SCYK xảy ra trên 1.000 người bệnh và tỷ lệ SCYK tăng mỗi năm
là 1,13%; Nếu tỷ lệ này được áp dụng cho tất cả các trường hợp nhập viện ở Hoa
Kỳ vào năm 2013 làm cho hơn 400.000 người chết mỗi năm, hơn bốn lần ước tính
của Tổ chức di cư quốc tế (International Organization for Migration – IOM) (13)
(14).
Sự cố y khoa xảy ra đã làm tăng gánh nặng bệnh tật, tăng ngày nằm viện
trung bình, tăng chi phí điều trị, làm giảm chất lượng chăm sóc y tế và ảnh hưởng
đến uy tín, niềm tin đối với cán bộ y tế và cơ sở cung cấp dịch vụ. Một nghiên cứu
tại Mỹ năm 2007 về chi phí chi trả cho các SCYK xảy ra đánh giá trên dữ liệu tại 2
bệnh biện Utah và Colorado đưa ra chi phí trung bình cho mỗi thương tích do


7

SCYK là $ 58.766 và chấn thương do sơ suất trong y khoa là $ 113.280 (15). Tại
nước Anh, một nghiên cứu để đánh giá mức độ khả thi của việc phát hiện SCYK
qua hồi cứu bệnh án và ước tính tỷ lệ xuất viện cũng như chi phí cho SCYK trên 2
bệnh viện tại khu vực London. Kết quả cho thấy tỷ lệ xảy ra SCYK chung là 11,7%,
trong đó 66% NB có khả năng hồi phục trong vịng 1 tháng, 34% NB bị chấn
thương hoặc biến chứng dẫn đến suy yếu vừa là 19%, làm người bệnh suy giảm
vĩnh viễn là 6% góp phần vào tử vong là 8% và ước tính khoảng 48% các SCYK có
thể phịng ngừa được. Bên cạnh đó, các tác giả cịn tính được rằng mỗi SCYK xảy
ra làm tăng thêm trung bình 8,5 ngày nằm viện và với chi phí trực tiếp bổ sung là
290.268 bảng anh cho các ủy thác liên quan (15). Cịn trên cả nước, ước tính có

H
P

khoảng 850.000 SCYK xảy ra mỗi năm và chi trên 2 tỷ bảng anh cho chi phí trực
tiếp do tăng ngày điều trị, con số này gấp 5 lần chi phí kiện tụng do sơ suất về lâm

sàng (16).

Thực hành báo cáo SCYK giúp cung cấp thêm nhiều thông tin về ngữ cảnh
xảy ra SCYK đó và khi được thúc đẩy báo cáo nhiều hơn trong mơi trường lâm

U

sàng thì nó có thể phát hiện nhiều SCYK có thể phịng ngừa hơn là xem xét các
bệnh án, hồ sơ y tế (17, 18). Tình huống có nguy cơ gây ra sự cố (Near miss)
thường được hiếm khi ghi nhận trong hồ sơ báo cáo SCYK nhưng nó xảy ra thường

H

xuyên hơn và cung cấp nhiều bài học quý giá hơn để giúp người bệnh phục hồi tốt
hơn mà nguy cơ dẫn đến bất kì một hậu quả nghiêm trọng sẽ ít hơn SCYK (19, 20).
1.2. Bộ công cụ đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa
Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo SCYK là q trình thu thập
và phân tích thơng tin sau đó đưa ra nhận định dựa trên cơ sở các thơng tin đó. Phần
lớn các nghiên cứu hiện nay thu thập số liệu dựa trên bộ công cụ được thiết kế sẵn
thơng qua phát vấn NVYT.
Nhìn chung, hầu hết bộ công cụ được sử dụng trong một số nghiên cứu được
tìm thấy về kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo SCYK của NVYT tại một số bệnh
viện đều dựa trên Thơng tư 43/2018/TT-BYT, tài liệu đào tạo an tồn người bệnh
của Bộ Y tế và dựa trên quy trình báo cáo SCYK thực tế của địa bàn nghiên cứu để
xây dựng. Bộ công cụ trong nghiên cứu của tác giả Trần Thị Bích Bo (2017) về kiến


