Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Mong muốn sinh con trai và một số yếu tố liên quan của các cặp vợ chồng có hai con gái đầu tại huyện lương sơn, tỉnh hòa bình năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

NGUYỄN QUỐC HUY

MONG MUỐN SINH CON TRAI VÀ MỘT SỐ
YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG
CÓ HAI CON GÁI ĐẦU TẠI HUYỆN LƢƠNG SƠN,
TỈNH HÕA BÌNH NĂM 2012

H
P

U

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.07.01

H

Hà Nội - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

NGUYỄN QUỐC HUY

MONG MUỐN SINH CON TRAI VÀ MỘT SỐ
YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG
CÓ HAI CON GÁI ĐẦU TẠI HUYỆN LƢƠNG SƠN,


TỈNH HÕA BÌNH NĂM 2012

H
P

U

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.07.01

H

PGS.TS. Lƣu Thị Hồng

Hà Nội - 2014


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình hồn thành đề cương luận văn thuộc chương trình đào tạo
Thạc sỹ Y tế Cơng cộng, tơi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy cơ giáo, bạn
bè và gia đình.
Để đạt được kết quả hơm nay, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS. Lưu Thị Hồng và Ths. Lê Minh Thi đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt
thời gian thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các đơn vị: Trường Đại học Y tế Công Cộng,
Trung tâm Y tế huyện Lương Sơn, Trạm y tế các xã Cao Thắng, Nhuận Trạch, Lâm

H
P


Sơn, Hợp Châu đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập các tài liệu
liên quan tới luận văn.

Sau cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia
đình và bạn bè, những người đã chia sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.

H

U

Hà Nội, Ngày 19 Tháng 05 Năm 2014


i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBGT

Cân bằng giới tính

CBGTKS

Cân bằng giới tính khi sinh

CSSK

Chăm sóc sức khỏe

CSSKSS


Chăm sóc sức khỏe sinh sản

CTV

Cộng tác viên

DS - KHHGĐ

Dân số kế hoạch hóa gia đình

ĐTNC

Đối tƣợng nghiên cứu

ĐTV

Điều tra viên

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

NĐ – CP

Nghị định Chính phủ

PVS

Phỏng vấn sâu


TĐTDS

Tổng điều tra dân số

TLN

Thảo luận nhóm

TSGTKS

Tỷ số giới khi sinh

TTYT

Trung tâm Y tế

TYT

Trạm Y tế

UNFPA

H

U

H
P

Quỹ dân số Liên hợp quốc



ii

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1

TSGTKS ở một số quốc gia, 2004 – 2009

5

Bảng 1.2

Ƣớc lƣợng TSGTKS theo các nguồn số liệu

7

Bảng 1.3

Tổng hợp tỉ số trẻ sơ sinh nam/trẻ sơ sinh nữ tại 4 xã Cao

19

Thắng, Lâm Sơn, Nhuận Trạch, Hợp Châu từ năm 2010 đến
tháng 10 năm 2012
Bảng 2.1

Bảng biến số và chỉ số nghiên cứu

H

P

H

U

26


iii

DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1

TSGTKS ở Việt Nam, giai đoạn 1999-2009

Hình 1.1

Các ấn phẩm có nội dung hƣớng dẫn lựa chọn giới tính

9
12

thai nhi
Hình 1.2

Các hƣớng dẫn về chọn lựa giới tính trên internet.

12


Biểu đồ 1.2

Tình hình sinh con thứ 3 tại huyện Lƣơng Sơn

19

Hình 1.3

Khung lý thuyết: Các yếu tố liên quan đến mong muốn
sinh con trai của các cặp vợ chồng có hai con gái đầu tại
huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hịa Bình năm 2012

21

H
P

H

U


iv

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................................1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU........................................................................................3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .....................................................................4
1.1. Tình hình tỉ số giới tính khi sinh ..........................................................................4
1.1.1. Khái niệm tỷ số giới tính và tỉ số giới tính khi sinh .........................................4

1.1.2. Tình hình TSGTKS trên thế giới......................................................................5
1.1.3. Tình hình TSGTKS tại Việt Nam ....................................................................7
1.2. Các yếu tố tác động đến mong muốn sinh con trai ở Việt Nam .........................10
1.2.1. Phong tục tập quán .........................................................................................10

H
P

1.2.2. Sự khá giả, học vấn cao và đơ thị hóa nhanh đã có ảnh hƣởng tới TSGTKS ở
các vùng miền của Việt Nam. ...................................................................................11
1.2.3. Sự tiếp cận với các thông tin và cơng nghệ hiện đại để lựa chọn giới tính thai
nhi

....................................................................................................................11

1.2.4. Chính sách ......................................................................................................14

U

1.3. Hậu quả của sự ƣa thích con trai ........................................................................16
1.4. Tình hình tỉ số trẻ sơ sinh nam/trẻ sơ sinh nữ tại huyện Lƣơng Sơn, Hịa Bình từ
năm 2010 - 2012........................................................................................................18

H

CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................23
2.1. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................23
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu .........................................................................................23
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu.......................................................................23
2.4. Phƣơng pháp chọn mẫu: .....................................................................................23

2.5. Phƣơng pháp thu thập số liệu: ............................................................................24
2.6. Biến số, chỉ số nghiên cứu ..................................................................................26
2.7. Phƣơng pháp phân tích số liệu............................................................................28
2.8. Vấn đề đạo đức của nghiên cứu..........................................................................28
2.9. Hạn chế của nghiên cứu, sai số và biện pháp khắc phục sai số ..........................29
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................32


v

3.1. Thông tin về đối tƣợng nghiên cứu ....................................................................32
3.2. Nhận thức, quan niệm của các cặp vợ chồng về mất cân bằng giới tính khi sinh ..
....................................................................................................................32
3.2.1. Hiểu biết của vợ/chồng về hiện tƣợng mất cân bằng giới tính khi sinh.........32
3.2.2. Hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh .................................................33
3.3. Các yếu tố tiền đề tác động đến mong muốn sinh con trai của các cặp vợ chồng
có hai con gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hòa Bình năm 2012 ........................33
3.3.1. Yếu tố cá nhân ................................................................................................33
3.3.1.1. Vị thế và sự thay đổi vai trò của ngƣời phụ nữ trong xã hội với việc sinh
con trai ....................................................................................................................33

H
P

3.3.1.2. Áp lực có con trai của chính bản thân ngƣời phụ nữ .................................35
3.3.1.3. Mong muốn sinh con trai của các cặp vợ chồng có hai con gái đầu tại
huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hịa Bình .............................................................................37
3.3.2. Yếu tố gia đình ...............................................................................................39
3.3.2.1. Tâm lý ƣa thích con trai của bố mẹ chồng .................................................39