8

thức, thái độ, thực hành báo cáo SCYK của NVYT tại các khoa lâm sàng Bệnh viện

quận Thủ Đức được xây dựng dựa trên bộ bộ câu hỏi HSOPSC của AHRQ chuẩn
hóa sang tiếng Việt để áp dụng cho các bệnh viện trong thành phố Hồ Chí Minh về
điều tra văn hóa an tồn người bệnh – HSOPSC-VN 2015 và tham khảo ý kiến
chuyên gia. Gồm có các phần: Đánh giá về kiến thức báo cáo SCYK (08 câu hỏi).
Đánh giá về thái độ báo cáo SCYK (18 tiểu mục). Rào cản về báo cáo SCYK (12
tiểu mục). Thực hành báo cáo SCYK (3 tiểu mục). Tần suất báo cáo SCYK (02 câu
hỏi) (2). Dựa trên bộ công cụ của tác giả Trần Thị Bích Bo, nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Phương Trang (năm 2019) thực hiện tại bệnh viện Da liễu Trung ương đã
chỉnh sửa cho phù hợp với thực tế tại bệnh viện Da liễu Trung ương và dựa trên cơ

H
P

sở các quy định, thông tư 43/2018/TT-BYT của Bộ Y tế và tài liệu đào tạo liên tục
về an toàn người bệnh của Cục quản lý khám chữa bệnh để cập nhật và phát triển bộ
công cụ (3). Còn trong nghiên cứu của Dương Minh Đức (2018), tác giả tự xây
dựng bộ công cụ dựa trên các quy định, thông tư của Bộ Y tế và tài liệu đào tạo liên
tục về an toàn người bệnh của Cục quản lý khám, chữa bệnh. Gồm các nội dung:

U

Phần thông tin về kiến thức liên quan tới ghi nhận và báo cáo SCYK, phần thông tin
về thái độ liên quan tới hoạt động báo cáo SCYK và phần thôn tin về thực hành báo
cáo SCYK gồm có các biến số hỏi về dự định thực hành của NVYT (21). Tương tự

H

như nghiên cứu của Dương Minh Đức (2018), nghiên cứu của Đặng Thị Hồng Vân
(2020), bộ câu hỏi phát vấn được tác giả tự xây dựng dựa trên quy trình báo cáo
SCYK của NVYT của Bệnh viện đa khoa khu vực Củ Chi, Thông tư 43/2018/TTBYT, tài liệu đào tạo an toàn người bệnh của Bộ Y tế (22).

1.3. Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế trên
thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế trên
thế giới
Về kiến thức báo cáo SCYK của NVYT có một kết quả chung mà một số
nghiên cứu đã ghi nhận là kiến thức báo cáo SCYK giữa các nhóm NVYT khác
nhau và đa phần các nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ điều dưỡng thường có kiến thức báo cáo
SCYK tốt hơn hơn so với những nhóm NVYT khác. Nghiên cứu của Lauris C.


9

Kaldjian và các cộng sự (2008) thực hiện trên đối tượng là các bác sĩ giảng viên và
bác sĩ nội trú khu vực Trung Tây, Trung Đại Tây Dương và Đơng Bắc Hoa Kỳ, kết
quả cho thấy chỉ có 54,8% số người được hỏi biết cách báo cáo lỗi và chỉ 39,5%
biết loại lỗi nào cần báo cáo, các bác sĩ nội trú ít hiểu biết hơn so với bác sĩ là các
giảng viên về SCYK và SCYK nào cần được báo cáo (4). Kết quả tương tự cũng
được ghi nhận trong một nghiên cứu khác về kiến thức, kinh nghiệm và thách thức
của các cơ sở y tế về việc báo cáo SCYK trong tiêm chủng được thực hiện tại một
Bệnh viện Nhi hạng III tại Úc (2013), hiểu biết của NVYT về báo cáo SCYK
nghiêm trọng hoặc SCYK khơng mong muốn khác nhau giữa ba nhóm: chun gia
tư vấn, bác sĩ và điều dưỡng (5). Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại một Trung tâm y tế