U

3.3.2.2. Áp lực có con trai từ gia đình, dịng họ. ....................................................40
3.3.2.3. Mong muốn sinh con trai để đề phòng rủi ro.............................................43
3.3.3. Áp lực xã hội ..................................................................................................43

H

3.3.3.1. Khía cạnh dân tộc của sự ƣa thích con trai ................................................43
3.3.3.2. Tƣ tƣởng ƣa thích con trai trong xã hội .....................................................44
3.3.3.3. Áp lực từ bạn bè, đồng nghiệp ...................................................................46
3.4. Các yếu tố tạo điều kiện tác động đến mong muốn sinh con trai của các cặp vợ
chồng có hai con gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hịa Bình năm 2012 .............46
3.4.1.1. Chính sách giảm mức sinh .........................................................................46
3.4.1.2. Chính sách cấm chẩn đốn giới tính thai nhi .............................................50
3.5. Các yếu tố tăng cƣờng tác động đến mong muốn sinh con trai của các cặp vợ
chồng có hai con gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hịa Bình năm 2012 .............51
3.5.1. Yếu tố về tiếp cận thơng tin lựa chọn giới tính, các biện pháp và công nghệ
hiện đại. ....................................................................................................................51
3.5.2. Yếu tố kinh tế .................................................................................................55


vi

3.5.3. Chọn tuổi con theo “năm đẹp”, hợp tuổi bố mẹ. ............................................56
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN ........................................................................................58
4.1. Thực trạng mong muốn sinh con trai ở các cặp vợ chồng có hai con gái đầu tại
huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hịa Bình năm 2012 ............................................................58
4.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến mong muốn sinh con trai của các cặp vợ chồng có
hai con gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hịa Bình năm 2012 ..............................59

4.3.1. Ảnh hƣởng của các giá trị, quan niệm xã hội đến mong muốn sinh con trai. ....
....................................................................................................................59
4.3.1.1. Tƣ tƣởng ƣa thích con trai – trọng nam khinh nữ ......................................59
4.3.1.2. Sự thay đổi vai trò của ngƣời phụ nữ trong xã hội ngày nay.....................61

H
P

4.3.2. Tiếp cận thông tin lựa chọn giới tính, các biện pháp và cơng nghệ hiện đại .62
4.3.3. Các yếu tố dịch vụ dân số KHHGĐ, chính sách giảm mức sinh và chính sách
cấm chẩn đốn giới tính trƣớc sinh ...........................................................................65
4.3.3.1. Chính sách giảm mức sinh khiến các gia đình mong muốn con trai tăng .65
4.3.3.2. Pháp lệnh cấm chẩn đốn giới tính trƣớc sinh khơng hiệu quả .................67

U

4.4. Các yếu tố liên quan khác .................................................................................69
4.4.1. Vai trị của nam giới trong văn hóa dân tộc Mƣờng ......................................69
4.4.2. Kinh tế tăng trƣởng làm tăng nhu cầu có con trai ..........................................69

H

4.4.3. Các yếu tốt khác: năm đẹp theo âm lịch ........................................................71
4.3. Bàn luận về phƣơng pháp nghiên cứu và hạn chế của nghiên cứu ....................71
KẾT LUẬN ...............................................................................................................74
1. Mong muốn sinh con trai ở các cặp vợ chồng có hai con gái đầu tại huyện
Lƣơng Sơn, tỉnh Hịa Bình ........................................................................................74
2. Các yếu tố tác động đến mong muốn sinh con trai của các cặp vợ chồng có hai
con gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn .............................................................................74
KHUYẾN NGHỊ .......................................................................................................76

1. Tăng cƣờng bình đẳng giới .................................................................................76
2. Tăng cƣờng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với dịch vụ y tế chẩn đốn
giới tính khi sinh. ......................................................................................................76
3. Khuyến nghị về cơng tác truyền thơng dân số - kế hoạch hóa gia đình .............77


vii

4. Tăng cƣờng thực thi các chính sách về tuyên dƣơng, hỗ trợ các gia đình sinh
con gái một bề ..........................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO .. ......................................................................................78
PHỤ LỤC .................................................................................................................82
Phụ lục 1: Hƣớng dẫn phỏng vấn sâu cán bộ y tế về thực trạng mong muốn sinh con
trai và tình hình mất CBGTKS tại huyện Lƣơng Sơn, Hịa Bình .............................82
Phụ lục 2: Hƣớng dẫn phỏng vấn sâu bố mẹ chồng/vợ về mong muốn sinh con trai
và tình hình mất cân bằng giới tính khi sinh .............................................................85
Phụ lục 3: Hƣớng dẫn phỏng vấn sâu các cặp vợ chồng về mong muốn sinh con trai
và tình hình mất cân bằng giới tính khi sinh .............................................................87

H
P

Phụ lục 4: Hƣớng dẫn thảo luận nhóm về mong muốn sinh con trai và tình hình mất
cân bằng giới tính khi sinh ........................................................................................89
Phụ lục 6: Kế hoạch nghiên cứu ...............................................................................93
Phụ lục 7: Phiếu tình nguyện tham gia nghiên cứu “Mong muốn sinh con trai của
các cặp vợ chồng có hai con gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn, Tỉnh Hòa Bình năm

U


2012”. ..... ...................................................................................................................98
Phụ lục 8: Bảng mơ tả tóm tắt thông tin chung của các đối tƣợng tham gia nghiên
cứu ......... .................................................................................................................100

H

Phụ lục 9: Biên bản giải trình chỉnh sửa sau bảo vệ luận văn ............................... 102


viii

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Theo Tổng điều tra dân số ngày 01.04.2009, tổng dân số Việt Nam là 85,7
triệu ngƣời, đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 3 Đông Nam Á về quy mô dân số.
Những năm gần đây, công tác DS - KHHGĐ ở Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều kết quả
quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề dân số nổi lên đó là tình trạng mất cân bằng giới tính,
hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh. Từ mong muốn sinh con trai, các cặp
vợ chồng đặc biệt là những gia đình sinh con gái một bề đã thực hiện các biện pháp
nhằm tìm kiếm con trai mà điển hình là hành vi lựa chọn giới tính thai nhi - nguyên
nhân trực tiếp dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây đang là một
vấn đề khá nhức nhối đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách, các ban ngành của