H
P

của Hoa Kỳ (2016) về kiến thức, thái độ và thực hành của NVYT về báo cáo
SCYK, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ NVYT có kiến thức báo cáo SCYK là
84,1%, trong đó điều dưỡng là đối tượng có kiến thức tốt hơn cả với tỷ lệ 75% và tỷ
lệ này ở NVYT lâm sàng khác là 25% (23). Nghiên cứu mô tả cắt ngang kiến thức,

thái độ và thực hành của bác sĩ và điều dưỡng về báo cáo SCYK với phương pháp

U

nghiên cứu định lượng thực hiện tại hai Trung tâm y tế tại Ả Rập (2016), 89,5% bác
sĩ và điều dưỡng có kiến thức tốt về báo cáo SCYK. Kết quả của nghiên cứu này
cũng củng cố quan điểm cho rằng, tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức về báo cáo SCYK

H

(94%) cao hơn bác sĩ (53,6%) (24). Hay một nghiên cứu khác ở một quốc gia đang
phát triển, nghiên cứu mô tả cắt ngang về thực hành báo cáo SCYK trên 133 điều
dưỡng và 88 trợ giúp chăm sóc trong một bệnh viện ở miền bắc Ghana (2019), một
đất nước thuộc khối Tây Phi. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ hiểu biết của
điều dưỡng về SCYK là thấp và mặc dù họ có phơi nhiễm cao với các SCYK nhưng
hầu hết vẫn không được báo cáo. Đánh giá chung, kiến thức về SCYK của NVYT ở
mức trung bình (=3,14 theo thang điểm Likert). Kiến thức của điều dưỡng về báo
cáo SCYK tốt hơn so với nhóm trợ giúp chăm sóc (p=0,006) (25).
Về thái độ báo cáo SCYK của NVYT cũng được thể hiện theo kết quả của một
số ít nghiên cứu mà chúng tơi tìm thấy, đầu tiên là nghiên cứu của Lauris C.
Kaldjian và các cộng sự (2008) cho thấy đa số những người tham gia nghiên cứu có
thái độ tích cực về lợi ích của việc báo cáo SCYK, họ đồng ý rằng báo cáo các sai


10

sót y khoa giúp cải thiện chất lượng chăm sóc người bệnh trong tương lai (4).
Tương tự một nghiên cứu tại một Trung tâm y tế của Hoa Kỳ (2016) cho kết quả
khá cao, có tới 97,7% NVYT có thái độ tích cực về báo cáo SCYK (23). Một kết
quả cụ thể hơn về thái độ báo cáo SCYK giữa các nhóm NVYT được thể hiện trong

nghiên cứu tại hai Trung tâm y tế A Rập (2016), tác giả chỉ ra bác sĩ có nhiều khả
năng có thái độ tiêu cực với báo cáo SCYK hơn điều dưỡng với tỷ lệ tương ứng là
71,4% so với 42,9% (24).
Về thực hành báo cáo SCYK, các nghiên cứu của các nhà cung cấp dịch vụ
chăm sóc sức khỏe đã chỉ ra rằng NVYT không báo cáo tất cả các SCYK khi xảy ra
là vấn đề chính của hệ thống báo cáo SCYK tại các bệnh viện (26). Sử dụng hệ

H
P

thống báo cáo tự nguyện được ước tính chỉ khoảng 10% số lượng SCYK thực tế đã
xảy ra (27). Hệ thống báo cáo SCYK được xem là một công cụ hiệu quả để học tập
và rút kinh nghiệm, tránh lặp lại sai lầm từ những sự cố. Tuy nhiên, nhiều nghiên
cứu đã cho thấy rất nhiều SCYK đã không được NVYT báo cáo và tỷ lệ báo cáo
SCYK nghiêm trọng thường thấp hơn nhiều. Nghiên cứu của Lauris C. Kaldjian và

U

các cộng sự (2008) trên đối tượng là các bác sĩ giảng viên và bác sĩ nội trú khu vực
tây giữa Đại Tây Dương và đơng bắc Hoa Kỳ cho kết quả có 17,8% người tham gia
nghiên cứu báo cáo sai sót y khoa nhỏ (các SCYK tăng thời gian điều trị và khó