H
P

tồn xã hội cần chung tay, góp sức nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới
tính hiện nay. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu mong muốn sinh con trai và một số
yếu tố liên quan của các cặp vợ chồng có hai con gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn, tỉnh
Hịa Bình năm 2012. Nghiên cứu đƣợc thực hiện từ tháng 11 năm 2012 đến tháng 8
năm 2013, sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang với phƣơng pháp nghiên


U

cứu định tính. Số liệu định tính đƣợc tổng hợp theo các biến số/chỉ số thông qua
việc xây dựng ma trận thông tin và đƣợc phân tích theo chủ đề định hƣớng bởi
khung lý thuyết và từng mục tiêu nghiên cứu cụ thể . Kết quả cho thấy hầu hết các

H

đối tƣợng đều cho biết muốn đẻ thêm con với hi vọng có con trai do những lần sinh
trƣớc đều là gái. Các yếu tố tác động chính tới mong muốn sinh con trai bao gồm:
vai trò của quan niệm xã hội và giá trị truyền thống/gia đình; tiếp cận thơng tin lựa
chọn giới tính, các biện pháp và cơng nghệ hiện đại; dịch vụ dân số kế hoạch hóa
gia đình, chính sách giảm mức sinh và chính sách cấm chẩn đốn giới tính thai nhi
và một số yếu tố khác. Từ những kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã đƣa ra kiến nghị:
trƣớc hết cần tổ chức khảo sát, điều tra, đánh giá lại tình trạng mất cân bằng về giới
tính của trẻ sơ sinh, qua đó chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Cần
có những quy định nghiêm và chặt chẽ hơn nữa trong việc công bố giới tính thai nhi
tại các bệnh viện cũng nhƣ phịng khám tƣ; tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục về
bình đẳng giới, lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào các kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội.


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ lệ nam và nữ là nhân tố quan trọng của dân số bởi nam và nữ khác nhau ở
cả góc độ tự nhiên lẫn góc độ xã hội. Những điểm khác biệt này giúp chúng ta phân
công lao động hợp lý cũng nhƣ xây dựng mối quan hệ bình đẳng về giới. Theo quy
luật tự nhiên, khi sinh ra thì tỷ lệ nam và tỷ lệ nữ khá cân bằng. Để đánh giá mức độ

cân bằng giữa nam và nữ, ngƣời ta dùng chỉ tiêu “Tỷ số giới tính”, tức là số nam
tƣơng ứng với 100 nữ. Bình thƣờng, TSGTKS ở mức 104-107 nam/100 nữ [31].
TSGTKS nếu thấp hơn 93 hoặc vƣợt quá 107 thì xem nhƣ có tình trạng mất cân
bằng giới tính khi sinh [11]
Trên thế giới tình trạng mất CBGT đã xảy ra ở nhiều nƣớc, đặc biệt ở khu

H
P

vực châu Á. Trong giai đoạn 2000- 2005, năm nƣớc ở châu Á có tình trạng mất
CBGTKS trầm trọng nhất gồm ba nƣớc khu vực Capca-dơ: Azerbaijan, Armenia và
Georgia. Trung Quốc và Hàn Quốc [26]. Trong các nƣớc này thì Trung quốc là một
trong những quốc gia có tình trạng mất CBGT trầm trọng nhất, năm 1982
TSGTKS là 109, năm 2000 TSGTKS là 111, đến nay tỷ lệ này là 119/100. Ấn

U

Độ cũng rơi vào tình trạng tƣơng tự, với tỷ số ƣớc tính là 108/100 trong giai đoạn
này. Trong giai đoạn 2000-2005, TSGTKS lên tới 114/100 tại khu vực Đông Á do
ảnh hƣởng của Trung Quốc [26].

H

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tình trạng mất CBGT đang ngày càng
rơi vào mức báo động. Nếu cách đây 10 năm, tỉ lệ chênh lệch giới tính ở Việt Nam
chỉ ngang bằng với mức độ trung bình của thế giới là cứ 100 bé gái thì có 107 bé
trai, thì đến nay tỉ lệ chênh lệch giới tính đã ở mức 110 bé trai/100 bé gái. Điều
đáng chú ý là TSGTKS năm 2006 của nƣớc ta đứng vào hàng thứ 4 trên thế giới,
chỉ sau Armenia 117, Georgia 116 và Trung Quốc là 112 [24]. Tổng điều tra dân số
2009, nƣớc ta có 35 tỉnh/thành có TSGTKS từ 110,1 đến 130,7 – hầu hết ở các tỉnh

phía Bắc nhƣ Hƣng Yên (130,7), Hải Dƣơng (120,2), Bắc Ninh (119,4), Bắc Giang
(116,8), Nam Định (116,4), Hịa Bình (116,3) [28]. Nhìn chung, TSGTKS trên tồn
quốc đã vƣợt q mức bình thƣờng và ở một số tỉnh, thành phố TSGTKS đã ở mức
báo động cần quan tâm để tìm hiểu rõ các nguyên nhân, tác động của nó để có biện
pháp điều chỉnh, can thiệp kịp thời.


2

Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Hịa Bình là tỉnh có
TSGTKS đứng thứ 6 cả nƣớc (116,3). Tại huyện Lƣơng Sơn, tổng hợp báo cáo
công tác DS – KHHGĐ của UBND huyện qua các năm 2009-2011 cho thấy
TSGTKS của toàn huyện tăng đột biến. Năm 2009 TSGTKS chỉ là 118, đến năm
2010 là 126 và cao nhất là năm 2011 (133,8) [20]. Tính đến tháng 10 năm 2012,
trên tồn huyện đã có tổng 1859 trẻ đƣợc sinh ra, TSGTKS của toàn huyện là
126,98. Câu hỏi chúng tôi đặt ra là: Tại sao TSGTKS ở Lƣơng Sơn cao và yếu tố
nào gây ra tình trạng này?
Các nghiên cứu trong khu vực đã chỉ ra một loạt các yếu tố khác nhau tác
động đến sự gia tăng của TSGTKS nhƣ tâm lý ƣa thích con trai, khả năng tiếp cận

H
P

và chi trả các dịch vụ cơng nghệ lựa chọn giới tính, và tác động nhất định của sự
giảm sinh dẫn tới việc các gia đình mong muốn có quy mơ gia đình nhỏ nhƣng phải
có con trai. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Huệ về hành vi lựa chọn giới tính tại
Tiên Du năm 2012 đã đƣa ra các yếu tố chính đến việc mất CBGTKS là tƣ tƣởng
trọng nam khinh nữ, dịch vụ lựa chọn giới tính, chính sách dân số KHHGĐ và yếu

U


tố kinh tế gia đình [8]

Cho đến nay, tại huyện Lƣơng Sơn chƣa có nghiên cứu nào tìm hiểu về mong
muốn sinh con trai và yếu tố liên quan. Chính vì vậy, việc tiến hành nghiên tìm hiểu

H

thực trạng và các yếu tố liên quan đến TSGTKS là hết sức cần thiết, nhằm mục đích
tham mƣu và đề xuất với chính quyền địa phƣơng cải thiện công tác dân số
KHHGĐ tại huyện Lƣơng Sơn.