H

chịu) và chỉ có 3,8% báo cáo sai sót y khoa lớn thật sự (các SCYK dẫn đến tử vong
hoặc tàn tật), 16,9% thừa nhận không báo cáo một lỗi nhỏ thực tế (4). Cịn kết quả
một nghiên cứu tồn quốc ở đối tượng là bác sĩ tại các bệnh viện trường đại học
Virginia (2010) để khảo sát thực hành báo cáo SCYK và các rào cản đã cho thấy
77% bác sĩ không thực hiện một báo cáo SCYK hay (near miss- sự cố suýt xảy ra)
nào, chỉ có 8% NVYT có thực hiện 1 hoặc 2 báo cáo trong 1 năm qua; 75% chứng

kiến ít nhất 3 SCYK hay sự cố suýt xảy ra trong 1 năm qua (28). Một nghiên cứu
khác tại một Trung tâm y tế (2016) của Hoa Kỳ cho tỷ lệ NVYT thực hành báo cáo
SCYK cao hơn với 72,6% (23). Tỷ lệ thực hành báo cáo SCYK tương đối thấp ở
NVYT cũng được ghi nhận trong một nghiên cứu của trường Đại học Harvard
(2017) sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang trên 126 bác sĩ của 3 bệnh viện giảng
dạy lớn của cùng một trường Đại học, trong năm 2017 chỉ có 32% người tham gia


11

nghiên cứu báo cáo 1 SCYK trong phẫu thuật, 39% báo cáo từ 2 đến 5 SCYK và
9% báo cáo > 6 SCYK trong phẫu thuật (29). Phần lớn các nghiên cứu đều cho kết
quả điều dưỡng thực hành báo cáo SCYK tốt hơn các nhóm NVYT khác. Nghiên
cứu kiến thức, kinh nghiệm và thách thức của các cơ sở y tế về việc báo cáo SCYK
sau khi tiêm chủng được thực hiện tại một Bệnh viện Nhi hạng III của Úc (2013),
kết quả nghiên cứu cho thấy thực hành báo cáo SCYK không thường xuyên và khác
nhau ở các nhóm NVYT, trong đó điều dưỡng có thực hành báo cáo SCYK tốt hơn
các nhóm NVYT khác (5). Một nghiên cứu tại hai Trung tâm y tế tại Ả Rập (2016)
cho thấy tỷ lệ thực hành báo cáo SCYK ở nhóm điều dưỡng (82,1%) cao hơn so với
nhóm bác sĩ (42,9%) (24). Kết quả này cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của

H
P

tác giả Eunjoo Lee (2017) trên 467 điều dưỡng làm việc tại bệnh viện đại học Hàn
Quốc tỷ lệ báo cáo SCYK rất thấp, khoảng từ 6,3% - 29,9% và các điều dưỡng
thường thực hành báo cáo SCYK tốt hơn so với bác sĩ. Giống như kết quả của các
nghiên cứu khác, các nghiên cứu về thực hành báo cáo SCYK ở NVYT cho kết quả
khác nhau về loại SCYK hay được báo cáo (30). Nghiên cứu tại c (2006) cho thấy


U

các sự cố liên quan tức thời đến sức khỏe người bệnh như té ngã hoặc các sự cố về
thuốc thường được báo cáo đầy đủ hơn so với các sự cố có tác động theo thời gian
như lt tì đ (20). Khơng giống như các kết quả của nghiên cứu khác, một nghiên

H

cứu tại một bệnh viện của Chicago (2010) đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành
của bác sĩ nội trú về báo cáo SCYK sau một chương trình can thiệp giáo dục tập
trung về báo cáo và theo dõi SCYK, trong số các báo cáo SCYK sự cố có liên quan
đến các thủ thuật xâm lấn chiếm nhiều và hơn một nửa trong số đó là do thiếu sự giám
sát của các bác sĩ (31). Một nghiên cứu khác tại miền bắc Ghana (2019), một đất
nước thuộc khối Tây Phi lại cho kết quả loại báo cáo SCYK hay gặp nhất là nhầm
lẫn tài liệu, tiếp đến là truyền nhầm máu hoặc truyền nhầm dịch tĩnh mạch (25).
1.3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế ở
Việt Nam
Tại Việt Nam các nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành báo cáo
SCYK ở đối tượng là NVYT chưa có nhiều, nhiều hơn cả là các nghiên cứu làm về
thực trạng báo cáo SCYK. Một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành báo