Để có cơ sở khoa học và trả lời cho các câu hỏi trên, từ đó đề xuất các giải
pháp hữu hiệu với các bên liên quan, các nhà quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả công
tác dân số KHHGĐ tại huyện Lƣơng Sơn, Hịa Bình, chúng tơi tiến hành nghiên
cứu: “Mong muốn sinh con trai và một số yếu tố liên quan của các cặp vợ chồng
có hai con gái đầu tại huyện Lương Sơn, Tỉnh Hòa Bình năm 2012”.


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả thực trạng mong muốn sinh con trai ở các cặp vợ chồng sinh có hai con
gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hịa Bình 2012.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến mong muốn sinh con trai của các cặp vợ
chồng có hai con gái đầu tại huyện Lƣơng Sơn, tỉnh Hòa Bình năm 2012.

H
P


H

U


4

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình tỉ số giới tính khi sinh
1.1.1.
1.

Khái niệm tỷ số giới tính và tỉ số giới tính khi sinh

Tỷ số giới tính: (Sex ratio -SR) Tỷ số giới tính của dân số là số lƣợng nam

tính cho 100 nữ trong tồn bộ số dân đó. Nhìn chung tỷ số này dao động khoảng từ
95-105. Cơng thức tính nhƣ sau:
Pm
SR =
Trong đó:

Pf

SR là tỷ số giới tính
Pm: là dân số nam

H
P


Pf : là dân số nữ [7]
2.

Tỷ số giới tính khi sinh (SRB - sex ratio at birth): đƣợc tính bằng số trẻ trai

so với 100 trẻ gái sinh ra trong cùng thời điểm và là một trong những chỉ số quan
trọng để đánh giá cơ cấu dân số, đƣợc tính bằng số bé trai sinh ra trên 100 bé gái
trong một năm nhân (x) với 100 [15]. Tỷ lệ giới tính khi sinh thƣờng cao hơn tỷ số

U

giới tính của tồn bộ dân số. Theo tự nhiên, tỷ số này là 100 (hoặc dao động từ 95105), rất ổn định qua thời gian và không gian, giữa các châu lục, quốc gia, khu vực
và chủng tộc [12]. Bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào của tỷ số này chệch khỏi mức

H

sinh học bình thƣờng đều phản ánh những sự can thiệp có chủ định. Nếu tỷ số này
vƣợt quá 107 thì coi là tỷ số giới tính tăng cao [15]. TSGTKS tăng hoặc giảm sẽ tác
động trực tiếp đến tỷ số giới tính của các nhóm tuổi và tồn bộ dân số. Trên thực tế,
tỷ số này có thể khác nhau từng vùng, miền, quốc gia, do di cƣ, ảnh hƣởng của
chiến tranh, dịch bệnh cũng nhƣ nhiều yếu tố khác, và dao động theo từng độ tuổi
của con ngƣời [14]. TSGTKS chịu ảnh hƣởng rõ rệt của hành vi sinh sản của con
ngƣời trong bối cảnh có sự ƣa thích một giới tính nào đó hơn giới tính kia [11]. Sự
ƣa thích con trai, vốn là đặc điểm truyền thống của ngƣời dân châu Á, đặc biệt là
những nƣớc chịu ảnh hƣởng của nho giáo, đã khiến các cặp vợ chồng thực hiện các
biện pháp để lựa chọn giới tính của thai nhi khi sinh con. Theo một số nghiên cứu
cho thấy có một số biện pháp phổ biến nhƣ thực hiện chế độ dinh dƣỡng kết hợp với
tính ngày rụng trứng, thụ thai để có đƣợc thai nhi mang giới tính nam với xác suất



5

cao hơn, siêu âm xác định giới tính thai nhi và phá thai để lựa chọn giới tính...[14].
Xét về lâu dài, việc này sẽ đƣa lại mất cân bằng về cơ cấu giới tính trong dân số và
những hệ quả xã hội kèm theo.
Tình hình TSGTKS trên thế giới

1.1.2.

Theo tổng kết của quĩ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), Châu Á là nơi mất
CBGT cao nhất thế giới. Hiện tƣợng nam hoá trong dân số Châu Á lần đầu tiên
đƣợc biết đến thông qua sự gia tăng tỷ số giới tính trong các quần thể trẻ em. Là chỉ
báo về sự mất CBGT, tỷ số giới tính ở trẻ em là kết quả của sự phân biệt đối xử về
giới trƣớc và sau sinh. Khi khơng có sự phân biệt về giới, tỷ số giới tính ở trẻ em
thấp hơn TSGTKS. Chuẩn trung bình ở mức 105/100, nhƣng khi xem xét dân số

H
P

Châu Á một cách tổng thể tỷ số giới tính ở trẻ em tăng lên trong nửa thế kỷ trở lại
đây, 105/100 vào giữa năm 1950 lên đến 108/100 vào năm 2005 [44]
Bảng 1.1: TSGTKS ở một số quốc gia, 2004 – 2009 [25]
Quốc gia/Vùng

TSGTKS Thời kỳ

Nguồn số liệu

Albania


111,5

Hệ thống Đăng ký khai sinh

Armenia

115,8

Azerbaijan

117,2

Trung Quốc (Đại lục)

120,6

Georgia

119,9

Ấn Độ
Montenegro
Pakistan
Hàn Quốc

2008

H

U


110,6

2008
2007

Hệ thống Đăng ký khai sinh
Hệ thống Đăng ký khai sinh

2008

Ƣớc lƣợng quốc gia

2006

Hệ thống Đăng ký khai sinh mẫu

2006 - 2008 Hệ thống Đăng ký khai sinh mẫu

109,6

2006 - 2008 Tỷ số giới tính trẻ em

108,9

2003 - 2007 Điều tra sức khỏe và nhân khẩu

106,4

học

2008

Hệ thống Đăng ký khai sinh

Nguồn: Văn phòng Thống kê, UNFPA (2010), Eurostat
Ở châu Á, ba quốc gia trong khu vực Châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn
Quốc là các quốc gia đã từng chịu ảnh hƣởng nghiêm trọng bởi sự mất CBGTKS.
Mặc dù xu hƣớng mất cân bằng này ở Trung Quốc và Hàn Quốc đi theo một khuôn
mẫu tƣơng tự nhau, bắt đầu là sự tăng cao đột ngột, sau đó không đổi trong khoảng


6

một thập kỷ và tiếp đó là xu hƣớng quá độ từ từ và đi xuống. Ở Ấn Độ, tỷ số vẫn ở
mức cao và không đổi theo thời gian. Mặt khác, ở các nƣớc này, điểm xuất phát của
quá trình gia tăng TSGTKS cũng khơng giống nhau. Khác với Ấn Độ nơi mà sự gia
tăng TSGTKS chỉ gây đƣợc sự chú ý sau một thời gian, ở Trung Quốc và Hàn Quốc
sự gia tăng bắt đầu gần nhƣ cùng một lúc [26].
Có nhiều yếu tố ảnh hƣởng tới con số gia tăng rõ rệt này, bao gồm tỷ lệ đăng
ký khai sinh, thống kê không đầy đủ số sinh gái (và trẻ em gái) có thể góp phần làm
tăng các giá trị của tỷ số giới tính quan sát đƣợc. Tuy nhiên, ngay cả khi có một số
hạn chế về mặt thống kê, nguyên nhân cốt lõi của việc gia tăng TSGTKS là các cặp
vợ chồng đã áp dụng các biện pháp phá thai chọn lọc giới tính để tránh sinh ra các

H
P

trẻ em gái. Do việc phá thai thƣờng khơng đƣợc ghi chép đầy đủ và khơng có thơng
tin về giới tính của thai bị phá, nên khơng thể xác định đƣợc mức độ phá thai chọn
lọc giới tính thực tế, mà chỉ có thể suy ra từ tỷ lệ trẻ em trai vƣợt trội khi sinh. Mặc

dù khơng có các biện pháp đo lƣờng trực tiếp về mức độ phá thai do chọn lọc giới
tính, các điều tra tại địa phƣơng đã dẫn chứng khá chi tiết về tâm lý ƣa thích con trai

U

của các cặp vợ chồng ở Trung Quốc và Ấn Độ và những nỗ lực của họ trong việc
phá bỏ các thai gái sau khi đã xác định đƣợc giới tính thai nhi [41], [16]. Với sự hỗ
trợ của các cơng cụ chẩn đốn giới tính trƣớc sinh nhƣ siêu âm, một bộ phận các

H

cặp gia đình ở châu Á đã đình chỉ thai nghén khi phát hiện giới tính của thai là gái.
Hậu quả là TSGTKS của một số nƣớc ở châu lục này đã tăng lên mức 110, thậm chí
trên 120 ở một vài khu vực.

Tuy nhiên, tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ vấn đề này chủ yếu là do áp
lực từ giá trị truyền thống đƣợc bắt nguồn từ hệ tƣ tƣởng chủ đạo là đề cao con trai
hơn con gái, nam giới hơn phụ nữ và là yếu tố ảnh hƣởng lớn tới sự hình thành nhu
cầu mãnh liệt phải có con trai và tâm lý khơng chuộng con gái vì cho rằng họ chỉ
gây ra tốn kém mà khơng mang lại thu nhập cho gia đình. Trong khi ở Trung Quốc
và Hàn Quốc, với việc thờ cúng tổ tiên và nối dõi tông đƣờng, Nho giáo đƣợc cho là
hệ thống giá trị có tính quyết định. Ở Ấn Độ, sự ƣa thích con trai khơng bắt nguồn
từ việc thờ cúng tổ tiên nhƣng lại nằm trong cội rễ của hệ thống gia trƣởng, hôn
nhân và thừa kế. Sự ƣa thích có con trai khơng phải là bị áp đặt hay bị ngăn cấm bởi


7

những quan niệm đạo đức xuất phát từ trên tôn giáo mà là sự chấp nhận mang tính
xã hội. Do vậy, TSGTKS đã trở thành một chỉ số đáng tin cậy đối với vị thế của phụ

nữ khi nói về bình đẳng giới.
Tình hình TSGTKS tại Việt Nam

1.1.3.

Kết thúc điều tra thực địa của Tổng điều tra dân số (TĐTDS) vào tháng 4 năm
2009, Tổng cục thống kê (TCTK) đã sử dụng mẫu của TĐTDS 2009 với cỡ mẫu
15% dân số, dựa trên tổng số sinh 247,603 do các bà mẹ báo cáo trong TĐTDS,
TSGTKS của Việt Nam là 110,6, tính cho giai đoạn từ tháng 4/2008 đến tháng
3/2009 [28].
Bảng 1.2: Ƣớc lƣợng TSGTKS theo các nguồn số liệu
Bản chất số liệu

TSGTKS

H
P

Giai đoạn

TĐTDS 2009: số sinh 110,6

1/4/2008

trong 12 tháng trƣớc khi

31/3/2009

điều tra
Số sinh tại các cơ sở y tế


110,8

2008

U

Điều tra hàng năm: số 112

1/4/2007

sinh trong năm trƣớc

31/3/2008

TĐTDS 2009: trẻ em 112,6

4/2008

dƣới 12 tháng tuổi

3/2009

H

Ƣớc lƣợng TSGTKS

111

2007


Số sinh

– 247,603

Nguồn số liệu
TĐTDS 2009

1,458,537 Bộ Y tế

– 23,475

– 262,272

Điều tra BĐ DS
& KHHGĐ 2008
TĐTDS 2009

UNFPA (2009)

Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về vấn đề TSGTKS. Nghiên cứu của
Daniel Belanger về “Sự ƣa thích con trai ở một làng q nơng thôn miền Bắc Việt
Nam” năm 2000 đã cho thấy con trai vẫn đƣợc mong muốn hơn vì giá trị kinh tế,
biểu tƣợng và xã hội. Mặc dù đã trải qua bốn thập kỷ với các chính sách xã hội chủ
nghĩa nhằm giảm sự bất bình đẳng về giới và làm giảm quyền lực của hệ thống quan
hệ gia trƣởng, mong muốn có contrai vẫn tiếp tục điều khiển q trình xây dựng gia
đình. Có con trai là một chuẩn mực xã hội gây áp lực rất lớn đối với tất cả mọi
ngƣời tham gia trong nghiên cứu này, cho dù họ có học vấn, việc làm, địa vị kinh tế
xã hội, dịng dõi và địa vị chính trị thế nào đi nữa. Nhiều cặp vợ chồng trẻ đang tìm