12

cáo SCYK trong những năm gần đây phải kể đến như: Nghiên cứu của tác giả Trần
Thị Bích Bo (2017), tỷ lệ NVYT có kiến thức đúng về báo cáo SCYK tại Bệnh viện
quận Thủ Đức là 10,4%, 88,4% nhân viên ủng hộ việc báo cáo SCYK, 25,7% nhân
viên có thực hành đúng, 27% nhân viên đã từng báo cáo từ 1 sự cố trở lên. Bên cạnh
đó, có 30,5% người vẫn còn lo sợ khi tham gia báo cáo. Nghiên cứu chỉ ra rằng
thiếu sự phản hồi thông tin từ phòng Quản lý chất lượng bệnh viện là nổi trội hơn cả

và nhóm bác sỹ có kiến thức đúng, có thái độ tích cực trong báo cáo cáo hơn nhóm
điều dưỡng nhưng lại có thực hành đúng về báo cáo SCYK thấp hơn. Từ đó, tác giả
cũng đưa ra một số khuyến nghị như tập huấn về quy trình báo cáo SCYK cho
NVYT là cần thiết, tăng cường việc phản hồi thơng tin từ phịng Quản lý chất lượng

H
P

(2). Nghiên cứu của Dương Minh Đức (2018), có 97,8% NVYT biết về báo cáo
SCYK, 82,9% trả lời đúng mục đích của báo cáo SCYK, 94,5% trả lời đúng về
phân loại SCYK theo mức độ nguy hại, 52,9% đúng về đơn vị tiếp nhận báo cáo
SCYK và 34,7% trả lời đúng về người chịu trách nhiệm báo cáo. Tỷ lệ NVYT có
thái độ tích cực về báo cáo SCYK là 79,9%. Bên cạnh đó, vẫn cịn 20,8% lo ngại sẽ

U

bị đưa ra cuộc họp, 20,1% lo ngại bị đổ lỗi và 18,6% lo ngại bị kỷ luật, 14,9% thái
độ chưa tích cực cho rằng sự cố thuộc chuyên môn mới báo cáo (21). Một nghiên
cứu khác của tác giả Nguyễn Phương Trang (2019) khảo sát kiến thức, thái độ, thực

H

hành báo cáo SCYK của NVYT và một số yếu tố ảnh hưởng tại Bệnh viện Da liễu
Trung ương, có 61,6% trả lời đúng về khái niệm SCYK, 81,0% biết mục đích báo
cáo SCYK, tỷ lệ thực hành báo cáo SCYK trong 6 tháng là 17,3%, 70,5% biết được
trình tự báo cáo SCYK. Bên cạnh đó vẫn cịn nhiều NVYT có thái độ lo ngại về
công tác báo cáo SCYK: 7,2% NVYT lo lắng bị kỷ luật khi báo cáo SCYK, 5,5%
sợ bị đồng nghiệp trách móc khi báo cáo SCYK, 5,5% lo ngại bị để ý, 5,1% lo ngại
bị đổ lỗi. Tỷ lệ thực hành báo cáo SCYK là 17,3% trong vịng 6 tháng (3).
Ngồi ra, cùng làm về chủ đề báo cáo SCYK trên đối tượng là NVYT lại có

một số nghiên cứu khác khai thác trên khía cạnh mơ tả thực trạng báo cáo SCYK
của NVYT tại các bệnh viện. Mỗi bệnh viện sẽ có một kết quả mang tính đặc thù
khác nhau. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thu (2017) tại Bệnh viện Phụ sản
Hà Nội, có 37,7% NVYT gặp phải SCYK nhưng chỉ có 42,4% SCYK được báo cáo


13

(32). Tỷ lệ báo cáo bằng miệng nhiều nhất, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu (2017)
là 81,5% (32), nghiên cứu của Dương Minh Đức (2018) là 72,1% (21). Một nghiên
cứu khác của Nguyễn Tiến Hoàng (2018) thực hiện tại một BVĐK khu vực tại
thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ lệ Điều dưỡng có thực hành dẫn đến sai sót y khoa là
20,27%. Trong đó, tỷ lệ trực tiếp mắc phải là 14,97% và gián tiếp có liên quan là
12,6%. Tỷ lệ bác sĩ có thực hành dẫn đến sai sót y khoa là 35,35% trong đó trực tiếp
mắc phải là 29,29% và gián tiếp có liên quan là 23,22% (33). Hay nghiên cứu thực
trạng báo cáo SCYK của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà (2019) trong 6 năm (20132018) tại BVĐK Việt Nam – Thụy Điển ng Bí có 2.311 SCYK được báo cáo
trong đó có 99,6% là báo cáo tự nguyện. Có 67,9% sự cố được báo cáo bởi điều

H
P

dưỡng, hộ sinh và kỹ thuật viên, còn tỷ lệ này ở bác sỹ là 17,1%. Các sự cố liên
quan đến người bệnh được báo cáo nhiều nhất với tỷ lệ 67,7%. Các sự cố thuộc
nhóm tổn thương nhẹ được báo cáo cao nhất là 34,3% (34). Các nghiên cứu đều chỉ
ra số SCYK liên quan đến chuyên môn luôn chiếm tỷ lệ cao nhất, tại Bệnh viện Phụ
sản Hà Nội là 16,7% (32), tại Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển ng Bí là 49,9%

U

(34).