8

cách để dự đốn giới tính thai nhi. Nhiều phụ nữ có học vấn cao cũng có xu hƣớng
sử dụng các chiến lƣợc hiện đại để có con trai [34]. Nghiên cứu trƣờng hợp của
Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội năm 2007 về “Tỷ số giới tính khi sinh cao ở Việt
Nam: Sự cƣờng điệu hay thực tế” tại 3 tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây và Bình Định đã xác
nhận rằng việc lựa chọn giới tính trƣớc khi sinh diễn ra ở các tỉnh đƣợc nghiên cứu,
và lý do chính là việc ƣa thích con trai rất phổ biển ở những khu vực này. Những
ngƣời tham gia nghiên cứu ở các tỉnh này ý thức đầy đủ về chính sách gia đình nhỏ
và cảm thấy bị áp lực khi phải tn theo chính sách đó. Việc phá thai để lựa chọn
giới tính đƣợc nhìn nhận khác nhau ở 3 tỉnh, trong đó cha mẹ ở Bình Định xem việc
phá thai là khơng có đạo đức,và các cha mẹ ở Bắc Ninh có thái độ chấp nhận hơn

H
P

đối với thực hành này [43]. Nghiên cứu “Phân tích các thực hành chính trị - xã hội
và y tế tác động lên tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam” của Nguyễn Phạm Bằng và
cộng sự năm 2008 đã chỉ ra ba yếu tố mà sự kết hợp một cách không có chủ đích sẽ
làm tăng việc lựa chọn giới tính và gây nên tác động tiêu cực tới TSGTKS đó là: Sự
ƣa thích con trai, Chính sách “mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con” và tiếp cận với

U

các dịch vụ siêu âm phá thai [33]. Kết quả nghiên cứu về “Phá thai ba tháng giữa và
phá thai lựa chọn giới tính ở Hà Nội, Việt Nam” của các tác giả Daniel Belanger và
Khuất Thị Hải Oanh năm 2009 chỉ ra rằng số con và cơ cấu giới tính của các con

H


cùng tác động lên việc phá thai muộn ở ba tháng giữa. Trong số phụ nữ thực hiện
phá thai ở giai đoạn này những ngƣời chƣa có con trai có xu hƣớng phá thai cao hơn
những ngƣời đã có con trai. Mối liên hệ giữa việc chƣa có con trai và phá thai ở ba
tháng giữa tăng lên khi số con hiện còn sống tăng lên (hai lần đối với những phụ nữ
có hai con đang sống và bốn lần hoặc hơn đối với những phụ nữ có ba con đang
sống so với những ngƣời đã có con trai). Theo phân tích này, hai phần trăm của tất
cả các cuộc phá thai có hồ sơ trong nghiên cứu này có thể là vì lý do lựa chọn giới
tính; tỷ lệ này tăng lên 3,2 phần trăm đối với phụ nữ đã có hai hoặc ba con. Tuy
nhiên tính riêng phụ nữ phá thai ở ba tháng giữa thì tới 13,9 phần trăm các ca này có
thể có lý do là lựa chọn giới tính [37]. Bên cạnh đó các phân tích dựa trên số liệu
các cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở cũng nhƣ Điều tra biến động dân số hàng
năm cũng cho thấy thực trạng vấn đề này.


9

Trong giai đoạn 1939 - 1999, Việt Nam là một trong những nƣớc có tỷ số giới
tính thấp chỉ dao động quanh tỷ số 96/100. Tuy nhiên từ năm 2000 đến nay tỷ số
giới tính đã thay đổi theo chiều hƣớng mất cân bằng ngày càng nghiêm trọng. Nếu
nhƣ từ năm 2001 đến 2005 TSGTKS dao động quanh các tỷ số 109, 107, 108, 106
thì từ năm 2006 đến 2009 TSGTKS tăng lên 111 và dao động quanh tỷ số này[16].

H
P

Biểu đồ 1.1: TSGTKS ở Việt Nam, giai đoạn 1999-2009
Nguồn: Lƣơng Quang Đảng (2011) [6]

U


Năm 2007 có 31 tỉnh/thành có TSGTKS từ 110 đến 122. Trong 33 tỉnh, thành
phố còn lại, có 17 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính dao động trong khoảng 108 đến
dƣới 110. Tổng điều tra dân số 2009, nƣớc ta có 35 tỉnh/thành có TSGTKS từ 110,1

H

đến 130,7 – hầu hết ở các tỉnh phía Bắc nhƣ Hƣng Yên (130,7), Hải Dƣơng (120,2),
Bắc Ninh (119,4), Bắc Giang (116,8), Nam Định (116,4), Hịa Bình (116,3) [16].
Nhìn chung, TSGTKS trên tồn quốc đã vƣợt q mức bình thƣờng và ở một số
tỉnh, thành phố TSGTKS đã ở mức báo động cần quan tâm để tìm hiểu rõ các
nguyên nhân, tác động của nó để có biện pháp điều chỉnh, can thiệp kịp thời.
Ở Việt Nam cũng nhƣ một số quốc gia khác trong khu vực, các yếu tố đƣợc
coi là có đóng góp/tác động đến sự tăng TSGTKS bao gồm: quan niệm về các
chuẩn mực truyền thống, gia đình, những thay đổi về kinh tế xã hội, chính sách và
tiếp cận với cơng nghệ. Tuy nhiên, về nhóm nguyên nhân do can thiệp của khoa học
kỹ thuật vẫn chƣa đƣợc chứng minh cụ thể rõ ràng. Bởi lẽ, can thiệp của khoa học
kỹ thuật trƣớc khi thụ thai là các yếu tố về chế độ ăn uống, tính tốn ngày giờ rụng
trứng cho thụ tinh sinh con trai... còn khá mơ hồ.


10

1.2.