1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành báo cáo sự cố y khoa
Tính đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu tìm hiểu về rào cản

H

báo cáo SCYK làm với cả hai phương pháp định tính và định lượng. Nhìn chung,
các yếu tố ảnh hưởng được chia thành ba nhóm chính: Các yếu tố thuộc cá nhân
NVYT, yếu tố thuộc về môi trường và yếu tố thuộc về quản lý.
1.4.1. Yếu tố cá nhân

Các tác động khác từ yếu tố cá nhân tới thực hành báo cáo SCYK là trình độ
học vấn, kinh nghiệm, cấp bậc, vị trí công việc của NVYT cũng được phát hiện như
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thu (2017) tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã chỉ
ra có sự khác biệt về thực hiện báo cáo SCYK liên quan đến yếu tố trình độ học vấn
giữa các NVYT (32). Tuy nhiên, kết quả này lại ngược lại với kết quả của một
nghiên cứu trên 359 Điều dưỡng làm việc tại các bệnh viện thuộc bang California,
Mỹ (2017), tác giả khơng tìm thấy mối liên quan với các cấp bậc giáo dục của điều
dưỡng nhưng đối với vị trí cơng việc, điều dưỡng đang thực tập hoặc điều dưỡng


14

dịch vụ thì thiếu kiến thức, phản hồi cao hơn tất cả các nhóm khác (nhiều hơn đáng
kể so với nhóm điều dưỡng trưởng). Bên cạnh đó, đối với việc có chứng chỉ hành
nghề, các điều dưỡng khơng được chứng nhận có những rào cản về sợ hãi, văn hóa
lớn hơn và thiếu kiến thức/điểm phản hồi so với các điều dưỡng đã được chứng
nhận (35). Trong một nghiên cứu được công bố tại c (2006) đã thực hiện khảo sát
ẩn danh từ tháng 11/2001 đến tháng 6/2003 tại 6 bệnh viện miền nam của Úc với cỡ
mẫu 186 bác sĩ và 587 điều dưỡng. Kết quả nghiên cứu cho thấy Điều dưỡng với 5

năm kinh nghiệm thì có niềm tin là khơng có điểm trong báo cáo các SCYK suýt
xảy ra - nearmiss hơn là những điều dưỡng ít kinh nghiệm (44,0% và 52,5%, RR
1,19 với KTC 95% 1,06-1,34) (20). Tương tự như kết quả nghiên cứu tại bang

H
P

California, Mỹ (2017) tác giả cũng khơng tìm ra sự khác biệt cho bất kì rào cản nào
về bằng cấp với thực hành báo cáo SCYK. Một yếu tố tiếp theo được phát hiện ảnh
hưởng tới thực hành báo cáo SCYK là thói quen báo cáo SCYK của NVYT, nghiên
cứu tại Úc (2006) cho rằng khi báo cáo SCYK thường xuyên sẽ hình thành thói
quen cho NVYT và chứng kiến trực tiếp các SCYK cũng là những yếu tố làm gia

U

tăng tỷ lệ thực hành báo cáo SCYK của NVYT (20).

Tiếp theo là kiến thức về báo cáo SCYK của NVYT, nghiên cứu của Lauris
C.Kaldjian và cộng sự (2008) cho thấy người tham gia có khả năng báo cáo nhiều

H

hơn nếu họ biết cách báo cáo sai sót cũng như có niềm tin rằng báo cáo sai sót y
khoa sẽ cải thiện chất lượng chăm sóc người bệnh (4). Hay kết quả một nghiên cứu
toàn quốc ở đối tượng là bác sĩ tại các bệnh viện trường Đại học Virginia (2010) để
khảo sát thực hành báo cáo và các rào cản đã cho thấy thiếu kiến thức về hệ thống
báo cáo của NVYT là một yếu tố cản trở tới thực hành báo cáo SCYK (28). Kết quả
tương tự cũng được ghi nhận trong một nghiên cứu của trường Đại học Harvard
(2017), thiếu kiến thức và khơng có định nghĩa về SCYK rõ ràng (48%) là rào cản
phổ biến thứ ba tác động tới thực hành báo cáo SCYK của NVYT (29). Cịn nghiên

cứu mơ tả cắt ngang tại một Trung tâm y tế (2016) của Hoa Kỳ về kiến thức, thái độ
và thực hành của NVYT báo cáo SCYK, đã chỉ ra yếu tố tạo điều kiện cho NVYT
báo cáo SCYK là: cảm giác tích cực mạnh mẽ để tham gia và cải thiện sự an toàn
của người bệnh và NVYT có kiến thức về báo cáo SCYK. Từ đó nghiên cứu cũng


15

đưa ra một số khuyến nghị về giáo dục để nâng cao hiểu biết của NVYT về báo cáo
SCYK, nâng cao văn hóa báo cáo SCYK trong cơ sở y tế là phù hợp (23).
Ngoài ra, được nhắc đến nhiều nhất trong các nghiên cứu là tâm lý lo sợ của
NVYT khi xảy ra SCYK và điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thực hành báo cáo
SCYK. Theo kết quả nghiên cứu cắt ngang của tác giả Eunjoo Lee (2017) chỉ ra tâm
lý lo sợ hậu quả của việc báo cáo lỗi và hành động pháp lý sau đó là yếu tố tiêu cực
cản trở thực hành báo cáo SCYK (30). Nghiên cứu cắt ngang công bố vào tháng 3
năm 2012 về rào cản trong báo cáo của các bác sĩ gây mê ở bang Victoria của Úc,
cũng cho kết quả tương tự khi chỉ ra yếu tố ảnh hưởng đến báo cáo SCYK của
NVYT nhận được sự đồng ý mạnh mẽ là tâm lý lo sợ bị đỗ lỗi bởi các đồng nghiệp.

H
P

Sau đó là các yếu tố kiện tụng, gặp rắc rối, xử lý kỷ luật, bị đổ lỗi, đồng nghiệp
không ủng hộ và không muốn vụ việc được thảo luận trong các cuộc họp, được coi
là rào cản báo cáo SCYK (36). Nhất quán với các nghiên cứu này, trong nghiên cứu
thực hiện trên 359 điều dưỡng làm việc tại các bệnh viện thuộc bang California, Mỹ
(2017) tâm lý lo sợ hậu quả sau khi báo cáo là rào cản có số điểm cao nhất được lựa

U


chọn (35). Hay một nghiên cứu của trường Đại học Harvard (2017) nhằm mục đích
kiểm tra tác động tâm lý của SCYK đối với bác sĩ phẫu thuật cũng như thái độ của
bác sĩ phẫu thuật về báo cáo SCYK trong phẫu thuật, có tới 84% người được hỏi

H

báo cáo SCYK trong cảm xúc lo lắng, 60% cảm thấy tội lỗi, 52% buồn bã, 42% xấu
hỗ và 29% tức giận. Rào cản phổ biến nhất đối với báo cáo SCYK là sợ kiện tụng
(50%) (29). Giống như kết quả của các nghiên cứu trước, nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Thị Thu (2017) tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội (32), nghiên cứu của tác giả
Dương Minh Đức (2018) tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, cũng ghi nhận tâm lý
lo sợ bị trừng phạt khi báo cáo SCYK là yếu tố cản trở tới thực hành báo cáo SCYK
của NVYT (21). Từ đó tác giả cũng đưa ra khuyến nghị phù hợp như cần xây dựng
cơ chế chính sách động viên để xóa bỏ rào cản về thái độ lo ngại của NVYT khi
thực hiện báo cáo SCYK. Ngược lại với các nghiên cứu trước đó, một nghiên cứu
mơ tả cắt ngang tại một Trung tâm y tế (2016) của Hoa Kỳ về kiến thức, thái độ và
thực hành của NVYT về báo cáo SCYK, kết quả nghiên cứu lại trái ngược với các
nghiên cứu trước đó khi chỉ ra nỗi sợ hãi về hậu quả của SCYK không ảnh hưởng


×