Các yếu tố tác động đến mong muốn sinh con trai ở Việt Nam
Trong bối cảnh gia đình nhỏ nhƣ hiện nay thì sự ƣa thích cố hữu có con trai để

nối dõi ngày càng đƣợc chấp nhận rộng rãi hơn. Trong những năm gần đây, mơ
hình định cƣ kiểu phụ hệ đã trở lên linh hoạt hơn và ngày càng có nhiều cặp vợ

chồng trẻ lựa chọn sống riêng ngay sau khi kết hôn. Do vây, dƣờng nhƣ xã hội Việt
Nam có vẻ ít bị bó buộc hơn bởi các hệ thống giá trị truyền thống hơn các quốc gia
khác trong khu vực trong giai đoạn mà TSGTKS tăng nhanh. Một số nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng, những năm gần đây mặc dù trình độ học vấn của phụ nữ cao hơn
các quyết định quan trọng trong gia đình vẫn chủ yếu thuộc về nam giới, thậm chí
có vẻ nhƣ có xu hƣớng rằng ngƣời chồng chứ khơng phải ngƣời vợ, ngày càng đƣa

H
P

ra những quyết định quan trọng, đặc biệt là về tài chính. Xu hƣớng này cho thấy sự
trở lại của truyền thống trong gia đình chứ khơng phải là sự phát triển của bình đẳng
giới. Nhìn chung, dù sự sắp xếp mơ hình hiện nay nhƣ thế nào, thì hệ tƣ tƣởng
truyền thống bắt nguồn từ Nho giáo và tầm quan trọng của việc thờ cúng tổ tiên
thông qua sự nối dõi của con trai vẫn là chủ đạo trong cuộc sống ở cấp độ gia đình.

U

Ngay cả khi sống riêng, các cặp vợ chồng trẻ vẫn giữ mối liên lạc thƣờng xuyên với
các thành viên của gia đình lớn của mình, nhất là với gia đình bên chồng. Đồng
thời, sự hỗ trợ ngƣời già vẫn đƣợc coi là trách nhiệm của các cặp vợ chồng trẻ và do

H

vậy duy trì áp lực thƣờng xuyên về việc sinh con trai, kể cả áp lực “từ xa”.
1.2.1. Phong tục tập quán

Việt Nam một xã hội Châu Á truyền thống mang nặng tƣ tƣởng “trọng nam
khinh nữ” với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đã thấm nhuần vào quan niệm của
ngƣời dân vẫn còn tồn tại từ xƣa đến nay. Đó là nguyên nhân sâu xa tạo nên sức ép

tâm lý đối với phụ nữ chỉ sinh con gái. Tuy hiện nay chuẩn mực gia đình hai con
đƣợc các gia đình chấp nhận, hầu hết các cặp vợ chồng đều chỉ muốn có hai con
nhƣng trong đó phải có ít nhất một con trai [45]. Mọi ngƣời cho rằng con trai là rất
quan trọng đối với các gia đình và con trai tiếp nối dịng dõi, thờ cúng tổ tiên và
chăm sóc cha mẹ lúc về già. Sức ép nặng nề nhất đƣợc tác động từ bố mẹ chồng đặc
biệt ngƣời phụ nữ làm dâu trƣởng hay con dâu độc nhất trong gia đình khơng ít cha
mẹ chồng trƣớc khi qua đời vẫn một mực nuối tiếc vì chƣa có cháu trai “nối dõi


11

tơng đƣờng”, nhiều ngƣời chồng cũng đứng về phía cha mẹ mình gây sức ép đối với
vợ. Địi hỏi vợ phải sinh con trai, sức ép của dƣ luận xã hội, tự dè bỉu, kích bác
những cặp vợ chồng chỉ có con gái [45]. Bên cạnh đó chế độ an sinh xã hội của
nƣớc ta chƣa đƣợc tốt ngƣời già vẫn phải trông cậy vào sự nuôi dƣỡng của các con
mà phong tục của ngƣời Đông Á là phải ở cùng con trai với tƣ tƣởng con trai có
trách nhệm nhiều hơn con gái trong việc phụ dƣỡng chăm sóc bố mẹ lúc về già và
lo liệu ma chay, thờ cúng khi bố mẹ chết [5].
1.2.2.

Sự khá giả, học vấn cao và đơ thị hóa nhanh đã có ảnh hưởng tới

TSGTKS ở các vùng miền của Việt Nam.
Một số nghiên cứu đã chỉ rằng những ngƣời có mức sống cao ở đơ thị hoặc

H
P

bán đơ thị với trình độ học vấn cao hơn và tiếp cận dễ dàng hơn tới công nghệ là
những ngƣời “mở đƣờng” trong việc sử dụng các biện pháp lựa chọn giới tính nhƣ

là một giải pháp để thoát khỏi sự tác động của các áp lực từ phía gia đình và xã hội
trong việc sinh con trai.
1.2.3.

Sự tiếp cận với các thông tin và công nghệ hiện đại để lựa chọn giới tính

U

thai nhi

1.2.3.1. Các tài liệu sách báo – Internet

Sự tiếp cận ngày càng dễ dàng với các thông tin và công nghệ lựa chọn giới

H

tính đã tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng có cơ hội có thể sinh con trai nhƣ mong
ƣớc. Tại hội thảo triển khai đế án “ Can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi
sinh” ngày 08/07/2009, ơng Nguyễn Đình Bách phó Chánh thanh tra Tổng cục DS –
KHHGĐ cho biết qua đợt kiểm tra tháng 6/2009 tại một số nơi nhƣ Hà Nội, Hải
Phòng, Thanh Hố, Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện 30.200 cuốn với 27 đầu
sách đã đƣợc xuất bản và 7 trang Web của một số đơn vị cá nhân với nội dung phổ
biến phƣơng pháp lựa chọn giới tính thai nhi.


12

Hình 1.1. Các ấn phẩm có nội dung hƣớng dẫn lựa chọn giới tính thai nhi
Nguồn: Internet (Truy cập
ngày

05/10/2013)

H
P

Hiện nay, mọi ngƣời có thể dễ dàng tìm ra các phƣơng pháp lựa chọn giới
tính thai nhi trên mạng internet. Chỉ cần gõ từ khóa “hƣớng dẫn sinh con trai theo ý
muốn” trên trang tìm kiếm thơng tin Google đã hiện ra 3,530,000 kết quả trong
vòng 0.34 giây với rất nhiều các tài liệu khơng chính thống hƣớng dẫn sinh con theo
ý muốn.

U

H

Hình 1.2. Các hƣớng dẫn về chọn lựa giới tính trên internet.
Nguồn: Internet (Truy cập google.com.vn, ngày 5/10/2013)
1.2.3.2. Sự phát triển của Y học hiện đại
Sự phát triển các kỹ thuật, công nghệ Y sinh học, siêu âm là một thành tựu
hết sức tốt đẹp với ngành Sản khoa giúp phát hiện những bất thƣờng của thai nhi
ngay từ khi cịn rất nhỏ. Nhƣng mặt trái của nó là giúp chẩn đốn giới tính của thai


13

nhi. Các nghiên cứu thực tế cho thấy, xuất phát điểm đầu tiên của việc lựa chọn giới
tính thai nhi là việc biết trƣớc giới tính của thai nhi [24]. Kết quả điều tra biến động
dân số 2007 cho thấy tỷ lệ phụ nữ biết giới tính của thai nhi trƣớc khi sinh chiếm
63,5%. Tỷ lệ này biến đổi qua các năm, năm 2003-2004 tỷ lệ phụ nữ biết giới tính
của con mình trƣớc khi sinh là 61%, đến năm 2005-2006 tỷ lệ này tăng lên đến

66%. Trong số những ngƣời biết trƣớc giới tính thai nhi có 98% biết qua phƣơng
pháp siêu âm, tỷ lệ số ngƣời biết giới tính của con trong thời gian sau 16 tuần mang
thai là 80%. Tỷ lệ các ca phá thai lựa chọn giới tính chiếm khoảng 8% là phụ nữ
chƣa có con trai. Kết quả điều tra trên cũng nhận định rằng nếu thừa nhận tỷ lệ phụ
nữ chƣa có con trai biết giới tính thai nhi trƣớc sinh là 63,5% thì tỷ lệ phá thai lựa

H
P

chọn sẽ vào khoảng 13% [23].

1.2.3.3. Các dịch vụ lựa chọn giới tính dễ dàng và có sẵn

Để đạt đƣợc mục tiêu sinh sản của mình, ví dụ nhƣ có gia đình nhỏ nhƣng có
ít nhất một con trai, các cặp vợ chồng chủ động tìm kiếm và sử dụng cơng nghệ lựa
chọn giới tính chất lƣợng cao và phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính. Chúng ta

U

biết rằng dịch vụ kiểm tra giới tính và phá thai chi phí thấp và rất sẵn có. Tại Việt
nam phá thai đƣợc coi là hợp pháp và đƣợc thực hiện theo yêu cầu từ những năm
1960 theo qui định của Bộ Y tế: Phá thai từ 4 – 12 tuần đƣợc phép thực hiện đƣợc ở

H

các trung tâm y tế nhà nƣớc và do các bác sỹ đảm nhiệm sau khi đã có xét nghiệm
thai. Hút điều hoà kinh nguyệt thực hiện đối với thai 36 – 42 ngày có thể thực hiện
đƣợc ở tất cả các cơ sở y tế gồm cả tuyến xã với điều kiện các y bác sỹ đã đƣợc đào
tạo về chun mơn. Theo ƣớc tính, mỗi năm Việt Nam có khoảng 1 triệu ca phá thai
và tỷ lệ phá thai vẫn duy trì 34,7 ca/ 100 ca sinh sống. Ƣớc tính trung bình một phụ

nữ Việt Nam có ít nhất 2 lần phá thai trong suốt cuộc đời sinh sản của mình. Giống
nhƣ ở các quốc gia khác trong khu vực, tƣ nhân hóa và thƣơng mại hóa hệ thống
chăm sóc y tế đã dẫn đến việc sử dụng quá mức các thiết bị cơng nghệ để sàng lọc
giới tính. Việc này, kết hợp với thực tế rằng việc phá thai ba tháng giữa là hợp pháp,
đã tạo ra áp lực cho phụ nữ phải đạt đƣợc đầu ra “đúng” cho việc mang thai của
mình là có con trai. Sự sẵn có của dịch vụ và khả năng tiếp cận chúng dễ dàng trên
thị trƣờng “tự do” phản ánh quyền tự do lựa chọn và cơ hội của cá nhân nhƣng sự


14

ảnh hƣởng mạnh mẽ của tiếp thị sẽ có thể có tác động tiêu cực. Quyết định tiếp sau
việc tiết lộ giới tính của bào thai dẫn tới việc phá thai có thể cũng phải chịu áp lực
bởi hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển của hệ thống y tế: Các nghiên cứu
cho đến nay cũng chƣa xem xét về các tác động tiềm tàng mạnh mẽ của các chiến
lƣợc tiếp thị từ các nhà sản xuất các công nghệ sàng lọc giới tính cũng nhƣ của các
nhân viên trong ngành y tế tới quá trình ra quyết định của cá nhân ngƣời phụ nữ.
Hiện nay các dịch vụ CSSK gồm cả siêu âm và phá thai rất sẵn và thuận lợi
nhƣng chƣa có bằng chứng nào về phá thai và siêu âm lựa chọn giới tính. Theo
pháp lệnh dân số nghiêm cấm việc lựa chọn giới tính thai nhi dƣới mọi hình thức.
Do đó cơ sở Y tế nào vi phạm nghị định này đều phải xử phạt.
1.2.4.

H
P

Chính sách

1.2.4.1. Về chính sách giảm sinh


Các yếu tố chính sách, kinh tế xã hội cũng có tác động đến TSGTKS. Sinh
thấp và kéo dài chƣơng trình đã đạt đƣợc thành công hết sức tốt đẹp trong việc giảm
sinh. Ở một số quốc gia Đông Á, việc ban hành nghiêm ngặt chính sách quy mơ gia

U

đình đã có ảnh hƣởng mạnh mẽ tới việc giảm mức sinh. Ở Việt Nam Chính sách gia
đình qui mơ nhỏ và chƣơng trình KHHGĐ trong những thập kỷ 1980- 1990 đã
khiến qui mơ gia đình nhỏ đƣợc chấp nhận rộng rãi nhƣ một chuẩn mực và thực sự

H

ảnh hƣởng đến hành vi sinh đẻ của ngƣời dân ở các địa phƣơng và các vùng, miền
khác nhau. Số con trung bình của phụ nữ độ tuổi sinh đẻ hiện nay ở nƣớc ta đạt 1,99
con . Vì vậy sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa việc có con trai và đảm bảo đúng quy mơ
gia đình nhỏ chỉ có 1-2. Mặt khác việc thực hiện khơng bình đẳng chính sách mỗi
gia đình chỉ có “một hoặc hai con” giành cho tất cả mọi ngƣời. Các nghiên cứu cho
thấy rằng trong khi trên cả nƣớc các cặp vợ chồng đƣợc khuyến khích là chỉ có tối
đa là hai con thì chính sách này lại đƣợc áp dụng nghiêm ngặt hơn với Đảng viên và
cán bộ nhà nƣớc. Vì có học vấn cao hơn và điều kiện kinh tế tốt hơn, những ngƣời
trong nhóm này dƣờng nhƣ đã rơi vào tình huống dẫn họ đến thực hành các dịch vụ
để lựa chọn giới tính: tiếp cận dễ dàng với dịch vụ sức khỏe sinh sản kể cả những
dịch vụ mà có thể đƣợc sử dụng để lựa chọn giới tính đồng thời với áp phải thực
hiện các quy định nghiêm ngặt về quy mơ gia đình [26].


×